NTK+DMV+AMPT+LMLS+DTCT

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Cười mệt rồi, bụng bắt đầu kêu rột rột, Dương Thu Trì hỏi Liễu Nhược Băng: "Đó chưa? Ta nướng cho một miếng thịt trâu?"

Liễu Nhược Băng gật gật đầu, Dương Thu Trì lấy từ trong cái túi lớn một khối thịt trâu, định xỏ vào trong que sắt, Nam Cung Hùng từ xa nhìn thấy, thưa: "Tước gia chờ một chút, tôi đã phái hai huynh đệ đến thôn trang gần nhất, xem coi có mua được mấy con dê hay không. Trong thời tiết này dê mập nhất, chúng ta nướng thịt dê ăn mới tuyết, sao ạ?"

"Được lắm" Dương Thu Trì khen, "Dê nướng trui, ha ha, thật là hay a!"

Hạ Bình giơ tay chỉ về phía xa xa, vui mừng reo lên: "Đến rồi, bọn họ đã trở về rồi!"

Mọi người quay đầu nhìn theo hướng chỉ của Hạ Bình, quả nhiên trên lộ xa xa có hai khoái mã đang chạy đến, phía sau có chở một bao lớn.

Dương Thu Trì cao hứng nhảy cẩng lên, cởi mũ xuống hò hét lớn, cũng không biết hét gọi cái gì. Tống Vân Nhi và Hồng Lăng cũng cười đùa gọi í ới, Tiểu Hắc Cẩu thì cứ chạy chỗ này chạy chỗ kia sủa gâu gâu.

Liễu Nhược Băng nhìn Dương Thu Trì hưng phấn giống như một đứa bé vậy, tự nhủ ai mà tin đó là một nam nhân trầm ổn, trí tuệ và quả cảm thường ngày đâu?

Hai thớt ngựa chạy đến trước mặt họ, trong đó có hộ vệ đuổi theo Lý Thiên Bằng tên là Tề Phi. Trên lưng ngựa của hai người quả nhiên là mấy con dê đã giết thịt xong. Nam Cung Hùng tiếp lấy một túi lớn từ tay Tề Phi, bước lại trước mặt Dương Thu Trì, cười ha ha thưa: "Tước gia, chúng tôi còn mua thêm cho người hơn mười cân rượu sữa thượng hảo, chờ một chút nướng dê xong rồi, ăn thịt dê uống rượu sữa, chẳng phải là tuyệt vời sao?"

"Được được! Quá tốt!" Dương Thu Trì vỗ mạnh vai Nam Cung Hùng, hai người cười lớn.

Chuyện nướng dê dĩ nhiên do Hồng Lăng chỉ huy, một mình nàng dĩ nhiên làm không nỗi, nên Hạ Bình mang theo mấy nữ hộ vệ đến phụ. Bọn họ đã chuẩn bị sẳn các loại hương liệu, giờ đêm ướp lên thịt dê, rồi xỏ xiên treo lên. Hồng Lăng dùng lời nói ngọt ngào chỉ huy các nữ hộ vệ bôi thêm mỡ và phụ liệu lên thịt dê.

Liễu Nhược Băng cũng hứng trí, nói: "Đừng quên bỏ thêm chút thì là vào phối liệu, như vậy không làm bán đi mùi tanh, mà còn làm cho thịt dê có mùi vị thêm và ngọt hơn."

Tề Phi vỗ đầu: "Đúng rồi! Tôi sao lại quên chuyện này chứ. Vừa rồi chúng tôi mua dê trong thôn, nhà đó còn chuyên môn giao những bột phấn tự nhiên gì đó, nói chỉ cần bôi những phấn này lên, vị đạo sẽ tốt hơn. Tiền bối làm sao mà biết vậy?"

Dương Thu Trì cười hì hì: "Cái đó có gì đâu mà kỳ, Nhược Băng của ta không những võ nghệ cao cường, còn làm món ăn rất ngon, không kém gì Hồng Lăng đâu." Hắn nhớ đến lúc xưa ở trên vách đá, được Liễu Nhược Băng nước cho một con gà mái thơm phưng phức.

Liễu Nhược Băng nhìn sâu vào mắt hắn, khẽ lắc đầu.

Dương Thu Trì sững người, lập tức phát giác vừa rồi hắn nói quá thân mật, rất may là mọi người đều bị chuyện nướng dê hấp dẫn sự chú ý, không nghe kỹ. Hắn len lén thở phào, tụ nhủ chuyện này không phải chơi, nhất định phải chú ý kỹ sau này.

Chẳng mấy chốc, không khí bằng đầu lan ra mùi thịt nước thơm lừng. Hồng Lăng tự thân nướng một con dê, dành riêng cho bọn Dương Thu Trì dùng. Hắn ngồi cạnh Liễu Nhược Băng, nhìn cái đùi dê mập phì vàng ươm đang chảy mỡ mà nuốt nướng miếng ừng ực.

Liễu Nhược Băng ngồi bên cạnh, thỉnh thoảng yêu thương nhìn hắn, trong ánh mắt đầy nhu tình. Than lửa ánh hồng gương mặt của Liễu Nhược Băng, mỹ lệ vạn phần.

Chẳng mấy chốc, Hồng Lăng vui mừng reo lên: "Được rồi, có thể ăn rồi, mọi người động thủ đi a!"

Mọi người cùng hoan hô.

Hồng Lăng đã bày một miếng vải trắng trước mặt Dương Thu Trì, đặt trên một cái bàn gỗ. Tuy nhiên con dê này đối với nàng quá lớn, lại nóng, nàng không nhấc tới được, Nam Cung Hùng bước lại hỏi: "Hồng Lăng cô nương, có cần khên con dê này xuống không?"

Hồng Lăng gật đầu:"Mang xuống trước, cắt chút vừa đủ ăn thôi, phần còn lại nướng lửa nhỏ giữ hơi nóng, nếu để lạnh ăn không ngon đâu."

Nam Cung Hùng cầm cai đầu cây xiên, hô một tiếng "Lên!", con dê nướng nặng mấy chục cân bị hắn nhấc lên thật bình ổn, từ từ đưa tới đặt trên cái bàn trước mặt Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì lại nuốt ực một ngụm nước bọt. Hắn nhìn lên nhìn xuống con dê đầy mỡ tán phát một mùi hương mê người mà không biết ra tay cắt ở chỗ nào.

Tống Vân Nhi cũng nhìn tả nhìn hữu con dê mập này, ồn ào: "Có thể ăn rồi phải không? Ta sắp đói muốn chết rồi đây. Con này to thật, bảo ta ăn làm sao đây, trực tiếp ôm gặm hả? Nàng nhìn con dê đã nướng vàng, giang tay giả vờ ôm, dáng vẻ thật khả ái, khiến mọi người đều phì cười.

Dương Thu Trì cười ha hả bảo: "Nha đầu ngốc, muội mà gặp thật như vậy, đừng nói cái miệng của muội chịu tai ương, nước bọt mà muội dây ra ngoài ta chịu ăn, còn ai dám ăn nữa chứ?"

Tống Vân Nhi đỏ mặt, len lén nhìn sư phụ, phát hiện Liễu Nhược Băng vẫn mỉm cười như cũ, nên mới trợn mắt trừng lại Dương Thu Trì.

Tề Phi bước lại, lấy từ trong người ra mấy con dao nhỏ, khom người đưa ra trước mặt Dương Thu Trì: "Tước gia, đây là một loại đao cắt thịt rất hữu danh mà chúng tôi vừa mua ở vùng này. Lão bá tánh ở đây đều thích mang theo người, ngoại trừ có thể xẻo thịt ăn, còn có thể phòng thân, bỡi vì nó nhỏ và xảo, do đó được người ta coi rất trọng."

Dương Thu Trì tiếp lấy, nhìn kỹ, thấy ngoại hình của đao có hoa văn rất giống loại tiểu tàng đao của người Tạng mà hắn từng nhìn thấy trong chuyến viện trợ Tây Tạng lúc còn sống ở thời hiện đại. Đao này rất sắc bén, dưới ánh trăng tán phát ra thứ hàn quang lạnh người, nên thu lấy và đưa cho Liễu Nhược Băng, Tống Vân Nhi và Hồng Lăng mỗi người một cái.

Tống Vân Nhi tiếp lấy, hiếu kỳ nhìn, quỳ xuống cẩn thận dùng đao cắt một khối thịt dâng cho Liễu Nhược Băng: "Sư phụ, người ăn thử một chút coi có ngon không?"

Liễu Nhược Băng tiếp lấy, khẽ cắn một miếng, nhai nhỏ nhẹ, gật đầu khen: "Thật thơm!"

Hồng Lăng thập phần đắc ý, cũng cắt cho Dương Thu Trì một miếng, hắn không kịp chờ nguội bỏ ngay vào miệng nhai, lắc lư đầu khen: "Thơm....! Thật là thơm!" Chọc cho Hồng Lăng cười nắc nẻ.

Nam Cung Hùng thấy Dương Thu Trì ăn rất cao hứng, vội lấy rượu sữa đến, bày ra mấy cái ly to, rót cho mọi người. Ngoại trừ Liễu Nhược Băng ai cũng uống một chút.

Dương Thu Trì uống rất hứng khởi, ăn mỡ dính đầy miệng, có hai mỹ nữ ngồi hai bên, quả là không còn chuyện gì sung sướng bằng. Sau khi uống liên tiếp mấy ly lớn, hơi rượu bốc lên, hắn đứng dậy kéo Hồng Lăng: "Nào! Chúng ta khiêu vũ quanh đống lửa, như vậy mới vui!" Dương Thu Trì đã nhìn thấy Hồng Lăng khiêu vũ, rất khéo.

Hồng Lăng đỏ mặt, vừa rồi uống thêm mấy ly rượu sữa vào bụng, đầu đã choáng váng, nghe Dương Thu Trì nói vậy, liền xua tay lia lịa: "Không không, em đứng còn không nỗi nữa! Lão gia tha cho em đi!"

Tống Vân Nhi nói: "Tha cái gì mà tha, khiêu là vũ, có gì đâu mà sợ! Đi, ta nhảy cùng với em!" Nói rồi kéo Hồng Lăng dậy, hai cô nương lắc lắc lư lư đến giữa vòng tròn, cùng với Dương Thu Trì nhảy múa.

Nam Cung Hùng, Hạ Bình cùng các hộ vệ đồng thanh khen hay, vỗ tay, cầm binh khí hay đồ kim loại gõ loãng xoãng trợ hứng. Hạ Bình dẫn đập hơn chục nữ hộ vệ trẻ tuổi cùng múa sau học, vây quanh đố lửa, đạp theo bước nhảy thời cổ, thập phần náo nhiệt.

So với Tống Vân Nhi hay những người khác nhảy tự do, Hồng Lăng múa lên mới thật sự coi là bổ mắt, mới gọi là có phong vận. Bước nhảy của nàng đơn giản và có quy luật, mỗi cái cử tay nhấc chân đều lộ rõ thân hình và khúc tuyến mỹ diệu thướt tha của một nữ tử trẻ tuổi. Bất tri bất giác, mọi người đều múa may theo động tác của Hồng Lăng, vũ bộ đồng nhất, càng dễ nhìn hơn.

Ăn thịt dê nướng, uống rượu sữa, nhảy múa bên bếp hồng... cho đến khuya mọi người mới tán.

Nam Cung Hùng đã an bày các hộ vệ canh giới, cho nên mọi người an tâm nghỉ ngơi.

Lều của Tống Vân Nhi và Liễu Nhược Băng đã dựng xong, Tống Vân Nhi và Hồng Lăng đang bày mền gối. Liễu Nhược Băng nói với Dương Thu Trì: "Thu Trì, cùng ta đến bờ suối ngồi một chút."

"Được a," Dương Thu Trì đỡ Liễu Nhược Băng, hai người đi trên cỏ mềm đến dòng suối thanh tĩnh ngồi xuống.

Nơi này cách xa đống lửa, thảo nguyên mùa đông rất lạnh, nhưng Liễu Nhược Băng có tuyệt thế võ công không thấy gì, còn Dương Thu Trì thì mặc rất dày, hơn nữa đã tập võ công nửa năm nay, thân thể so với trước đây cường tráng hơn nhiều, không sợ lạnh gì.

Hai người trên bãi cỏ, nhìn bầu trời đầy sao, trong đêm đông lặng lẽ, không ai cất lời trước, sợ sẽ phá tan sự yên lặng dễ chịu này.

Thật lâu sau đó, Dương Thu Trì mới khẽ nói; "Nhược Bang, nếu hai ta sau này cứ vĩnh viễn ngồi mãi thế này thì hay biết mấy."

Liễu Nhược Băng không hồi đáp. Dương Thu Trì chỉ nhìn bầu trời đầy sao, nhìn trời đêm vô biên vô tế, không hề chú ý Liễu Nhược Băng ở bên cạnh đã ứa ra một dòng lệ trong veo.

Dương Thu Trì nói: "Sau này em bé của chúng ta lớn rồi, hai ta sẽ đứa nó trở về đây, báo cho nó biết, năm xưa cha mẹ đã ngồi đây nhìn sao trên trời. Thật là có ý tứ a, nàng nghĩ có phải không, Nhược Băng?"

Liễu Nhược Băng vẫn không hồi đáp, Dương Thu Trì cảm thấy hơi lạ, quay lại, bấy giờ mới phát hiện gương mặt đẫm lệ của Liễu Nhược Băng.

Dương Thu Trì hoảng hồn, ôm chầm lấy nàng: "Nàng sao vậy? Vì sao lại khóc? Ta nói sai chỗ nào sao?"

Liễu Nhược Băng lắc đầu, vẫn không nói gì, chỉ khẽ sụt sùi.

Dương Thu Trì càng hoảng hơn, vừa hỏi vừa hoảng loạn hôn loạn vào mặt nàng, hôn hết nước mắt của nàng. Liễu Nhược Băng cuối cùng nghẹn ngào: "Không có gì, chúng ta về thôi."

Dương Thu Trì không muốn bất minh bất bạch như vậy trở về, hắn sẽ không thể ngủ được suốt cả đêm. Hắn vịn hai vai của Liễu Nhược Băng: "Nhược Băng, nàng hãy cho ta biết vì sao lại khóc? Có phải là ta làm sai cái gì hay không?"

Liễu Nhược Băng ngước đôi mắt đầy lệ, nhìn Dương Thu Trì, dưới bầu trời đầy sao, giọt lệ trong eo ánh lên những tia sáng khiến người ta vỡ nát con tim, đôi mắt diệu vợi, xa xăm và bất lực khiến cho Dương Thu Trì xót gan xót dạ. Liễu Nhược Băng đột nhiên nhào vào lòng hắn, ôm chặt hắn, lớn tiếng khóc rống lên.

Kỳ thật, Dương Thu Trì đã phần nào đoán được Liễu Nhược Băng vì sao lại khóc khi nghe hắn nói. Bỡi vì điều hy vọng duy nhất của nàng chính là cùng hắn chắp cánh liền cành, nhưng hắn không thể nào làm được.

Sau khi đưa Liễu Nhược Băng trở lại lều, Dương Thu Trì quay trở lại chỗ ngủ của hắn. Hồng Lăng uống say, ngủ thật ngon, nhưng Dương Thu Trì chẳng buồn ngủ chút nào, trong đầu cứ lẫn quẩn nhãn thần lạc lõng tịch mịch của Liễu Nhược Băng. 

Cuối cùng, hắn mặc quần áo trở lại, ra ngoài lều trở lại dòng suối. Nơi này còn lưu lại khí tức của Liễu Nhược Băng, có thể nhờ khí tức đó hắn mới tìm được sự bình yên trong tâm hồn. 

Đêm đã khuya, xung quanh ẩn ước truyền lại tiếng sói tru, ngoại trừ các hộ vệ gác đang cảnh giác đi qua đi lại, những người khác đều đã chui vào lều ngủ. Lửa dần dần cũng nhỏ lại, chỉ còn lại những khúc củi đỏ hồng tán phát ra hơi ấm sắp tàn. 

Dương Thu Trì lấy hai tay ôm đầu gối, gựa cằm lên đó. Hắn nhớ, đây chính là tư thế Liễu Nhược Băng thích nhất, lòng dậy lên một trận nhu tình, một thứ tình cảm êm dịu, ấm áp nhưng chen lẫn chút chua sót, áy náy. 

Một cái áo choàng thật lớn khẽ choàng lên vai Dương Thu Trì. Không cần quay đầu, hắn cũng biết đó là Tống Vân Nhi. Hán quen thuộc từng mùi vị trên cơ thể nàng, hoàn toàn khác biệt với khí vị trên người Hồng Lăng và Liễu Nhược Băng. 

Người ta thường nói mùi vị cơ thể của nữ nhất đều bất đồng. Dương Thu Trì trước khi xuyên việt tới đây không hề biết, vì hắn không có cơ hội thể nghiệm. Nhưng đến Minh triều rồi, nữ nhân bên người nhiều hơn, hắn tự nhiên minh bạch những điều này, cảm thấy lời người ta nói cũng có lý. 

Tống Vân Nhi chỉ mặc một bộ đồ mỏng manh, váy trắng, giày trắng, trong ánh trăng trông thanh tú xinh đẹp lạ thường. Nàng ngồi sát hắn, hỏi: "Ca, đang nghĩ gì?" 

"Nghĩ gì à? Ta cũng không biết nữa." Dương Thu Trì nhìn về phương xa, ngân ngơ nói. 

Tống Vân Nhi xoay đầu lại, nhìn sững Dương Thu Trì: "Có phải là nghĩ đến sư phụ của muội không?" 

Dương Thu Trì cũng quay mặt lại, mỉm cười miễn cưỡng: "Tiểu quỷ cơ linh, bộ nghĩ muội biết tất cả mọi chuyện sao? Làm sao muội biết ta đang nghĩ đến sự phụ của muội? Bộ ta không thể nghĩ đến muội sao?" 

"Huynh sẽ không nghĩ đến muội, vì lúc nào muội cũng ở bên cạnh huynh." Tống Vân Nhi mỉm cười, sau đó xoay mặt đi, nhìn về trời đêm vô tận, u uất thở một hơi dài. 

Dương Thu Trì cười: "Sao vậy? Sao thở dài đánh sượt vậy?" 

"Sư phụ nhất định rất đau khổ." Tống Vân Nhi trả lời không ăn nhập gì. 

Dương Thu Trì đương nhiên biết nàng muốn nói gì, cũng thở dài theo. 

"Huynh dự định làm sao đây?" Tống Vân Nhi quay lại nhìn Dương Thu Trì, trong hắc ám không nhìn rõ biểu tình của nàng. 

"Ta cũng không biết." Dương Thu Trì thật thà hồi đáp, 'Nếu mà biết, ta không ngồi ở đây phát ngốc ra thế này." Lời hắn nói chính là lời thật. Tống Vân Nhi ngẫm nghĩ, phảng phất đã lấy hết quyết tâm: "Huynh mang sư phụ của muội đi đi, rời khỏi chốn này thật xa..., tích cách của sư phụ huynh biết rồi, người không thể nào làm con chim vàng anh trong lòng son của huynh đâu, người muốn cùng huynh chấp cánh bay thật cao, thật xa..." 

Lòng Dương Thu Trì trầm xuống, không nói gì, ngơ ngẩn nhìn thảo nguyên khi đêm về, đó là một thảo nguyên thật bao la, vô cùng vô tận. 

Tống Vân Nhi lại u buồn nói tiếp: "Sư phụ vừa rồi ôm huynh khóc, huynh nên biết, sự phụ lúc xưa sở dĩ đáp ứng huynh ngụ lại ở Thành Đô, là nhân vì người đã mang hài tử của hai người, vì con, người không thể phiêu bạc được. Nhưng mà, một khi hài tử được sinh ra, sư phụ nhất định sẽ mang con đi xa. Để hai mẹ con người phiêu bạc giang hồ, huynh nhẫn tâm hay sao?" 

Lời này làm Dương Thu Trì cả kinh. Hắn một mực nghĩ Tống Vân Nhi là một tiểu nha đầu suốt ngày chỉ biết quậy phá, giởn hớt cho vui, nhưng không biết từ lúc nào nàng đã lớn rồi, tự có suy nghĩ của mình rồi, và mọi chuyện cũng nhìn nhận một cách rất chuẩn rồi. 

"Muội đã trưởng thành rồi! Vân nhi." Dương Thu Trì bảo. 

Tống Vân Nhi miễn cưỡng cười: "Thật hi vọng muội sẽ vĩnh viễn không lớn, không được lớn, vì trưởng thành rồi, thì sự tình phiền não ngày càng nhiều." 

Tống Vân Nhi cũng học theo dáng vẻ của Dương Thu Trì, khuynh tay gối đầu, nhìn trời đêm vô biên vô sắc, hỏi: "Ca, có phải mỗi nam nhân đều như huynh vậy? Lúc nào cũng không thỏa mãn với nữ nhân bên cạnh, cho dù là nữ nhân đó đẹp như tiên, nam nhân truớc sau gì cũng chán chê, có phải vậy không? Giống như sư phụ của muội vậy, người đẹp hơn bất kỳ nữ nhân nào khác, nhưng huynh không nguyện ý bỏ tất cả, cùng người tương thân tương ái, tránh mình nơi cùng trời cuối đất..." 

Dương Thu Trì ngẫn ra, sững sờ nhìn Tống Vân Nhi. Cô gái này quả thật đã trưởng thành rồi. 

Tống Vân Nhi quay mặt lại, nhìn Dương Thu Trì: "Ca, muội nói có đúng không?" 

"Không đúng! Vân nhi, khi ta và Nhược Băng hoan hảo, thì ta đã có Tiểu Tuyết, Chỉ Tuệ và Búp bê bùn rồi. Muội cũng biết đó, cái chức đặc sứ, tước gia, tri châu gì gì này của ta ta chẳng thèm màn, nhưng ta không thể không quan tâm đến mẹ của ta, không thể không quan tâm đến bọn Tiểu Tuyết, và còn có muội nữa. Muội bảo ta bỏ hết mọi thứ, đó là xé nát tim ta ra, muội có biết không!" 

Tống Vân Nhi im bặt, nhất thời hai người chẳng ai nói câu gì. 

Thật lâu sau đó, Tống Vân Nhi đưa tay qua, vịn cánh tay hắn, áp mặt vào vai hắn: "Thật xin lỗi, ca, muội nên hiểu nỗi khổ của huynh. Nhưng mà, sư phụ đối với muội thật tốt, từ khi muội biết chuyện tới giờ chỉ một mực ở cạnh người, muội không nhẫn tâm để người đau khổ...." 

Dương Thu Trì vỗ vỗ lên tay nàng: "Vân nhi, đừng nói nữa, hai chúng ta đều thương yêu Nhược Băng..., nhưng hiện giờ, ta không tìm được biện pháp nào tốt để giải quyết vấn đề này. Ta nếu như không thể bỏ Tiểu Tuyết cùng mọi người để đi cùng Nhược Băng, thì cũng không thể đề nàng ấy một mình phiêu bạt cùng hài tử được." 

"Như vậy thì làm sao bây giờ?" Tống Vân Nhi thở dài. 

"Biện pháp duy nhất là thuyết phục Liễu Nhược Băng tiếp thụ tiểu Tuyết và mọi người. Chỉ cần nàng ấy bằng lòng, ta cưới muội và Hồng Lang xong rồi, sẽ không nạp thiếp nữa. Nếu mọi người không tin, chúng ta hãy chuyển đến một hòn đảo hoang ở giữa biển để sống, chỉ người một nhà của chúng ta, không có nữ nhân nào khác nữa!" 

Tống Vân Nhi phì cười: "Coi huynh kìa, giống như con nít nói chuyện với ông ngoại vậy. Đảo hoang nào chứ? Chỉ người một nhà ta? Vậy củi gạo dầu muối trà dấm tiêu đường thế nào đây? Con cái lớn rồi làm sao? Rồi chúng phải cưới vợ sinh con nữa chứ....?" 

"Vậy... dù gì chỉ cần Nhược Băng có thể tiếp thụ bọn tiểu Tuyết, ở lại không đi nữa, đừng nói gì nạp thiếp, bảo ta làm cái gì ta cũng chịu!" 

Tống Vân Nhi trầm mặc một hồi, rồi nói: "Trước đây, mỗi lần muội thấy huynh nạp thiếp, muội đều tức giận cả ngày, nhưng cuối cùng rồi thì muội cũng tìm cách tự thuyết phục chính mình..." 

"Muội thật tốt! Vân nhi." Dương Thu Trì không nhịn được nâng tay Tống Vân Nhi lên hôn. 

"Đừng ồn! Nghe muội nói hết." Tống Vân Nhi rút tay về, "Nhưng tính cách của sư phụ muội hoàn toàn khác biệt với muội, theo quan sát của muội đến giờ, sư phụ không hề có ý tiếp thụ hiện thật. Do đó, muội lo rằng, sau khi hài tử được sinh ra rồi, người có khả năng sẽ li khai..." 

Dương Thu Trì đã chịu sự thống khổ khi Liễu Nhược Băng bỏ đi, và cũng đã có sự chuẩn bị về tâm lý, những vẫn cảm thấy lòng đau như cắt. 

Tống Vân Nhi dựa sát vào hắn, hi vọng có thể dùng tình cảm của mình an ủi vết thương trong tim Dương Thu Trì. 

---o0o----

Mặt trời từ từ ló dạng sau vách núi, trong tiếng chó sủa rộn, những mái nhà xa xa vấn vít khói bay. Trong gió sớm, khói và sương từ từ hòa vào nhau, tạo thành một tầng bạch vụ. 

Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi rất khuya mới trở về ngủ, sáng thức dậy mọi người dùng điểm tâm xong là đi ngay. 

Trên đường, Liễu Nhược Băng vẫn ôn nhu nói chuyện với Dương Thu Trì như cũ. Trong lúc vô tình, Dương Thu Trì vẫn bắt gặp được ánh mắt lạc lõng tịch mịch và tràn đầy yêu thương của Liễu Nhược Băng. Điều này khiến hắn càng khẳng định suy đoán của Tống Vân Nhi - Liễu Nhược Băng đang mong muốn ghi nhớ từng thời khắc ở bên nhau này. 

Nếu như trước khi con của hắn sinh ra mà không thuyết phục được Liễu Nhược Băng lưu lại, chỉ sợ sau này không còn có cơ hội nữa. Liễu Nhược Băng đã từng nói, nếu như nàng không thể trở thành đôi bạn đời nương dựa vào nhau, sẽ nguyện là một hồng nhan cách thế, thủ tiết nuôi con cho hắnd đến trọn đời. 

Mấy ngày sau, đội ngũ đến một ngôi chùa tên là Cách Nhĩ Đăng. Dương Thu Trì động tâm, kéo tay Liễu Nhược Băng, bảo: "Băng nhi, chúng ta vào trong chùa một chúc, được không? Ta muốn cầu phúc cho con của chúng ta." 

Liễu Nhược Băng lần đầu tiên nghe Dương Thu Trì xưng hô với mình là "Băng nhi", lòng cảm thấy rất ngọt ngào. Dọc đường dằn xóc, thân thể vốn rất mệt, nàng cũng muốn xuống xe đi lại một chút, cho nên mỉm cười gật đầu. 

Bước ra khỏi mái chùa, Dương Thu Trì khoác tay Liễu Nhược Băng, đứng ở dưới một tòa tháp trắng dưới Cách Nhĩ Đăng, im lặng nhìn lên kim đỉnh trên chùa. Dưới đế bạch tháp có chạm khắc đầy kinh và hình vẻ phật, đón gió cao nguyên vùng Thanh Tạng, mang theo mùi bơ sữa thơm lừng. 

Tống Vân Nhi và Hồng Lăng đã biết điều quay về xe ngựa. Nam Cung Hùng và Hạ Binh cùng các hộ vệ tản ra xa xa cảnh giới, chỉ còn lại Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng tay trong tay đứng trước chùa, cảm thụ sự trữ tĩnh và sự siêu phàm của phật quang. 

Bên cạnh chùa có một vòng chuyển luân kinh (vòng luân hồi) ghi đầy kinh bằng chữ tạng, trên có một hàng chữ lớn đề "Úm ma ni bát dị hồng", đã bị ma sát bóng loáng. Con đường đá xanh bên cạnh đó cũng đã bị bước chân mài phẳng như gương. 

Những bà già đầu tóc bạc phơ tay đang không ngừng lần chuỗi phật, miệng niệm chân ngôn, nối đuôi nhau đi vòng qua các tự miếu niệm kinh. 

"Thu Trì, chàng có tin vào luân hồi nhân quả hay không?" Liễu Nhược Băng nhìn những nữ tín đồ đó, khẽ hỏi. 

Dương Thu Trì là một pháp y, đương nhiên không thể tin kiếp trước kiếp sau, nhân quả luân hồi, nhất thời không biết đáp sao cho ổn. 

Liễu Nhược Băng nhìn vào vòng chuyển luân kinh đến xuất thần, câu hỏi đó như hỏi Dương Thu Trì, mà cũng như hỏi chính nàng. 

Dương Thu Trì một tay nắm tay nàng, tay còn lại vòng qua vai, ôm nàng thật chặt, đưa mắt nhìn lên kim đỉnh, chợt phảng phất như nhìn thấy bến bờ thâm u, từ từ thốt: "Kỳ thật... từ trước ta không tin..., nhưng từ khi gặp nàng...., ta thà tin là có luân hồi..." 

"Vì sao?" Liễu Nhược Băng xoay lại, dường như đụng mặt vào môi hắn. 

Dương Thu Trì đưa tay vịn vai nàng, kéo nàng lại gần, khẽ hôn lên trán nàng, nhìn sâu vào mắt nàng, nói chậm nhưng rất kiên định: "Nhân vì ta biết... ta thiếu trọn kiếp này đối với nàng..., do đó..., hi vọng có kiếp sau..., như thế.... ta sẽ cả đời.... ở cạnh chỉ mỗi mình nàng!" 

"Thu Trì...!" Liễu Nhược Băng nhào vào lòng Dương Thu Trì, khóc rưng rức.

Dương Thu Trì vuốt ve mái tóc dài óng mượt của nàng, khẽ bảo: "Băng nhi, là ta đối không phải với nàng..., ta chỉ cầu nàng, đừng rời xa ta, có được không...? Chỉ cần nàng không rời bỏ ta... ta cái gì cũng đáp ứng nàng hết!" 

Liễu Nhược Băng ngước đầu, lệ tuôn dầm dề, nhìn hắn đáp lời: "Thiếp cũng muốn... thiếp cũng rất muốn ở bên cạnh chàng...! Thật đó! Vừa rồi khi vào trong chùa, thiếp cứ mãi khẩn cầu...., cầu cho thiếp và chàng có thể vĩnh viễn ở bên nhau... chàng có biết không...., rời xa chàng.... thiếp...., thiếp thật không biết sao nữa.... những ngày tháng sau này... nên làm như thế nào...." 

Lệ của Liễu Nhược Băng như từng hạt trân châu bị đứt rơi tốc tốc xuống đất, nàng vùi mặt vào lòng hắn, khóc không thành tiếng. 

Dương Thu Trì quay đầu lại nhìn, bọn Tống Vân Nhi ở trong xe được bịt rất kính. Trước chùa, chỉ còn có hắn và Liễu Nhược Đăng - đôi tình nhân trong cơn thổn thức đắm đuối, dựa dẫm vào nhau. 

Dương Thu Trì ôm chặt Liễu Nhược Băng, không biết nên nói gì, và nói gì cũng vô dụng, chỉ hi vọng bằng tình cảm dịu dàng của mình có thể cuối cùng khiến nàng lưu lại. 

-----o0o-----

Mấy ngày sau, trời vừa giữa trưa, đại đội nhân mã của họ cũng đã tiến vào Đóa Cam. 

Thành trì thuộc Tây vực này so với Trung nguyên kém hơn nhiều, đường tuy có người lai vãng, nhưng ăn mặt và ngôn ngữ cử chỉ còn kém vẻ phong lưu của thành thi trung nguyên. Ngược lại, vẻ thô kệch và khoáng đãng lại hiện vẻ đẹp tự nhiên. 

Tiệm hàng hóa và vật dụng hai bên đường được bày bán rất nhiều, tiếng ồn ào náo nhiệt nghe rất vui tai. 

Liễu Nhược Băng ngồi dựa vào gối êm, vén rèm lên nhìn ra đám người náo nhiệt ở bên ngoài, tâm tình tựa hồ như rất vui. Tống Vân Nhi và Hồng Lăng cũng tranh nhau nhìn ra ngoài xem náo nhiệt, rồi nghị luận rất hưng phấn. 

Đương nhiên, đội ngũ nghênh ngang của họ tiến vào thành nhất định là gây sự chú ý đối với mọi người. Họ trực tiếp đến thẳng dịch trạm nghỉ ngơi. 

Dương Thu Trì lưu Hồng Lăng ở lại chiếu cố Liễu Nhược Băng, còn để Hạ Bình cùng các nữ hộ vệ lưu lại bảo vệ, còn hắn thì mang theo Tống Vân Nhi, Nam Cung Hùng cùng mọi nam hộ vệ đến nha môn của Đóa cam Tư vệ chỉ huy sứ. 

Sau khi đưa ra bái thiếp, chờ một chút liền nghe trong nha môn loạn nhốn nháo, rồi sáu cánh cửa lớn của nha môn cùng mở ra, cả đám người vây quanh một trung niên nam tử cười ha ha bước ra nghênh tiếp. 

Người này thân hình cao lớn, nhưng sắc mặt và tướng tá không có điểm thô kệch gì. Ngược lại, y còn được xem là có mấy phần thanh tú, mặt mày tươi như gió mùa xuân, bước tới chấp tay cười ha ha hỏi: "Xin hỏi vị nào là Dương Thu Trì Dương tước gia?" 

Kim sư gia bước tới tiến dẫn: "Vậy này là Dương tước gia của chúng tôi?" 

Người nà kinh ngạc nhìn lên nhìn xuống đánh giá Dương Thu Trì, rồi xá dài một cái thưa: "Dương tước gia, hạ quan Dư Hiên, là vệ đô chỉ huy sứ của Đóa Cam này, tiếp đón hơi chậm trễ, thỉnh thứ tội!" 

Ở Minh triều, Đóa Cam vệ có đô ti, có định ra đô chỉ huy sứ, hàm chánh nhị phẩm. Nhưng Dương Thu Trì là Trấn viễn bá tước, siêu phẩm, nên đô chỉ huy sứ này phải dùng lễ hạ quan mà ra mắt. 

Dương Thu Trì cười ha hả, đỡ hay tay của y: "Dư đại nhân quá khách khí rồi. Bổn quan đến đây hơi bất ngờ, thỉnh không coi đó là điều lạ là được rồi, ha ha ha!" 

Dư Hiên cũng cười lớn: "Tước gia nặng lời rồi, Dư Hiên đã sớm nghe Dương tước gia phá án như thần, hôm nay hân hạnh được gặp, thật là tam sanh hữu hạnh a." 

"Hả? Ông nghe nói về ta rồi à?" Dương Thu Trì có vẻ đắc ý hỏi ngược lại. 

"Hạ quan không lâu trước đây làm quan ở Tứ Xuyên, sau đó mệt mỏi mời thỉnh cầu điều đến Tây vực này để trải qua những tháng ngày thanh tịnh. Nơi này dân tình chất phát, khi làm quan ở Tứ Xuyên không cảm thấy thoải mái như bây giờ. Hạ quan có nghe về Dương tước gia lúc ở đó." 

"Vậy à, Dư đại nhân đã từng làm quan ở Tứ Xuyên sao?" 

"Đúng a, tôi với Bố chánh sứ Ngô Từ Nhân Ngô đại nhân là cố giao, ông ta đã sớm truyền tin báo cho hạ quan, nói Dương tước gia có công vụ đang trên đường đến Đóa Cam. Hạ quan đã sớm mong ngóng rồi, chỉ là không biết tước gia khi nào mới đến, cho nên không ra nghênh tiếp xa, kính mong tước gia thứ tội." 

Tống Vân Nhi ở sau lưng Dương Thu Trì lầu bầu: "Chua lòm, văn không ra văn võ không ra võ!" 

Dư Hiên cảm thấy ngạc nhiên, hé mắt nhìn, thấy được Tống Vân Nhi, mắt liền sáng lên nhìn trừng trừng. 

Tống Vân Nhi hừ một tiếng, tránh vào sau lưng Dương Thu Trì. Dương Thu Trì cười nói: "Dư đại nhân, đây là xá muội, hơi rắc mắc, thỉnh thứ tội... ai yêu!" 

Thì ra Tống Vân Nhi đứng sau lưng nhéo hắn một cái, khiến Dương Thu Trì đau quá phải kêu lên. 

Dư Hiên quay người qua, xá dài làm lễ với Tống Vân Nhi: "Hạ quan Dư Hiên, hân hạnh được gặp Tống cô nương." 

Thật vẫn quá chua! Tống Vân Nhi nghĩ thế, nhưng trước mặt mọi người không thể quá vô lễ, nên làm lễ đáp tạ. 

Dư Hiên vội mời Dương Thu Trì cùng mọi người vào đại viện. 

Vừa tiến vào vườn, Tống Vân Nhi hô lên cả kinh, rất khoa trương nắm chặt cánh tay của Dương Thu Trì, chỉ vào con gấu mun rất lớn cách đó không xa - không, kỳ thật là một con chó đen, một con chó đen rất lớn, trên cổ có một vòng lông đen xì giống như một cái vòng cổ vậy, bị cột dính liền một cây sắt đặc chế, chỉ có sợi xích thôi cũng đã to bằng cườm tay em bé. 

Con hắc cẩu này nhìn thấy Dương Thu Trì cùng mọi người đến, phóng ngay tới, kéo sợi xích sắt kêu lách cách, dường như sắp đứt tới nơi. 

Rất tiếc là tiểu hắc cẩu ở lại dịch trạm cùng với Hồng Lăng, nếu không khi thấy có đại hắc cẩu như chó gấu này không biết là có sợ hay là không. 

Dư Hiên quát lên một tiếng, mấy người hầu huấn luyện chó vội túm chặt dây xích, lớn tiếng quát tháo ra điệu bộ muốn đánh, lại quẳng một khối thịt đầy máu cho nó, con đại hắc cẩu này mới chịu thôi, tha khúc thịt về lồng. 

Dương Thu Trì hỏi Tống Vân Nhi: "Muội biết đó là động vật gì không?" 

"Cẩu bái! Có gì đâu mà lạ." Tống Vân Nhi bỏ tay Dương Thu Trì ra, cười hi hi. 

"Đúng nhưng mà không đúng, chuẩn xác mà nói thì đây là ngao, chó ngao Tây tạng!" Dương Thu Trì giải thích. 

Dư Hiên gật đầu, không ngờ Dương tước gia vừa đến Đóa Cam này mà đã biết một số thứ rồi. 

Dương Thu Trì tự nhiên biết, vì ở xã hội hiện đại, trong chuyến viện trợ Tây Tạng, hắn đã từng đọc qua không ít về tư liệu về nơi này, trong đó có chó ngao Tây Tạng nổi tiếng thế giới chuyên dành cho giới thượng lưu này. 

"Ngao? So với chó có gì khác nhau?" Tống Vân Nhi rất hiếu kỳ, thấy mấy người hầu trong tay còn cầm vài khối thịt, chạy lại xem, rồi cầm lấy một khối quẳng cho con chó ngao Tây Tạng đó. Khối thịt ấy nặng ít nhất một cân, nhưng chú chó chỉ nhướn mắt nhìm, nằm trong lồng không thèm động. 

"Nó sao không ăn thịt của muội cho?" Tống Vân Nhi kỳ quái hỏi. 

"Ha ha, đây là chỗ khác biệt giữa chó ngao tạng và chó ở những nơi khác. Nó chỉ nhận những món do chủ cấp cho, những thứ người khác quẳng cho, nó thà đói chết chứ không thèm đụng." 

"Òa... không khoa trương như vậy chứ? Trung thành với chủ như vậy à? Nhìn bộ dạng có vẻ rất lợi hại a, hung dữ nữa là khác." 

"Cái đó đương nhiên," Dương Thu Trì cười nói, "Là là đấu khuyển (chó để đánh nhau) trứ danh nhất thế giới, so với những loài chó khác dữ hơn nhiều. Bảy tám con sói trong mắt nó chẳng là vấn đề gì cả." 

Tống Vân Nhi không quá tin lời bình của Dương Thu Trì về chó, hoài nghi nhìn về phía Dư Hiên, thấy y mỉm cười gật đầu, bấy giờ mới tin. 

Khi đến phòng khách, phân chủ khách ngồi xong, bấy giờ có một cô bé từ hậu đường chạy ra, cất giọng rất trong trẻo gọi: "Cha....! Cha...!" 

Đó là một cô gái mặc bộ đồ bông màu đỏ, cột tóc bím dài để thỏng sau lưng, dáng vẻ rất xinh xắn nhanh nhẹn, liếng thoắng chạy vào. 

Hài tử này dù sao cũng là con nhà quan, trải việc nhiều rồi, nên không khiếp sợ rụt rè gì. Khi thấy trong phòng đầy người, hơi ngẩn ra, rồi chạy tới trước mặt Dương Thu Trì, nhìn tả nhìn hữu, nghiêng đầu hỏi: "Đại ca ca, các người là ai?" 

Tống Vân Nhi thấy cô bé này trắng trẻo dễ thương, cảm thấy rất thích, cúi người xuống ẵm lên nói: "Ta họ Tống, em gọi ta là Tống tỷ tỷ đi, còn em, em tên là gì?" 

"Em là Văn nhi, chị chơi với em nhé, được không?" 

"Được a." Tống Vân Nhi nựng nựng gò má phấn của cô bé, quay sang nhìn Dương Thu Trì và Dư Hiên. Dương Thu Trì gật đầu: "Hai người đi chơi đi, ta còn có chuyện nói với Dư đại nhân." 

"Dạ được," Tống Vân Nhi ẵm Văn nhi tiến vào hậu đường chơi. 

Cùng ngày, Dư Hiên bày tiệc khoản đãi Dương Thu Trì và mọi người ở đô chỉ huy sứ nha môn. Mọi người uống rượu hứng khởi vô cùng. 

Ngày hôm sau, cả đám lại tiếp tục cuộc hành trình. 

Dư Hiên phái một người quen thuộc tình hình của Đóa Cam, tinh thông ngôn ngữ địa phương làm người hướng đạo. 

Lại đi thêm mấy ngày nữa, càng đi càng cao, từ từ họ hướng đến một ngọn núi tuyết nguy nga. 

Nơi đây rất cao so với mặt nước biển, nên nhịp tim của Dương Thu Trì rất nhanh, đầu hơi choáng váng, Hồng Lăng cũng không thoải mái dễ chịu gì. Liễu Nhược Băng lấy ra một bình thuốc nhỏ, cho hai người uống, quả nhiên chẳng mấy chốc cảm giác khá hơn nhiều. 

Dương Thu Trì bảo Tống Vân Nhi và Liễu Nhược Băng cùng uống một viên, Tống Vân Nhi cứ làm như không có chuyện gì, nhất quyết không chịu uống. Liễu Nhược Băng vốn định không uống, nhưng nghĩ đến bảo bối trong bụng, cũng uống một hoàn. Tuy nàng dường như không có chuyện gì, nhưng dù sao người mang thai cũng không thể coi thường. 

Khí hậu vùng núi này biến đổi khôn lường, lúc mưa lúc tạnh, lúc mây lúc mù, một ngày có đủ bốn mùa. Một lúc thì trời nắng như đổ lửa, lúc lại kéo mây đổ mưa liên tục, sau đó thì từng khối băng lại rơi lộp độp lên trần xe. 

Xe đội không hề dừng lại, nhất mức tiến về phía chân một ngọn núi tuyết cao đụng mây, bấy giờ người hướng đạo mới bảo mọi người xuống nghỉ ngơi. Dương Thu Trì phân công Hồng Lăng và Tống Vân Nhi cẩn thận đỡ Liễu Nhược Băng xuống, còn hắn thì nhảy xuống xe trước. 

Nam Cung Hùng mặc một chiếc áo hồ li dài chấm gối, trông rất ấm áp. Y dọc đường phải cưỡi ngựa, phải mặc đồ dày một chút. y bước nhanh lại phía Dương Thu Trì, thưa: "Tước gia, không có chuyện gì chứ, khí hậu nơi này không như Thành Đô, lạnh lắm, ngài cần phải chú ý a." 

Dương Thu Trì vỗ vai Nam Cung Hùng: "Các huynh đệ khổ cực hơn nhiều! Chúng ta cứ trốn trong xe, không bị gió không gặp mưa, không sao đâu." 

Lúc này Tống Vân Nhi và Hồng Lăng đã đỡ Liễu Nhược Băng xuống xe. Hồng Lăng cẩn thận khoác lên người nàng một chiếc áo lông hổ dày. 

"Oa, thật là đẹp a! Sư phụ mau nhìn này! Tuyết sơn đó đẹp quá!" Tống Vân Nhi chỉ về núi tuyết cao vút ở phía trước, nhảy nhót hô. 

Liễu Nhược Băng đưa mắt nhìn, thở dài: "Không sai, đây là ngọn núi chính của Niên Bảo Ngọc Tắc rồi, chùa của Quán Đỉnh pháp sư ở trên đỉnh núi!"

Phóng mắt nhìn lên, toàn bộ tòa núi đều ngập chìm trong tuyết trắng xóa, như ngọc như thúy, ấy chính là Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn. 

Tôn Tiểu Ngũ – người làm nhiệm vụ hướng đạo - chỉ vào một đỉnh núi lung linh cao ngất, nói: "Theo truyền thuyết đương địa, sơn thần của tòa Niên Bảo Ngọc Tắc này là con gái thứ ba của sơn thần hóa thân. Mọi người nhìn xem, nàng đang dựa vào chân nghe phụ thân nói chuyện. Dưới chân núi có hai cái hồ, đó chính là tiên nữ hồ và yêu nữ hồ. Còn thạch bích lớn bên kia chính là Tiên nữ đài, nơi thành hôn của con gái thứ ba của sơn thần huyễn hóa thành người và tổ tiên của Tạng tộc lưu lại. 

Các truyền thuyết hầu hết là rất mỹ lệ, rất biết cách đánh động nhân tâm. Liễu Nhược Băng nhìn đỉnh núi đến xuất thần: "Thật rất giống, khi xưa ta đến đây không hề chú ý đến những thứ này." 

Dương Thu Trì nắm tay Liễu Nhược Băng: "Băng nhi, lúc đó nếu ta có thể ở cạnh nàng, thì nhất định sẽ phát hiện." 

Từ khi rời khỏi chùa, nói những lời thề hẹn kiếp này kiếp sau, Dương Thu Trì đã vứt hết mọi cố kỵ, dũng cảm cầm lấy tay Liễu Nhược Băng giống như một đôi tình lữ vậy. Liễu Nhược Băng mới đầu còn muốn tránh né, nhưng Dương Thu Trì cứ cố chấp, riết rồi nàng cứ để mặc hắn nắm. 

Liễu Nhược Băng kỳ quái hỏi: "Vì sao như vậy?" 

Dương Thu Trì dùng tay còn lại chỉ vào hai tòa núi: "Nàng nhìn xem, ta thấy họ như đôi tình nhân, sơn thần thì đứng, dựa vào nữ tử bên cạnh sơn thần, xem ra họ là một đôi yêu nhau. Nàng xem họ dựa vào nhau thân mật như vậy, chẳng phải là một đôi tình lữ hay sao?" 

Liễu Nhược Băng nhìn kỹ: "Đúng a, thật giống." 

Dương Thu Trì lại chỉ vào hồ nước xanh biếc dưới hai tòa núi: "Nhìn! Cái hồ đó như cái kính trang điểm của nữ nhân, người nam đang chảy tóc cho nàng." 

Liễu Nhược Băng như có cảm giác, dựa thân vào người hắn, ừ nhẹ một tiếng, phảng phất như đã nhìn thất đôi tình nhân dựa nhau bên hồ. 

"Trên cao đó là ta," Dương Thu Trì ôn như hôn nhẹ lên tóc nàng, "Ngồi dựa đó chính là nàng." 

Liễu Nhược Băng từ từ xoay mặt lại, ánh mắt sáng long lanh, giống như ngọn núi tuyết lặp lòe dưới ánh dương quang. 

Dương Thu Trì dịu dàng hỏi: "Băng nhi, đêm nay chúng ta ngụ lại bên hồ nhé, chịu không?" 

"Dạ...!" Liễu Nhược Băng gật đầu, "Nhưng mà, chúng ta hiện giờ đã ở gần địa giới của Quán Đỉnh pháp vương, mọi người cần phải cẩn thận." 

Nam Cung Hùng gật đầu, phân công gia tăng cảnh giới, mọi người hướng về cạnh hồ mà tiến. 

Cuối cùng thì cũng đến bên hồ, vừa rồi lúc ở xa, toàn bộ khung cảnh giống như tình không vạn lí, nhưng khi đến cạnh hồ, thì khí hậu đầy sương mù, gió lạnh từng trận, từng bông tuyết rơi đầy. 

Tống Vân Nhi và Hồng Lăng đỡ Liễu Nhược Băng xuống xe ngựa. Hồng Lăng lạnh run lập cập, Dương Thu Trì vội lấy từ trong xe một bộ áo dày khoác lên người nàng, bảo: "Cần chú ý, khí hậu ở đây biến hóa vô thường, đừng có để lạnh." 

Hồng Lang cười, lập tức hít hít mũi: "Đa tạ lão gia..! Hách xì...!" Rốt cuộc thì vẫn nhảy mũi, chọc cho mọi người phải bật cười. 

Dương Thu Trì cũng cười: "Thời tiết này thật là đúng như mặt của con nít, nói biến là biến." 

"Tước gia, cái này cũng có lời giải thích đó," Tôn tiểu ngũ hướng đạo cười, chỉ vào hai cái hồ: "Thời tiết này chịu ảnh hưởng tâm tình của Tiên nữ hồ và yêu nữ hồ." 

"Ha ha, sao lại ảnh hưởng?" 

"Nếu như tiên nữ thần vui vẻ, thì bầu trời sẽ quang đãng đầy tình, thần sơn cũng có thể nhìn thấy, cảnh sắc mỹ lệ phi thường; Nếu như yêu nữ thần phát giận, thì ông trời sẽ trở mặt, hoặc là mây đen che kín, hoặc gió mưa ngất trời, hoặc hoa tuyết tung bay, nhìn không thấy thần sơn." 

"Ha ha!" Tống Vân Nhi cười nói, "Thì ra hai cái hồ này là do yêu tinh biến thành, lại hay phát tì khí!" 

Tôn Tiểu Ngũ xua loạn hai tay: "Cô nương, không nên nói loạn, nếu mà để cho hai nữ thần nghe được thì không xong đâu. Nếu là sơn thần nghe được, còn có thể đại họa lâm đầu nữa!" 

"Sao lại có đại họa đổ xuống đầu chứ?" Tống Vân Nhi kỳ quái hỏi. 

"Nghe nói a, sơn thần mà nổi giận, nhẹ thì mưa tuyết dập dồn, làm cho người lạnh cóng sắp chết, nặng thì cuồng phong dữ dội, có thể cuốn cả đá lên trời, huống chi là người! Cộng thêm nữa là mấy ngày mấy đêm đổ tuyết lớn, thò tay ra không thấy ngón tay, đông nam tây bắc đếu không phân rõ, chờ đến trời trong xanh lại thì không thấyngười đâu nữa, đó chẳng phải là bị sơn thần ăn thịt rồi hay sao?" 

Tên Tôn Tiểu Ngũ này có vẻ vô cùng kính sợ sơn thần, vừa nói vừa không ngừng chấp tay vái thần sơn. 

"A, xem ngươi nói giống thật quá, và có lẽ là thật như vậy rồi." Tống Vân Nhi ngước đầu nhìn lên Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn hiện giờ đã hoàn toàn bị mây mù che phủ, ngoại trừ sướng khói cuồng cuộng, không nhìn thấy gì cả, bất giác cảm thấy bực mình. 

Lúc này Nam Cung Hùng và các hộ vệ đã bắt đầu hạ trại ở cạnh hồ. 

Hồng Lăng lấy một giỏ trái cây từ xe hàng đến, Dương Thu Trì cầm lấy một quả mơ khô đưa cho Tống Vân Nhi. Tống Vân Nhi tiếp lấy bỏ vào miệng cắn một cái, không nhai, dùng tay miết miết, bấy giờ mới phát hiện nó đã lạnh cứng đanh. 

Hồng Lăng cũng phát hiện, áy náy cười nói: "Em không ngờ dưới núi tuyết này lạnh như vậy... để em coi xem có món gì chưa đông không." 

"Được rồi Hồng Lăng!" Tống Vân Nhi ngăn lại, rồi bước đến cạnh Liễu Nhược Băng, "Cho dù là không đông thì cũng lạnh băng băng, trong thời tiết quỷ quái thế này, nếu có thể nấu một món canh nóng gì đó uống thì hay biết mấy, đúng không sư phụ?" 

Liễu Nhược Băng đoán biết là học trò của mình sắp có chủ ý quái quỷ gì đây, cười hỏi: "Con định nhờ Hồng Lăng nấu cái gì ngon để ăn thì nói đi, giả vờ gì thế?" 

"Hi hi...!" Tống Vân Nhi cười, chuyển thân nói với Hồng Lăng: "Đại sư phụ, đêm nay cho chúng tôi món gì ngon ăn đây? Môn bữa nướng nữa hả?" 

"Nướng trui quá nhiều mỡ, cứ ăn thịt mỡ hoài Liễu tiền bối có thể không thích." Hồng Lăng cười cười nhìn Liễu Nhược Băng. 

Cô gái này cũng biết thương người! Dương Thu Trì than thầm, gật đầu nói: "Đúng vậy, nướng trui quá ngậy, chúng ta đổi cái gì mới và tươi đi." 

Tống Vân Nhi xoay chuyển ánh mắt, nhìn vào mặt hồ, cười hỏi: "Ăn cá thế nào? Chúng ta câu cá cho em làm món cá hấp hay canh cá gì đó có được không? Ta ghiền cái món cá hấp của em quá, nghĩ đến là chảy nước miếng ngay!" 

Thấy nàng ra vẻ ham ăn như vậy, Hồng Lăng cười khúc khích: "Được a, nhưng mà chúng ta không có công cụ bắt cá, làm sao bắt được chứ?" 

"Trên hồ này xem ra có ngư dân a!" Tống Vân Nhi ngước mắt nhìn ra hồ, nhìn mãi mà chẳng thấy con thuyền nào, "Kỳ quái, ngư dân chạy đâu hết rồi?" 

Tống Vân Nhi gọi Tôn tiểu ngũ đang cùng bọn Nam Cung Hùng dựng lều lại hỏi: "Ai! Hồ này sao không có ngư dân nào hết vậy?" 

"Ngư dân?" Tôn tiểu ngũ cười cầu tài đáp: "Cô nương, hồ này không có ngư dân nào đâu." 

"Vì sao?" 

"Nhân vì người ở đây không ăn cá, đặc biệt là cá trong hồ này." 

"A? Chẳng lẽ cá ở đây cũng là thần tiên, không thể ăn hay sao?" 

"Cái đó thì không phải... ha ha, cái này..." Tôn tiểu ngủ há miệng ú ớ không biết giải thích thế nào. 

Thấy Trương Tiểu Ngũ làm ra vẻ khó xử, Dương Thu Trì vội phản ứng. Hắn nhớ lúc còn là sinh viên đã từng đọc tư liệu mô tả tập tục thủy táng của dân tộc Tạng, liền nói: "Nhân vì hồ này là để mai táng người chết, đúng không?" 

A! Đến lúc này thì ngay cả Liễu Nhược Băng cũng cả kinh. Tống Vân Nhi hồ nghi nhìn Dương Thu Trì, lại nhìn Tôn Tiểu Ngũ, thấy Tôn Tiểu Ngũ áy náy gật đầu: "Đúng vậy, lão bá tánh xung quanh đây đều khốn cùng, sau khi chết rồi không có tiền mời lạt ma đến tụng kinh siêu độ, càng không có tiền thỉnh thiên táng sư làm thiên táng, liền khiêng đến bên yêu nữ hồ, đưa thi thể vào trong hồ, coi như cung phụng sơn thần, hồ nữ..." 

"Đừng nói nữa! Cá trong hồ này ta không ăn đâu!" Tống Vân Nhi lùi lại vài bước, như sợ người ta muốn cưỡng bức nàng ấy ăn cá vậy. Những người khác đều nhíu mày. 

Hồng Lăng miễn cưỡng cười nói: "Vậy chúng ta không ăn cá nữa, trên xe còn có mấy món rau củ và thịt trâu ướp, em làm cho mọi người ăn nhé, được không?" 

Trong lúc nói chuyện, Liễu Nhược Băng đột nhiên trầm giọng: "Có người đến!" 

Mọi người nghe thế vội nhìn xung quanh, chẳng mấy chốc quả nhiên thấy dưới chân thần sơn có đám hơn mười người ngựa chạy lên. 

Nam Cung Hùng huýt gió, các hộ vệ lập tức bày thành đội hình chiến đấu, bảo hộ xung quanh Dương Thu Trì và mọi người. 

Mã đội đến rất nhanh, chẳng đầy một tuần trà là tới trước mặt, đều là một đám lạt ma trọc đầu trong trang phục lạt ma. 

Người đi đầu là một đại hán vạm vỡ, mặc trang phục lạt ma đỏ sậm. Trong tiết trời lạnh thế này, vị lạt ma này chỉ mặc có một làn áo, hơn nữa tay còn để hở ra ngoài, so với y phục của Tống Vân Nhi mặc còn ít hơn. 

Đại hán vạm vỡ ấy nhảy xuống ngựa, lí xô lí xào nói cái gì đó, Tôn Tiểu Ngũ vội vã bước tới, hồi đáp lại y. 

Dương Thu Trì nhìn về phía Liễu Nhược Băng, thấy nàng cũng đầy vẻ nghi hoặc, biết là nàng không biết những người này. Dù sao thì tính từ ngày nàng lên khiêu chiến với Đế Lạc tới nay đã hơn mười năm rồi. 

Tôn Tiểu Ngũ nói một hồi, dẫn người đó đến trước mặt Dương Thu Trì, giới thiệu: "Tước gia, bọn họ là đệ tử dưới trước của Đế Lạc Quán Đỉnh pháp vương, người dẫn đầu này là đại đệ tử của Đế Lạc, tên là Gia Thố. Bọn họ nói tước gia hạ trại ở dưới thần sơn này không tiện, vì nơi này đêm về vô cùng lạnh lẽo, sợ tước gia bị phong hàn, bọn họ sẽ bị tội, cho nên muốn thỉnh tước gia lên núi, đến ngụ ở sơn đỉnh ." 

Gia Thố nhìn Dương Thu Trì nhe răng cười, lộ ra hàm răng thật trắng. Y chấp tay lí xô lí xào cái gì đó, đột nhiên ánh mắt bắt gặp Tống Vân Nhi, sáng rực lên, miệng lại ồ ề nói một hồi, cứ nhìn lên nhìn xuống khắp người nàng. 

Tống Vân Nhi hừ lạnh, chuyên thân đi chỗ khác, nhìn hoa tuyết bay đầy trời. 

Tôn Tiểu Ngũ nói: "Y thỉnh tước gia theo họ lên núi, Đế Lạc pháp sư của họ đã biết được tin, đang ở chùa trên đỉnh núi chờ bái kiến tước gia." 

Dương Thu Trì nhìn chân trời, thấy mây đen cuồng cuộn, thấy trời sắp tối tới nơi, liên khoát tay: "Trời đã sắp tới rồi, doanh trại của chúng ta đã hạ xong rồi, thỉnh trở về bẩm pháp sư, ngày mai chúng ta sẽ lên núi."

Gia Thố nghe Tôn Tiểu Ngũ phiên dịch, gật gật đầu, lại lí xô lí xào một hồi, cung kính lùi vài bước, chuyển thân nói gì đó với các tùy tùng ở xa xa. Những tùy tùng cởi những túi to trên yên ngựa xuống mở ra, không ngờ là mấy con sơn dương còn sống, sau đó ý hướng tới Dương Thu Trì thưa gởi gì đó, ánh mắt vẫn không rời khỏi thân hình xinh xắn của Tống Vân Nhi. 

Tôn Tiểu Ngũ nói: "Mấy con dê này là bọn họ đặc biệt tặng tước gia để bày tỏ chút tâm ý. Bọn họ ngụ ở dưới chân thần sơn, nếu như có gì cần thì cứ đến lấy." 

Dương Thu Trì gật đầu, Gia Thố sau khi chấp tay hành lễ với hắn, phóng lên mình ngựa, luyến tiếc nhìn Tống Vân Nhi mấy lần rồi mới cùng các tùy tùng bỏ đi. 

Hồng Lăng kỳ quái nhìn Tống Vân Nhi: "Tống cô nương, hòa thượng đó nhìn cô cái gì vậy? Hay là... hi hi." 

Tống Vân Nhi trừng mắt nhìn nàng: "Đừng có nói bậy! Ai biết hắn làm trò quỷ gì, một hòa thượng xuất gia mà cứ nhìn cô nương người ta trừng trừng như vậy, vừa nhìn là biết hắn là một hòa thương rượu thịt không biết giữ thanh quy gì rồi!" 

Dương Thu Trì cười cười: "Như vậy thì muội không biết rồi, lạt ma trong Lạt Ma giáo phân thành các giáo phái khác nhau, rất nhiều giáo phái có thể kết hôn sinh con. Hơn nữa, người Tạng là một dân tộc rất hào phóng. Bọn họ rất khác người Trung nguyên, không thích nữ tử nhu tình tự thủy, nhược bất kinh phong, nhưng lại đặc biệt thích thú các cô gái có nét đẹp rắn rỏi khỏe mạnh như muội vậy."

Mọi người nghe thế đều cười. Tống Vân Nhi đỏ mặt trách: "Ca...! Huynh nói cái gì vậy a!" 

Thấy Tống Vân Nhi vẫn còn dẫu môi không chịu, Dương Thu Trì kéo nàng lại bên cạnh, nói nhỏ: "Vân nhi là của một mình ta, bọn chúng động vào là đứt đầu đấy!" 

Tống Vân Nhi bấy giờ mới chuyển giận làm vui, phấn quyền cung lên đánh cho hắn một cái, bên tai nghe tiếng dê kêu be he, liền quay sang Hồng Lăng thè lưỡi cười nói: "Vừa rồi còn nói không ăn dê nướng, ha ha, có những chuyện muốn tránh cũng tránh không được.' 

Hồng Lăn đáp: "Không hề gì, thịt dê có nhiều cách làm, không phải chỉ có nướng không thôi. Đêm này trời lạnh, em nấu cho mọi người một nồi lẩu dê ăn cho ấm người, có được không?" 

Liễu Nhược Băng mỉm cười: "Được a, thịt dê tính ấm, lẩu dê ăn dưỡng vị mạnh tì, một chén ngọt ngào, uống vào một cái toàn thân phát nhiệt, khu trừ hết hàn lãnh." Mọi người nghe thế đồng thanh khen phải. 

Trời đổ tuyết, đốt lửa thành đống là không thể, nên ngoại trừ những hộ vệ lo cảnh giới, những người khác đều chia nhau chui vào lều của mình. 

Dương Thu Trì và các nàng Liễu Nhược Băng ngồi quanh trong một căn lều, ăn món lẩu dê do Hồng Lăng nấu, cảm thấy rất khỏe người. 

Hôm sau trời vừa hừng sáng, Dương Thu Trì đang ngủ rất ngon, chợt nghe ngoài lều có người hét: "Người ở đâu? Đứng lại!" Tiếp theo đó hắn nghe một tràng vó ngựa tạp loạn từ xa xa truyền lại. 

Tiếp theo đó hộ vệ phát ra một tiếng huýt dài, hộ vệ ở các lều nhanh chóng kéo ra, tiếng bước chân nhanh nhưng không hoảng loạn, dù sao họ cũng là cao thủ của cẩm y vệ và đại nội thị vệ được huấn luyện rất nghiêm túc. 

Hồng Lăng hơi khẩn trương, ôm Dương Thu Trì hỏi: "Thu Trì ca, chuyện gì vậy?" 

"Không hề gì, đừng lo. Chúng ta có mấy trăm người, cái chổ chim không thèm đẻ này không có cái gì có thể uy hiếp được chúng ta." Tuy là nói vậy, nhưng thần sơn, hồ nước thần bí và thảo nguyên rộng lớn này có rất nhiều điều thần kỳ khiến hắn kính sợ e dè, đặc biệt là Liễu Nhược Băng đang mang trong vụng giọt máu kết tinh của hai người. 

Hồng Lăng ngồi bật dậy mặc vội áo quần, sau đó phụ thị Dương Thu Trì vận y bào. Chính vào lúc này, ở ngoài đã vang lên tiếng gọi khẽ của Nam Cung Hùng: "Tước gia! Tuớc gia...!" 

Dương Thu Trì ứng tiếng: "Vào đi!" 

Nam Cung Hùng vén rèm tiến vào trong, khom người thưa: "Khải bẩm tước gia: Lạt ma chiều hôm qua lại mang một đám người nữa tới, lần này dẫn đầu là một người ốm, xem dáng vẻ có điểm lợi hại, lại nói là đặc biệt đến nghênh tiếp tước gia lên núi." 

"Truyền cho vào." 

Nam Cung Hùng đáp ứng, chuyển thân ra ngoài trướng bồng. Lúc này, Dương Thu Trì đã chỉnh lý xong quan bào, Hồng Lăng đã cuốn gọn mền gối lại, sắp xếp trà kỷ chỉnh tề. 

Dương Thu Trì ngồi ở giữa lều, Từ Thạch Lăng cùng các thiếp thân hộ vệ đứng hai bên, Kim sư gia ngồi một góc. Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi cũng tiến vào lều, đến ngồi bên cạnh Dương Thu Trì. 

Việc sắp xếp như thế là chuyện nên làm, dù gì hắn cũng là một bá tước đường đường, không thể để Pháp vương này khi dễ, nếu không, những chuyện sau đó rất khó tiến hành. Hơn nữa, Đế Lạc hào xưng là Đóa Cam đệ nhất cao thủ, không thể không cẩn thận. Có Liễu Nhược Băng ở bên cạnh, Dương Thu Trì cũng yên tâm. 

Chẳng mấy chốc, Nam Cung Hùng và người hướng đạo là Tôn Tiểu Ngũ dẫn hai người nữa đi nhanh vào đại trướng. 

Dương Thu Trì ngước mắt nhìn, thấy trong đó có đại hán cao lớn chiều tối qua, người còn lại là một kẻ cao ốm, tuổi độ chừng bốn năm mươi. 

Liễu Nhược Băng vừa nhìn người cao ốm này, không nhịn được nhìn về phía Dương Thu Trì. Hắn lập tức hội ý, người này Liễu Nhược Băng không nhận thức, nói không chừng năm xưa khi khiêu chiến Đế Lạc chưa từng gặp qua. 

Tôn Tiểu Ngũ dùng Tạng thoại giới thiệu, người cao ốm đó nghe xong, bước lên một bước, dùng tiếng Hán lưu loát nói: "Tước gia, tại hạ là Cường Ba, là đại đệ tử dòng chính của Quán Đỉnh pháp vương, chịu lời ủy thác của Pháp vương đến đây nghênh thỉnh tước gia lên núi." 

Xem ra tên Cường Ba này không hề nhận biết Liễu Nhược Băng, có lẽ là năm xưa Liễu Nhược Băng che mặt lên núi khiêu chiến. 

Dương Thu Trì ra vẻ vui: "Ngươi biến nói tiếng Hán?" 

"Vâng, sư phụ của tội được hoàng thượng sắc phong làm Quán Đỉnh pháp vương, đệ tử theo lão nhân gia người rất thường lên kinh sư bái kiến hoàng thượng, đến các vùng đất của Trung nguyên tầm sư kết bạn, cho nên cũng biết tiếng Hán chút ít." 

"Như vậy thì quá tốt rồi." Dương Thu Trì nói: "Thỉnh đại sư chờ một chút, chúng ta nhổ trại bạt doanh xong là có thể lên núi liền." 

"Cái đó không cần." Cường Ba chắp tay nói: "Tước gia, Niên Bảo Ngọc Tắc sơn của chúng tôi là một tòa thần sơn, nhưng người bình thường không thể tùy ý lên núi, nếu không sơn thần tức giận, bá tánh xung quanh sẽ chịu khổ nhiều." 

Dương Thu Trì nhíu mày: "Đại sư nói lời này là ý gì?" 

Thái độ của Cường Ba càng khiêm cung hơn: "Tước gia, vô cùng xin lỗi, với Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn này, người thường bị tuyệt đối cấm lên núi, cho dù là tín đồ của bổn giáo cũng chỉ có thể ở dưới thần sơn mà bái lạy, không thể bước nửa bước lên núi. Nếu không sẽ bị pháp vương xử phạt. Tước gia đến rồi, pháp vương làm phép bẩm báo với sơn thần, nói là chỉ có thể để một mình tước gia lên núi, nhưng tùy tùng khác.... cái này... chỉ có thể ở dưới núi chờ, những mong tước gia hiểu cho." 

Cái gì? Chỉ một mình Dương Thu Trì lên núi? Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi đều biến sắc. Tống Vân Nhi gay gắt: "Ê! Các ngươi làm trò quỷ gì vậy? Chỉ để một mình ca ca ta lên núi..." Liễu Nhược Băng nhìn Tống Vân Nhi, ra ý bảo nàng đừng nói. Tống Vân Nhi bấy giờ mới làu bàu im miệng. 

Thần sắc Dương Thu Trì trầm lại, hừ một tiếng: "Bổn quan là triều đình phái đến, chẳng lẽ không thể ngoại lệ?" 

Thần tình của Cường Ba vô cùng áy náy, cúi người thật thấp: "Xin thỉnh... thỉnh tước gia thứ tội..., lần trước triều đình phái quan viên đến khao thưởng pháp vương, đều cũng... cũng tiến hành ở dưới chân thần sơn..., sau đó, quan viên ấy yêu cầu phải mang theo tùy tùng lên núi ngắm phong cảnh thần sơn, Pháp vương ngăn không được, chỉ đành chiều ý. Kết quả nửa đường gặp phải tuyết lỡ... bị chôn ở dưới tuyết, thây cốt đến giờ vẫn chưa tìm thấy..." 

Thần kỳ vậy sao? Tống Vân Nhi nghĩ thầm, tự hỏi không biết thật hay là giả đây. 

Cường Ba lại nói: "Thỉnh tước gia yên tâm, pháp vương của chúng tôi nói, sự an toàn của ngài được pháp vương của chúng tôi dùng đầu đảm bảo với triều đình. Nếu như có nửa điểm sai sót gì, Pháp vương sẽ tự thân đến triều đình thỉnh tội." 

Tống Vân Nhi nhịn không được lẩm bẩm: "Thỉnh tội? Người đã chết rồi còn thỉnh cái cục.... thỉnh tội có ích gì?" 

Dương Thu Trì nhìn Cường Ba và Gia Thố chằm chằm, lúc sau mới quay lại hỏi Kim sư gia: "Tiên sinh nhận thấy thế nào?" 

Kim sư gia thưa: "Tước gia là thân quý giá, thế mà đi một mình không có tùy tòng sao coi cho được. Nhưng nếu như Niên Bảo Ngọc Tắc này là thần sơn, dù sao cũng có quy củ của nó, để nhiều người lên núi không tiện cho lắm. Như vầy đi, tước gia mang theo Liễu tiền bối, Tống cô nương cùng Nam Cung Hùng và sáu hộ vệ lên núi, thế nào?" 

Cường Ba hơi ngước đầu nhìn sáu thiếp thân hộ vệ sau lưng Dương Thu Trì, vội nói: "Tước gia. Điều này... chỉ sợ không được. Pháp vương chúng tôi nói rồi, chỉ có thể để mình tước gia lên núi, nếu như nhiều người như vậy, xin thứ tại hạ khó tuân theo." 

Gia Thố vừa tiến vào trướng bồng thì mắt không rời khỏi người Tống Vân Nhi, đã sớm khiến nàng tức giận muốn bốc khói. Giờ nghe Cường Ba mấy lần ngăn trở, không khỏi trừng mắt thật to: "Chúng ta cứ muốn lên, mọi người lên núi một lượt, các ngươi làm gì ta nào?" 

Sắc mặt của Cường Ba hơi biết, không lạnh không nóng đáp: "Vị cô nương này quá xem thường đệ tử của Đế Lạc pháp vương chúng tôi rồi, để hộ vệ thần sơn, chúng tôi không tiếc liều mạng đâu!" 

Đến giờ thì quả thật y đã chọc Tống Vân Nhi nổi điên lên thật. Nàng quay đầu lại nói với Dương Thu Trì: "Ca, tên tiểu tử này quá cuồng vọng, muội ra giáo huấn hắn một chút!" 

Dương Thu Trì thầm tức cười, một tiểu cô nương mười lăm tuổi mà xưng hô với trung niên năm chục tuổi người ta là tiểu tử, hà hà, xem ra Tống Vân Nhi đã bực mình thật. Hắn cũng muốn xem coi đệ tử dưới trướng của Đế Lạc pháp vương có võ công thế nào. Dù gì thì cũng có thiên hệ đệ nhất võ công là Liễu Nhược Băng ở bên cạnh lược trận, không cần phải quá lo. Hắn bèn bảo: "Vân nhi đến lãnh giáo vài chiêu với đại sư, điểm đến thì dừng, không được thương hại đến đại sư." 

Cường ba vừa nghe, tức tái xanh cả mặt. 

"Được!" Tống Vân Nhi vung chưởng đánh tới, Cường Ba hừ lạnh hoàn chưởng, phành một cái, Tống Vân Nhi thối lui một bước, thân hình Cường Ba chỉ lắc lư. 

Dù gì thì Tống Vân Nhi cũng mới mười lăm tủoi, còn Cường Ba đã hơn bốn chuc rồi. Cường Ba tu luyện nhiều năm, chỉ luận về công lực vượt hơn Tống Vân Nhi là cái chắc. Hơn nữa, ưu thế của Tống Vân Nhi không phải là nội lực, mà là kiếm chiêu. 

Lòng háo thắng của Tống Vân Nhi bốc lên, nhớ tới năm xưa sư phụ chỉ dùng một thanh trường kiếm đánh khắp thiên hạ vô địch thủ, uy phong như thế nào, còn nàng chỉ có một đồ đệ của Đế Lạc mà thu thập không nổi, quả thật là mất mặt. Tay nàng chợt lắc, trong tay đã xuất hiện một con đao nhỏ sáng lấp lánh: "Rút binh khí ra, bổn cô nương muốn xem phái Đế Lạc các ngươi có bao nhiêu cân lượng." 

Cường Ba nói: "Cô nương, đao kiếm không có mắt, chúng ta dừng lại ở đây thôi." 

Tống Vân Nhi quát: "Bớt nói lời thừa! Ta và sư phụ lần này tới đây là muốn khiêu chiến cả phái Niên Bảo Ngọc Tắc sơn của các ngươi, ở dưới núi cũng đánh, mà lên trên đỉnh cũng đánh! Đừng có nói nhiều lời thừa đó, rút binh khí ra!"

Sắc mặt của Cường Ba hơi biến, nhìn sang Liễu Nhược Băng: "Hai sư đồ với phái ta có thù?" 

Tống Vân Nhi nhịn không được phiền, nhớ lại lời sự phụ là gặp mặt phải đánh liền, quát: "Không có! Bỉ võ thử chơi mà thôi, ta đếm đến ba, ngươi không rút binh khí ra thì là ngươi tự không dùng đây! Một, hai...!" 

Cường Ba biết Tống Vân Nhi là một kình địch, bản thân y cũng dựa vào tu vi và công lực mấy mươi năm vừa đánh thắng được nửa thức, bây giờ nếu động tới binh khí, y không dám lơ là, tay liền xoay, trong tay đã xuất hiện một thanh đoản kiếm. 

Một thanh kiếm mỏng và nhỏ, ở giữa có huyết tào, so với chủ thủ thì dài hơn, nhưng so với trường kiếm thì ngắn và mỏng hơn rất nhiều. 

Dương Thu Trì cả kinh, nhìn về phía Liễu Nhược Băng, chỉ thấy nàng khẽ gật đầu, chính xác không còn nghi ngờ gì nữa. Đây chính là loại hung khí mà hắn đang cần tìm. 

Tống Vân Nhi huy đoản kiếm, hai người lập tức phát kiếm quang đấu với nhau thật nhanh. Chớp mắt mấy chục chiêu đã qua, Tống Vân Nhi từ từ chiếm thượng phong, kiếm chiêu càng lúc càng nhanh, giống như một ngân cầu lấp lóa, phủ kính Cường Ba. Cường Ba bị động liên tục, lòng khẩn cấp vô cùng, hét to một tiếng, kiếm chiêu chợt biến, thập phần quỷ dị, và cứ thường từ những góc độ rất bất ngờ mà ra chiêu. 

Nếu là Tống Vân Nhi đột nhiên gặp phải loại kiếm chiêu thế này, chỉ sợ thua thiệt ngay. Nhưng Liễu Nhược Băng lúc trước sau khi phát hiện ở yết hầu của Ngô Xảo Trinh có vết thương quái dị, đã đem đặc điểm của kiếm chiêu và phương pháp phá giải nói rõ hết cho Tống Vân Nhi. 

Cho nên, Cường Ba không sử dụng những quái chiêu này có thể còn miễn cưỡng chống đỡ một hồi, một khi đã dùng tới nó, thì Tống Vân Nhi yên lòng chắc dạ chống đỡ. Cho đến khi Cường Ba sử ra chiêu rất giống với chiêu giết chết Ngô Xảo Trinh và Phương Tiệm, thì Tống Vân Nhi đã chờ sẵn, hàn quang trong tay lóe lên, hét: "Buông tay!" 

Thanh đoản kiếm quái dị trong tay Cường Ba bị Tống Vân Nhi một kiếm đánh bay, đâm xuyên đỉnh trướng bồng rơi ra ngoài. Hàn quang tiếp tục lóe, đoản kiếm của Tống Vân Nhi đã kề cổ của Cường Ba, hỏi: "Thế nào?" 

Cường Ba thở dài, nhắm mắt không nói. 

Tống Vân Nhi cười hi hi hỏi: "Chúng ta đã thắng ngươi, người phải đưa chúng ta lên núi chứ?" 

Cường Ba nhắm mắt lắc đầu: "Cô nương tài cao hơn một bậc, tại hạ kỹ năng không bằng, muốn giết múôn chém xin tùy tiện. Chỉ là Pháp vương có lệnh, tại hạ tuy chết không dám chống. Thỉnh tước gia và cô nương hiểu cho." 

Tống Vân Nhi thu đoản kiếm, lùi hai bước: "Vậy thì ngươi muốn thế nào mới để chúng ta lên thần sơn này?" 

"Thần sơn trang nghiêm bảo tướng, nếu mà ai cũng có thể lên thì không còn là thần sơn nữa. Ta và những người ở đây có chết cũng không dám kháng pháp chỉ của Pháp vương." Nói xong, Cường Ba và Gia Thố đều chắp tay sau lưng, nhắm mắt lại, lộ vẻ cứ để mặc người ta chặt chém. 

Đến nước này thì Tống Vân Nhi triệt để bó tay, chỉ còn biết quay người trở về chỗ ngồi. Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, lên tiếng: "Nếu như pháp vương đã có nghiêm lệnh như vậy, thì bổn quan đành phải y lời, một mình lên núi." 

Cường Ba và Gia Thố lúc này mới thở phào, mặt lộ vẻ vui. 

Liễu Nhược Ba và Tống Vân Nhi cả kinh, vừa định lên tiếng, thì Dương Thu Trì đã xua tay nói tiếp: "Sư đồ họ án chiều quy củ giang hồ mà đến khiêu chiến các ngươi, do đó, từ giác độ ấy mà xét, thì hai người họ không phải là tùy tùng của ta, các ngươi có thể tận hết khả năng phái người nghênh chiến. Nếu như khiến họ biết khó mà lui, họ tự nhiên sẽ không lên núi. Nhưng nếu các ngươi đánh không lại, thì không có cách gì ngăn trở họ lên núi khiêu chiến với sư phụ các người. 

Tống Vân Nhi nghe thế cao hứng nhảy cẩng lên: "Đúng vậy! Ta và sư phụ của ta đến tìm các ngươi trao dồi võ nghệ, nếu không gọi pháp vương của các ngươi xuống núi đấu với chúng ta, thì chúng ta sẽ đánh giết lên núi. Các ngươi cứ chống mắt mà coi!" 

Dương Thu Trì giật nãy mình, đánh giết lên núi? Cô nhóc này so với hắn còn ngoan độc hơn a. 

Cường Ba và Gia Thố nhìn nhau, Cường Ba ngẫm nghĩ, bây giờ mới bước lên trước một bước, chấp ta nói với Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi: "Lệnh sư đồ võ công cao tuyệt, ta không phải là đối thủ, xem ra nhất định chỉ có sư phụ của ta mới có thể chu toàn với hay vị. Nếu như là thế, xin thỉnh hai vị cùng lên núi với tước gia, còn những người khác chỉ có thể ở dưới núi chờ, mong thông cảm." 

"Được! Đại sư đi trước một bước, chúng tôi thu thập xong rồi sẽ lên." 

Cường Ba và Gia Thố chấp tay thi lễ, ra khỏi trướng bồng, tìm được thanh kiếm bay ra bên ngoài lúc nãy, đỏ mặt thu lấy. 

Chờ một lúc, Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng, Tống Vân Nhi mới ra khỏi lều, chia nhau lên ngựa.

Dương Thu Trì lúc này đã tương đối rành thuật cưỡi ngựa, vừa kéo dây cương, vừa đi chậm cạnh Liễu Nhược Băng: "Băng nhi, người nàng vậy cưỡi ngựa ổn hay không?" 

Liễu Nhược Băng nhíu nhíu mày, ôm bụng dưới không nói gì. Dương Thu Trì cả kinh, đưa tay qua đỡ nàng: "Sao vậy? Có ổn không?" 

Liễu Nhược Băng hơi đỏ mặt, đáp lời nhỏ như ri: "Vừa rồi con của chàng đá cho thiếp một cái!" 

“Ha ha!" Dương Thu Trì vui mừng cười, ghé sát nàng nói: "Tên nhóc quậy này! Chờ nó sinh ra ta đét đít nó!" 

Liễu Nhược Băng hừ một tiếng: "Thiếp không cho phép!" 

Dương Thu Trì lại cười một trận thật lớn, tiếp theo đó lo lắng hỏi: "Hay là ta vẫn cùng nàng cưỡi chung một thớt ngựa, như vậy sẽ có người chiếu ứng." 

Mắt Liễu Nhược Băng lúc này sung mãn sự ấm áp. Điều nàng hi vọng nhất là có thể dựa dẫm vào lòng người yêu. Nàng vốn không đọc quá nhiều tứ thư ngũ kinh hay những sách kinh điển của nho gia, đối với sự đề phòng nam nữ trong lễ giáo phong kiến không để ý gì mấy, chỉ nhỏ giọng hỏi: "Chàng không sợ sao?" 

"Sợ cái gì?" 

"Sợ người ta nói xấu sau lưng chàng!" 

Dương Thu Trì xuyên việt từ xã hội hiện đại đến, và những tư tưởng tiến bộ của xã hội hiện đại đã sớm thông qua internet truyền nhiễm vào từng ngõ ngách tế bào khắp cơ thể hắn. Cho nên đối với quan hệ nam nữ, hắn đã có cái nhìn rộng mở gấp nhiều lần so với Liễu Nhược Băng. Hơn nữa, hắn hiện giờ một lòng một dạ mong muốn khiến Liễu Nhược Băng lưu lại, người khác có nói xấu một hai câu sau lưng thì có đáng gì? 

Dương Thu Trì nhìn Liễu Nhược Băng, khẽ nói giọng rất kiên định: "Ta nguyện ý vì nàng làm bất cứ chuyện gì! Cho dù sau này có bị trời phạt cấm ngăn, ta cũng không sợ, huống chi là mấy lời nói bừa kia." 

Liễu Nhược Băng nhìn hắn đầy nhu tình và sự cảm kích, khóe mắt từ từ ướt hẳn đi. 

Từ xa xa, Cường Ba lớn tiếng hỏi: "Tước gia, ổn cả chứ? Chúng ta đi thôi!" 

"Chờ một chút, xong ngay thôi!" Dương Thu Trì ứng tiếng, nhìn Liễu Nhược Băng: "Băng nhi, gọi tảo hồng mã của nàng đến đi!" 

Liễu Nhược Băng chớp đôi mắt nhòe lệ, tay đưa lên miệng, một tiếng huýt dài vang lên xé cả không gian, truyền đi thật xa. Chẳng mấy chốc, một đóa hồng vân từ góc trời chạy đến, nhanh chóng tiến gần tới họ. Tiếp theo đó là tiếng vó ngựa đạp bước lên đá xanh nghe rất vui tay. Rồi Tảo hồng mã của Liễu Nhược Băng xuất hiện. Con ngựa này của nàng rất có linh tính, chạy đến cạnh Liễu Nhược Băng hí lên một tiếng dài, nồng nhiệt áp đầu vào nàng, khịt khịt mũi. 

Liễu Nhược Băng ôm đầu ngựa, yêu thương vỗ về nó. Dương Thu Trì đã sớm xuống ngựa, bước lại đỡ Liễu Nhược Băng lên trên hồng mã, còn bàn thân thì nhảy mình lên ngựa ngồi ở phía sau. 

Tiểu hắc cẩu nhảy chồm chồm chạy quanh Tảo hồng mã. Dương Thu Trì bảo: "Tiểu hắc ngoan, chờ ở đây đi!" Tiếp theo đó hắn giục dây cương, hô một tiếng "Đi" rồi chạy tới trước. 

Tống Vân Nhi cưỡi ngựa theo sát sau, Cương Ba, Gia Thố cũng nhóm ngừơi của y cũng cưỡi ngựa nối bước. 

Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn có thế núi hiểm trở, đường núi bó hẹp, những chỗ trũng còn tích tuyết rất dày. Nhưng con Tảo hồng mã của Liễu Nhược Băng chạy rất bình ổn, phảng phất như biết chủ nhân không thể chịu sự rung lắc vậy. 

Liễu Nhược Băng nhu nhược như không xương dựa hẳn vào lòng Dương Thu Trì, mắt hướng về quần sơn phương xa, nói: "Thu Trì, mỗi lần ta nhìn thấy núi, đếu nhớ tới lúc chúng ta ở trên đỉnh huyền nhai. Nếu chúng ta có thể ở như vậy cả đời thì hay biết mấy a." 

"Ừ...!" Dương Thu Trì một mặt ôm nàng, một mặt thúc ngựa lên trên. "Ta cũng rất muốn ở với nàng như vậy cả đời, nhưng mà.." 

"Không không...! Không được nói..." Liễu nhược Băng chuyển người, dựa đầu vào vai hắn, "Băng nhi biết chỗ khó xử của chàng...." 

Dương Thu Trì ôm nàng thật chặt, thủ thỉ: "Băng nhi... Thu Trì đối không phải với nàng..." 

"Không, đây đều là số mệnh..." Liễu Nhược Băng ứa lệ nói. "Băng nhi bất quản chàng là ai, nhưng chàng hiện giờ là của thiếp, lại còn cấp cho Băng nhi một em bé có thể nương nhờ, Băng nhi còn có gì mà không vừa ý nữa chứ..." 

"Băng nhi!" Lòng Dương Thu Trì muốn nát ra, ôm chặt nàng, hôn lên trán nàng, "Chờ sự tình này xong rồi, cùng ta về nhà, được không? Ta sẽ yêu thường cho nàng, chăm sóc cho nàng." 

Liễu Nhược Băng thở dài: "Thiếp là sư phụ của vân nhi a, hai chúng thiếp không thể đồng thời..." 

"Vì sao không thể? Hai người không có quan hệ máu mủ gì, hai người chỉ là sư đồ trên danh nghĩa võ học, vì sao sư phụ và đồ đệ không thể cùng lấy một nam nhân? Vì sao? Ai quy định vậy? Quy định như vậy dù có cũng chẳng có đạo lý gì!" 

Liễu Nhược Băng nói với giọng rất thảm não: "Chúng ta có thể là nhận thấy như vậy, nhưng không thể nào làm cho người khác cho rằng như vậy. Người khác sẽ ở sau lưng chàng chỉ chỉ điểm điểm mà nói, chàng làm quan cho triều đình, danh dự làm quan là trọng yếu nhất..." 

"Không!" Dương Thu Trì thốt, "Ta không làm quan nữa, ta mang theo các nàng, chúng ta sẽ đến một nơi không ai nhận thức chúng ta!" 

"Thu Trì..." Liễu Nhược Băng hạnh phúc nhắm mắt lại dựa vào lòng hắn, cảm giác thân thể có lực và kiên cường của Dương Thu Trì đủ để nàng dựa dẫm vào vượt qua mọi khốn nan. 

Thật lâu sau đó, Liễu Nhược Băng vẫn lắc đầu: "Không thể được..." 

"Vì sao?" Dương Thu Trì gấp lên. 

"Thiếp... thiếp làm không được....," Liễu Nhược Băng lắc đầu, sụt sùi nói, "Thiếp vẫn không thể nào ở cùng thê thiếp của chàng như vậy, ở một mình trong phòng trống đếm đầu ngón tay chờ chàng đến... thật xin lỗi..." 

Cõi lòng Dương Thu Trì tan nát và trầm hẳn xuống, ở vấn đề này, hắn không biết là phải thuyết phục Liễu Nhược Băng như thế nào. 

Liễu Nhược Băng lau sạch lệ trên mắt, gượng cười: "Được rồi, chúng ta không nói những thứđó nữa. Chàng nhìn xem tuyết sơn nơi xa đó thật đẹp, rất giống như những cây bông vải vậy." 

"Đúng a, thật là đẹp!" Dương Thu Trì thuận mắt nhìn. Hai người không nói đến chuyện đó nữa, từ từ cao hứng trở lại, dựa vào nhau vừa giục ngực tiến lên, vừa hân thưởng phong cảnh dọc đường, nói cười luôn miệng. 

Chỉ có điều, trong lòng của Dương Thu Trì nặng trình trịt. Hắn thật không biết làm thế nào để hóa giải cái nút thắt này. 

Ba thời thần sau, bọn họ cuối cùng cũng lên được đỉnh của Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn.

Sơn đỉnh thập phần bằng phẳng, trung gian có một ngôi chùa vách dát vàng nguy nga tráng lệ. Trên trời mây đen bao phủ, âm phong từng trận thối lên mái vàng của chùa khiến nó lung lay phần phần. 

Liễu Nhược Băng nói: "Chúng ta đến rồi, đây chính là chùa của Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn Đế Lạc Quán Đỉnh pháp vương." 

Khoảng không trước chùa đã đứng đầy người mình mặc trang phục lạt ma, hai bên có treo mấy cái kèn dài tới đất. Mấy lạt ma bụng to eo rộng đang trùng mang trợn má thổi pháp hiệu, phát ra những tiếng u u chấn động đất trời. 

Hai hàng lạt ma ở giữa đang hướng về mấy người Dương Thu Trì chấp tay thi lễ. 

Tảo hồng mã chuyển qua lại vài vòng rồi mới dừng lại. Dương Thu Trì nhảy xuống ngựa trước, sau đó đỡ Liễu Nhược Băng xuống. 

Tống Vân Nhi đã xuống ngựa, bước lại đỡ Liễu Nhược Băng. 

Hai hàng lạt ma ở giữa đồng thanh tuyên phật hiệu, chậm bước tiến lên, nhất tề chấp tay thi lệ. 

Ở giữa họ là một lão lạt ma, tuổi khoảng sáu mươi, đầu to tai lớn, cổ có ba ngấn, nhìn rất giống với một cái dưa hấu lớn đặt trên cái chum nước. Da thịt của ông ta đen thùi, miệng hơi vênh lên, đôi mắt tam giác phát ra hàn quang, bụng to eo rộng, khi chấp tay thi lễ thì mười ngón tay hợp lại giống như cái chùy vậy. 

Lão lạt ma mập này dùng tiếng Hán rất thông thạo cúi người nói: "Lão nạp Đế Lạc ra mắt Dương tước gia, tước gia từ xa đến đây, dọc đường ắt là cực khổ lắm." 

Cái chum nước to này thì ra là đệ nhất cao thủ đại danh đỉnh đỉnh của Đóa Cam, trụ trì của Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn, được hoàng thượng phong thành Quán Đỉnh pháp vương Đế Lạc? Thì ra là lão có dáng vẻ thế này, ha ha, thật là nghe danh không bằng mắt thấy, mắt thấy càng không như nghe danh a, ha ha. 

Dương Thu Trì cười thầm, nhưng trên mặt không hề lộ vẻ gì, cũng trả lại một lễ, nói: "Đa tạ pháp vương, bổn quan không thỉnh tự đến, rất mong pháp vương thứ tội." 

"Tước gia nói lời gì vậy." Đế Lạc chấp tay nói, "Tước gia một thân tôn quý, có thể khuất tất quang lâm nơi này, là nễ mặt cho lão nạp lắm rồi a. Tước gia, thỉnh!" 

Dương Thu Trì và Đế Lạc sánh vai vào miếu, Tống Vân Nhi đỡ Liễu Nhược Băng đi bên cạnh. 

Đến đại hùng bảo điện, họ phân chủ khách ngồi, được dâng lên trà thơm. 

Hàn huyên mấy câu, Dương Thu Trì bắt đầu hỏi: "Thỉnh vấn pháp vương có bao nhiêu đệ tử dưới trướng?" 

Đế Lạc khiêm tốn hồi đáp: "Lão nạp tổng cộng có sáu vị đệ tử, nhưng không biết tước gia vì sao lại hỏi như vậy?" 

Dương Thu Trì đáp: "Pháp vương võ công cao tuyệt, hào xưng là Đóa Cam đệ nhất cao thủ, sư đồ của xá muội định đến thỉnh giáo một chút, bổn quan thuận tiện đến xem náo nhiệt luôn." 

Trong khóe mắt của Đế Lạc phóng ra một tia lạnh lùng, quét về phía Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi, tiếp theo đó cụp mắt chấp tay nói: "Tước gia, đó chỉ là chuyện xưa kia vùi chôn trong cát bụi thời gian rồi, những năm nay lão nạp thành tâm lễ phật, lúc còn trẻ học được chút công phu mèo quào, hiện giờ đều đã quên gần hết rồi." 

"Chẳng thể nào đâu a." Dương Thu Trì cười cười, "Vừa rồi dưới núi, đại đồ đệ của ngài còn cùng xá muội qua lại mấy chiêu, chiêu thức quái dị, xá muội suýt chút nữa thua thiệt. Bổn quan đối với môn võ công này cảm thấy rất hứng thú." 

Đế Lạc đưa mắt liếc nhìn Cường Ba, thấy y đỏ mặt, lộ vẻ chán nản vô cùng, biết là bỉ võ đã thua rồi, không khỏi hừ lạnh, nhưng khi chuyển gương mặt béo phì ra thì lại cười rất tươi, dùng con mắt tam giác nhìn Dương Thu Trì hỏi: "Tước gia từ xa đến đây, chỉ sợ không phải chỉ giản đơn là xem náo nhiệt không thôi a?" 

"Quả thật là không phải." Dương Thu Trì lười chơi trò vòng vo với ông ta, hỏi: "Thì là thế này, bổn quan đang phá một án, phát hiện hung thủ sử dụng thủ pháp giết người rất giống với chiêu thức quái dị của quý phái, đương nhiên, bổn quan tin rằng các đệ tử dưới trướng của Pháp vương tuyệt không thể là loại người như vậy. Bổn quan chỉ muốn đến tra hỏi một chút, xem coi không biết có tục gia đệ tử đạo đức hư hỏng nào học được môn công phu này đã làm chuyện đó hay không." 

Đế Lạc ồ lên một tiếng, ngẫm nghĩ xong rồi lắc đầu: "Tước gia nói về công phu gì, lão nạp vẫn còn chưa rõ?" 

Tống Vân Nhi là người nóng tính, đứng dậy đến ngay giữa tràng, rút binh khí ra làm mẫu một chiêu. Chiêu này Liễu Nhược Băng đã từng mô phỏng diễn thử cho nàng xem, và khi đấu ở dưới núi, Cường Ba cũng đã từng sử dụng qua, cho nên nàng nhớ rất kỹ, chỉ có điều nàng không có loại nội lực quái dị kia, nên chỉ có thể chầm chậm diễn lại một cách vô lực mà thôi. 

Đế Lạc gật đầu: "Nếu như chiêu thức này có quan hệ rất lớn với chuyện tra án của tước gia, lão nạp cũng không dám ẩn man. Đây đích xác là độc môn tuyệt kỷ của phái ta. Không có lão nạp tự thân dạy cho nội lực làm cơ sở, thì biết chiêu thức cũng không dùng vào được việc gì. Nội lực này vô cùng khó luyện, trong sáu vị đệ tử đích truyền của ta, chỉ có bốn vị là học được mộn tuyệt kỹ này, nhưng đệ tử và tăng chúng khác đều không thể, càng không có tục gia đệ tử học qua mônvõ công này." 

"Vào ngày 3 tháng 11, bốn vị đệ tử có món võ công đó của pháp vương ở đâu?" 

Đế Lạc không hề nghĩ ngợi gì đáp: "Tháng tám năm nay, lão nạp dẫn sáu vị đệ tử vân du trở về núi, rồi không rời khỏi thần sơn một bước, nhất trực cho đến hôm nay." 

Sự hồi đáp của Đế lạc dường như đã nằm trong dự liệu của Dương Thu Trì. Hắn chỉ mỉm cười gật đầu, dường như không hề cảm thấy thất vọng gì. 

Liễu Nhược Băng nghe Dương Thu Trì hỏi xong lời này, bấy giờ mới khai khẩu: "Pháp vương, ta đặc biệt tìm đến pháp vương để trao đổi võ công, thỉnh không tiếc mà chỉ dạy cho." 

Đế Lạc mục quang như điện, lạnh lùng nhìn Liễu Nhược Băng: "Ngươi là ai?" 

Liễu Nhược Băng điềm đạm đáp: "Tính danh chỉ là một cái phù hiệu mà thôi, ta không tưởng tranh danh hiệu gì, chỉ là để trao đổi ấn chứng một chút sở học võ công của bản thân. Nghe nói ngươi là Đóa Cam đệ nhất cao thủ, cơ hội khó kiếm, xin thỉnh xuống tràng chỉ dạy cho." 

Đế Lạc lắc đầu: "Tôn giá thân mang lục giáp, sắp sửa lâm bồn, động tay chân sẽ thương thai khí, như vậy là tội nghiệt của lão nạp." 

Liễu Nhược Băng năm xưa khiêu chiến chưa từng lên tiếng, gặp mặt là đánh, đánh đến lúc chánh chủ ra mặt. Nhưng lần trước không gặp được Đế Lạc, nhất mực tiếc rẻ, cả đời nàng si mê võ học, lúc này tuy đã hoài thai, nhưng nàng là người tài cao gan lớn, không hề sợ sệt. Nàng trước giờ tiếc lời như vàng ngọc, nên từ từ đứng lên bước ra tràng, tay thon lật ngang, trong chưởng tâm đã có một lưỡi dao ngắn. Nàng điềm tĩnh nói: "Pháp vương không cần nhiều lời, hôm nay ngươi không đánh cũng phải đánh, ngươi muốn không động thủ, ta cũng sẽ động thủ." 

Đế Lạc Pháp vương lạnh lùng hỏi: "Cô nương làm vậy là bức lão nạp rồi?" 

"Động thủ thôi! Điểm đến rồi ngưng cũng được, không chết không ngừng cũng được, mọi chuyện cứ theo tôn giá." 

Dương Thu Trì tuy biết Liễu Nhược Băng võ công cao tuyệt, thế gian không có người có thể địch, nhưng trong lòng vẫn lo cho hài tử trong bụng Liễu Nhược Băng, len lén vén y bào, định chủ ý trong lòng, chỉ cần Liễu Nhược Băng có nguy hiểm, nói không chừng hắn sẽ ra tay rút súng hạ luôn tên mập như cái thùng phuy này, chứ không thể để Liễu Nhược Băng có chút xíu tổn thất nào. 

Đế Lạc pháp vương vô hai bàn tay mập lại mấy cái, lập tức từ hậu đường có hai người bước ra, hai tay cầm hai món vũ khí. Dương Thu Trì vừa nhìn, tức thời giận nãy mình, vì thì ra hai người này đang ôm trong lòng mỗi người một cái chùy đồng to như trái dưa hấu. 

Chùy đồng thường chỉ dùng trên chiến trường để đối trận đánh sáp lá cà, trong võ lâm rất ít người dùng món đồ chơi này, vừa chiếm quá nhiều chỗ vừa rất khó mang theo. 

Nhưng mà, nhìn thấy chùy đồng này rồi, lòng Dương Thu Trì trầm ngay xuống. Hai người đó khi ôm ra, có thể đoán được mỗi chiếc chùy nặng ít nhất tám chục cân. Nếu như tuột tay, trên mặt đất nhất định sẽ bị đập thủng một lổ lớn. Liễu Nhược Băng có võ công sử dụng nhanh nhẹn lẹ làng làm ưu điểm, nhưng nàng hiện đang mang thai, không có khả năng nhảy tránh khắp trường, một khi đã dùng sức đối địch, khẳng định là sẽ thua thiệt. 

Dương Thu Trì vội kêu lên: "Băng nhi, thân thể nàng hiện không tiện, hay là chúng ta sau này hẳn đến." 

Liễu Nhược Băng xoay đầu nhìn hắn một cái, cười ngọt ngào: "Không sao đâu, lão không làm hại được ta đâu." 

Câu nói này vô cùng tự tin, khiến cho thất khiếu của Đế Lạc Pháp vương bốc khói. Lão tiếp lấy chùy đồng, đập hai cái vào nhau, tạo ra một tiếng binh cực lớn, chấn cho màng tai mọi người điếc đặc. Tiếp theo đó lão kêu oa oa lên cực lớn, vung đồng chùy đập vào đỉnh đầu Liễu Nhược Băng. 

Liễu Nhược Băng bước né sáng một bên, đồng chuy gần như đánh trúng vai nàng, cũng vừa lúc một chùy nữa đánh tới ngực. Liễu Nhược Băng lại hơi lách người, đồng chuy lại vụt sát qua người trong gang tấc. 

Cứ như vậy, đồng chuy của Đế Lạc pháp vương múa như gió, liên tiếp phóng đánh tới Liễu Nhược Băng. Liễu Nhược Băng trước sau chỉ lách người, hoặc bước tránh đi một bước, thì có thể tránh thoát cú đánh dù chỉ một chút xíu. Thanh đoản kiếm trong tay nàng nhất mực không xuất thủ. 

Đế Lạc pháp vương kêu oa oa, thân hình lăn tròn như bánh xe, lăn tới lăn lui xoay loạn quanh Liễu Nhược Băng, chùy đồng trong tay vù vù như gió cuốn. Chớp mặt một trăm hiệp đã trôi qua, không, chuẩn xác mà nói, thì tự mình lão đã đánh ra hơn trăm chiêu, trong khi Liễu Nhược Băng chưa hoàn trả chiêu nào. 

Nhưng Dương Thu Trì cuối cùng vẫn phát hiện sống mũi Liễu Nhược Băng có những giọt mồ hôi nho nhỏ. Rất hiển nhiên là Liễu Nhược Băng đang rất khẩn trương. Nàng mang thai trong người, động tác không dám thực hiện quá mạnh, nhất mực tránh né quan sát sơ hở của đối thủ, hi vọng có thể một chiêu chế địch. Trong khi đó võ công của đối phương rất cao, nàng không tìm được cơ hội như vậy. 

Cứ tiếp tục như vậy hồi lâu, Đế Lạc xem ra chẳng có dấu hiệu mệt nhọc gì. Loại đối kháng cường độ cao này đối với Liễu Nhược Băng có uy hiếp quá lớn, Liễu Nhược Băng hiểu rõ điều đó. Nàng cảm thấy hài tử trong bụng đang loạn động, không khỏi thầm kêu khổ, ngầm cầu khẩn: bảo bối, lúc này còn ngàn vạn lần đừng loạn động quẫy đạp nha, chờ mẹ đánh bại cái lu nước này, rồi con muốn sao cũng được a! 

Liễu Nhược Băng một tay ôm bụng, một tay cầm kiếm, nhíu mày và nhanh chóng tránh né. Đế Lạc pháp vương chẳng hề có ý thương hương tiếc ngọc, đánh tới như điên, gào thét điên cuồng, đồng chùy càng múa càng khẩn. 

Dương Thu Trì vô cùng khẩn trương, tay đã nắm lấy cán súng dưới chân, len lén lên đạn. Nhưng Đế Lạc cứ quay cuồng lăn lộn như con lừa mập, xoay chuyển quanh Liễu Nhược Băng, không tiện bóp cò, vì có thể sẽ bắn trúng Liễu Nhược Băng. 

Chính vào lúc khẩn cấp đó, Liễu Nhược Băng cảm thấy ở bụng có từng trận co bóp có tiết tấu có quy luật, ngầm kêu một tiếng không xong. Dấu hiệu này chỉ sợ là sắp sanh đến nơi. Hài tử này thật là, không ngờ lại chọn ra đời vào lúc này! 

Liễu Nhược Băng chỉ biết cắn chặt hàm răng trắng, nạt một tiếng, liền nghe hai tiếng "kinh cong", song chùy của Đế Lạc bị Liễu Nhược Băng chém một kiếm bay đi, đạp mạnh vào tượng bồ tát ở phía sau, đầu và nửa người của bồ tát bị đánh bay, nhất thời bụi bay mịt mù. 

Thanh đoản kiếm trong tay chỉ vào yết hầu của Đế Lạc, mũi kiếm rung rung. 

Đế Lạc trầm mặt: "Cô nương hảo công phu, lão nạp không phải là đối thủ."

Liễu Nhược Băng một tay ôm bụng dưới, một tay triệt hồi đoản kiếm, trên trán ứa ra từng giọt mồ hôi như hạt đậu. 

Thấy Liễu Nhược Băng đã giành được phần thắng, Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi vừa cao hứng vừa cả kinh, vội vã bước lên đỡ Liễu Nhược Băng. Dương Thu Trì hỏi nhanh: "Băng nhi, nàng sao vậy? Ổn không?" 

Mặt Liễu Nhược Băng tái nhợt, đưa tay ôm bụng, mày nhăn lại, không nói được câu nào. 

Thì ra, vừa rồi Liễu Nhược Băng cảm giác bụng dưới đau nhói, vừa đúng với dấu hiệu sắp sinh em bé, biết là không thể kéo dài, nên bất đắc dĩ phải chụp lấy một chỗ hở của Đế Lạc, vận đủ mười thành công lực, một kiếm chém đứt song chùy của Đế Lạt. Bất quá, chính vì cú va chạm này, phúc bộ của nàng lập tức đau đớn hơn, bắt đầu co bóp có quy luật. Liễu Nhược Băng cắn chặt răng, nói nhỏ: "Thu Trì, đỡ ta đi, e là sắp sanh rồi!" 

Dương Thu Trì vừa kinh vừa mừng, chấp tay xá xá Đế Lạc, rồi không kịp nói gì, cùng Tống Vân Nhi mỗi người một bên đỡ Liễu Nhược Băng đi ra khỏi đại hùng bảo điện. 

Vừa đi ra cửa lớn, cả hai người lập tức ngẩn ra, thấy trước đại hùng bảo điện đứng đầy lạt ma tay cầm giới đao. Ngoài ra còn có một hàng giương cung lắp tên, nhắm về phía họ. 

Ba người Dương Thu Trì chuyển người lại, thấy sau lưng bước ra sáu lạt ma tay cầm đoản kiếm, những đoản kiếm đó ở giữa có huyết tào, vô cùng âm sâm, mũi kiếm chỉ về phía ba người họ. 

Dương Thu Trì dường như không hề bất ngờ, lạnh giọng hỏi: "Đế Lạc, ngươi làm vậy là có ý gì?" 

Đế Lạc cười hắc hắc hỏi lại: "Ngươi cho là làm gì?" 

"Ngươi định giết chúng ta?" 

Một lạt ma ở cạnh Đế Lạt cười lạnh tiếp lời: "Đúng vậy! ngươi giết quá nhiều huynh đệ của chúng ta, hôm nay phải dùng đầu lâu của ba ngươi tế điện các vị huynh đệ!" 

Dương Thu Trì tử tế nhìn vị lạt ma này, là một trung nhiên lạ mặt, buột miệng hỏi: "Ngươi là Kiến Văn dư đảng hay là người của thuyền bang?" 

Ha ha ha, Đế Lạt và Lạt Ma đó đều cười. Lạt ma ấy từ từ cởi mũ ra, lạnh lùng nói: "Bỉ nhân họ Dương, tên là Ứng Năng. Dương tước gia có nhớ ra không?" 

"Dương Ứng Năng? Ngươi là một trong ba vị đại thần theo Kiến Văn bỏ trốn - Ngô vương giáo thụ Dương Ứng Năng? Ngươi là một trong ba vị tổng đại đầu mục của Kiến Văn dư đảng Dương Ứng Năng?" 

"Hắc hắc, đúng là tại hạ." 

"Cẩm y vệ truy lùng khắp tứ xứ, thủy chung vẫn không tìm thấy tông tích của ngươi, thì ra ngươi trốn đến đỉnh tuyết sơn chó ăn đá gà ăn muối này! Ngươi được che chở trong miếu của Đế Lạc. Đế Lạc dung thần sơn quỷ thoại, cấm ngặt người khác lên núi, cho nên mới khiến ngươi sống dật dờ tới ngày hôm nay." 

Dương Ứng Năng chẳng tức giận gì, cười ha ha nói: "Không sai, chúng ta ẩn tàng ở nơi này, chính là vì đợi ngày quật khởi trong tương lai. Mấy lần ám sát đều bị ngươi đào tẩu, ngươi quả thật là lớn mạng. Nhưng mà lần này chỉ sợ ngươi có cánh cũng không thể bay được!" 

Dương Thu Trì cười lạnh: "Ngươi không cảm thấy các ngươi cao hứng quá sớm hay sao?" 

Đế Lạc và Dương Ứng Năng đều biến sắc, trầm giọng hỏi: "Lời này là sao?" 

"Ha ha, các ngươi không biết dùng biện pháp gì mà kéo Ngô Xảo Trinh xuống bùn, để nàng ta thuyết phục cha mình là bố chánh sứ Ngô đại nhân thống qua biểu thức Bành Hạ Hỉ viết thừ mới ta đến Ân Dương trấn, sau đó Ngô Xảo Trinh gửi cho nha hoàn Thúy Hoàn một phong mật thư, ra lệnh cho ả bắt cóc ái tử của Thủy Uyển Kỳ, bức nàng ta hạ độc cho ta chết. Âm mưu bại lộ, các ngươi giết Ngô Xảo Trinh diệt khẩu. Lần này, các ngươi biết ta sẽ đến Thành Đô tra án Ngô Xảo Trinh, sẽ được đằng chân lân đằng đầu, thuận theo đầu mới mà truy tiếp, do đó các ngươi bày ra kế này dẫn ta vào tròng." 

Dương Ứng Năng lộ vẻ tán thưởng nhìn Dương Thu trì: "Vậy à? Kế mưu à? Chúng ta đã bày ra kế mưu gì?" 

"Các ngươi cố ý dùng chiêu số chỉ có đệ tử của Quán Đỉnh pháp vương Đế Lạc gì này giết chết Ngô Xảo Trinh, một là để diệt khẩu, hai là để thiết kế một mồi nhử. Nhưng các ngươi lo lắng mồi này không đủ phân lượng, nên đã đem con trai của Mi châu tri châu Phương Tiệm dùng cùng một phương pháp giết chết. Làm như vậy, khản định là sẽ dẫn đến sự chú ý của ta. Bên người ta có một cao thủ võ công cao tuyệt, các ngươi nhất định là biết chuyện này, và cho rằng nàng ta khẳng định là nhìn ra lai lịch của thủ pháp giết người ấy, sẽ hấp dẫn chúng ta lần theo dấu vết lên đến Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn này. Các ngươi mai phục ở đây, chờ chúng ta cắn câu. Đúng không?" 

Dương Ứng Năng vỗ tay: "Thông minh! Hèn gì thiên hạ đều đồn Dương tước gia phá án như thần, thiệt đúng là cũng có bản lãnh." 

"Quá khen rồi, chẳng qua là bản lãnh của ta còn chưa đủ lớn, chí thiểu ta còn chưa biết sát thủ đó là ai." 

Dương Ứng Năng cười: "Thôi được, để ngươi làm tên quỷ minh bạch cũng hay. Đế Lạc pháp vương đích xác là có một tục gia đệ tử biết được pho kiếm pháp quái dị này, đang sống ở Thành Đô, còn về chuyện kẻ đó là ai, thì chờ đầu lâu của ngươi nằm ở trên bàn thờ rồi, ta nhất định sẽ cho ngươi biết. ha ha ha, ha ha ha ha." 

Tống Vâng Nhi tức giận: "Nằm mộng! Để coi đầu của ai đặt lên bàn thờ! Nhưng mà, phản tạc của ngươi không có cơ hội đó đâu, ngươi sẽ bị lăng trì lóc thịt từng đao, từng đao một cho đến chết!" 

Đế Lạc pháp vương cười hì hì, mặt nhơn nhơn nói: "Nếu như cô nương thích lăng trì như vậy thì cũng tốt, chờ đến lúc chúng ta bắt được cô nương, tự nhiên sẽ lột truồng cô ra hết, trước hết cho đồ tôn Gia Thố của ta hưởng dụng, vì nó rất thích cô, sau đó sẽ đem cô trói ở giữa thao trường, dùng từng đao từng đao xẻo thịt cô!" 

Vút.... vút..! Tống Vân Nhi bắn ra mấy mũi phi đao, lấp lánh bay về phía Đế Lạc. Khi vừa bay tới trước mặt, thân hình Đế Lạc bất động, tay phất ra, mấy mũi phi đao bị cuốn vào ống tay áo của lão. Đế Lạc và Dương Ứng Năng ha hả cười lớn. 

Tống Vân Nhi còn định động thủ, bị Dương Thu Trì kéo lại, lắc lắc đầu, sau đó hỏi Dương Ứng Năng: "Ngươi không phải để ta chết một cách minh bạch hay sao? Vậy ngươi có thể cho ta biết, các ngươi vì sao mà chọn giết Phương Tiệm hay không?" 

Dương Ứng Năng cười cười: "Thôi được, cho ngươi biết cũng không hề gì, vào tối hôm đó, sát thủ của chúng ta ở phòng của Ngô Xảo Trinh bị Phương Tiệm gặp được. Sau đó Phương Tiệm tức giận bỏ đi. Sát thủ sau đó giết chết Ngô Xảo Trinh. Phương Tiệm này đã nhìn thấy thứ không nên nhìn thấy, do đó hắn phải chết, và ngày hôm sau hắn chết thật." 

Dương Thu Trì mỉm cười: "Ta đã biết hung thủ là ai rồi." 

Đế Lạc và Dương Ứng Năng đưa mắt nhìn nhau, hơi bất ngờ, Đế Lạc hỏi: "Vậy sao? Tước gia thông minh như vậy à, vậy hãy nói coi vị tục gia đệ tử của ta đó là ai?" 

Dương Thu Trì càng cười hoan hỉ hơn: "Chờ đầu của ngươi phóng lên bàn thờ ở đằng sau kia, ta sẽ nói cho ngươi biết!" 

Đế Lạc hừ lạnh một tiếng: "Chết đến nơi rồi mà còn ngông cuồng. Đừng có nói là ngươi còn hi vọng sản phụ sắp sửa lâm bồn này chửng cứu nhà ngươi phỏng?" 

Dương Thu Trì nghiêng mặt nhìn Liễu Nhược Băng, thấy nàng nhíu mày, mồ hôi lạnh trên trán chảy đầy, nhịn không được lo âu hỏi: "Băng nhi, thế nào rồi?" 

Liễu Nhược Băng gật gật đầu, không lên tiếng. 

Dương Thu Trì cùng Tống Vân Nhi đối mắt nhìn nhau, sau đó hắn chuyển đầu cười nói: "Đế Lạc, đầu của ngươi to như vậy, chẳng lẽ trong đó chỉ nhét toàn là phân không sao? Ngươi dùng quỷ thoại thần sơn, chỉ để ba người chúng ta lên núi, muốn chia ra để diệt. Điều này đã bạo lộ dã tâm lang sói của ngươi. Nếu như ta đã nhìn thấu là các ngươi đang bày trò, ta sẽ mắc câu sao? Ha ha ha." 

Dương Ứng Năng mỉm cười: "Như vầy chẳng phải là ngươi đã mắc câu rồi hay sao?" 

"Các ngươi bày ra một cái bẫy để nhở ta mắc câu, vậy ta cứ mắc câu để đến coi coi rốt cuộc ngư phu là kẻ nào mà phí quá nhiều công sức để bày kế câu ta như vậy. Kẻ này nhất định phải là có thâm cừu đại hận với ta. Và kẻ muốn lấy mạng của ta đó hả, hà hà, chỉ thuộc hai dạng người: hoặc là Kiến Văn dư đảng, hoặc là Thuyềnbang. Và hai nhóm người này chính là kẻ ta muốn tìm. Do đó, ta dù biết rõ trên núi có hổ, thế mà vẫn cứ lên!" 

Đế Lạc và Dương Ứng Năng hơi biết sắc. Đế Lạc lạnh giọng hỏi: "Lên rồi thì kết quả làm sao? Vẫn chẳng phải là hổ xuống đồng bằng bị chó...." Nói đến đây, lão phát giác dùng câu này không ổn, thần tình hơi bối rối. 

"Ha ha ha, không sai, hổ xuống đồng bằng bị đàn chó hoang các ngươi khi dễ! Nhưng mà, các ngươi còn chưa đủ tư cách khinh khi lão hổ ta đây, nhân vì ta mang theo chính là một quần mãnh hổ!" 

"Ha ha, một quần mãnh hổ, ở nơi nào...?" Lão dỏng tai nghe, ở dưới núi ẩn ước có tiếng hò hét chém giết, sắc mặt hai người đều biến hẳn. 

Chính vào lúc này, chợt nghe mấy tiếng vút vút nhè nhẹ. Liễu Nhược Băng vẫy tay bắn ra mấy mũi liễu diệp phi tiêu, bắn nhanh về phía Đế Lạc. Cùng lúc đó, Tống Vân Nhi cũng chuyển thân, mấy mũi phi tiêu bắn về phía các cung tiễn thủ ở ngoài điện. 

Tiếng kêu thảm cất lên, mấy cung tiễn thủ ngoài điện ngã xuống. Trong điện, Gia Thố nhất mực giương con mắt tặc nhìn Tống Vân Nhi cùng hai đệ tử võ công yếu nhược của Đế Lạc cũng trúng tiêu ngã vật ra đất mà chết. Còn lại Đế Lạc, Cường Ba và mấy đệ tử còn lại gạt văng. Liễu Nhược Băng không phóng tiêu về phía Dương Ứng Năng, muốn lưu nhân chứng sống. 

"Phóng tiễn!" Đế Lạc rống lên. 

Cùng lúc này, Liễu Nhược Băng và Tống Vân Phi cùng một lượt lấy ra phi trảo, chụp lấy lan can lầu hai của đại hùng bảo điện. Liễu Nhược Băng tay trái nắm giữ Dương Thu Trì, chụp phi thằng vận kình vào tay phải, vẫy mạnh tay, hai người đằng vân giá vụ bay lên lầu hai. Tống Vân Nhi cũng lập tức bám theo. Tiếp theo đó, tên bay như châu chấu bắn vào chỗ không người, cắm cả đầy thân hình các tượng bồ tát. 

Đại hùng bảo điện của Phật giáo Tây tạng có hai tầng, phía dưới là đại điện, có hành lang gấp khúc hơi cao hơn các tượng bồ tát ngồi để cho hương khách có thể tung khăn ha-da (Chú: loại khăn dệt bằng tơ lụa của người Tạng và một số người Mông Cổ ở Trung Quốc, dùng để tăng nhau khi gặp mặt, tỏ ý kính trọng và chúc mừng nhau, hoặc dùng trong các buổi lễ tế thần) cung phụng. 

Dương Thu Trì, Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi lúc ở Thành Đô đã bàn với nhau có khả năng tồn tại một cái bẫy, cuối cùng quyết định mạo hiểm thử. Bọn họ phân tích nhiều khả năng, và cũng đã chuẩn bị chu đáo. Lần này chính là tương kế tựu kế, muốn dẫn mãng xà xuất động phải tự xuất động tiểu xà trước. 

Do đó, khi Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi lên đến đỉnh núi, đã đem hoàn cảnh của các chùa miếu ở đây thu hết vào tầm mắt. Khi đến đại điện, nhìn thấy hành lang cong ở tầng hai, Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi trao nhau ánh mắt, đã xác định được một khi dẫn dụ cho địch nhân xuất động thành công, thì cũng chuẩn bị cho mình phương án rút lui. 

Liễu Nhược Băng quét mắt nhìn hành lang cong: "Bên đó!" Ba người chuyển đến một thang gác bằng gỗ, "Lên!" Liễu Nhược Băng kêu lên. 

Dương Thu Trì không chần chờ, cùng Tống Vân Nhi chạy lên cầu thang. Liễu Nhược Băng huy đoản kiếm chém vài cái, cầu thang gỗ đứt thành mấy đoạn. Liễu Nhược Bang phi móc bay lên cửa cầu thang. Tống Vân Nhi chụp được kéo lên, Liễu Nhược Băng tá lực bay lên đỉnh lầu. Hai người phối hợp vô cùng ăn ý. 

Đây là nơi cao nhất của chùa này, là một bình đài rộng hơn nửa sân bóng rổ, cũng chính là chổ tối cao của Niên Bảo Ngọc Tắc Thần sơn. Xung quanh đều là quần sơn tuyết trắng xóa thần phục dưới chân. Đứng ở nơi này quả thật có cảm giác hào sảng của một vị quân lâm thiên hạ. 

Chỉ có điều, giờ phút này ba người họ không có rảnh đâu và hân thưởng mỹ cảnh vô biên này. Liễu Nhược Băng vừa lên đến bình đài, lập tức rên rĩ nằm gục xuống đất. Dương Thu Trì quỳ xuống ôm nàng, không biết nên thế nào cho phải.

Tống Vân Nhi đóng cửa cầu thang lại, vừa quay mạt đã thấy tường vây bình đài có mấy tòa điêu tượng động vật bằng đồng xanh, huy kiếm chém đứt chân, ôm lại tấn vào cửa cầu thang. Nàng chèn một lúc mấy tượng, tổng cộng phải nặng nghìn cần, vậy Đế Lạc cho dù có thần lực trời sinh, cũng không có cách gì bay lên phá mở. 

Tống Vân Nhi thở phì phò, chạy tới quỳ xuống hỏi: "Sư phụ! Thế nào rồi?" 

"Hài tử sắp ra đời rồi..." Liễu Nhược Băng thống khổ rên rĩ. 

Lúc này, liền nghe dưới lầu có tiếng chân bước tạp loạn và những tiếng Tạng nói lí xô lí xào gì đó với nhau. Tiếp đó, ở cửa cầu thang phát xuất mấy thanh chấn động lớn, đám tượng đồng động vật chèn ở đó hơi chấn động một chút, nhưng người ở dưới lầu không mở ra được cổng này, lại tiếp tục ồn ào tạp loạn. 

Dương Thu Trì ngước mắt, nhìn thấy bình đài trống trãi này không ngờ có một phòng ở thấp bằng đầu người, liền ẵm Liễu Nhược Băng tiến vào căn phòng nhỏ đó. 

Phòng này chẳng có thứ gì, Dương Thu Trì chỉ biết đặt Liễu Nhược Băng nằm xuống đất. Tống Vân Nhi đưa đoản kiếm của Liễu Nhược Băng cho Dương Thu Trì, kêu lên: "Ca, huynh ra ngoài canh chừng, muội tiếp sanh cho sư phụ." 

"Được!" Dương Thu Trì chuyển thân ra cửa, Tống Vân Nhi đóng cửa phòng lại, liền nghe Liễu Nhược Băng rên lên thống khổ, đợt sau cao hơn đợt trước. 

Dương Thu Trì thò tay vào lòng, móc ra pháo bông, đánh đá lửa mồi đường dẫn, liền nghe xuy một tiếng, pháo bông bay lên trời đầy mây đen, nổ ra một đóa hoa đủ màu cực đẹp. 

"Ha ha, Dương tước gia, ngài hiện giờ phóng tín hiệu cũng vô ích thôi! Người của chúng ta đã chờ sẳn bọn hộ vệ của người ở dứoi núi rồi, ha ha ha." Dương Ứng Năng, Đế Lạc và mọi người đứng dưới quảng trường cười điên dại. Quảng trường dầy đặc lạt ma tăng binh. 

Lòng Dương Thu Trì trầm lại, hèn gì trên sơnđỉnh này chỉ toàn thấy lạt ma tăng binh, ngoại trừ Dương Ứng Năng ra, không phát hiện được người của Kiến Văn dư đảng nào. Thì ra là chúng đã chờ ở lưng chừng núi, phục kích ngăn chặn viện binh của hắn. 

Chỉ có điều, Dương Thu trì lần này có chuẩn bị mà đến, do đó hắn với viện binh của mình rất có lòng tin. 

Do tòa Niên bảo Ngọc Tắc sơn chủ phong này đều là đá và chỉ có một ít đất, trong phương viên trăm dặm không có cây cối, cho nên ngôi chùa này đại bộ phận làm từ đá ma ra, chỉ cần chiếm cứ kim đỉnh sẽ dễ thủ khó công. Kế hoạch dẫn xà xuất động của bọn hắn chính là muốn trong ứng ngoại hợp, chờ đợi viện binh tới rồi đánh thốc ra. Không ngờ vào lúc này thì em bé lại sắp sinh ra đời, quả thật khiến Dương Thu Trì vừa cao hứng vừa âu lo. 

Dương Thu Trì cũng ha hả cười theo: "Các người mưu sát bổn quan, chính là tạo phản. Đế Lạc, ngươi là con heo không có đầu óc, người làm Quán Đỉnh pháp vương oai vệ như vậy tại sao lại theo chúng làm phản, ngươi có điều gì tốt hay không? Hay là ngươi ngốc đến tận cùng bằng số rồi?" 

Đế Lạc cười lớn: "Con ếch ngồi dưới đáy giếng ngươi mà biết trời cao đất rộng gì. Sau này tạo phản thành công, toàn bộ Đóa Cam là của ta. Ta là Đóa Cam quốc quốc vương! Ha ha ha." 

Thì ra lão tiểu tử này quả thật bị lợi ích làm mê muội đầu óc rồi. Nhất định là Kiến Văn đảng móc nối với lão, đáp ứng sau này tạo phản thành công, sẽ đem toàn bộ Đóa Cam phân cắt cho lão, để lão làm quốc vương. Chức quốc vương này đương nhiên có lực dụ hoặc nhiều hơn pháp vương rồi. Trong đầu não của lão mập này nhất định là nhét toàn phân hay là cỏ gì rồi, lão tại sao không nghĩ thử, hiện giờ Kiến Văn dư đảng cái gì cũng không có, làm sao có đủ khả năng lật nghiêng trời đất đây? 

Nhưng mà, khi bị cái lợi làm mờ mắt, thì bậc trí giả cũng trở thành kẻ ngu đần. 

Dương Thu Trì kêu lên: "Đế Lạc, ngươi không được tin chúng. Bọn chúng chỉ là châu chấu cuối mùa thu, đang bước vào đoạn đường cùng, không thành được chuyện gì đâu! Cho dù các người sau này tạo phản thành công, bọn chúng cũng chuyển sang đối phó ngươi, căn bản chẳng cấp cho ngươi cái chức Đóa Cam quốc vương gì đó. Thỏ chết giết chó, đạo lý này chẳng lẽ ngươi còn không minh bạch hay sao?" 

Dương Ứng Năng giật nẩy người, vội vã nói: "Pháp vương, chẳng có lý do gì nghe lời khiêu khích ly gián của hắn cả." 

Đế Lạc âm trầm không nói gì. 

Dương Thu Trì lại kêu lên: "Đế Lạc, ngươi có thể là nghĩ rõ rồi! Nếu như ngươi có thể quay đầu, ta có thể hướng hoàng thượng bẩm báo, miễn tội cho ngươi, vẫn cho ngươi làm Quán Đỉnh pháp vương y như cũ, thế nào?" 

Thanh âm của Dương Ứng Năng run rẩu: "Pháp vương, hắn đang dùng phản gián kế, pháp vương không nên mắc mưu của hắn." 

Đế Lạc cười cười, vỗ vai Dương Ứng Năng: "Ta biết rồi, chút điêu trùng tiểu kỹ này làm sao có thể khiến ta mắc mưu chứ." Lão phất tay, quát, "Công lên cầu thang cho ta!" 

Trong chùa có không ít thang gỗ, nhưng thang dài đủ để có thể lên thẳng kim đỉnh này thì không. Bọn chúng không thể ngờ là Dương Thu Trì và mọi người sẽ chiếm kim đỉnh để phòng thủ. Bọn tăng binh tìm lấy mấy cái thang, chấp ba cái lại thành một bắc lên, vào khéo tới bờ tường kim đỉnh. Tăng binh cầm giới đao lập tức xông lên. 

Cung tiễn thủ bên dưới không ngừng phóng tên, Dương Thu Trì không có biện pháp gì hất thang ngã xuống, gấp gáp kêu lên cả kinh: "a...! Không xong rồi! Bọn chúng dùng thang trèo lên rồi!" 

Liễu Nhược Băng rên rĩ nói: "Vân nhi, con mau ra giúp Thu Trì, một mình ta cũng được rồi." 

Tống Vân Nhi vội chạy ra cửa, thấy có ba cái thang đã bắc lên kim đỉnh, các tăng binh cầm giới đao đã xông lên được phân nửa, cung tiễn thủ ở bên dưới không ngừng bắn lên trên này. 

Tống Vân Nhi vội chạy tới dãy tượng đồng cạnh tường vây, huy kiếm chém đứt mấy điêu tượng, khênh lên nhắm chuẩn phương vị ném ra ngoài, lập tức nghe rắc rắc mấy tiếng, tiếp đó là một loạt tiếng gào thảm thiết. Dương Thu Trì nhân đó thò đầu ra nhìn, ha hả cười lớn, thì ra là một cái thang đã bị Tống Vân Nhi ném tượng đập trúng, hơn mười vị tăng binh bị rơi xuống dưới, lớp chết lớp bị thương, rên la không ngớt. 

Tống Vân Nhi biết đã ném trúng, chạy đi ôm một tượng đồng khác nhắm đúng phương hướng ném đi, lại một trận gào thảm thiết nữa vang lên. 

Dương Thu Trì cũng chạy tới ôm tượng, hỗn hễn nói to: "Thấy người ta vác không thấy mệt, tự đi vác mệt muốn gãy lưng rồi!" Hắn dụng hết lực khí mới miễn cưỡng ôm được tượng lên một tấc. Tống Vân Nhi chạy lại kêu lên: "Ca, đưa cho muội!" Nàng tiếp lấy tượng đồng từ tay hắn, khênh lại vứt xuống, phía dưới lại vang lên một loạt tiếng rú thảm. 

Dương Thu Trì thò đầu ra nhìn, thấy ba cái thang đã bị gãy nát, tăng binh tử thương nằm dồn đống ở dưới. Hắn rụt cổ lại, giơ ngón tay cái lên khen: "Vân nhi lợi hại thật!" 

Tống Vân Nhi đắc ý cười cười: "Huynh để ý bọn chúng, muội đi coi sóc sư phụ." 

"Được, mau đi đi." 

Mưa tên đã ngừng, Dương Thu Trì len lén thò đầu ra nhìn, thấy Đế Lạc và Dương Ứng Năng đang thương lượng gì đó ở dưới, liền rụt đầu lại, ngồi dựa lưng vào tường, lòng thầm mắng sao giờ này bọn Nam Cung Hùng chẳng chịu đánh lên. 

Trước khi xuất phát dưới núi, Dương Thu Trì đã thương lượng kỹ với Nam Cung Hùng, chờ hắn đi được một thời thần thì chế phục tăng chúng dưới núi, nhanh chóng lên núi, dọc đường thấy người thì cứ bắt lại hết, để miễn để lộ tin tức. Khi lên đến cách đỉnh núi không xa thì hãy chờ đợi, khi nào hắn phát pháo hoa, thì cùng đánh giết mà lên. 

Nhưng hiện giờ dưới núi tiếng hò hét chém giết vang trời, nhưng không hề thấy đánh lên núi. Xem ra, nhân số của Kiến Văn dư đảng ngăn ở sườn núi không phải là ít. 

Đang suy nghĩ, chợt hắn nghe vù một tiếng, một mũi tên từ trời rớt xuống, rơi cạnh chân của hắn, làm hắn giật nãy người. Mũi tên này trên đầu có quấn một miếng vải bố đang cháy phừng phừng, không ngờ là một mũi hỏa tiễn. Ở trên trời này làm gì có hỏa tiễn rớt xuống vậy kìa? 

Dương Thu Trì ngước đầu nhìn, thấy trên không có vô số hỏa tiễn đang lốc tốc rơi xuống, làm hắn hoảng sợ rụt ngay vào trong phòng. Đám hỏa tiễn này cắm đinh đinh đang đang vào mặt kinh đỉnh và đỉnh căn phòng nhỏ. 

Thì ra, Đế Lạc cho cung tiễn thủ dùng hỏa tiễn công kích lên kim đỉnh, cho hỏa tiễn bay theo đường cong từ trên không xuống, rơi cắm vào đỉnh phòng. Tuy kim đỉnh có kết cấu bằng đá, cơ bản không sợ lửa, nhưng vô số hỏa tiễn rơi xuống, sẽ chất thành đống, và tự bản thân nó đã cháy đủ lợi hại rồi, huống chi Liễu Nhược Băng đang ở trong phòng làm bằng gỗ. Vô số hỏa tiễn rơi cắm trên đỉnh phòng, và nó đã bắt đầu cháy lách tách rồi. 

Dương Thu Trì xông vào phòng, vừa thấy Liễu Nhược Băng đầu mặt đầy mồ hôi, thống khổ rên rĩ. Lòng đau như cắt, mắt thấy khói dày đặt cuộn vào phòng, lửa tỏa hơi nóng đang cháy rừng rực trên nóc. Dương Thu Trì cảm thấy bản thân không làm ra trò trống gì, cái gì cũng không giúp được, ngay cả nữ nhân yêu dấu của mình trong lúc sinh sản cũng đối diện với uy hiếp sinh tử, không khỏi nổi lòng gan dạ, cho dù đem cái mạng này ra liều, cũng tuyệt không cho căn phòng nhỏ này bốc cháy. 

Hắn hô lên một tiếng lớn, xông ra biển lửa phía ngoài. 

Hắn dùng kiếm vít, dùng chân đá, gạt hết hỏa tiễn hai bên căn phòng gỗ, lại nhỏm lên dùng đoản kiếm chém đứt những hỏa tiễn ở đỉnh phòng, quýet chút xuống, rồi dùng ống tay áo dập lửa trên đỉnh phòng. 

Véo véo véo mấy tiếng, trên không trung không ngừng có hỏa tiễn bay tới, có mấy chiếc cắm lên đỉnh đầu và đầu vai của hắn. 

Đầu hắn đội mũ quan, có cái búi quấn từ đám sợi gai thật dày, trong khi đó hỏa tiễn bay theo đường cong trên không trung khi rơi xuống đã hết lực, tuy có thể cắm vào mũ hắn, nhưng không làm đầu hắn bị thương. Còn ở đầu vai thì hắn bị cắm mấy mũi tên, và thương hại đến da thịt. Tuy nhiên giờ phút này hắn đã chẳng màn gì cả, chỉ nghĩ đến làm cách nào để cho căn phòng gỗ nhỏ này không bị cháy lên mà thôi. 

Sau một phen liều mạng đá và quét, những hỏa tiễn trên đỉnh phòng bị diệt, nhưng những mũi tên lửa mới đến từ trên không lại rơi xuống, đỉnh phòng lại nhoen lên từng đám lửa cháy phừng phừng, ngay cả quan bào trên người Dương Thu Trì cũng bắt lửa, liền thuận tay cởi luôn, rồi dùng nó điên cuồng đập vào lửa trên đỉnh phòng và trên mặt đất để dập chúng tắt. 

Trong lúc nguy cơ quan đầu này, thì hắn nghe trong phòng truyền ra tiếng oa ... oa của trẻ con khóc! 

Dương Thu Trì vừa kinh vừa mừng, hô lớn lên: "Băng nhi! Nàng khỏe không!" 

Tống Vân Nhi ở trong mừng quá mà khóc, lớn tiếng đáp: "Sư phụ không sao! Sanh rồi... sanh được một đứa con trai...!" 

Ha ha ha! Dương Thu Trì cười điên cuồng, ta có con trai rồi...! 

Lòng hắn tuy mừng như điên, nhưng hiện giờ hắn không thể nào tiến vào nhìn nữ nhân yêu dấu và đứa con thơ bé bỏng mới chào đời của mình, bỡi vì trên kim đỉnh đã biến thành biển lửa, và hắn tiếp tục điên cuồng quay quạt đập cái quan bào trong tay, không ngừng quét dập lửa trên đỉnh phòng, trên mặt đất, và cả trên người. 

Lửa càng thiêu càng lớn, hỏa tiễn trên trời không ngừng rơi xuống. Trong biển lửa, Dương Thu Trì liều mạng đập đánh, không biết hắn sẽ kiên trì được bao lâu, và cũng không biết có còn sống để tận mắt nhìn thấy con trai của mình hay không.

Chính vào lúc này, chợt nghe ở dưới có tiếng chó sủa gâu gâu, tiếp đó là một trận đại loạn, không ngừng có tiếng tăng binh kêu thảm, và không ngừng dùng tiếng Tạng mắng chửi. 

Vừa nghe tiếng sủa là biết đó là tiểu hắc cẩu, Dương Thu Trì mừng rỡ. Dưới sự tiến công của tiểu hắc cẩu, những hỏa tiễn bắn lên rõ ràng đã giảm bớt. 

Tiểu hắc cẩu không bị các Kiến văn dư đảng ngăn chặn giữa núi chú ý, cho nên là kẻ lần theo mùi vị của Dương Thu Trì mà xông lên đây. Khi nhìn thấy trên kim đỉnh lửa cháy ùng ùng, rất nhiều tăng binh đang cầm cung tên nhúng dầu châm lửa bắn lên trên. Tiểu hắc cẩu rất thông minh, biết ngay là chủ nhân gặp chuyện không ổn, nên chạy loạn giữa đám tăng binh, chuyên tìm những tên bắn hỏa tiễn mà cắn. 

Trên quảng trường đâu đâu cũng có tăng binh. Tiểu hắc cẩu nhỏ người, thân hình linh động, cắn xong là chạy, cho nên nhất thời tăng binh cung tiễn thủ bị cắn vô số. 

Cường Ba cầm đoản kiếm truy sát tiểu hắc cẩu, nhưng bị nó nhanh nhẹn chạy thoát, tức quá kêu oa oa, dùng Tạng ngữ quát lên mấy tiếng quái dị. 

Có tăng binh đáp ứng chạy vào hậu viện, chớp mắt sau, một đạo hắc ảnh gầm gừ phóng ra từ hậu viện, nhào tới tiểu hắc cẩu. 

Tiểu hắc cẩu cơ linh tránh thoát, phát hiện đó là một con Tạng ngao (chó ngao Tây tạng), thân hình uy mãnh giống như con trâu điên, há cái mõm như chậu máu xông tới cắn vào đầu nó. 

Con Tạng ngao phóng lên phóng không trúng, chuyển thân cắn tiếp. Tiểu hắc cẩu biết không thể dùng mạnh đối mạnh, ý vào thân hình linh động, không ngừng tránh né, nhưng không còn dịp nào cắn cung tiễn thủ được nữa. 

Tiểu hắc cẩu bị con Tạng ngao bám sát, cung tiễn thủ được dịp rãnh, tiếp tục bắn hỏa tiễn lên kim đỉnh. 

Nón áo của Dương Thu Trì đã bắt cháy, nhưng vẫn cố sức diệt lửa. 

Lúc này, ở dưới có một trận đại loạn, tiếng hò hét giết chóc vang lên tứ phía, lại nghe ở phía dưới viện có người gọi: "Tước gia! Ngài ở đâu! Chúng tôi đã đánh lên rồi! Người ở đâu?" 

Là Nam Cung Hùng! Dương Thu Trì vừa kinh vừa mừng, lớn tiếng đáp: "Chúng ta ở trên này, mau giết những tên rùa bắn hỏa tiễn đó, nếu không lão tử bị thiêu chết cháy luôn đây!" Lòng hắn nhất trực mắng thầm, làm cái "đếch" gì mà giờ này mới đánh lên tới đây, chơi cái trò gì nguy hiểm vậy. 

Hắn vốn không biết ở giữa lưng chừng núi có tới bốn năm trăm Kiến Văn dư đảng chặn đánh. Vốn ra Nam Cung Hùng cùng hộ vệ đội khoảng 200 người mai phục ở giữa núi chờ Duơng Thu Trì phóng hỏa tiễn làm hiệu, sau đó xông lên, không ngờ Kiến Văn dư đảng đã đề phòng chiêu này, xuống dưới tìm kiếm, phát hiện bọn họ, nên hai bên đánh nhau một trận. 

Kiến Van dư đảng chiếm cứ yếu điểm phòng thủ, các hộ vệ từ dưới đánh lên chịu rất nhiều thua thiệt. Do đó tuy họ đều là tinh anh, nhưng một là đối phương hơn gấp đôi về nhân số, lại chiếm cứ địa lợi, nên mới để lỡ nhiều thời gian như vậy. 

Nam Cung Hùng, Từ Thạch Lăng, Thạch Thu Giản tổng cộng sáu thiếp than hộ vệ là tinh anh trong số tinh ảnh, thấy địch nhân đã có chuẩn bị, biết tình huống của Dương Thu Trì không xong, nên sáu người liều mạng đánh mở ra một đường huyết lộ, cuối cùng cũng đánh lên được đỉnh núi. 

Bọn họ lên tới đỉnh núi, thấy trên kim đỉnh của chùa đã bố cháy ngùn ngụt, và cung tiễn thủ của tăng binh không ngừng bắn hỏa tiễn lên đó, đoán là bọn Dương Thu Trì đang ở trên kim đỉnh, nên mới vừa gọi Dương tước gia, vừa hoảng động thân hình, nỗ lực đến chém giết cung tiễn thủ. 

Nghe âm thanh của Dương Thu Trì trong biển lửa trên Kim đỉnh, bọn họ vừa kinh vừa mừng. Dương tước gia còn sống, nhưng xem có vẻ đại sự không ổn, đều đỏ hồng cả mắt, ra tay mạnh mẽ tiêu diệt các cung tiễn thủ. 

Đế Lạc dẫn đầu Cường Ba cùng các đệ tử ngăn bọn Nam Cung Hùng lại. Nam Cung Hùng đối một chiêu với Đế Lạc, biết mình không phải là đối thủ, hơn nữa nhiệm vụ chủ yếu hiện giờ là giết chết các cung tiễn thủ, giải bớt áp lực cho bọn Dương Thu Trì trên kim đỉnh, cho nên sáu người lăn lộn di chuyển nhanh đấu trường, cứ tìm cách đánh giết cung tiễn thủ. 

Rất tiếc là tăng binh quá nhiều, lại có Đế Lạc cùng Cường Ba và các cao thủ ngăn chặn, tuy đã giết chết không ít cung tiễn thủ, nhưng những tăng binh khác lại cầm cung tên lên bắn tiếp, hỏa tiễn từ trên không trung rơi xuống kim đỉnh không giảm bao nhiêu, áp lực đối với Dương Thu Trì chỉ có tăng chứ không giảm. 

Lúc này, Dương Thu Trì đã như kẻ đem thân vào địa ngục, bốn phía đều có lửa cháy trùng trùng, cuộn lên khói đặc, hắn vừa ho mãnh liệt, vừa cố sức diệt lửa. 

Trong phòng truyền ra tiếng khóc của con nít, tê tâm liệt phế, hắn ẩn ước nghe tiếng gào khóc kêu gọi của Liễu Nhược Băng: "Thu Trì...!", và còn có tiếng kêu thêthảm của Tống Vân Nhi: "Ca...!" 

Hắn quay đầu, ngoại trừ thế giới của lửa, không nhìn thấy cái gì khác nữa. Ngay cả lưỡi lửa liếm vào người, hắn cũng không còn cảm thấy đau đớn nữa. Hắn vẫn như phát điên dập lửa khắp nới, trong lòng chỉ có một niềm tin, rằng tuyệt không thể để lửa thiêu nữ nhân yêu thương và hài tử vừa sinh ra thế giới này của hắn! 

Lúc này, hắn phát hiện trước mắt trắng xóa, bước chân nhẹ phiêu phiêu, đã rơi hoàng toàn vào thế giới trắng xóa. Hắn không khỏi lạnh lòng, xong rồi, bản thân khẳng định là đã chết rồi, giống như lần trước vậy, linh hồn xuất khiếu rồi. Tiếp theo đó, hắn cảm thấy đó là thứ trăng trắng gì đó quấn lại, rồi hơi nóng quanh người giảm xuống. 

Ơ! Lưỡi lửa bốc cháy trên cánh tay chạm phải thứ trăng trắng đó lập tức kêu xùy, thế rồi tắt hẳn, chỉ còn lại khói uốn éo bốc lên. Hắn ngẩn nguời ra, ngước đầu nhìn trời: "Ha ha ha...." Hắn cười điên cuồng, "Hạ tuyết rồi...! Ông trời cuối cùng cũng mở mắt rồi! Ha ha ha!" 

Đó dường như là một đám mây dày đặc sà xuống gần chạm đỉnh đầu, phún ra từng làn tuyết đặc, cuồn cuộn, phiêu phiêu, phủ trùm cả thế giới, biến cả thế giới thành tuyết vậy. 

Lửa cháy ùng ùng trên kim đỉnh gạp tuyết dày phát ra từng tiếng xì xì, dù cố sức chống chỏi nhưng cuối cùng cũng thu nhỏ dần, rồi biến thành những cột khói mỏng, bốc lên hòa vào đám mây đen dày. 

Dương Thu Trì vừa ho vừa cười, điên cuồng cho đến nỗi cứ huy động mãi cái áo bào trên tay đã bị cháy chỉ còn một khúc ngắn, tiếp tục diệt lửa còn sót lại. Vào lúc này, nếu nói hắn đang cố dập hết lửa cũng đúng, nhưng nói đang nhảy nhót ăn mừng vì đã vừa từ chỗ chết chạy thoát ra. Do đại tuyết đầy trời, hắn đã nhanh chóng diệt hết biển lửa trên kim đỉnh và mái nhà gỗ. 

Đến lúc này, trong căn phòng gỗ đó truyền ra tiếng gọi yếu ớt của Liễu Nhược Băng: "Thu Trì...!" 

Dương Thu Trì bấy giờ mới tỉnh lại từ trong điên cuồng, đột nhiên nhớ lại con trai của mình, mừng rỡ kêu lên một tiếng, vừa định chuyển thân tiến vào căn phòng gỗ, đột nhiên trước mắt chợt hoa lên, một người từ ngoài tường vây đã nhảy tiến vào. 

Người này chính là Đế Lạc to bự như con gấu, tay cầm một đôi đồng chùy. Dương Thu Trì giật mình cả kinh, kêu lên kinh khủng: "Cái lu lớn lên rồi!" 

Thì ra, khinh công của Đế Lạc chẳng ra sao cả, đuổi cả nửa ngày mà không làm sao đuổi bắt được bọn Nam Cung hùng. Lúc này, đã có hơn chục hộ vệ đánh lên, đánh giết vào đám tăng binh. Đây đều là những tinh anh tuyển chọn lại từ số tinh anh ưu tú của cẩm y vệ và đại nội thị vệ, lập tức như mãnh hổ nhập quần hồ, chém giết khắp nơi, tung hoành như đi vào chỗ không người. 

Mắt thấy hộ vệ của Dương Thu Trì đánh lên núi ngày càng đông, Đế Lạc không biết nênlàm cách nào. Lúc này, trên trời chợt đỗ tuyết đầy nhưng lông ngỗng, vừa nhìn thấy tuyết lớn là lão kêu trời không thấu. Lão đưa mắt nhìn lên, thấy lửa trên kim đỉnh nhanh chóng giảm nhỏ, không khỏi nóng ruột. Lão cũng biết đao lý cầm tặc tiên cầm vương, đánh giặc phải bắt tướng trước, cho nên đã nối lại các thang đã gãy, bắc lên một góc kim đỉnh, nhanh chóng trèo lên. 

Đế Lạc nhảy tới kim đỉnh, thấy Dương Thu Trì y phục bị cháy tơi tả, chỗ nào cũng bốc khói xanh, cười đanh ác bảo: "Dương tước gia! Ha ha, để Phật gia tống ngươi về tây thiên đi a!" Nói xong nhào lại, cái trảo to như cái quạt hương bồ chụp tới ngay đầu của Dương Thu Trì. 

Đế Lạc này đến quá nhanh, Dương Thu Trì căn bản không kịp rút súng. Kiếm của Liễu Nhược Băng vừa rồi hắn đã quẳng dưới đất trong khi diệt lửa, bây giờ chỉ còn theo bản năng lăn mình ra sau tránh. Đại chưởng của Đế Lạc theo sát ngay sau. 

Trong phòng gỗ lúc này bay ra ba lưỡi liễu diệp phi đao, xuyên qua đại tuyết to như lông thiên nga bắn thẳng vào ba lộ thượng trung hạ của Đế Lạc. 

Ba mũi phi đao này mang kình phong vù vù, hiển nhiên là do Liễu Nhược Băng bắn ra. Đế Lạc trong lúc kinh khủng đã rụt người lui về sau, tránh được ba mũi phi đao này. Nhờ chút thời gian chậm lại đó, Tống Vân Nhi đã cầm đoản kiếm phi thân gia, đấu xáp lá cà với Đế Lạc. 

Đế Lạc múa đồng chùy như múa bánh xe, Tống Vân Nhi không dám lấy cứng chọi cứng, mà tung bay như cánh bướm, xoay quanh người của lão tìm chỗ hở mà đánh. 

Chỉ có điều, võ công của Tống Vân Nhi kém hơn Đế Lạc một bậc, chỉ nhờ vào thân hình linh động để khỏi bị bại sớm mà thôi. 

Dương Thu Trì đã sớm rút súng ngắn ra. Vào lúc này, Tống Vân Nhi đã bị Đế Lạc dùng đôi chùy đồng quấn chặt, căn bản không thể tách người ra. Thân hình hai người nhanh chóng đan qua lại, Dương Thu Trì không dám bóp cò, sợ sẽ ngộ thương Tống Vân Nhi. 

Tống Vân Nhi khổ khổ chống đỡ, đang trong lúc gấp rút, thì một luồng hắc ảnh lóe lên - tiểu hác cẩu đã trèo lên được kim đỉnh! 

Kỳ thật, tiểu hắc cẩu bị quẳng lên chứ không phải trèo. Thì ra, Nam Cung Hùng thấy Đế Lạc leo lên thang, liền định đuổi theo lên, nhưng bị Cường Ba ngăn lại. Hai người kịch chiến với nhau, những tăn gbinh khác cũng định theo lên thang, Thạch Thu Giảng trong lúc gấp rút, đã vung mấy chưởng đánh thang nát vụn. 

Từ Thạch Lăng liếc nhìn thấy Tiểu Hắc Cẩu đang đấu xáp lá cà với con Tạng ngao, liền đánh lén một đao chém bay đầu con chó ngao Tây tạng đó. Tiểu hắc cẩu chạy đến cạnh Từ Thạch Lăng, mệt há họng thè lưỡi thở hồng hộc. 

Từ Thạch Lăng thấy Đế Lạc đã lên kim đỉnh, lòng thập phần lo lắng, nhưng không thể nào lên để giúp. Hắn đột nhiên nhớ lại con tiểu hắc cầu này lợi hại phi thường, chẳng thua gì một cao thủ võ công, cho nên ôm nó vận kình ném lên trên kim đỉnh, hi vọng nó có thể trong thời điểm quan trọng nào đó giúp Dương Thu Trì một tay. 

Đế Lạc nhìn thấy vật bay lên là tiểu hắc cẩu, hơi kinh ngạc, nhưng cho đó là chuyện nhỏ, tiếp tục áp sát tiến công Tống Vân Nhi. Lão đã nhìn thấy rõ ràng, rằng Liễu Nhược Băng sau khi sinh sản yếu ớt phi thường, không cần phải sợ, chỉ cần giết chết tiểu nha đầu này, là có thể khống chế toàn bộ cục diện. 

Chính vào lúc lão đánh hết chùy này đến chùy khác vào người Tống Vân Nhi, thì cổ chân truyền lên một cơn đau nhói, phải buột miệng ai da một tiếng, cúi đầu nhìn, thì ra tiểu hắc cẩu đang cắn chặt vào cổ chân lão lắc đầu qua lại không chịu buông. 

Đế Lạc cuồng rống đập mạnh một chùy xuống, vốn tưởng là sẽ đập con chó mực này thành một đám thịt bầy nhầy, không ngờ tiểu hắc cẩu nhanh chóng nhả ra tránh đi, khiến lão đập vào chỗ không. 

Chính vào lúc này, Dương Thu Trì chợt kêu lên: "Vân nhi nằm xuống!" 

Đế Lạc không biết chiêu số lúc này là gì, chuyển người lại nhìn, thấy Tống Vân Nhi đã nằm dán sát đất, còn chưa hiểu đầu cua tai nheo, chợt nghe một tiếng nổ "đoành" cực lớn, trái tim lập tức như bị đánh một quyền mạnh, máu tươi văng đầy, ngã ngữa ra đất.

Đế lạc rơi xuống đất, biết là không ổn, cố gượng ngồi dậy, nhưng cảm thấy toàn thân mất lực, ngay cả đôi chùy đồng giờ cũng như nặng nghìn cân, nhấc lên không nỗi. Lão cúi đầu, nhìn lồng ngực đáng phún máu có vòi, không biết bản thân làm thế nào lại bị thương, ngước mắt lên nhìn, thấy Dương Thu Trì nắm trong tay một vật quái dị như đùi một con gà, ở đầu có một lổ đèn ngòm đăng nhắm thẳng đến lão, trong cái lổ đó còn bốc ra một làn khói xanh. 

Chẳng lẽ món đồ chơi đó lại làm lão bị thương? 

Không chờ lão hiểu rõ, Tống Vân Nhi đã nhảy chồm dậy, một kiếm vút tới như điện. Đế Lạc muốn dùng chùy đồng để đỡ, nhưng máu phún ra như suối ở ngực đã mang theo toàn bộ sức lực của lão. Lão muốn tránh, nhưng lúc này chợt phát giác thân hình mập như cái lu của mình sao mà nặng nề đến vậy. 

Lão còn chưa kịp hối hận, thì kiếm của Tống Vân Nhi đã cắt vụt qua cổ lão. 

Đế Lạc phát giác bản thân có thể bay, bay nhanh như chong chóng, nhìn trời đầy tuyết - hoa tuyết vì sao lại có màu hồng vậy? 

Lão bây giờ mới nhìn rõ, hoa tuyết đầy trời đó màu hồng, và màu hồng chính là do máu bắn ra từ cổ lão rưới lên! 

Đầu của lão nạng nề rớt phịch xuống nền đá rắn chắc của kim đỉnh, lăn mấy vòng. Lão nhìn thấy con tiểu hắc cẩu cắn chân lão lúc nãy đang đừng đó, giương đôi mắt lạnh lùng nhìn lão, một cái nhìn khinh khỉnh. 

Và cái nhìn đó cũng là chút nhận biết cuối cùng trên thế giới này của Quán Đỉnh pháp vương. 

Dương Thu Trì tận mắt chứng kiến hành động một kiếm chém đứt đầu Đế Lạc của Tống Vân Nhi, bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, đút súng trở lại bao. 

Tống Vân Nhi đương nhiên biết, lần này cũng giống như lần tiêu diệt Đại nội thị vệ tổng quản Hồng Ưng của Kiến Văn đế trên Vân Nhai sơn vậy, Dương Thu Trì lại dùng món ám khí phích lịch đạn của hắn để níu kéo lại thế cờ, lòng vừa áy náy vừa thở phì phò nói: "Cái tên thùng nước lèo này thật là lợi hại! Ca... huynh mau vào gặp sư phụ và em bé đi, muội thủ ở ngoài..." 

"Được!" Dương Thu Trì cất tiếng gọi: "Băng nhi!" Rồi chạy vào trong phòng. 

Trên mặt đất đầy huyết, áo váy trắng như tuyết của Liễu Nhược Băng đã nhiễm hồng, làn tóc trên đầu đã ướt bệt mồ hôi, đang yếu ớt mỉm cười ôm chặt một hài nhi bé bỏng trong lòng. Em bé đó đang oa oa khóc lớn. 

Dương Thu Trì quỳ xuống cạnh Liễu Nhược Băng, vui mừng nói: "Băng nhi, nàng thấy thế nào? Yên tâm đi, Đế Lạc chết rồi. Người của chúng ta đang đánh lên." 

Liễu Nhược Băng âu yếm ôm con, ngước nhìn Dương Thu Trì, thấy mặt mày hắn bị khói lửa ám đen như mới từ lò đốt than chui ra, chỉ còn đôi mắt là sáng, hàm răng là trắng nõn mà thôi. Mũ trên đầu hắn còn cắm mấy đầu tên lửa, tóc mai dưới mũ cũng bị đốt cháy hết, ở vai và tay máu me chảy đầy, xem ra là bị những hỏa tiễn rơi từ trên không xuống làm cho bị thương. Y phục của hắn giờ chỉ còn áo trong, bị cháy thành những lổ lớn, thậm chí còn bay ra khói đen. 

Liễu Nhược Băng vừa đau lòng vừa cảm thấy an ủi, mắt ứa lệ, đầu gật gật: "Thu Trì... mau xem con trai của chúng ta...!" 

Dương Thu Trì cẩn thận tiếp lấy đứa bé đỏ hỏn đầy máu trong lòng nàng, giơ lên xem, thấy ở giữa bẹn của em bé có một khối u nho nhỏ và một cái vòi nước như bình trà nhỏ, hưng phấn há miệng cười khà khà. 

Liễu Nhược Băng bảo: "Đừng... đừng làm lạnh con." 

"Đúng đúng!" Dương Thu Trì đặt em bé vào lòng Liễu Nhược Băng, vội vã cởi áo lót mùa đông trên người hắn xuống, cẩn thận bao bọc em bé lại, rồi ôm chặt em bé vào lòng, nhịn không được hôn lên gương mặt bé bỏng của nó, hỏi Liễu Nhược Băng: "Băng nhi, nàng nói coi nó giống nàng hay là giống ta?" 

Liễu Nhược Băng mỉm cười ngọt ngào: "Để thiếp xem." 

Dương Thu Trì vội cẩn thận đặt em bé vào lòng Liễu Nhược Băng, sau đó đỡ nàng dậy cho ngồi dựa vào lòng hắn. 

Liễu Nhược Băng áp áp áo lót bông, hé lộ gương mặt bé xíu của em bé ra nhìn, nghiên đầu qua lại nói: "Gương mặt thì giống chàng, mắt giống thiếp..." 

"Hì hì..." Dương Thu Trì cười, "Con trai chúng ta lớn lên, sẽ xinh đẹp giống như nàng vậy." 

"Không... con trai mà, không được quá giống thiếp...., nếu không... vẻ son phấn con gái quá trọng..."

"Ha ha, như vậy cũng phải, người ta nói hài tử theo ai, thì khi lớn lên sẽ giống người đó..." 

"Thật không...?" Mắt Liễu Nhược Băng thoáng vẻ ưu tư, cúi đầu nhìn em bé. 

"Đương nhiên là thật rồi!" Dương Thu Trì nghiêm túc nói, "Do đó con chúng ta phải lớn lên bên cạnh hai chúng ta, con nó mới giống nàng anh tuấn sảng khoái, và sẽ giống ta thông minh linh lợi." 

"Tự mèo khen mèo dài đuôi, không biết thẹn...!" Liễu Nhược Băng vui vẻ yêu thương trợn nhìn Dương Thu Trì như trách móc, rồi cúi đầu nhìn con. 

Dương Thu Trì đề nghị: "Ta ẵm chút nhé." Liễu Nhược Băng gật đầu ưng thuận. 

Dương Thu Trì ẵm em bé lên, ôm vào người, lòng thật cảm khái, nghĩ đến cha mẹ hắn ở thời hiện đại không biết là có nghĩ con trai mình chết đi đã xuyên việt đến mấy trăm năm về trước, hiện giờ thậm chí còn có con, cha mẹ đã trở thành ông bà rồi. Nghĩ đến cha mẹ, lòng hắn chua xót, lại nghĩ đến Liễu Nhược Băng sắp sửa mang con đi đến nơi xa xôi hẻo lánh nào đó, không khỏi cảm thấy sống mũi cay cay, sụt sùi nhỏ lệ. 

Liễu Nhược Băng nghe tiếng khóc của Dương Thu Trì, vội vã hỏi: "Thu Trì, chàng sao vậy?" 

"Hu hu... nàng không lâu nữa... hu hu... sẽ mang con đi...., ta.... hu hu... ta không còn nhìn thấy... nhìn thấy con trai của chúng ta nữa... hu hu..." Dương Thu Trì không biết nổi bi thương vì sao mà dâng trào hết cõi lòng, ôm con khóc rống lên. 

Liễu Nhược Băng mắt ứa lệ, đưa tay qua, áy náy nắm tay Dương Thu Trì: "Vậy... vậy thiếp mang con theo... theo ở với chàng lâu một chút... chờ con của Chỉ Tuệ, Tống Tình ra đời tồi..., chàng có thêm con ở cùng rồi... thiếp sẽ mang con đi... có được không?" 

"Không được! Hu hu... đây là con của chúng ta..., ai cũng không thế được..." Dương Thu Trì nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, ôm chặc con tiếp tục khóc rống lên, "Ta muốn mỗi ngày nhìn thấy hai mẹ con, muốn ở cùng hai mẹ con một chỗ mỗi ngày ... hu hu." 

Liễu Nhược Băng đưa tay áo ra lâu nước mắt của Dương Thu Trì, nước mắt của chính nàng cũng không nhịn được rơi lốc tốc xuống nền nhà. 

Dương Thu Trì vội vã ôm con lại, lau lệ cho Liễu Nhược Băng: "Không được khóc, Băng nhi ngoan nào, sinh trong tháng mà khóc không tốt đâu, sẽ ảnh hưởng đến thân thể..." 

"Dạ!" Liễu Nhược Băng gật gật đầu, "Đưa con cho thiếp, thiếp muốn ôm con." 

Dương Thu Trì cẩn thận đặt em bé vào lòng Liễu Nhược Băng, nhìn đôi mắt còn đẫm lệ nhưng mặt rạng ngời hạnh phúc của nàng, nói: "Băng nhi, ta cầu xin nàng, hãy vì con lưu lại bên ta, được không, chỉ cần nàng chịu ở cùng ta, để ta ngày ngày được nhìn nàng và con, nàng bảo cái gì ta cũng đáp ứng! Có được không?" 

Liễu Nhược Băng đắn đo một chút: "Chuyện này sau này hãy nói, được không... chí ít... trong thời gian gần đây thiếp sẽ không mang hài tử đi đâu hết." 

"Ừ!" Dương Thu Trì vui vẻ gật đầu. 

Lúc này, chợt nghe Tống Vân Nhi bên ngoài lớn tiếng hô to: "Ê...! Người ở dưới nghe đây! Quán Đỉnh pháp vương của các ngươi mưu phản, đã bị chúng ta giết rồi. Các ngươi quỳ xuống đầu hàng được miễn chết! Nếu mà hung ngoan cố chống cự, giết không tha!" 

Dương Thu Trì quay người ra nhìn, thấy trong hoa tuyết bay cuồng, Tống Vân Nhi xách cái đầu tròn đầy thịt của Đế Lạc giơ cao, hướng xuống dưới hò hét. Cô gái nhỏ này quả thật là có ý tứ! Hắn liền bảo Liễu Nhược Băng: "Băng nhi, ta đi xem xem." 

"Vâng! Chàng cẩn thận một chút a." Liễu Nhược Băng yêu thương nhìn Dương Thu Trì. 

Dương Thu Trì khẽ vuốt ve mặt nàng một chút, gật đầu, cẩn thận đặt nàng nằm xuống, đặt con bên cạnh nàng, lót áo kỹ lại, bấy giờ mới chạy ra ngoài, đến bên cạnh Tống Vân Nhi, hai người cùng cúi đầu nhìn xuống. 

Các tăng binh bên dưới lúc nãy nghe tiếng nổ lớn đều cả kinh, giờ thấy Đế Lạc đã bị chặt đầu, tức thời loạn thành một đoàn, Cường Ba lớn tiếng quát: "Đừng nghe lời quỷ của ả, chỉ cần tạo phản thì đầu hàng cũng phải chết, giết chúng thì mới có đường sống!" 

Các tăng binh oa oa kêu loạn múa vũ khí xông về phía bọn hộ vệ. Tuy các hộ vệ anh dũng thiện chiến, nhưng dù sao đánh lên được tới đây cũng chỉ một bộ phận nhỏ, phần lớn còn lại đều đã bị chặn lại giữa núi. Địch nhiều ta ít, nhất thời họ chống cự không nổi. 

Tống Vân Nhi liếc mắt, bấy giờ mới chú ý đến Dương Thu Trì ở bên cạnh, tay chân chỗ nào cũng đầy máu, cả kinh kêu lên: "Ca! Huynh thụ thương rồi! Muội giúp huynh băng bó lại!" Nói xong móc từ trong người ra thuốc kim sang, cởi bớt áo của Dương Thu Trì ra, đắp thuốc lên, rồi xé váy băng bó cho hắn. 

Dương Thu Trì khắp người chỗ nào cũng bị thương, có cái là do hỏa tiễn bắn trúng, có cái là bị lửa thiêu, nhất thời bán khắc không thể băng bó hết. 

Đến lúc này, Dương Thu Trì mới cảm giác toàn thân đau rát, thật không biết vừa rồi vì sao mà hắn chống chịu được lâu như vậy. 

Trong lúc băng bó vết thương, chợt nghe ở dưới đại loạn, hai người thò đầu ra nhìn, thấy lưng chừng núi có mấy trăm Kiến Văn dư đảng tay cầm đao hoảng loạn chạy lên gần tới. Một số tên tới trước kinh hoàng hô: "Không xong rồi! Minh quân đến rồi!" 

Cường Ba và Dương Ứng Năng đều cả kinh, vội hỏi: "Minh quân? Minh quân ở đâu ra?" 

"Không biến, khắp núi chỗ nào cũng có, chỉ sợ phải mấy nghìn người, đã vây kín cả thần sơn rồi, đang đánh lên!" 

Đến lúc này thì chúng tăng đại loạn, có người còn ngoan cố đề kháng, có người quỳ xuống xin đầu hàng, số còn lại chạy đông chạy tây, chạy xuống dưới núi, toan tính đánh mở ra một đường máu để hạ sơn. 

Tống Vân Nhi vừa cao hứng vừa kinh ngạc: "Minh quân tăng viện ở đâu ra thế?" 

"Ta gọi đến đó." Dương Thu Trì đắc ý cười nói. 

"Khoác lác! Hi hi, ca ca cũng học biết được nói khoác từ bao giờ vậy?" 

"Ai khoác loác, muội còn nhớ không, khi ở Đóa Cam Tư, muội ẵm cô bé đó ra sau vườn chơi, còn ta nói ta và Đóa Cam Đô ti chỉ huy sứ Dư Hiên cần có chuyện thương lượng, và chuyện thương lượng chính là việc này." 

"Hả? Thật không?" 

"Đương nhiên là thật, ta đưa cẩm y vệ chỉ huy sức đặc sứ yêu bài ra cho Dư Hiên xem, cho y biết lần này điều tra cần y phái quân đội hiệp trợ. Muội biết đó, tuy cẩm y vệ không quản được quân đội, nhưng cẩm y vệ có chuyện gì trọng yếu cần quân đội hiệp trợ, quân đội vẫn phải nghe theo. Do đó Dư Hiên liền đáp ứng." 

"Vậy trên đường đi, muội sao không thấy quân của họ?" 

"Ta bảo ông ta điều quân cách chúng ta nửa ngày đường, nhất mực theo sau chúng ta. Vừa rồi ở dưới thần sơn dựng trại nghỉ ngơi, ta đã viết một phong thư, bảo Nam Cung Hùng phái hộ vệ đem trao cho Dư Hiên ở phía sau, bảo ông ta phong tỏa đạo lộ hạ sơn, và phái một cánh quân theo đội hộ vệ chúng ta. Khi đội hộ vệ của chúng ta lên núi, họ chờ chút cũng lên theo, khi thấy ta phát hỏa pháp làm tín hiệu, thì nhanh chóng đánh lên núi." 

Tống Vân Nhi vỗ tay nói: "Hèn gì vừa rồi huynh phóng pháo hoa. Muội còn nghĩ đã lúc nào rồi mà huynh còn có tâm tình chơi trò đó, thì ra là phát tín hiệu!" Nàng chuyển đầu nhìn vào trong, gọi Liễu Nhược Băng: "Sư phụ, đại quân của chúng ta đến rồi, yên tâm đi!"

Dương Thu Trì hậm hực nói: "Con bà nó, tên tiểu tự Dư Hiên này suýt hại chết ta rồi!" 

Tống Vân Nhi kỳ quái hỏi: "Sao vậy?" 

"Ta bảo hắn cấp tốc hành quân, lập tức đến lưng chừng núi chờ, thấy được hỏa pháo làm tín hiệu của ta thì lập tức đánh lên, thế mà hắn lên chậm cả một thời thần! Nếu như bọn chúng lập tức xông lên ngay sau khi ta phát tín hiệu, mấy ngàn Minh quân tuôn lên như thác đổ, nhất định sẽ đánh tan bọn tặc đảng Kiến Văn trong chớp mắt, chúng ta sao có thể rơi vào thế nguy hiểm như thế này!" 

Dương Thu Trì đưa tay ra vỗ vỗ phủi tuyết bám đầy đầu vai của Tống Vân Nhi, nói tiếp: "Nếu như không phải lão tặc thiên này nễ tình bằng hữu, rũ lòng thương phả xuống trường đại tuyết, thì lão tử chỉ sợ đã chết cháy rồi!" 

Lòng Tống Vân Nhi vẫn còn đầy nỗi khiếp sợ: "Đúng a, lúc đó sư phụ mới vừa sinh hài tử, muội không thể ra, chỉ thấy huynh trong biển lửa dập đập lửa như phát điên, mũ áo và trên người chỗ nào cũng bốc lửa, sư phụ thì không động đậy được chút nào, nhưng cứ gào khóc gọi tên huynh. Muội vừa rồi còn đang định ra giúp huynh, thì ông trời đã hạ trận đại tuyết cứu chúng ta rồi." 

"Đúng a, muội nói coi tên Dư Hiên đó có đáng bị đánh đòn hay không?" 

"Đáng! Hãm chủ soái vào tử địa, xem ra phải bị chém đầu!" 

Dương Thu Trì ngẩn người: "Ha ha, cái đó thì bất tất, xem ra bọn chúng cũng không phải cố y, có thể là nguyên nhân gì đó làm cho chậm trễ, dù sao thì cuối cùng chúng cũng kéo đến." 

Tống Vân Nhi trừng mắt: "Chỉ có lòng của huynh tốt, suýt chút nữa bị y hại chết rồi, lại còn nói giúp cho y!" 

Dương Thu Trì cười hắc hắc, quay nhìn cảnh hỗn chiến bên dưới, nhìn ra ngay Dương Ứng Năng kẹt trong loạn quân, đang cố sức chạy xuống núi, vội vã kêu lên: "Dương Ứng Năng muốn chạy, bắt hắn!" 

Nhưng dưới chùa lúc này đã loạn thành một đoàn, thanh âm của hắn căn bản chẳng ai nghe, nên hắn sốt ruột dậm chân bức tóc. 

Tống Vân Nhi nói: "Ca, huynh bảo hộ sư phụ, muội đi bắt hắn!" Vừa rồi Tống Vân Nhi lại lần nữa kiến thức sự lợi hại của Phích Lịch đạn của Dương Thu Trì, biết là nó còn lợi hại hơn cả cao thủ lợi hại nhất, thừa sức bảo hộ cho sư phụ của nàng, chứ không biết trong súng Dương Thu Trì hiện giờ chỉ còn có bốn phát đạn. Do đó, khi Tống Vân Nhi vừa nói dứt, phóng phi trảo chụp lấy một góc kim đỉnh, tụt theo dây xuống dưới. 

"Hay.... A! Chờ chút Vân nhi!" Chờ Dương Thu Trì phản ứng, thì Tống Vân Nhi đã xuống dưới kim đỉnh rồi. 

Dương Thu Trì cười khổ, để ta bảo hộ Băng nhi? Nàng ấy bảo hộ ta thì có. 

Ngẫm nghĩ xong, hắn trước hết tìm bảo kiếm của Liễu Nhược Băng đem đặt cạnh nàng, sau đó cật lực bê chùy đồng của Đế Lạc rơi bên tường vào trong phòng. Gọi tiểu hắc cẩu tiến vào, sau đó đóng cửa phòng lại, dùng chùy đồng tấn cửa, móc súng ra cẩn thận giới bị. 

Liễu Nhược Băng nhìn dáng vẻ như lâm đại địch của hắn, không khỏi bật cười ôm con chỉ hắn: "Bảo bối, coi cha con dũng cảm chưa kìa, có cha con bảo hộ hai mẹ con ta, chúng ta không sợ gì nữa, đúng không nào?" Nói xong, nàng hôn hít lên gương mặt nhỏ nhắn của em bé. 

Dương Thu Trì cười khan, đặt súng bên cạnh, đỡ Liễu Nhược Băng lên, để nàng dựa vào người hắn, sau đó cầm súng lên nhắm ra cửa. Hắn cúi đầu nhìn em bé, thấy nó nheo mắt chép chép miệng, xót xa nói: "Băng nhi, con chúng ta đói rồi, nàng cho con bú đi a." 

Liễu Nhược Băng nằm dựa vào lòng hắn, lòng cảm thấy tự tin hơn, khi nghe hắn nói vậy, mặt hơi ửng đỏ, lẩm bẩm: "Thiếp... thiếp cho bú hả...?" 

"Đúng vậy! Nàng là mẹ của nó, nàng không cho nó bú, chẳng lẽ chúng ta mong con sẽ hít gió uống sương mà lớn hay sao a?" 

Liễu Nhược Băng phì cười, trong phòng tuy chỉ có lang quân của nàng, hoặc có thể kể thêm chú tiểu hắc cẩu đứng một bên nghễnh cổ nhìn ba người, nhưng nàng quả thật là thẹn, tay đặt lên áo, nhưng không chịu cởi ra. 

Dương Thu Trì cười hắc hắc, ngoắc ngoắc tiểu hắc cẩu: "Tiểu hắc, qua đây nhìn chỗ khác, con trai không được phép nhìn nữ sinh cho bú đâu!" 

Tiểu hắc cẩu khịt khịt mũi ứ ứ vài tếing, cúi đầu bước e dè lại cạnh hắn, nằm phục xuống đất, đầu hướng ra cửa. 

Dương Thu Trì vỗ vỗ Liễu Nhược Băng: "Được rồi, tiểu hắc không nhìn nàng nữa, cửa phòng đóng kín, mau cho con chúng ta bú đi, nàng không thấy con nó đang chép miệng đòi bú hay sao?" 

Liễu Nhược Băng cúi đầu nhìn, quả thật như vậy, thương con vô cùng, cuối cùng cố nén e thẹn, cởi áo, móc bầu vú căng tròn trắng muốt ra, đưa đầu vú anh đào vào miệng của em bé. 

Nhìn đứa bé đói khót mút lấy mút để, Liễu Nhược Băng ứa giọt lệ sung sướng, nghiêng mặt qua bảo: "Con nó bú rồi." 

Dương Thu Trì ôm chặt Liễu Nhược Băng, vui mừng nhìn con trai mình nhắm mắt tham lam bú sữa, nhịn không được thò tay bẹo má, bảo: "Băng nhi, ta muốn mỗi ngày đều nhìn nàng cho con chúng ta bú sữa thế này!" 

"Dạ...! Được a." Liễu Nhược Băng càng dựa sát vào người hắn hơn, cảm giác lòng tràn đầy hạnh phúc, và vì hạnh phúc trong giờ khắc này, những khổ đau, lệ nóng... trước đó đều thật đáng. 

----o0o----- 

Trong đại viện của chùa, Tống Vân Nhi sau vài lần nhấp nhô đã chặn được Dương Ứng Năng, cười lạnh bảo: "Ngươi muốn đi sao không thông báo một tiếng, chẳng phải là đã nói rõ rồi là sẽ lăng trì hay sao?" 

Dương Ứng Năng sợ đến toàn thân phát run, lùi lại mấy buớc, lúc này, một thanh đoản kiếm phóng về phía Tống Vân Nhi, một người cao gầy kêu lên: "Dương gia mau chạy, tôi đoạn hậu!" 

Người đến chính là Cường Ba. Tống Vân Nhi huy đoản kiếm, hai người đấu rát với nhau. 

Dương Ứng Năng chuyển thân định chạy, Tống Vân Nhi vẫn nhất mực dùng khóe mắt canh chừng y, nhân dịp rảnh tay phóng ra ngay hai mũi liễu diệp phi tiêu, phân biệt đánh trúng nhượng hai chân của Dương Ứng Năng, đánh gãy xương gối của y. Dương Ứng Năng gào thảm, té năm lăn lộn dưới đất. 

Thấy Dương Ứng Năng không còn cách nào đào tẩu nữa, Tống Vân Nhi trầm tĩnh nghênh chiến. Lần này không phải bỉ võ như dưới núi, mà là ra đòn độc quyết lấy mạng nhau. 

Tống Vân Nhi mắt thấy viện quân lục tục kéo đến, bên mình dần dần chiếm thượng phong, lòng tự tin đại tăng, xuất kiếm chiêu sau nhanh hơn chiêu trước; Trong khi đó Cường Ba lòng nóng như lửa đốt, một lòng muốn đánh lui Tống Vân Nhi đoạt lộ mà chạy, tự nhiên càng gấp càng hỏng, sau vài chục chiêu, chỉ còn biết lấy chiêu chiết chiêu chứ không có lực hoàn thủ nữa. 

Trong cơn kịch chiến, Tống Vân Nhi chợt nạt to, vút vút vút ba kiếm, hai tay Cường Ba liền đứt tận đến cùi chỏ, huyết nhận đoản kiếm bay đi thật xa, và chân phải cũng bị một kiếm đâm xuyên, gào thảm ngã vật ra đất, nằm ngữa ra ngất đi vì đau đớn. 

Tống Vân Nhi ngước mắt nhìn, thấy Minh quân và hộ vệ trên quảng trường đang như bầy ong bay tới, bao vây phân cắt chúng tăng binh, bên phe nàng đại thắng. 

Lòng khẩn trương của Tống Vân Nhi bấy giờ mới hạ xuống, lúc này, Nam Cung Hùng cùng mọi người cũng chạy tới. Tống Vân Nhi lệnh cho Nam Cung Hùng cùng các hộ vệ trói Dương Ứng Năng lại, trọng điểm coi giữ, rồi cầm máu cho Cường Ba, để khỏi mất máu nhiều quá mà chết, giữ lại nhân chứng sống hỏi tội. 

Đến lúc này, quảng trường quỳ đầy tăng chúng và Kiến Văn dư đảng đã hàng. Ở xa xa chợt nghe có người lớn tiếng gọi: "Tống cô nương...!" Mấy thân binh hộ vệ vây quanh một vị tướng quân người mặc khải giáp cưỡi ngựa chạy tới. 

Tống Vân Nhi nhìn kỹ, quả nhiên là đô chỉ huy sứ Dư Hiên của Đóa Cam, bấy giờ mới rõ lời Dương Thu Trì lúc nãy không phải nói bừa. 

Dư Hiên giục ngựa chạy tới trước, phiên thân hạ mã, chấp hai tay thành quyền hỏi: "Cô nương, Dương tước gia đâu? Hạ quan không đến chậm chứ?" 

Tống Vân Nhi hừ lạnh, hỏi lại Dư Hiên: "Ngươi nói coi? Ca ca của ta bảo các ngươi chờ ở giữa núi, thấy hỏa tín là lập tức xông lên, các ngươi bày trò gì mà giờ này mới lên tới? Nếu đến trễ nửa bước, thì coi như giúp chúng ta thu thây mà thôi." 

Dư Hiên bẽn lẽn đáp: "Hạ quan án chiếu lời dặn dò của tước gia mà làm. Lần này mang theo đều là kỵ binh, không ngờ Niên Bảo Ngọc Tắc này sơn thế nhỏ hẹp, chỉ có mấy con đường ruột dê có thể lên núi. Chúng tôi án theo kế hoạch lên được giữa núi, thấy tín hiệu là xông lên ngay." 

Tống Vân Nhi lạnh giọng hỏi: "Nếu như các ngươi án theo kế hoạch lên giữa núi, sao tới bây giờ mới xông lên tới đây?" 

Dư Hiên chấp tay: "Cô nương, cô lên núi thấy rồi đó, thần sơn này chỉ có mấy sơn lộ, ngoài sơn lộ có rìa quá nhỏ hẹp gấp khúc. Ngựa lên không được, do đó chỉ có thể cưỡi ngựa dọc theo sơn đạo mã xông lên, kết quả ở trên bị địch quân chiếm cứ yếu điểm ngăn lại, ở dưới lên không được." 

Tống Vân Nhi nghĩ tới lúc ba người suýt bị thiêu chết, trong lúc tức giận buột miệng mắng: "Ngươi không có đầu óc..." rồi cảm thấy không thỏa, khẩu khí liền hòa hoãn lại bớt, hỏi: "Vậy ngươi không biết nghĩ biện pháp sao?" 

Dư Hiên cảm thấy rất ủy khuất, cười khổ hồi đáp: "Ta nghĩ rồi chứ, ta vừa nhìn tình hình không ổ, hạ lệnh xuống ngựa xông lên. Nhưng mấy nghìn huynh đệ kéo dài, phía sau muốn trèo lên tới phải phí mất nửa ngày. Ngoài ra, các huynh đệ đều mặc khải giáp quá nặng. Núi này quá nhỏ hẹp, leo lên thở phì phò, ta liền hạ lệnh cởi khải giáp xung phong, nhưng những binh sĩ này không quen đột tập lên tuyết sơn, giống như đàn bà vậy, trèo mấy bước đã thở như trâu, do đó... mới trễ nãi như vậy..."

Chủ phong của Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn này cao hơn năm nghìn ba trăm mét so với mực nước biển, dưỡng khi chỉ chiếm một phần ba so với bình nguyên, cho nên tác chiến ở chỗ cao thế này đích xác là không thể nào sánh được khi ở bình nguyên hay những sơn khu thấp bé. Cộng thêm thế núi gấp và nhỏ hẹp, trong vòng một thời thần mà có thể chạy bộ từ giữa núi xông lên tới đỉnh thì kỳ thực là hiếp có rồi, huống chi phải mặc khải giáp nữa. 

Kế hoạch tác chiến lần này xảy ra vấn đề ở chỗ nhận thức không đầy đủ về khó khăn trong tác chiến ở những chỗ quá cao. Dương Thu Trì trước khi đi viện trợ cho Tây Tạng trong thời hiện đại tuy có xem qua tư liệu của vùng, nhưng hắn ngồi tạp xa đến A Lí, chứ không có leo núi, đối với chuyện leo núi khó khăn như thế nào không nhận thức đầy đủ. Còn Dư Hiên trước đây là quan ở Thành Đô, mới vừa điều đến Cam Tư không lâu, cho nên không có kinh nghiệm tác chiến ở vùng này. 

Hai người án chiếu theo cách suy nghĩ tác chiến ở những sơn khu thấp bé ở Tứ Xuyên mà đề ra kế hoạch. Trong tình huống bình thường, căn cứ theo độ cao tương đối của Niên Bảo Ngọc Tác thần sơn, muốn xông từ giữa núi lên đỉnh chỉ cần thời gian ăn xong bửa cơm là đủ. Duơng Thu Trì tính toán có hai đại cao thủ là Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi, chỉ thủ không công, kiên trì chừng ấy thời gian không phải là vấn đề. Hơn nữa, hai trăm hộ vệ của hắn làm quân tiên phong cũng có tác dụng kéo dài thời gian, cho nên tự cảm thấy kế hoạch này có thể tiến hành. 

Chỉ có điều, bọn họ chưa hề đến qua Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn, không biết núi này đường đi nhỏ hẹp. Quan trọng hơn nữa là các kế hoạch dự phòng và lường trước khó khăn khi chiến đấu ở độ cao không đủ, cộng thêm Liễu Nhược Băng sinh con giữa chừng... những thứ tấu xảo này hợp lại, suýt chút nữa đã xảy ra chuyện lớn. Rất may là bọn Dương Thu Trì có kinh hãi chứ không nguy hiểm. 

Tống Vân Nhi nghe y nói cũng có phần hợp lý, bấy giờ mới phẫy tay: "Được rồi được rồi, rất may chúng ta đều không sao." Xong nàng chuyển thân chỉ lên kim đỉnh, "Ca ca ta và sư phụ của ta đang ở trên đó, các người trước hết không cần lên, chờ tiêu diệt hết các phỉ tặc này xong rồi tính!" 

Dư Hiên khom người thưa: "Xin nghe lời dạy của cô nương." Nói xong chuyển thân lên ngựa, dẫn binh xông tới chém giết.

Mấy nghìn Minh quân bấy giờ đã khống chế toàn bộ cục diện, mọi Kiến Văn dư đảng và tăng chúng đệ tử của Đế Lạc mưu phản đã bị giết đại bộ phận, số còn lại bị bắt hết. 

Lúc này, Hồng Lăng cưỡi ngựa dưới sự bảo hộ của Hạ Bình và các nữ hộ vệ đã lên núi. Hồng Lăng giục ngựa đến trước mặt Tống Vân Nhi, buông mình xuống ngựa, hỏi dồn: "Tống cô nương, lão gia của chúng ta đâu? Lão gia khỏe không?" 

Tống Vân Nhi cười hì hì đáp: "Lão gia của các người khỏe, chỉ suýt thành than thôi." 

"Thành than?" Hồng Lăng không hiểu Tống Vân Nhi nói đây là ý gì. 

Tống Vân Nhi cười, đưa hai tay lên mặt vẽ vài động tác, rồi chỉ lên kim đỉnh: "Ở trên đó." 

"Em muốn lên đó xem." Hồng Lăng khẩn cấp, "Sao lại lên đó chứ?" 

"Em chờ một chút," Tống Vân Nhi nói, tiếp theo bước tới cạnh Hạ Bình, đem chuyện Liễu Nhược Băng sinh con nói cho Hạ Bình nghe. Hạ Bình lập tức lệnh cho các nữ hộ vệ vào trong chùa chuẩn bị nước nóng, sau đó dẫn theo các hộ vệ lớn tuổi bắc thang cùng Tống Vân Nhi và Hồng Lăng leo lên trên kim đỉnh. 

Hồng Lăng lên trên kim đỉnh, thấy trên lớp tuyết dày đâu đâu cũng có tên đã bị cháy qua, khắp phòng cắm đầy tên. Mỗi bước chân của nàng đều dẫm lên không biết cơ man nào là tên, phát ra những tiếng lác rắc. Tường vậy và căn phòng gỗ nhỏ đối diện cũng bị đốt cháy xém. Một thân hình to như gấu chó nằm đó, máu nhiễm hồng cả tuyết, cái đầu to bằng cái đấu lăn sang một bên. 

Mọi thứ ở đây cho nàng biết trên kim đỉnh đã phát sinh lửa lớn và cuộc chiến thảm liệt như thế nào, không khỏi khiến nàng rúng động tâm can, hoảng loạn run giọng gọi: "Lão gia...! Lão gia...! Người ở đâu?" 

Tống Vân Nhi thấy căn phòng gỗ đóng chặt, biết Dương Thu Trì chắc là ở trong, bèn vỗ vai Hồng Lăng, bước lên trước đẩy cửa nhưng không được, cất tiếng gọi: "Sư phụ! Ca!" 

Dương Thu Trì ở trong lên tiếng: "Chờ chút!" Bèn đặt Liễu Nhược Băng cho dựa vào tường, chạy tới khuân cái tượng đồng dời qua một bên. 

Tiểu hắc cẩu nhảy ra từ khe cửa hở, vẫy đuôi mừng rỡ chạy quanh Hồng Lăng. Dương Thu Trì mở cửa, lên tiếng: "Lăng Lăng!" 

Hồng Lăng bấy giờ mới phát hiện con người lang bái bất kham này chính là lão gia của nàng, chỉ nhận ra được mặt mày Dương Thu Trì bị khói ám nám đen, mũ ô sa trên đầu bị đốt cháy chỉ còn một chút, quan bào trên người không thấy đâu, áo len ấm cũng không có, chỉ còn nội y bị lửa khói đốt nám đen thủng lổ chỗ không còn ra hình dạng gì. 

Thấy Dương Thu Trì trong bộ dạng thảm thương như vậy, Hồng Lăng nhỏ lệ chạy tới, nhào vào lòng hắn, giữ chặt cánh tay, hỏi hắn bị thương thế nào. 

Dương Thu Trì nhe răng cười, lộ hàm răng trắng hếu vô cùng bắt mắt trên gương mặt đen xì xì: "Lăng Lăng không khóc, lão gia ta chỉ bị thương nhẹ, không sao đâu. Đúng rồi, trên đường chỉ ăn toàn dê thui, chắc đồ ăn lây qua người, biến Dương tước gia ta suýt thành Dương dê nướng rồi!" 

Mọi người đều cười, Hồng Lăng hiện giờ mới hiểu cái ý tứ "cục than" mà Tống Vân Nhi nói có nghĩa là gì. Hiện giờ thấy Dương Thu Trì không đáng lo lắm, nên mới đổi khóc làm cười, cởi cái áo khoác da hổ trên người xuống mặc cho Dương Thu Trì. 

Lúc này, Hồng Lăng mới nhìn thấy Liễu Nhược Băng ngồi dựa vào tường, trên bụng ôm một em bé sơ sinh bọc trong chiếc áo bông giữ ấm của Dương Thu Trì, vui mừng reo lên: "Liễu tiền bối, người sinh rồi?" Xong chạy đến quỳ bên cạnh Liễu Nhược Băng, vui mừng nhìn em bé. 

Liễu Nhược Băng cười mỉm gật đầu, em bé nheo mắt ngáp, chọc Hồng Lăng và Liễu Nhược Băng cười khanh khách. 

Hạ Bình cùng vài nữ hộ vệ đều đã làm mẹ qua, biết nên làm sao để chiếu cố sản phụ trong tháng, bắt đầu bận rộn lo liệu đâu vào đó. Các hộ vệ nối bắt lại cầu thang, khiêng Liễu Nhược Băng xuống, tìm một căn phòng sạch sẽ tạm thời cho nghỉ ngơi. 

Họ lại cắt cử nữ hộ vệ chuyên môn làm hộ lí tẩy rửa vết thương cho Dương Thu Trì, băng bó lại cho kỹ. Sao khi kiểm tra, thương thế không đáng ngại gì. 

Chiến đấu đã kết thúc, Dư Hiên bố trí thu dọn chiến trường, sau đó gặp mặt Dương Thu Trì, lại mộ phen giải thích. Dương Thu Trì bấy giờ mới biết quyết sách của hai người có vấn đề, rất may có kinh mà không hiểm, cho rằng đã gặp may lớn. 

Dương Thu Trì nhất nhất đề thẩm Dương Ứng Năng và các Kiến Văn dư đảng bị bắt ngay tại đại hùng bảo điện. Ngoài ra còn tra hỏi đệ tử Cường Ba của Đế Lạc và các tăng chúng, Kim sư gia ngồi kế bên ghi chép hết. 

Điều khiến mọi người vui mừng và rất bất ngờ chính là trong số tăng chúng người Tạng kia lại có một người Hán, hơn nữa tướng mạo vô cùng quen thuộc, Dương Thu Trì nhíu mày suy nghĩ hồi lâu, bấy giờ mới đột nhiên nhớ lại. 

Dương Thu Trì cho Nam Cung Hùng mang lệnh truy nã có hình của cẩm y vệ ra đối chiếu, thì ra người Hán trà trộn vào trong tăng chúng người Tạng đây chính là cừu nhân mà hắn nhất mực tìm kiếm, quả thật là "đạp hết gót giày tìm không thấy, vô tình lại được chẳng phí công". Bắt được người này, bao nhiêu chủng nghi hoặc chớp mắt đã rõ ràng hết. 

Thẩm vấn tiến hành suốt cả một ngày, thu hoạch rất khả quan, đêm đó hắn ngụ lại trong chùa. 

Liễu Nhược Băng nghỉ ngơi một đêm, do thân có tuyệt thế võ công, thân thể khôi phục rất nhanh, sáng hôm sau đã có thể đi đứng nhẹ nhàng. Và thế là, Dương Thu Trì hạ lệnh khởi trình, trở về Thành Đô. 

Thành Đô, Khuông phủ. 

Khuông Hiền Giác là hàn lâm viện đại học sĩ đương triều, sau khi cáo lão hoàn hương, suốt ngày ở ẩn ít ra mặt. Con trai của ông ta là Khuông Di tuổi trẻ tài cao, còn trẻ như vậy mà đã đậu tiến sĩ, được hữu bố chánh sứ Ngô Từ Nhân mời làm tiên sinh cho con gái của mình. 

Không bao lâu sau, Khuông Hiền Giác biết con trai mình và con gái Ngô Xảo Trinh của Ngô bố chánh sứ tâm đầu ý hợp, nếu như có thể kết thân với Ngô bố chánh sứ, thì rất môn đăng hộ đối, nên vừa ý vô cùng. 

Thật không ngờ khi con trai đi Lô châu tế bái mẫu thân, ngay ngày hôm sau là Ngô Xảo Trinh bị người ta giết trong phòng. Khuông Di khóc lóc thương tâm, ngất đi ngất lại mấy lần. Khuông Hiền Giác vì con trai vì mất đi người vợ lý tưởng này mà thập phần tiếc rẻ. 

Ngô Xảo Trinh hạ táng được nhiều ngày, con trai Khuông Di của ông ta vẫn suốt ngày ở phong rơi lệ thương tâm, khiến cho Khuông lão gia tử rất khó xử. 

Đêm hôm đó, Khuông lão gia tử cùng Khuông Di đang ở hậu hoa viên đốt lửa nói chuyện, liền nghe có người bên ngoài gỏ nhẹ vào cửa sổ, Khuông lão gia tử ngẩn người hỏi: "Là ai?" 

Không có tiếng hồ đáp, tiếp đó là mấy tiếng gỏ nữa. Khuông Di và Khuông lão gia tử đối mắt nhìn nhau. Khuông Di vén áo bào, cho tay vào eo, chậm bước ra cửa, thấy trong ánh trăng thanh lạnh ở vườn có một người đang đứng. Người này một thân hắc y, mang mạng che mặt màu đen, thân người nhỏ thó, trong tay nắm một thanh đoản kiếm. 

Khuông Di hỏi: "Các hạ là ai? Tại sao tự tiện xông vào Khuông phủ, đây là ý gì?" 

Hắc y nhân không lên tiếng, hàn quang lóe lên, một kiếm đã đâm tới Khuông Di. 

Khuông Di bật người né tránh, tức giận quát: "Giỏi cho thích khách, dám đến Khuông phủ của ta hành hung." Cổ tay của y lật ngang, trong chưởng cũng xuất hiện một thanh đoản kiếm, đấu rát với thích khách. 

Khuông lão gia tử đối với võ công của con trai vô cùng tự tin, đứng dưới lan can không lớn tiếng gọi ai. Nhưng mà, sau khi nhìn một hồi, thấy võ công của thích khách cao tuyệt, con trai không phải là đối thủ, rơi vào thế hạ phong, nên rất khẩn trương. 

Không ngờ, Khuông Di chợt hừ lạnh một tiếng, kiếm pháp đột biến, trở nên quỷ dị thập phần, chỉ toàn xuất chiêu từ những góc độ không thể nào ngờ. 

Hắc y nhân có thân hình nhỏ nhắn đó không kịp đề phòng, tức thì tay chân luống cuống. Khuông Di cười độc ác hỏi: "Thế nào? Biết lợi hại chưa?" Rồi từng chiêu liên tục đánh tới, bức cho hắc y nhân đến góc tường, rồi y chợt quát: "Triệt kiếm!" 

Lanh cạnh một tiếng, một thanh đoản kiếm bay lên trên không, trong ánh trăng lấp lánh mấy lượt, rồi rơi xuống cắm phụp vào đất, thân kiếm vẫn lắc lưu rúng động. 

Sắc mặt Khuông Di tái nhợt, không dám động đậy, nhân vì đoản kiếm của hắc y nhân không ngờ đang kề sát yết hầu của hắn! 

Hắn không ngờ rằng hắc y nhân này rõ ràng đã bại tới nơi, một kiếm siêu việt lạ thường của hắn đáng ra phải đánh bay kiếm của đối phương, không ngờ ngược lại kiếm của hắn lại bị đối phương đánh văng đi. 

Khuông Di bấy giờ mới hiểu, thì ra võ công của hắc y nhân này cao hơn hắn một bậc, vừa rồi chẳng qua là cố ý giả vờ, nhưng không hiểu là vì cớ gì. 

Khuông lão gia tử thấy con trai bị hắc y nhân khống chế, không khỏi cả kinh, vừa định kêu lớn, đột nhiên phát giác cần cổ mát lạnh, không biết đã có thêm một thanh trường kiếm từ lúc nào. Lão liếc mắt nhìn, thấy bên cạnh có một hắc y nhân khác đang đứng, thân hình khôi ngô, mục quang như điện. Kẻ này đang lạnh lùng nhìn lão, khiến lão sợ quá vội ngậm miệng lại ngay. 

Lúc này, hậu hoa viên chợt xuất hiện rất nhiều người, đều mặc áo phi ngư, eo mang trúc xuân đao, tay cầm đèn lồng sáng trưng, chiếu hậu hoa viên rỏ như ban ngày. 

Khuông Di càng kinh ngạc hơn, đưa mắt nhìn, thấy ở giữa có một người trẻ tuổi mặc quan bào, tức thì cả kinh, há miệng hỏi: "Dương... Dương tước gia? Ngài... ngài sao lại ở đây?" 

Người này chính là Dương Thu Trì, phía sau lưng còn có cẩm y vệ thiên hộ Trầm Sĩ Sanh và các quan viên cẩm y vệ của Tứ Xuyên. 

Dương Thu Trì cười lạnh đáp: "Khuông Di, bổn quan từ Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn bình an trở về, điều này làm ngươi bất ngờ lắm phải không? Bổn quan vừa về tới, là vội đến ngay xem vị tục gia đệ tử của Quán Đỉnh pháp vương Đế Lạc có pho kiếm pháp quái dị luyện đến đâu rồi, và quả thật là khá lắm ha?" 

Thần sắc của Khuông Di đại biến: "Tước gia..., tại hạ không biết lời của ngài có ý tứ gì." 

Dương Thu Trì không lý gì hắn, bước lên trước thanh đoản kiếm, rút lên xem, dùng tay bún một cái, nói: "Thanh đoản kiếm này thật là lợi hại, liên tục giết chết luôn Ngô Xảo Trinh tiểu thư và Phương Tiệm công tử. Khuông công tử luyện pho kiếm này không tệ a. Chỉ có điều, rất may là xá muội đã kiến thức qua chỗ quái dị trong kiếm pháp này của ngươi, cho nên ngươi không làm gì muội ấy được." 

Hắc y nhân dùng kiếm kề cổ Khuông Di cười hi hi, kéo khăn che mặt xuống, thì ra là Tống Vân Nhi. 

Khuông Di cả kinh: "Tước gia... các vị đây là..." 

Dương Thu Trì lạnh giọng nói: "Sư phụ Quán đỉnh pháp vương của ngươi thông đồng với Kiến Văn dư đảng, ý đồ mưu phản, đã bị ta giết ngay tại trận. Bổn quan đã tra rõ ràng, ngươi chính là tục gia đệ tử của lão. Các ngươi cấu kết với nhau, cố ý dùng pho kiếm pháp này giết chết Ngô Xảo Trinh và Phương Tiệm, một là giết người diệt khẩu, hai là để làm mồi nhử ta, để thiết kế mai phục ở Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn, toan tính hành thích bổn quan. Không ngờ bổn quan tương kế tựu kế, bắt hết một rọ Kiến Văn dư đảng và pháp vương phản tặc. Vừa rồi Vân nhi quá chiêuu với ngươi, chính là muốn tra cho rõ xem ngươi có biết pho võ công này hay không, quả nhiên nửa điểm không sai. Đồng đảng của ngươi đều đã khai hết, ngươi còn có lời gì để nói hay không?" 

Khuông Di mặt cắt không còn hột máu: "Tước gia, tôi không biết cái gì là đồng đảng, tước gia nhất định là nhìn lầm rồi." 

"Vậy sao?" Dương Thu Trì cười lạnh, lập tức quát gọi: "Đưa vào!"

Cửa hậu hoa viên bị mở ra, Dương Ứng Năng bị cắt cụt hai chân được mấy hộ vệ khiêng vào, phía sau còn có Đế Lạc bị cụt hai tay và một chân cùng các đệ tử khác của Đế Lạc bị xích sắt trói chặt áp vào trong. 

Khuông Di vừa nhìn thấy Dương Ứng Năng, Cường Ba và những người khác, sắc mặt tức thời đại biến. Dương Ứng Năng ủ rũ nhìn Khuông Di, lẩm bẩ,: "Xin lỗi, Khuông công tử." 

Dương Thu Trì hỏi: "Thế này thì Khuông công tử ắt biết cái gì là đồng đảng rồi phải không?" 

Sắc mặt Khuông Di tái ngắt, nhãn thần lóe một tia kinh khủng, thân hình chợt động, định xông ra ngoài. Đoản kiếm của Tống Vân Nhi như hình với bóng, vội di động theo, thủy chung kề sát yếu hầu của Khuông Di. 

Khuông Di biết võ công của mình quá kém, không có cách gì đào tẩu, chỉ còn biết thở dài nhắm mắt.

Khuông lão gia tử cả kinh kêu lên: "Tước gia, có thể là ngài nhận sai rồi, con trai ta làm sao mà là hung thủ giết chết Ngô Xảo Trinh chứ, chảng thể nào! Lúc Xảo Trinh cô nương chết, con trai ta còn đang trên đường đi bái tế mẫu thân mà." 

Dương Thu Trì ra hiệu, Nam Cung Hùng khống chế Khuông lão gia tử triệt hồi trường kiếm. Dương Thu Trì hô: "Mang ra đây!" 

Hộ vệ hai người từ ngoài hậu hoa viên đưa vào. Dương Thu Trì nói: "Khuông đại nhân, để ta giới thiệu một chút. Hai vị này là chưởng quỹ và tiểu nhị của Phúc Lai khách sạn tại Mãnh Lương trấn. Bọn họ chứng minh đêm đó lệnh lang ăn cơm tối ở đó, đọc sách trong phòng suốt đêm không ra ngoài. Đánh ăn nhẹ trong đêm đặt ở ngoài cửa sổ, đêm đó điếm tiểu nhị nhân vì hiếu kỳ đã từng lén đến nhìn trộm qua song cửa, trong phòng không có người." Dương Thu Trì chuyển thân hỏi hai người đó: "Nhị vị, bổn quan nói có đúng không?" 

Điếm tiểu nhị khom lưng thưa: "Dạ phải, canh năm hôm đó, Khuông công tử ở trong phòng bước ra, dường như là rất mệt mỏi. Còn nữa, lúc tôi cho ngựa ăn, phát hiện có một thớt ngựa toàn thân ngựa đầy mồ hôi, thở phì phì phún ra hơi." 

Khuông lão gia tử đã từ từ minh bạch điều đó có ý nghĩa gì, nhìn về Khuông Di con trai lão. 

Khuông Di vẫn nhắm mắt, chẳng nói lời gì. 

Dương Thu Trì lại lên tiếng: "Lệnh lang rời khỏi Mãnh Lương trấn là vào giữa trưa, ăn cơm ở Tam Khỏa Lí trấn. Bửa ăn này nhất mực ăn đến tối, sau đó tối đến họ ngủ ở Tam khỏa lí, sáng ngày hôm sau mới xuất phát. Khuông đại nhân, ngài có biết, lệnh lang vì sao ăn cơm trưa xong rồi không đi nữa không?" 

Khuông lão gia tử cảm thấy toàn thân phát nhuyễn, dựa lưng vào tường, lắc đầu. 

Dương Thu Trì nói tiếp: "Nhân vì đến Tam Khỏa Lí xong, lệnh lang liền cưỡi ngựa li khai, đến nửa đêm mới trở về. Điểm này chúng ta đã tiến hành điều tra xác định rõ với chưởng quỹ và điếm tiểu nhị của khách sạn tại Tam Khoa Lý. Khuông đại nhân có biết lệnh lang hai lần thất tung là đi làm cái gì không?" 

Khuông lão gia tử thảm não lắc đầu, nhưng trong thâm tâm hi vọng kết quả này không ai hay biết. 

Nhưng Dương Thu Trì đã biết: "Lệnh lang lần đầu thất tung là trực tiếp trở về nội nha nha môn của bố chánh sứ, tiềm nhập vào phòng của Ngô Xảo Trinh tiểu thư. Trước khi đó, công tử Phương Tiệm của Mi châu tri châu Phương đại nhân ngẫu nhiên quen biết với Ngô Xảo Trinh tiểu thư, lòng sinh luyến ái, nhưng ấn tượng của Ngô Xảo Trinh tiểu thư đối với Phương Tiệm cũng không tệ. Do đó, đêm hôm đó, Phương Tiệm thân có võ công vượt tường vào trong, vừa khéo thấy lệnh lạng và Ngô Xảo Trinh tiểu thư thân mật. Trong lúc thương tâm, Phương Tiệm đã vượt tường bỏ đi. Sau đó, lệnh lang dùng chiếu số quái dị đột nhiên tập kích, đâm chết Ngô Xảo Trinh." 

Nói đến đây, Dương Thu Trì thở dài: "Kỳ thật, lệnh lang vẫn thật lòng thích Ngô Xảo Trinh. Hắn đâm chết Ngô Xảo Trinh cũng là đau lòng tức giận bản tính dễ thay lòng đổi dạ của cô ta. Đương nhiên, nguyên nhân chủ yếu còn là cái khác nữa. Do đó, sau khi hắn đâm chết Ngô Xảo Trinh, đã mang theo một chiếc hài của cô ta. Hôm sau, khi hắn đâm chết Phương Tiệm, đặt chiếc hài này trên thi thể của Phương Tiệm, để cho y biết hắn là vì chiếc hài rách này mà chết thôi - điểm này có chút tính cách của trẻ con. Phụ thân của Phương Tiệm không biết, còn cho rằng đó là của một cô nương tâm ái nào đó của Phương Tiệm, nên đặt nó trong quan tài để bồi táng." 

Dương Thu Trì quay đầu lại nhìn Tống Vân Nhi, mỉm cười: "Sau đó, xá muội nửa đêm thăm linh đường, phát hiện Phương Tiệm chết, rồi do không kịp đậy quan tài mà phải bỏ đi, dẫn đến mọi người cho rằng đó là hiện tượng sạ thi. Các bộ khoái tiến vào vật lột xếp lại tử thi trong quan tài, dẫn tới chiếc hài này rơi ra, và những người khác do không biết lai lịch của chiếc hài thêu hoa này, cho rằng đó là hiện tượng có quỷ." 

Dương Thu Trì móc từ trong lòng ra một vật, dùng tay nhón ra, dưới ánh đèn thì ra là một chiếc hài thêu hoa tinh xảo. Dương Thu Trì nói tiếp: "Trước khi bổn quan vào thành, đã tiến hành điều tra ngoại vi, tìm được Mi châu tri châu Phương đại nhân, hiểu rõ toàn bộ quá trình, và khai quan thu lấy chiếc hài hoa này. Kinh qua kiểm tra, dấu tay trên hài này là của lệnh lang Khuông Di. Kết hợp trí mệnh thương trên thi thể Phương tiệm, bấy giờ bổn quan mới tin chắc Phương Tiệm là do lệnh lang đâm chết." 

Khuông Hiền Giác không biết Dương Thu Trì dùng phương pháp gì mà biết dấu tay trên hài là của con trai mình, nhưng dù sao thì còn có một vấn đề lớn hơn mà ông ta cần biết. Khuông Hiền Giác kêu lên: "Toàn là hồ ngôn, nếu như khuyển tử yêu thương sâu sắc Ngô Xảo Trinh cô nương, chẳng lẽ chỉ đơn giản vì tính tình dễ thay dạ đổi lòng mà giết cô ta sao? Còn giết luôn cả Phương công tử, thật là nực cười!" 

Dương Thu Trì chẳng bực mình gì, "Điểm này có nguyên nhân phải nói lại từ đầu. Bổn quan tra án của thuyền bang, gần như người trong toàn bộ Tứ Xuyên tỉnh này đều biết, Khuông đại nhân xem ra là biết chứ?" 

Khuông Hiền Giác gật đầu. 

"Bổn quan chỉ một lần hành động là diệt gọn thuyền bang ở Bảo Ninh phủ, do đó thuyền bang hận bổn quan thấu xương, nhất mực muốn giết bổn quan cho nhanh. Lệnh lang dối lão tham gia Kiến Văn du đảng, nhận lệnh lập kế hành thích bổn quan. Hắn lợi dụng sự luyến ái của Ngô Xảo Trinh tiểu thư, nhờ Ngô Xảo Trinh nói với cha cô ta là Ngô Từ Nhân, thỉnh biểu thúc Bành Hạ Hỉ đến Thành Đô bàn bạc về vụ mời thỉnh bổn quan đến Ân Dương trấn tham gia Tiên nữ tiết. Theo Bành Hạ Hỉ còn có một nha hoàn tên gọi là Thúy Hoàn. Đây cũng là người của Thuyền bang. Lệnh lang viết một phong mật tín của thuyền bang. Bọn họ đều sử dụng liên hệ đơn tuyến, nên vì ẩn giấu thân phận của mình, đã thông qua Ngô Xảo Trinh giao cho Thúy Hoàn. Phong thư này ra lệnh cho Thúy Hoàn lợi dụng cơ hội bổn quan đến Ân Dương trấn, hành thích bổn quan...." 

"Chờ đã!" Khuông Hiền Giác phảng phất phát hiện một hỗ hở vô cùng trong đại, vội hỏi, "Nếu như khuyển tử là Kiến Văn dư đảng, sao có thể chỉ huy người của thuyền bang là Thúy Hoàn? Ngươi nói vậy chẳng phải là nói bậy hay sao?" 

Dương Thu Trì nhìn nét vui mừng lóe lên trong mắt Khuông Hiền Giác, một sự vui mừng vì hi vọng mong manh. Chỉ có điều ông ta không muốn nhen nhóm quá cao đốm lửa hy vọng này, vì đó chỉ là một đốm lửa đơn côi đầy tuyệt vong, cuối cùng cũng bị hiện thực tàn khốc dập tan mà thôi. 

Dương Thu Trì thở dài: "Khuông đại nhân, thuyền ban câu kết với Kiến Văn đảng. Thuyền bang vận tải muối lậu cùng làm nhiều việc xấu để kiếm tiền, và đại bộ phận tiền đó đều cấp cho Kiến Văn dư đảng làm quân lương cho sự mưu phản trong tương lai!" 

Mắt Khuông Hiền Giác ánh tia hoảng sợ, hỏi dồn; "Dương tác gia nói lời này có gì làm căn cứ?" 

Nếu như đã nói đến nước này, Khuông Hiền Giác đã từng là hàn lâm viện đại học sĩ, không phải là nhân vật tầm thường, Dương Thu Trì phải nói ra co ông ta rõ, dù khi ông ta biết rõ mọi chuyện, thì tia hi vọng cuối cùng cũng bị dập tắt. 

Dương Thu Trì quay đầu lại nhìn Nam Cung Hùng. Nam Cung Hùng gật đầu, chạy ra cửa sau hậu hoa viên, lát sau mang theo các hộ vệ áp giải một người bị xích tiến vào. 

Khuông Hiền Giác nhìn kỹ người này, không nhận thức, không khỏi nghi hoặc nhìn Dương Thu Trì. 

Dương Thu Trì nói: "Khuông đại nhân có thể không nhận thức người này, nhưng người này ở Bảo Ninh phủ có danh rất lớn. Y tổ chức vận chuyện muối lậu, phái người giết chết vợ con của Ba châu tri châu tiền nhiệm, tụ tập chúng đảng bao vây và tập kích cẩm y vệ, lại phái người toan tính bắt cướp tiểu thiếp của ta, đánh người thiếp đang mang thai của ta thành trọng thương, dường như mất một lúc hai mạng. Hắn chính là kẻ bị cẩm y vệ truy nã toàn quốc - Phân đà chủ Lục Tiệm Li của thuyền bang ở Bảo Ninh phủ!" 

Khuông Hiền Giác lập tức chết điếng người. Lão đã từng là hàn lâm viện đại học sĩ, thông minh hơn người, sau không biết Dương Thu Trì hiện giờ đem người này lộ ra là với dụng ý gì. Nhưng ông ta không chịu thua, nhìn Dương Thu Trì, chỉ có điều không còn sức để cất tiếng hỏi nữa. 

Tuy ông ta không hỏi, nhưng Dương Thu Trì vẫn giải thích: "Bổn quan lần này tương kế tựu kế, mạo hiểm thâm nhập sào huyệt của phản tặc là Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn, bủa một lưới bắt hết phản tặc, không ngờ phát hiện kẻ thù bất cộng đái thiên của bổn quan. Quả thật là trời không phụ ta!" Chuyển thân, hắn nhìn Lục Tiệm Li trừng trừng, lạnh lùng hỏi: "Lục chưởng quỹ, ngươi nhân thức vị Khuông Di Khuông công tử này hay không?" 

Lục Tiệm Li từ từ ngẩng đầu, nhìn Khuông Di, gật gật đầu. 

"Ngươi đem chuyện ở Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn nói ra trước mặt Khuông đại nhân một lượt, để cho Khuông đại nhân biết rốt cuộc đó là chuyện gì." 

Lục Tiệm Li nói: "Thuyền bang chúng ta kỳ thật... kỳ thật vì Kiến Văn Đế, không, Kiến Văn dư đảng mà vận chuyển muối lậu để chuẩn bị tiền của cho công cuộc mưu phản. Dương tước gia phá thuyền bang của chúng ta ở Bảo Ninh phủ, nhất mực truy theo chúng ta. Ta được Dương Ứng Năng an bài trốn đến Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn, để báo thù, và để phòng ngừa trinh phá Thuyền bang án rồi thuận đầu mới tìm tới người của Kiến Văn, chúng ta mới bày ra kế... kế sách thích sát Dương tước gia..., chuyện này ta cùng Dương Ứng Năng, Đế Lạc pháp vương ba người bày ra kế hoạch cụ thể, giao cho tục gia đệ tử của Đế Lạc là Khuông Di thực thi cụ thể...." 

Khuông Hiền Giác vô lực kêu lên: "Các ngươi vì sao lại lôi kéo con trai ta....? Con trai ta dù sao cũng là tiến sĩ a!" 

Mắt Dương Thu Trì thoáng tia thương xót , chuyển thân nói với Khuông Di: "Khuông công tử, hay là ngươi cho lệnh đường biết vì sao mà liên lụy vào chuyện này. Được không?" 

Khuông Di vẫn nhắm mắt không nói gì. 

Dương Thu Trì hừ lạnh, đề cao âm thanh: "Đồng lõa của ngươi đều đã bị bắt, ngươi chẳng lẽ còn mong qua được cửa ải này sao? Cho ngươi biết, ngươi tham gia mưu phản cùng Kiến Văn dư đảng, là tử tội tru diệt cửu tộc, đã có đầy đủ chứng cứ xác đáng, tai kiếp khó thoát! Cho ngươi sẽ vì ngươi mà liên lụy bị chém đầu. Chẳng lẽ ngươi không muốn cho cha ngươi biết vì sao mà ông ta bị chém đầu hay sao?" 

Khuông Di chấn động toàn thân, từ từ mở mắt, thở dài một hơi, nhìn Dương Thu Trì nói: "Không sai, ta là người của Kiến Văn đế. Ngô Xảo Trinh và Phương Tiệm đều là do ta giết. Hành thích ngươi cũng là do ta chủ yếu phụ trách an bài."

Duơng Thu Trì ngước mắt nhìn Khuông Hiền Giác, thấy ông ta nghe lời này, toàn thân run cầm cập, mặt mày tiều tụy, phảng phất như chớp mắt đã già đi thật nhiều, không khỏi thở dài: "Khuông công tử, ngươi có tiền đồ lớn như vậy, rước khổ làm chi?" 

Khuông Di hỏi ngược lại: "Dương tước gia, ta định hỏi ông một câu: Tước vị Trấn viễn bá của ông là do ai cấp?" 

"Hoàng thượng a." 

"Vị hoàng thượng nào?" 

"Đương kim hoàng thượng a." 

"Là loạn thần tặc tử Chu Lệ soán đoạt hoàng vị sao?" Khuông Di lạnh lùng hỏi. 

Nam Cung Hùng cùng mọi người lớn tiếng quát nạt, Dương Thu Trì khoát tay, nói với Khuông Di: "Ngươi không cần nói nữa, ta biết ngươi muốn nói cái gì, ai có chủ nấy thôi." 

Khuông Di nói: "Đáng tiếc a thật đáng tiếc! Đáng tiếc cho một thân bản lãnh như ngươi mà lại đi Trợ Trụ vi ngược (giúp kẻ ác làm việc xấu)! 

Dương Thu Trì trầm giọng đáp: "Ta không cảm thấy Kiến Văn làm hoàng đế có gì hay hơn đương kim hoàng thượng. Giang sơn vốn là của người có đức được hưởng..." 

"Ha ha, có đức? Chu Lệ trong bốn năm tiến hành chiến dịch Tĩnh Nạn, bạch cốt chất thành núi. Sau khi soán vị, qua cầu rút ván, chu diệt mười tộc, chẳng vụ nào không huyết lưu thành hà? Hoàng đế như vậy mà gọi là có đức sao?" 

"Để củng cố chính quyền, mỗi vị quân vương buộc phải dùng bạo lực, đó là điều không thể tránh khỏi. Từ cổ đến giờ đều như thế." Dương Thu trì trầm giọng nói. 

Khuông Di ngẩn ra, tiếp theo hỏi: "Nhưng chính thống đế vương thì thế nào? Hoàng vị của Chu lệ có thể tính là danh chính ngôn thuận không?" 

Dương Thu Trì khôn gmuốn thảo luận với y về đương kim hoàng thượng, loại chủ đề mẫn cảm này rất dễ xảy ra sai sót, liền chuyển đề tài câu chuyện: "Khuông công tử cho rằng Đường Thái Tông Lý Thế Dân thế nào?" 

"Chân quan chi trì, đương nhiên là một đại hiền quân..." Khuông Di thuận miệng đáp, lập tức tỉnh ngộ, biết là bản thân rơi vào cái bẫy của Dương Thu trì. Lý Thế Dân là con thứ hai của Đường Cao tông Lý Uyên, đã phát động chính biến Huyền Vũ môn để lên ngôi hoàng đế, và cũng có thể coi là kẻ danh bất chính ngôn bất thuận. Nhưng Khuông Di khen ngợi Lý Thế Dân, rõ ràng là không phù hợp với lời tuyên xưng chính thống lúc nãy của y. 

Dương Thu Trì mỉm cười: "Khuông tiên sinh, chúng ta còn tranh biện nữa sao?" 

Khuông Di ưỡn ngực: "Không cần nữa, chính như tuớc gia nói, ai có chủ nấy, nếu như ta đã chọn con đường này, thì trước giờ không hề hối hận." 

Nói xong, Khuông di quay lại ngơ ngẩn nhìn cha của mình, không quan tâm gì đến đoản kiếm của Tống Vân Nhi chỉ vào yết hầu, loạng choạng đi mấy bước lại trước mặt Khuông Hiền Giác, quỳ sụp xuống, dập đầu ba cái: "Cha, hài nhi bất hiếu, đã liên lụy đến lão nhân gia người..." 

Khuông Hiền Giác run rẫy toàn thân, từ từ cúi người xuống, ôm đầu của Khuông Di, đột nhiên lột phắt mũ của hắn, một tay nắm tóc, một tay bóp cổ, cố sức lay động, kiệt lực rít lên: "Tên nghịch tử này! Ngươi hại cho Khuông gia bị chu diệt cửu tộc, ta giết tên nghịch tử ngươi trước, rồi đập đầu chết trước mồ của tổ tông!" 

Khuông Di không dám vận khí đề ngự, bị bóp đến hai mắt trợn trắng, lưỡi thè ra. Nam Cung Hùng và mọi người vội xông lên kéo họ ra, Khuông Hiền Giác cố sức vùng vẫy, gào thét muốn đến đánh con trai tiếp. 

Khuông Di chỉ biết dập đầu, từng tiếng binh binh vang lên không ngớt. 

-----o0o----- 

Tứ Xuyên tỉnh. Đô Chỉ huy sứ nha môn. 

Con trai của Đô chỉ huy sứ Lý Trì Nghiệplà Lý Thiên Bằng vội vội vàng vàng chạy từ ngoài vào thư phòng của cha hắn. Lý Trì Nghiệpđang ngồi trên ghế thái sư trong thư phòng, đang nâng một chén long tỷ trà, chập chạp nhấp nháp. 

Lý Thiên Bằng ngồi phịch xuống ghế dài, kêu lên: "Cha, Dương Thu Trì từ Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn còn sống trở về rồi!" 

"Cái gì?" Chén trà trong tay Lý Trì Nghiệp sóng sánh mấy cái. 

"Vừa nhận được tin tức, tối qua tên họ Dương đã bình an trở về Thành Đô, và vừa về xong là đã mang cẩm y vệ cùng Trầm Sĩ Sanh bao vây nhà của Khuông đại nhân. Già trẻ lớn bé trong phủ đều bị bắt hết. Chúng ta không chịu động thủ, chỉ sợ sẽ rơi vào tay họ Dương thôi." Thần tình Lý Thiên Bằng thập phần kinh hoảng. 

"Tin tức đáng tin cậy không?" Lý Trì Nghiệp từ từ đặt chén trà xuống. 

"Sao lại không đáng tin!" Lý Thiên Bằng thở hỗn hễn mấy hơi. "Con vừa từ chỗ bọn Khuông Di trở vệ, cửa lớn đã bị niêm phong rồi, có cẩm y vệ đứng gác, thăm dò xung quanh thì biết được tối qua cả nhà già trẻ lớn bé của Khuông Di đều bị bắt hết rồi!" 

Lý Trì Nghiệp trầm mặt gật đầu: "Tên họ Dương này lần trước động thủ với người của chúng ta ở Bảo Ninh phủ, ta đã đoán hắn lai lịch không đơn giản, rất có khả năng là tên cẩm y vệ chỉ huy sứ đặc sứ cái gì đó. Nếu không, bằng vào chức ba tước không đầu của hắn, cùng một chức tri châu nho nhỏ, thì làm gì có bản lãnh mà đi điều động Trầm Sĩ Sanh là một Thiên hộ sở cẩm y vệ, bắt cả nhà của Khuông Di? Khuông Hiền Giác dù sao cũng là hàn lâm viện đại học sĩ, Khuông Di lại là tiến sĩ, tên họ Dương khẳng định là nắm được bằng cớ gì đó rất chắc, nếu không không dám động vào họ đầu." 

Lý Thiên Bằng vỗ đùi lớn tiếng đề nghị: "Đúng rồi a, cha, hắn có thể động Khuông Di, thì cũng dám động đến chúng ta. Không chịu động thủ thì hối hận cũng không kịp! Hay là tối nay con mang một đội huynh đệ diệt tên họ Dương này đi?" 

"Diệt? Ha ha, ngươi diệt hắn hay hắn diệt ngươi?" Lý Trì Nghiệp cười lạnh, "Hắn hiện tại có thể là ngụ trong cẩm y vệ thiên hộ sở, đừng nói gì nữ nhân có võ công cao tuyệt bên hắn đó, hay là đội hộ vệ hai trăm người, chỉ tính riêng cẩm y vệ thiên hộ sở không thôi là đã có hơn nghìn nhân mã, người làm sao diệt hắn?" 

Lý Thiên Bằng ỉu xìu như bong bóng xì hơi: "Vậy làm sao bây giờ?" 

Mặt Lý Trì Nghiệp âm trầm, hạ giọng đáp: "Chiếu theo tình huống mà đoán, tên họ Dương có thể từ Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn bình an trở về, hơn nữa vừa đến Thành Đô là lập tức hạ thủ đối với Khuông Di, như vậy có thể nói Đế Lạc pháp vương, Dương Ứng Năng, Lục Tiệm Li lần này rất có thể là rơi vào lưới hết rồi. Nếu là như vậy, thì không còn cách nào khác, chúng ta chỉ còn tiến một bước động thủ trước thôi." 

"Đúng! Tiên hạ thủ vi cường! Diệt tên họ Dương, đaọt Thành Đô!" 

Lý Trì Nghiệp gật gật đầu, hạ giọng ra lệnh: "Con lập tức đi thông tri các tướng lĩnh từ bá tổng trở lên trong binh doanh đến đây, ta muốn lập tức tiến hành sắp xếp bộ hạ tác chiến!" 

"Dạ được!" Lý Thiên Bằng hưng phấn reo lên, chuyển thân đi ngay. 

Lý Trì Nghiệp cười lạnh nói: "Dương Thu Trì, xin lỗi nghe, ta muốn dùng cái đầu của ngươi để tế đại kỳ của nghĩa quân ta!" 

Đô chỉ huy sứ nha môn ở bên cạnh quân doanh. Không đầy thời gian một bửa cơm, mấy chục tướng lĩnh lục tục kéo vào nha môn của đô chỉ huy sứ. 

Một lúc sau, bọn quân quan này mặt mày kỳ dị, chia nhau rời khỏi đại môn của đô chỉ huy sứ nha môn. 

Vừa đến cổng, mọi người đều sửng sờ. Họ thấy toàn bộ đô chỉ huy sứ đã bị mấy trăm quân sĩ bao vây trùng trùng, cờ xí phất phới, khải giáp sáng ngời, đao kiếm lập lòe, cung tiễn thủ giương cung đáp tiễn nhắm chuẩn vào họ. 

Ở giữa binh sĩ có hai thớt chiến mã, một người thân mặc khải giáp, một người thân mặc quan bào, đều đang cười lạnh nhìn họ. Đó chính là Dương Thu Trì và Đóa Cam đô ti chỉ huy sứ Dư Hiên. Bên cạnh Dương Thu Trì còn có Tống Vân Nhi và Nam Cung Hùng cùng chúng hộ vệ. Bên kia là cẩm y vệ thiên hộ Trầm Sĩ Sanh của Tứ Xuyên tỉnh cùng mấy trắm cẩm y vệ người mặc áo phi ngư, tay cầm tú xuân đao. 

Mấy chục tướng lĩnh lập tức biết sự tình đã bại lộ, tức thì loạn thành một đoàn, có một bộ phận rút yêu đao xông ra ngoài. Dương Thu Trì phất tay: "Phóng tiễn!" 

Tức thì tên bay như châu chấu, mấy tướng lĩnh xông lên liều mạng chống lại đó bị bắn thành nhím hết, những vị tướng còn lại quỳ xuống đầu hàng. 

Dương Thu Trì ra lệnh: "Đánh tiến vào, bắt sống Lý Trì Nghiệp!" 

"Giết....!" Mấy trăm quân sĩ xông vào đô chỉ huy sứ nha môn. 

Cùng lúc đó, từ các cửa thành của Thành Đô đều có từng đội thiết giáp kỵ binh của Đóa Cam tiến vào, nhanh chóng chiếm cứ các yếu điểm, tuyên bố giới nghiêm, cấm mọi người ra ngoài. 

Mấy nghìn thiết giáp kỵ binh của Đóa cam nhanh chóng tiến vào binh doanh của đô chỉ huy sứ, bao vây phân cắt hơn vạn tướng sĩ đang ăn cơm sáng tay không tấc sắt ấy. Họ hễ gập kẻ nào phản kháng, lập tức giết chết tại đương trường. Quân doanh của đô chỉ huy sứ tỉnh Tứ xuyên nhanh chóng bị kị binh của Đóa cam chiếm lĩnh và khống chế. 

Lý Trì Nghiệp và Lý Thiên Bằng bị trói gô lại áp giải ra khỏi cửa đô chỉ huy sứ nha môn, tới trước mặt Dương Thu Trì bắt quỳ xuống. 

Lý Trì Nghiệp rống lên: "Dương tước gia, bổn quan phạm phải tội gì? Vì sao lại bắt ta?" 

"Ngươi âm mưu tạo phản, chứng cứ đã đành rành!" 

"Có chứng cứ gì?" Lý Trì Nghiệp miệng hùm gan sứa rống lên: "Ngươi oan uổng bổn quan, bổn quan muốn đến trước hoàng thượng lý luận với ngươi!" 

'Hừ!" Dương Thu Trì lạnh lùng cười, "Bổn quan? Không đúng a, ngươi đáng ra phải xưng là bổn tổng đà chủ mới đúng." 

Lý Trì Nghiệp giật nãy mình, kêu lên: "Tước gia ông nói gì, bổn quan không hiểu." 

"Không hiểu? Ha ha, đại chưởng quỷ Lục Tiệm Li của Thuyền bang tại Bảo Ninh phủ đã bị ta bắt sống ở Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn, kinh qua thẩm vấn, hắn đã cung khai, ngươi chính là tổng đà chủ của Thuyền ban gTứ Xuyên! Thuyền bang của ngươi và Kiến Văn dư đảng là lang bái vi gian, cá mè một lứa cộng mưu tạo phản. Ngươi buôn muối lậu đại quy mô chính là chuẩn bị cho quân lương vật tư mưu phản! Đối với chuyện này, một trong tổng đầu mục của Kiến Văn dư đảng là Dương Ứng Năng đã cung khai! Ngươi còn gì để nói?" 

"Ta ... ta...." Thần tình Lý Trì Nghiệp bắt đầu hoảng loạn. 

Dương Thu Trì nói tiếp: "Ở Mi châu, xá muội thăm dò lệnh lang Lý Thiên Bằng, thần tình của hắn hoảng loạn, đã lộ ra sơ hở. Ta lập tức phái cẩm y vệ tiến hành trọng điểm giám khống các ngươi. Các ngươi đem kim ngân buôn muối lậu vận chuyển từng rương vào nha môn, đều rơi vào ánh mắt dò thám của cẩm y vệ. Những người của ngươi ở đây hầu hết đều là quan phó của nha môn, bao quát cả Triệu Tân Nhạc tri phủ của Nảo Ninh phủ hiện giờ đều đã bị cẩm y vệ bắt. Ta vốn cho rằng người buôn muối lậu chỉ là kiếm chút tiền dưỡng lão, không ngờ ngươi dùng vào việc mưu phản, như vậy đừng trách bổn quan hạ thủ đối với ngươi." 

Thì ra, khi Dương Thu Trì tiến hành thẩm vấn Dương Ứng Năng, Cường Ba, Lục Tiệm Li và những người khác ở Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn xong, nắm hiểu được chứng cứ sợ bộ về âm mưu phản loạn của Lý Trì Nghiệp và Khuông Di, nhưng không hề hành sự lỗ mãng. Kinh qua thương nghị với Đóa Cam đô chỉ huy sứ Dư Hiên, định ra kế hoạch hành động, sau đó bí mật trở về Thành Đô. 

Những bọn họ không gấp vào thành bắt người, mà trước hết phái người bí mật thông tri cho cẩm y vệ thiên hộ Trầm Sĩ Sanh ra ngoài thành tiến hành thương nghị, lại bất ngờ nhận được báo cáo do Vân Lăn chuyển cho thượng ti là Trầm Sĩ Sanh là án chiếu theo lệnh của Dương Thu Trì, đã tiến hành trọng điểm giám khống và bí mật điều tra đối với Triệu Tân Nhạc tri phủ của Bảo Ninh phủ, phát hiện trong phủ của Triệu Tân Nhạc có một lượng vàng bạc lớn, lại có quan hệ lai vãng mật thiết với quan phó của Tứ Xuyên tỉnh đô chỉ huy sứ Lý Trì Nghiệp. 

Tiếp đó, Dương Thu Trì tiến hành điều tra chứng cứ ngoại vi đối với những án tương quan, sau khi nắm đủ bằng chứng, mới cùng thiết giáp kỵ binh của Dư Hiên tiến vào Thành Đô, cùng nổi lên hành động, tập nã hết những người tham dự mưu phản quy án. Lần này do có chuẩn bị mà hành động, chiếm cứ quyền chủ động toàn cục, đánh tan âm mưu phản loạn của Lý Trì Nghiệp, và hốt trọn ổ đồng đảng của y. 

Lý Trì Nghiệp rịn mồ hôi đầu, vẫn vòn thực hiện sự giãy giụa cuối cùng: "Bọn Dương Ứng Năng hãm hại ta, ta không có mưu phản..." 

Dương Thu Trì cười lạnh, roi ngựa chỉ ngay về bọn tướng lĩnh bị bắt: "Ta nghĩ những tướng lĩnh mà ngươi vừa bảo con trai Lý Thiên Bằng của ngươi đi triệu tập về đây sẽ cho ta biết rốt cuộc các ngươi có mưu phản hay không!" 

Dư Hiên ở cạnh đó ra lệnh: "Áp giải những tướng lĩnh đó lại đây." 

Những tướng lĩnh đó bị trói gô lôi lại, có người sợ quá đã giành lên tiếng trước: "Đại nhân, chuyện này đều là chủ ý của Lý đại nhân, không, Lý Trì Nghiệp a. Chúng tôi không muốn mưu phản, chúng tôi bị bức a." 

Lý Thiên Bằng tuy là một hoa hoa công tử, nhưng lúc này lại có mấy phần khí khái anh hùng, cố sức giãy giụa quát lên: "Các tên quỷ sợ chết các ngươi, đại trượng phu chết thì chết, cầu xin thì có ích gì? Lời minh thệ năm xưa chẳng phải là đánh rắm mẹ nó hết hay sao?" 

Lý Trì Nghiệp không hề có dũng khí và khảng khái quyết chết như con trai, lúc này đã mặt không còn sắc máu, nằm rũ dưới đất run cầm cập.

Nửa tháng sau, tại nha môn của Ba châu tri châu. 

Dương Thu Trì đang ngồi trong hậu hoa viên ở nội nha, ôm con trai ngồi dựa lên ghế thái sư phơi náng. Mùa đông ở Ba châu rất hiếm có ánh mặt trời, chiếu lên người vô cùng ấm áp. Liễu Nhược Băng điềm tĩnh ngồi một bên, đang làm một chiếc áo ấm cho Dương Thu Trì, thỉnh thoảng ngước nhìn hắn và con, khóe miệng lộ ra nụ cười mỉm ngọt ngào. 

Còn nữa tháng nữa là qua năm, Ba châu thành đã treo đèn kết hoa khắp nơi, khí vui tươi tràn ấp. Liễu Nhược Băng đang làm cho Dương Thu Trì y phục để mặc qua năm. Hắn bảo ra ngoài đường mua, Liễu Nhược Băng không chịu, muốn tự tay khâu cho ấm cúng. Dương Thu Trì chỉ còn để mặc nàng. 

Sau khi Liễu Nhược Băng sinh con, đáp ứng tạm thời không mang con rời bỏ Dương Thu Trì, để cha con họ thêm vài ngày đoàn tụ. Còn về ngày nào sẽ đi, thì hai người đều không nói đến. Dương Thu Trì hi vọng sự ấm áp của gia đình có thể khiến Liễu Nhược Băng cuối cùng lưu lại. 

Liễu Nhược Băng ở trong nội nha của Dương thu Trì, vẫn là cùng con trai và Tống Vân Nhi ở trong hậu hoa viên. Người trong nha môn và thân bằng hảo hữu trong Ba châu thành đều cho rằng đây là đứa con của vị sư phụ của Tống Vân Nhi, không ai nói xấu gì. 

Khi ba người dễ chịu hưởng thụ sự ấm áp của gia đình, thì Tống vân Nhi vội vàng chạy vào hậu hoa viên, ngay từ xa đã kêu lớn: "Ca...! Ca...!" 

Dương Thu Trì ngẩn người, nhìn dáng vẻ gấp gáp của Tống Vân Nhi, tự hỏi không biết đã xảy ra chuyện gì. 

Tống Vân Nhi chạy đến trước mặt: "Ca...! Thánh chỉ đến, công công tuyên chỉ đang ở hoa phòng chờ huynh, bảo huynh mau đến tiếp chỉ." 

Dương Thu Trì vừa kinh vừa mừng, hỏi: "Đó là vị Lý công công gì đó phải không?" 

"Đúng vậy!" Tống Vân Nhi nói. 

Ha ha, phá xong Kiến Văn đại án và Thuyền bang đại án, bắt được Dương Ứng Năng, Đô chỉ huy sứ Lý Trì Nghiệp cùng những người khác, không biết lần này lại có phong thưởng gì. 

Dương Thu Trì hứng thú vội đưa con cho Liễu Nhược Băng ẵm, mặc vội quan bào rời khỏi nội nha ra hoa phòng. 

Lý công công đang ngồi trên ghế thái sư ở hoa phòng dùng trà, sau lưng có hai tiểu thái giám đứng. Thấy Dương Thu Trì tiến vào, ông ta cười ha ha bảo: "Dương đại nhân, chúng ta lại gặp nhau rồi." 

Dương Thu Trì chấp tay chào: 'Công công dạo này thế nào a? Chà chà, mấy tháng không gặp, công công càng lúc càng phát tiên phong đạo cốt rồi." 

"Ha ha ha." Lý công công ngữa mặt cười lớn, "Dương đại nhân lập kỳ công liên tiếp, tậht là không cô phụ hoàng thượng và chỉ huy sứ đại nhân một phen tài bồi." 

"Làm gì có làm gì có," Dương Thu Trì khiêm tốn thưa, "Đây đều là do hoàng thượng minh kiến vạn lý, chỉ huy sứ đại nhân điều độ có phương, ti chức chẳng qua là cái chân chạy qua chạy lại thôi." 

"Hé hé, nhiều ngày không gặp, Dương đại nhân càng lúc càng hiểu biết thâm sâu con đường làm quan a." Lý công công gật đầu khen ngợi, "Dương đại nhân, thỉnh quỳ xuống tiếp chỉ." 

Dương Thu Trì vội vén quan bào quỳ xuống. 

Lý công công móc từ trong lòng ra một cuộn vải màu hoàng kim, từ từ mở ra, lớn tiếng đọc: "Phụng thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết: lệnh cho Trấn viễn bá, cẩm y vệ chỉ huy sử đặc sử kiêm Tứ Xuyên tỉnh Ba châu tri châu Dương Thu Trì, nguyên tiêu tiết cùng thái phu nhân, phu nhân tiến kinh diện trẫm. Khâm thử!" 

Thánh chỉ này rất đơn giản, Dương Thu Trì nghe hiểu được, hơi ngẩn ra, vì sao không phong thưởng gì hết vậy? Bảo ta tiết nguyên tiêu tiến kinh gặp hoàng thượng? Dập đầu ba cái, hô vạn tuế ba lượt xong, hắn đưa hai tay tiếp thánh chỉ, đứng dậy. 

Lý công công mỉm cười thần bí nhìn Dương Thu Trì: 'Dương đại nhân, chắc là nghĩ không ra hoàng thượng triệu kiến ngài là vì chuyện gì phải không?" 

"Dạ. Hạ quan đang đỉnh thịnh công công chỉ điểm." 

"Lần này phá Kiến Văn, Thuyền bang đại án, Dư Hiên, Trầm Sĩ Sanh cùng các người có công đều được phong thưởng. Hoàng thượng duy độc có Dương đại nhân là không phong thưởng, mà cho vơi ngài, thái phu nhân và phu nhân tiến kinh, hơn nữa lại chọn nguyên tiêu tiết. Dương đại nhân còn không minh bạch sự huyền diệu trong này sao?" 

Dương Thu Trì chợt động tâm: "Hoàng thượng định tự thân phong thưởng cho ta?" 

"Hà hà, không những như thế, còn muốn thỉnh toàn gia của ngài cùng hoàn thượng thưởng đăng trong tết nguyên tiêu." 

Vậy sao? Ha ha ha, Dương Thu Trì cười không khép được miệng, xem ra lần này công lao quá lớn, hoàng thượng đã cảm thấy trực tiếp hạ chỉ phong thưởng không đủ long trọng rồi. Hơn nữa, hắn đã bán mạng cực khổ làm lâu như vậy, quan đã làm tới chức bá tước và cẩm y vệ đặc sứ rồi, thế mà ngay cả hoàng thượng, thậm chí mặt của chỉ huy sứ cũng chưa gặp qua, chẳng phải là quá lạ hay sao? 

Dương Thu Trì hưng phấn có dư, tạ ơn Lý công công một rương nhỏ đầy trân châu mã não, kim ngân châu báo. Lý công công đương nhiên cười mà nhận. 

Tiễn Lý công công xong, Dương Thu Trì cầm thánh chỉ đi vội vào nội nha. Trong phòng khách nội nha, Liễu Nhược Băng đang ôm con cùng Tống Vân Nhi, Hồng Lăng hưng phấn và khẩn trưởng chờ Dương Thu Trì quay lại. 

Thấy được hắn, ba người đều vây lấy, Liễu Nhược Băng hỏi: "Thu Trì, sao rồi? Thánh chỉ nói gì?" 

Dương Thu Trì đưa thánh chỉ qua, Liễu Nhược Băng đang ôm con không rảnh tay tiếp lấy. Tống Vân Nhi nhận mở ra đọc một lượt, cũng không hiểu đó là ý gì. Dương Thu Trì đem lời giải thích của Lý công công thuật lại một lượt, ba người bấy giờ mới minh bạch. Tống Vân Nhi và Hồng Lăng đều cao hứng cho Dương Thu Trì, chỉ có mình Liễu Nhược Băng ôm con, thần tình ưu thương. 

Dương Thu Trì cả kinh trong lòng, lập tức nghĩ ra nguyên nhân làm nàng bi thương, kéo Liễu nhược Băng về hậu hoa viên, hỏi: "Băng nhi, nàng và ta cùng về Vũ Xương, lên kinh thành, được không?" 

Thần tình Liễu nhược Băng ảm đạm: "Thu Trì, ta... ta không muốn nhìn thấy các thê thiếp của chàng... thật đấy..., ta... ta muốn mang con đi...." 

Dương Thu Trì gấp lên, chụp lấy tay áo của Liễu Nhược Băng bấu chặt: "Không không! Băng nhi, cả nhà chúng ta cùng ở với nhau khoái lạc biết chừng nào, nàng sao nhẫn tâm chia lìa chúng ta như vậy?" 

Liễu Nhược Băng ôm chặt con, cúi đầu không nói. 

Từ thần tình của nàng, Dương Thu Trì biết là không thể nào thuyết phục được, lòng nóng như lửa đốt, không biết thế nào cho phải. 

Xem ra, dùng tình cảm lưu người là không thể, làm sao bây giờ? Dương Thu Trì cầm thánh chỉ trong tay, lòng nghĩ, nếu như Liễu Nhược Băng mang con trai đi, vậy cho dù hắn có bắt Kiến Văn đế, thăng quan cao hơn, phát tài nhiều hơn, thì còn có ý nghĩa gì? 

Bắt Kiến Văn đế? Khi ý niệm này lóe lên trong đầu hắn, thì Dương Thu Trì nhớ lại lời nói của Bạch Tố Mai khi còn ở Vũ Xương - bắt được Kiến Văn đế xong rồi chỉ sợ sẽ rơi vào cảnh thỏ hết thì chó cũng bị thịt, được chim bỏ ná, được cá quên nom mà thôi. 

Dương Thu Trì từ từ bỏ tay của Liễu Nhược Băng ra, bước đến ngồi trên ghế cạnh bàn, thở dài nói: "Được rồi, nàng mang con đi đi." 

Liễu Nhược Băng bất nhẫn, ẵm con đi lại, đến ngồi ở ghế cạnh đó, dịu giọng nói: "Thu Trì, đừng như vậy a, ta sau này sẽ thỉnh thoảng mang con đến thăm chàng." 

"Được, chỉ có điều, lần này chỉ sợ vào kinh hung đa cát thiểu, không biết nàng và con sau này còn có thể gặp ta không." 

Liễu Nhược Băng cả kinh, hỏi: "Cái gì? Dữ nhiều lành ít? Làm sao vậy chứ? Hoàng thuợng không phải là bảo chàng mang toàn gia đến hưởng tết nguyên tiêu sao, lại còn phong thưởng tận mặt nữa?" 

Thần tình Dương Thu Trì ưu thương: "Băng nhi, chúng ta đều thái quá thiện lương, có một câu gọi là Thỏ tử cẩu phanh, thỏ chết thì chó cũng bị thịt, nàng có biết hay là chăng? Thỏ bị bắt hết rồi, còn cần đến mấy con chó săn chúng ta làm cái gì?" 

"Băng xong rồi? Chưa đâu, không phải là Kiến Văn còn chưa bị bắt sao?" 

Dương Thu Trì nhớ tới chuyện Trịnh Hòa đi Tây Dương, trong đó có truyền thuyết là vì đi tìm kiếm Kiến Văn đế, nên tự tin nói: "Ta đoàn là hoàng thuợng đã thông qua các đầu mối nào đó biết Kiến Văn đã chết hay là chạy ra hải ngoại rồi, hoàng thượng nhận thấy ông ta không còn có gì uy hiếp nữa. Ta trước đó nhất mực truy bắt Kiến Văn dư đảng, đây là chuyện quan hệ đến tranh đấu cung đình và tranh đoạt quyền vị trong nhà của họ. Loại sự tình này tuyệt không thể để người khác biết, để miễn cho hoàng gia mất mặt. Rất tiếc là ta đã biết quá nhiều, không giết ta, hoàng thượng chỉ sợ ngủ không yên giấc a...." 

Liễu Nhược Băng từ nhỏ đến lớn đều theo sư phụ luyện võ ở thâm sơn cùng cốc, rất ít giao vãng với người, còn Dương Thu Trì nói những lời này chân chân giả giả, và cũng là sự tình mà hắn nhất mực lo lắng, chẳng qua là hiệngiờ nói ra trước vậy thôi, chưa kể là trong lịch sự có rất nhiều tiền lệ y như vậy. Không có lửa thì làm sao có khói? 

Liễu Nhược Băng nghe Dương Thu Trì nói cũng có đạo lý, không khỏi nóng ruột lên ngay: "Thu Trì, làm sao bây giờ?" 

Dương Thu Trì bất lực lắc đầu: "Còn làm sao nữa, quân bảo thần tử, thần không thể không tử a. Do đo, nghĩ tới nghĩ lui, thì nàng mang con của chúng ta đi là hay nhất. Chờ sau này ta bị kéo cả nhà ra chém, cũng coi như để dành lại cho Dương gia một hậu đại, không đến nỗi đứt luôn hương hỏa." 

Liễu Nhược Băng gấp lên: "Không! Ta không để cho chàng chết! Chỉ còn thiếp ở đây, bọn chúng không thể động được cọng lông nào của chàng! Lời này được nói rất tự tin, nhưng nói xong rồi Liễu Nhược Băng cảm thấy không ổn, vì nàng định mang hài tử đi, còn nói gì được câu "chỉ cần còn thiếp ở đây" chứ, cho nên nàng nhất thời không biết nên làm sao cho phải. 

Dương Thu Trì len lén nhìn nàng, thấy nàng đang do dự, liền thở dài một hơi, lấy lui làm tiến, nói: "Cũng có thể là ta lấy bụng tiểu nhân đi đo lòng quân tử. Hoàng thượng có thể là chân tâm thỉnh ta đi thưởng tiết nguyên tiêu, rồi phong thưởng tận mặt. Ông ta là quân vương thánh minh, xem ra sẽ không phải lạm sát vô cớ như hôn quân được." 

Liễu Nhược Băng nói gấp: "Loại sự tình này sao lại dựa vào vận khí được chứ? Vạn nhất ông ta muốn giết chàng thật, thì trễ rồi! Hay là, chúng ta đi trốn, đến chỗ nào mà ông ta không tìm thấy." 

Dương Thu Trì cười khổ: "Nếu như hoàng thượng muốn giết ta, cho dù có đến chân trời góc biển thì họ sẽ lôi đầu chúng ta ra thôi. Hơn nữa, ta dù sao cũng vì sự suy đoán hoàng thuợng có khả năng sẽ hạ đột thủ với ta mà kháng chỉ không tuân trốn đi a?" 

"Lời này cũng có lý," Liễu Nhược Băng ngẫm nghĩ, "Thiếp không thể để chàng mạo hiểm, thiếp muốn cùng chàng lên kinh thành, một khi hoàng thượng hạ thủ thật, thiếp sẽ cướp chàng chạy trốn." 

Dương Thu Trì ngầm mừng, cảm kích hỏi: "Băng nhi, nàng thật sự chiu cùng ta tiến kinh hay sao?" 

"Dạ, thiếp không thể để con của chúng ta không có cha a!" 

"Ha ha, đa tạ Băng nhi!" Dương Thu Trì cười, hiện giờ chỉ còn biết đi nước nào hay nước nấy, để cho Liễu Nhược Băng lưu lại rồi tính sau. Dù gì thì những thế cờ sau này hắn vẫn còn tiếp tục đánh thêm nhiều nước nữa! Dương Thu Trì hỏi: 'Vậy chúng ta chừng nào đi đây?" 

"Nếu như tiết nguyên tiêu phải đến kịp kinh thành, thì thời gian của chúng ta không còn nhiều nữa, phải lập tức lên đường. Tiết Xuân hãy đến Vũ Xương trước... ở nhà ở Vũ Xương đón đầu năm, sau đó lập tức xuất phát lên kinh thành."

Dương Thu Trì hưng phấn vô cùng nói: "Quá tốt rồi, nếu vậy thì ba người một nhà chúng ta nhất định lần này phải ăn mừng một phen cho lớn mới được." 

Liễu Nhược Băng ngẫm nghĩ, nhìn chăm vào Dương Thu Trì, chậm rãi nói: "Ta muốn chàng đáp ứng một chuyện, nếu như chàng làm không được, ta sẽ mang con đi. Nếu như chàng làm được, ta sẽ lưu lại cạnh chàng." 

"Thật không? Vĩnh viễn lưu lại bên cạnh ta?" Dương Thu Trì vui mừng kéo tay Liễu Nhược Băng, nồng ấm hỏi. 

"Vĩnh viễn!" Liễu Nhược Băng gật đầu. 

"Quá tốt rồi!" Dương Thu Trì cao hứng reo lên một tiếng, ôm chầm lấy cổ Liễu Nhược Băng, hôn sâu vào đôi môi hồng của nàng, sau đó gật đầu thật mạnh: "Nàng nói đi! Là chuyện gì? Ta nhất định sẽ làm được!" 

"Ta muốn chàng về xong hãy cưới Vân nhi, rồi từ đó về sao coi ta như là trưởng bối chân chánh, không được gần gũi thân mật với ta, và không được thấu lộ thân phận chân thật của con, sau này cũng không thể nói cho con biết chàng là phụ thân của nó, chàng làm được không?" 

Dương Thu Trì ngẩn ra, không ngờ Liễu Nhược Băng đề xuất sự tình như vậy. Cưới Tống Vân Nhi hắn đương nhiên muốn, nhưng sau này không được thân mật với Liễu Nhược Băng, cũng không được nhân con, thì quả là khiến hắn cảm thấy khó khăn vô cùng. 

Bình tĩnh suy nghĩ lại, hai chuyện này thật ra là cùng một chuyện: cưới Tống Vân Nhi, Liễu Nhược Băng sẽ thành trưởng bối của hắn, nếu như lén lén lút lút đi lại với trưởng bối, thì còn ra thể thống gì? Cho dù mặt hắn dày, cũng phải tránh né và hiểu cho cảm thụ của Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi a? Nếu như không thể công khai quan hệ với Liễu Nhược Băng, đương nhiên không thể nhận con rồi. 

Đây chỉ sợ là lựa chọn không có quyền chọn lựa rồi! Dương Thu Trì không còn cách nào khác đành gật đầu, thảm não đáp: 'Được, ta đáp ứng nàng, sau khi cưới Vân nhi, ta không đụng đến nàng nữa, và cũng không nhận con." 

Lòng Liễu Nhược Băng cũng rất khó chịu, ôm chặt con cúi đầu không nói. 

Tuy đáp ứng cưới Tống Vân Nhi xong không đụng Liễu Nhược Băng, đều khiến hai người đau khổ, nhưng chí ít còn có thể lưu Liễu Nhược Băng lại, không phải để cho nàng mang hài tử phiêu bạc tứ xứ. 

Tiếp theo đó là công tác chuẩn bị bận rộn. Dương Thu Trì đem các chuyện của nha môn giao cho quan phó quản lý. Ngày hôm sau, đại đội nhân mã của hắn rầm rộ lên đường. 

Lần này để tận dụng thời gian, họ đã tận khả năng tinh giản hành trang, đi suốt ngày đêm cuối cùng đến ngày 29 tháng chạp thì đến Vũ Xương. 

Tiến vào Vũ Xương thành, họ đến thẳng bá tước phủ của Dương Thu Trì. Đến cửa lớn, khi gia đinh gác cổng thấy bọn họ, tức thì vừa kinh vừa mừng, chạy vội vào trong báo tin. 

Lát sau, Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết, Tần Chỉ Tuệ, Tống Tình, còn có Thanh Khê công chúa Vân Lộ vừa chạy vừa hô "Con a", "Phu quân", "Lão gia" tiến ra đón. 

Tiểu hắc cẩu là kẻ đầu tiên sủa gâu gâu chạy vào nhà. Phùng Tiểu Tuyết vừa thấy Tiểu hắc cẩu, biết phu quân về thật rồi, vui mừng reo lên: "Tiểu hắc!" 

Tiểu hắc chạy vòng vòng quanh chân Phùng Tiểu Tuyết, thân thiết vẫy đuôi ứ ứ chào hỏi. 

Dương Thu Trì đã vào cửa, gặp Dương mẫu và mọi người ở dưới giến trời. 

Dương Thu Trì tiến nhanh tới, quỳ dập đầu lạy Dương mẫu. Dương mẫu mừng rỡ ứa đầy lão lệ, vội đỡ hắn dậy. Phùng Tiểu Tuyết cũng nước mắt lưng tròng, kéo tay Dương Thu Trì, gọi nhỏ một tiếng "Phu quân" rồi nhịn không được lệ rơi lốc tốc. 

Sắp tới giao thừa rồi, Dương Thu Trì cùng mọi người về kịp đón năm mới, sao không khiến cho Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết và người nhà mừng như điên cho được. 

Dương Thu Trì ôm vai Phùng Tiểu Tuyết, lau lệ cho nàng, dịu dàng bảo: "Ngốc à, ta về rồi nàng còn khóc cái gì?" 

Tống Tình ở cạnh nói: "Lão phu, phu nhân cao hứng đó mà." 

Dương Thu Trì bấy giờ mới quay lại nhìn, thấy Tần Chỉ Tuệ và Tống Tình đều đang phễnh bụng đứng kế bên, mắt cũng ứa đầy lệ nóng nhìn hắn, vui mừng hỏi: "Chỉ Tuệ, hài tử còn chưa ra đời sao?" 

Tần Chỉ Tuệ đỏ mặt thẹn thùng. Dương mẫu bảo: "Lang trung đến xem rồi, dự kiến là mấy ngày nữa sẽ sanh rồi." 

"Ha ha, ta trở về đúng lúc quá a." Dương Thu Trì cười, mắt nhìn thấy Vân Lộ, vội bỏ tay Phùng Tiểu Tuyết, bước tới phất tay áo vái một lễ thật sâu: "Ti chức tham kiến Thanh Khê công chúa!" 

"Biến thành xa lạ từ khi nào vậy, Thu Trì ca ca," Vân Lộ cười, mắt nhìn Liễu Nhược Băng đang ôm hài tử, hỏi: "Vị cô nương đó là ai a?" 

Dương mẫu cùng mọi người chưa bao giờ gặp Liễu Nhược Băng. Tần Chỉ Tuệ và Tống Tình thì có gặp qua ở Trấn Viên châu Thanh Khê huyện, biết là sư phụ của Tống Vân Nhi, nhưng không biết là lão tiền bối lúc trước đã bắt cóc hai nàng. 

Dương Thu Trì vội khom người giới thiệu: "Vị này là sư phụ của Vân nhi, Liễu Nhược Băng Liễu tiền bối." 

Liễu Nhược Băng giao hài tử cho Tống Vân Nhi, bước lên làm lễ ra mắt Dương mẫu: "Nhược Băng ra mắt thái phu nhân." 

Trên đường đi, Dương Thu Trì đã giới thiệu tình huống gia đình với Liễu Nhược Băng. Liễu Nhược Băng biết Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết là hạo mệnh thái phu nhân và phu nhân. 

Dương mẫu cười ha ha hoàn lễ. Liễu Nhược Băng nếu như là sư phụ của Tống Vân Nhi, còn Tống Vân Nhi đang xưng hô huynh muội với Dương Thu Trì, cho nên tuy Liễu Nhược Băng nhỏ hơn Dương mẫu nhiều, nhưng tính về bối phận thì hai người ngang vai vế nhau. 

Dương mẫu kéo tay Liễu Nhược Băng, quan sát trên dưới, khen: "Muội tử xinh đẹp thật." 

Liễu Nhược Băng vội nói: "Đa tạ thái phu nhân khoa tưởng, hay gọi tôi là Nhược Băng đi." 

Dương mẫu cũng cảm thấy xưng hô "muội tử" này có điểm ngượng nghịu, bèn gật đầu kêu phải, quay sang nói với bọn Tiểu Tuyết: "Các ngươi cũng qua làm lễ ra mắt đi." 

Phùng Tiểu Tuyết dẫn đầu bước qua, làm một phúc lễ với Liễu Nhược Băng: "Tiểu Tuyết ra mắt Liễu tiền bối." Tần Chỉ Tuệ và Tống Tình cũng làm theo. 

Liễu Nhược Băng là trưởng bối, không nhất thiết phải hoàn lễ, cho nênchỉ điềm đạm gật gật đầu. 

Tống Vân Nhi trước giờ không chị kể gì đến lễ tiết, hơn nữa mọi người quen thân nhau như vậy, cũng không khách khí gì ẵm em bé ngọt ngào gọi "bá mẫu! chị dâu!" rồi coi như đã làm lễ xong. 

Phùng Tiểu Tuyết bước tới, hỏi: "Vân nhi, hài tử này thật khả ái, ta ẵm chút được không?" 

Tống Vân Nhi giao hài tử cho Phùng Tiểu Tuyết, Phùng Tiểu Tuyết cẩn thận tiếp lấy, ẵm ngang vào lòng. Chú bé giương đôi mắt lớn nhìn Phùng Tiểu Tuyết, chợt nhoẻn miệng cười. 

Tống Vân Nhi cả kinh kêu lên: "Sư phụ! Hài tử biết cười kìa!" 

A! Liễu Nhược Băng vừa kinh vừa mừng, bước đến nhìn, thấy con trai đang nhìn Phùng Tiểu Tuyết cười, không khỏi vui mừng nói với Dương Thu Trì: "Đứa bé này thiệt là... ta chọn nó thế nào nó cũng không chịu cười, thế mà bây giờ lại cười vậy đó." 

Dương Thu Trì cũng thật cao hứng: "Cho thấy hài tử này và Phùng Tiểu Tuyết có duyên nha." 

Phùng Tiểu Tuyết nghe lời này, cũng rất cao hứng, ẵm em bé chọn nó cười mãi. Hài tử này cũng nễ mặt nàng, cứ nhoẻn miệng cười tươi. Chọc một hồi, Phùng Tiểu Tuyết mới quyến luyến không nở rời, giao hài tử lại cho Liễu Nhược Băng. 

Hồng Lăng bấy giờ mới bước lên làm lễ chào hỏi Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết cùng mọi người. Tống Tình vui vẻ đỡ Hồng Lăng dậy, hai người chủ tớ tình thâm, vui mừng đỏ hồng cả mắt. 

Dương mẫu dặn dò người hầu mau đem tin tức bọn Dương Thu Trì trở về đi thông tri cho hai mẹ con Bạch Tố Mai, sau đó một tay kéo Dương Thu Trì, một tay kéo Liễu Nhược Băng, bảo: "Chúng ta mau vào nha, bên ngoài lạnh lắm." 

Cả đám người tiền hô hậu ủng tiến vào đại sảnh. Người hầu rót trà nóng, mang nước ấm để mọi người tẩy rửa sơ phong sương, sau đó ngồi xuống nói chuyện. 

Dương Thu Trì móc ra đạo thánh chỉ đó, giản đơn chỉ thuật lại chuyện phụng chỉ tiến kinh, không hề nói đến chuyện suy đoán thực hư giữa hắn và Liễu Nhược Băng. Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết nghe hoàng thượng muốn gặp họ, vừa cao hứng vừa khẩn trương. 

Dương mẫu nắm tay Dương Thu Trì bảo: "Con à, lòng mẹ chẳng có chút tự tin gì hết, chưa nói nếu gặp hoàng thượng mà dập đầu lạy làm sao cũng không biết rồi làm mất mặt con, lỡ chọc hoàng thượng giận, thì làm thế nào đây a, ta.... ta hay là không đi cho xong..." 

Dương Thu Trì cảm thấy thú vị: "Mẹ...., coi mẹ kìa, mẹ không chịu đi là kháng chỉ không tuân đấy, và nhất định sẽ bị chém... Cái đó càng không thể được. Đừng có lo, mọi chuyện có con của mẹ đây."

Phùng Tiểu Tuyết ngồi ở bên cạnh cũng lên tiếng an ủi: "Đúng a, mẹ, tuy con cũng không biết nên làm thế nào, nhưng phu quân đi cùng chúng ta, đến lúc đó chúng ta nghe nhiều nói ít là được chứ gì." 

Dương mẫu lắc đầu: "Nghe nhiều nói ít thì không sai, nhưng ta vừa nghĩ đến hoàng cung, nghĩ đến hoàng thượng thì bụng đã rung lập cập, chỉ sợ ngay cả đứng cũng đứng không vững." 

Dương Thu Trì và Phùng Tiểu Tuyết nhịn không được bật cười, chúng nhân cũng cười theo. 

Tống Tình ở bên cạnh an ủi: "Thái phu nhân, người đừng lo, khi đến kinh thành phải đến lễ bộ ngôn lễ trước. Ở đó sẽ có quan viên dạy người những lễ tiết tương quan. Hơn nữa, lão gia của chúng ta là bá tước, lại lập nhiều công lao như vậy, không nễ mặt tăng cũng nễ mặt phật, cho dù có chỗ nào không chu toàn trong lễ tiết, hoàng thượng cũng sẽ không trách tội, người cứ yên tâm đi." 

Dương Thu Trì cười nói: "Đúng a, mẹ, mẹ hiện giờ dù gì cũng là siêu phẩm hạo mệnh phu nhân rồi, cần phải ra mặt một chút mới được, chưa gặp hoàng thượng mà bụng đã run thì còn gì nói nữa." 

Vân Lộ ở bên cạnh cũng cười thưa: "Bá mẫu, phụ hoàng của con kỳ thật không hung như bá mẫu nghĩ đâu, người rất hiền từ, trước đây còn ở kinh thành, phụ hoàng thường gọi con tiến cung chơi, nghe con xướng sơn ca, lại còn cùng con chơi tửu lệnh uống rượu nữa, không hung chút nào." 

Mọi người đều nói vậy, Dương mẫu từ từ không khẩn trương thái quá nữa, cười ha hả nói với Vân Lộ: "Cháu là công chúa, là con gái của hoàng thượng, hoàng thượng đối với ai cũng có thể hung, nhưng sao đối với con mà hung được." 

Vân Lộ ngẫm nghĩ, thưa: "Hay là như vầy đi, con phụ trách đưa bá mẫu và Tiểu Tuyết tỷ tỷ tiến cung, dù gì phụ hoàng cũng hạ chỉ cho phép con tiến cung bất cứ lúc nào. Con cùng người đi, có chuyện gì thì con lo cho, người thấy thế nào?" 

Dương mẫu mừng rỡ: "Như vậy thật tốt! Có công chúa cô đi cùng, trong lòng ta cũng có cái để an tâm rồi." Chuyển đầu nhìn Phùng Tiểu Tuyết, Dương mẫu hỏi: "Tiểu Tuyết, con nói có phải không?" 

Phùng Tiểu Tuyết mỉm cười gật đầu lia lịa. Nàng ta nghe nói phải gặp hoàng thượng, lòng cũng như trống trận, giờ nghe nói Vân Lộ công chúa sẽ đi cùng tiến cung, cảm thấy tự tin hơn nhiều.

Dương Thu Trì thấy Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết và Vân Lộ có quan hệ rất dung hợp, thậm chí có thể nói là rất thân mật như người cùng một nhà vậy, thầm nghĩ Vân Lộ dùng chiêu bài Khúc tuyến cứu quốc xem ra rất có bài bản. Nếu như Dương mẫu bức hắn cưới Vân Lộ thì quả là phiền a, nghĩ đến đó hắn liếc nhìn Liễu Nhược Băng, thấy nàng đang ôm con, mỉm cười tĩnh lặng nghe mọi người nói chuyện. 

Dương Thu Trì nói: "Mẹ, lần này hai sư đồ Liễu tiền bối và Vân nhi sẽ tự thân hộ tống chúng ta tiến kinh. Hai người võ công cao cường, đặc biệt là Liễu tiền bối, võ công cao tuyệt, thế gian không ai có thể địch. Có hai người dọc được bảo hộ, chúng ta không phải e sợ gì." 

Liễu Nhược Băng nghe Dương Thu Trì khen, nhìn hắn một cái, khẽ cười. 

Dương mẫu vui mừng nói với Liễu Nhược Băng: "Nhược Băng a, vậy là phiền khổ đến cô nhiều rồi." 

Liễu Nhược Băng nghe Dương mẫu xưng hô với mình giống như Phùng Tiểu Tuyết, không khỏi hơi run, trong tâm có mấy phần thân thiết, nhún nhún người mỉm cười nói với Dương mẫu: "Thái phu nhân khách sáo rồi, đó là chuyện nhỏ không đáng kể gì." 

Trong lúc nói chuyện, người hầu vào báo là có mẹ con Bạch Tố Mai tới. 

Nhắc tới Bạch Tố Mai, liền nghĩ ngay đến chuyện trên huyền nhai, Dương Thu Trì không nhịn được nhìn về phía Liễu Nhược Băng, không ngờ gặp được ánh mắt nàng, thì ra hai người cùng ý nghĩ. 

Mẹ con Bạch Tố Mai tiến vào, làm lễ chào hỏi với Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết. Dương mẫu chào mời Bạch phu nhân ngồi kế mình, Bạch Tố Mai thì vui mừng nhìn Dương Thu Trì, khẽ chào: "Thu Trì ca, huynh về rồi!" 

Trước mặt mọi người, Dương Thu Trì không dám quá thân nhiệt với Bạch Tố Mai, mỉm cười gật đầu, mời nàng ngồi xuống. 

Bạch Tố Mai là thiếp thất chưa quá môn của Dương gia, ngồi dưới Tống Tình. 

Dương mẫu nói về chuyện hoàng thượng mời đi chơi tiết nguyên tiêu, mẹ con Bạch tố mai đều đồng thanh chúc mừng. 

Đêm đó, Phùng Tiểu Tuyết an bài Liễu Nhược Băng, hài tử và Tống Vân Nhi ba người nghỉ ở một căn tiểu viện tinh trí, rồi phân công hai chị em sinh đôi người Miêu chiếu cố. 

Do hôm sau là 30 tháng chạp, cần phải thức đón giao thừa, nên mọi người ăn cơm tối xong nói chuyện một hồi rồi chia nhau về phòng nghỉ ngơi. 

Dương Thu Trì trước hết đến chỗ tiểu viện của Liễu Nhược Băng chơi với con một chút, rồi mới trở về chỗ ở của Phùng Tiểu Tuyết. 

Xa nhau hơn cả tân hơn, Dương Thu Trì và Phùng Tiểu Tuyết tự nhiên không tránh khỏi một trận gió mưa vần vũ. 

Sau cơn mưa gió mạn nồng đó, Phùng Tiểu Tuyết nằm dựa trong lòng Dương Thu Trì: "Phu quân, lần này chàng sẽ ở nhà bao lâu?" 

"Không rõ nữa, ta không biết hoàng thượng có chỉ phái ta đến chỗ khỉ ho cò gáy để tra tìm Kiến Văn dư đảng nữa không. Nếu như lần này có cơ hội, ta sẽ yêu cầu hoàng thượng điều ta về đây làm quan. Quanh năm phiêu bạt ở ngoài, ta rất nhớ nàng, rất muốn về ở chung với các nàng." 

"Dạ...! Tiểu Tuyết cũng rất nhớ chàng!" Phùng Tiểu Tuyết ngọt ngào hôn vào mặt Dương Thu Trì, "Tiểu Tuyết và mẹ đều rất hi vọng chàng có thể sớm trở về đây làm quan." 

"Đúng a. Tần Chỉ Tuệ và Tình tình sắp sửa sinh con rồi, lúc này nên ở cạnh hai nàng ấy." Dương Thu Trì nhớ đến Liễu Nhược Băng, lần này hắn lý giải sâu sắc khi một người phụ nữ sinh con, cần người chồng của mình ở bên cạnh như thế nào. 

Phùng Tiểu Tuyết hỏi: "Phu quân của Liễu tiền bối đâu? Sao không thấy ông ta cùng đến?" 

Vấn đề này Dương Thu Trì đã sớm nghĩ ra ở dọc đường, nhưng hiện giờ Phùng Tiểu Tuyết hỏi đến, vẫn khiến hắn cảm thấy thật khó mà đáp thế nào cho ổn, ngẫm nghĩ một chút, thấp giọng trả lời: "Ta.. ta cũng không rõ nữa, loại sự tình này không tiện hỏi a." 

"Vậy a..." Trong đêm tối, Phùng Tiểu Tuyết không hề phát hiện ra vẻ bối rối của phu quân, "Hài tử của Liễu tiền bối thật khả ái, đầu hổ vai hùm a." 

Dương Thu Trì rất hiểu, hài tử này đã dẫn phát mẫu tính của Phùng Tiểu Tuyết. Kỳ thật, nếu quả Liễu Nhược Băng là thiếp thất của hắn, thì hài tử của Liễu Nhược Băng phải gọi Phùng Tiểu Tuyết là mẹ (*). 

Dương Thu Trì cười hì hì: "Nàng thích con nít như vậy, hay là mai nói với Liễu tiền bối, để hài tử nhận nàng làm mẹ nuôi đi." 

Phùng Tiểu Tuyết nhổm dậy chồm lên người Dương Thu Trì, vui mừng reo lên hỏi: "Thật không?" 

"Đúng a. Hiếm khi nàng thích con nít như đứa bé này, có thêm một mẹ nuôi thì thêm một phần yêu thương a." 

Phùng Tiểu Tuyết ngẫm nghĩ, lại ủ rủ: "Không thể được, Liễu tiền bối là trưởng bối, hài tử của người đồng bối với chúng ta, sao lại nhận thiếp làm mẹ nuôi được." 

"Sao lại không được? Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi là sư đồ, nhưng là chuyện giữa họ, chứ đâu có phải là trưởng bối của chúng ta thật đâu." 

Phùng Tiểu Tuyết trách: "Phu quân, chàng quên rồi sao, chàng sớm muội gì cũng cưới Vân nhi, dù sao cũng không thể để hài tử của Vân nhi gọi thiếp là mẹ, và hài tử của sư phụ muội ấy cũng gọi thiếp bằng mẹ được a?" 

Đến nước này thì Dương Thu Trì ngớ người, quả thật là có vấn đề. 

Phùng Tiểu Tuyết nghe Dương Thu Trì không nói chuyện, dịu dàng bảo: "Thiếp biết chàng thương hài tử đó, tuy nó không nhận thiếp làm mẹ nuôi được, nhưng thiếp sẽ thương nó như mẹ vậy. Chỉ có điều không biết Liễu tiền bối có thể ở lại bao lâu, thật hi vọng người có thể ở lại luôn thì hay biết mấy." 

Dương Thu Trì vui mừng hỏi: "Thật không? Nàng cũng hi vọng Liễu tiền bối có thể ở lại mãi?" 

"Đúng a," Phùng Tiểu Tuyết hơi kỳ quái với sự hưng phấn của phu quân, "Liễu tiền bối là sư phụ của Vân nhi, nếu như Liễu tiền bối không có chỗ nào đến, thì ngày mai chúng ta cùng mẹ nói thử, để mời người ở lại nhà chúng ta, được không? Cô nhân quả mẫu phiêu bạc tứ xứ quả là khổ." 

Phùng Tiểu Tuyết đoán gia đình của Liễu Nhược Băng xem ra là có biến cố gì đó, nếu không sẽ không cô thân mang hài tử chưa đầy tháng theo đến Vũ Xương, lòng đối với Liễu Nhược Băng tăng thêm mấy phần đồng tình, nên muốn tìm cách giúp nàng. 

Dương Thu Trì hôn lên má của Phùng Tiểu Tuyết: "Tiểu Tuyết, tâm địa của nàng thật tốt!" 

Sáng hôm sau, 30 tháng chạp, Dương phủ treo đèn kết hoa, dán giấy mừng xuân lên lồng đèn, quét dọn sạch sẽ. 

Sáng sớm tế bái tổ tông xong, cả nhà chuẩn bị bữa cơm quan trọng nhất năm. Nếu như Hồng Lăng đã quay về, thì bữa cơm tất niên này do nàng tự thân xuống bếp chỉ huy. 

Đây là bữa cơm đoàn viên của cả nhà, Hồng Lăng đương nhiên đem hết tinh thần ra lo liệu, bày biện một bàn lớn đầy đồ ăn thơm ngon thơm phức, người nào ngửi cũng nghe bụng sôi rột rột. 

Chiều, chọn giờ tốt khai tiệc. Đáng ra Vân Lộ là công chúa, phải chiếu theo lễ quân thần, ngồi ghế thủ tịch. Nhưng Vân Lộ một lòng mong muốn sau này có thể về nhà họ Dương, hiện giờ là lúc biểu hiện, nên nàng dù gì cũng không thèm ngồi, cứ kéo Dương mẫu ngồi lên ghế chủ tọa. 

Nhưng mà, trong tiệc này nàng ta đường đường là một công chúa mà không chịu ngồi, thì ai dám ngồi cho được. Do đó, Vân Lộ cũng phải ngồi kế Dương mẫu, phía còn lại là Dương Thu Trì và Phùng Tiểu Tuyết. Tiểu Hắc Cẩu ngồi giữa chân hai người. Kế đến là Bạch phu nhân, Liễu Nhược Băng, Tần Chỉ Tuệ, Tống tình, Bạch Tố Mai, Tống Vân Nhi theo vai vế mà ngồi. Hồng Lăng có thân phận nha hoàn, vốn không thể ngồi chung, nhưng mọi người đều biết nàng là thông phòng đại nha hoàn của Dương Thu Trì, một khi đã mang thai, thì sẽ là thiếp của hắn. Cho nên, Dương mẫu cũng nhập tịch, ngồi ở vị trí cuối cùng. 

Liễu Nhược Băng giao con cho Sương nhi và Tuyết nhi để hai chị em sinh đôi này chiếu cố. 

Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết đều đội mũ phượng quàng khăng. Vân Lộ là công chúa, đáng ra phải mặc công chúa phục, nhưng nàng thích phục trang của người miêu, nên đặc biệt mặc riêng, đeo trang sức bạc vòng kiềng reo vang, vừa vui mắt vừa đẹp. 

Dương Thu Trì cũng mặc quan bào bá tước của mình. Tần Chỉ Tuệ cùng mọi người cũng mặc phục trang ưa thích nhất, chỉ có Liễu Nhược Băng vẫn trong y phục trắng, nhìn thanh tân thoát tục, cao nhã thánh khiết vô cùng. 

Lời chúc từ đương nhiên là do Dương mẫu đảm nhận. Bà ta đã làm hạo mệnh thái phu nhân được nửa năm rồi, đương nhiên cũng luyện được chút đường ăn đường nói, chí ít không như nam xưa chỉ cưới một người thiếp cho con trai là Tần Chỉ Tuệ mà cũng hoảng loạn bủn rủn tay chân, lại còn nhờ con trai dạy mình nói thế nào nữa. 

Dương mẫu nâng chung rượu lên, hướng đến Vân Lộ, Bạch phu nhân và Liễu Nhược Băng ra vẻ kính ý, sau đó nói một lời chúc mừng, có lớp có lang hẳn hoi, khiến cho mọi người cao hứng ngút trời nâng chén rượu lên uống cạn. 

Tiếp đó là thay ly rót rượu, kính tửu Dương mẫu và Vân Lộ, rồi họ mời rượu nhau, uống rất náo nhiệt. Ngoại trừ Tần Chỉ Tuệ, Tống Tình đang mang thai lấy trà thay rượu, mọi người đều uống cả. 

Rượu quá tam tuần, món ăn qua ngũ vị, Dương mẫu cầm lý lên nói với Liễu Nhược Băng: "Nhược Băng, hôm nay hiếm có khi cao hứng thế này, lão thân có thỉnh cầu, không biết nên nói hay nên không." 

Dương Thu Trì phì cười: "mẹ, mẹ học đóng kịch từ khi nào vậy? Ha ha hah" 

Dương mẫu trợn mắt: "Không được làm ồn, mẹ đang nói chuyện chính sự với Liễu tiền bối đây." 

Liễu Nhược Băng đã uống mấy ly, mặt ửng lên hai đóa hồng, khẽ khom người nói: "Thái phu nhân có gì phân phù, cứ nói không có gì phải ngại." 

"Là như thế này." Dương mẫu nhìn Phùng Tiểu Tuyết, "Chỉ Tuệ và Tình Tình sắp sinh con rồi, vừa khéo Nhược Băng cũng vừa có con chưa đầy tháng, cho nên ta và con dâu Tiểu Tuyết của ta thương lượng, có vẻ hai bên có duyên đặc biệt, cùng một lứa với nhau mà ở gần nhau âu cũng là có bạn. Do đó, nếu không hiềm khí, lão thân mời Nhược Băng cùng con lưu lại đây, sau này ở chung nhà với chúng ta." 

Liễu Nhược Băng hơi ngẩn ra, không ngờ Dương mẫu lại nói đến chuyện ấy, hơi cảm động. 

Dương mẫu dừng lại một chút, cầm ly đứng lên, tiếp tục nói: "Nghe con ta nói cô võ công cao tuyệt, do đó sau này con của Chỉ Tuệ và Tình Tình lớn lên, lão thân mong muốn để chúng bái cô làm môn hạ, ba sư huynh muội ở chung, khoái khoái lạc lạc mà trưởng thành. Không biết ý Nhược Băng thế nào? Nếu như cô đáp ứng, lão thân ở đây xin thay mặt các hài tử kính cô một chung bái sư." 

Nghe Dương mẫu nói xong, thân mình Liễu Nhược Băng hơi chấn động, đưa mắt nhìn Dương Thu Trì, thấy nàng rất hưng phấn nhìn mình, trong mắt đầy sự quan tâm, biết là phu quân đang nghĩ biện pháp lưu nàng lại, không khỏi cảm thấy ấm lòng. 

Nhưng khi nghe Dương mẫu nói muốn hài tử của tiểu thiếp của Dương Thu Trì sau này bái nàng làm sư phụ, thì điều này nàng chưa suy nghĩ qua, không khỏi có chút đắn đo. 

Điểm này Dương Thu Trì cũng không nghĩ tới, nhất định là Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết ngầm bàn với nhau. Điều này làm hắn rất cao hứng, quả là chủ ý tốt, vì nếu như Liễu Nhược Băng làm sư phụ của con Tần Chỉ Tuệ và Tống Tình, từ giác độ này mà nói thì Liễu Nhược Băng và hắn đồng bối phận, từ giác độ này mà xét thì sau này có thể cưới Liễu Nhược Băng. 

Liễu Nhược Băng nhìn Dương Thu Trì, đương nhiên cũng nghĩ đến chuyện này, còn cho đó là chủ ý của Dương Thu Trì, nghĩ tới tuy đáp ứng lưu lại, nhưng Dương Thu Trì thủy chung chẳng an tâm, dùng tâm cực khổ nghĩ cách để nàng có lý do lưu lại, lòng không khỏi ấm áp và an ủi vô cùng. 

Liễu Nhược Băng liếc nhìn thấy dáng vẻ buồn buồn không vui của Tống Vân Nhi, hơi trầm ngâm, biết trò sao bằng thầy, nàng sao không đoán được nguyên nhân Tống Vân Nhi không cao hứng chứ? nên cười cười cầm chung rượu lên đáp: "Đa tạ thái phu nhân thưởng thức, chỉ có điều hiện giờ hài tử chưa ra đời, đến lúc thật sự có thể luyện võ là đã đến mấy năm sau rồi. Đến lúc đó còn phải xét xem hài tử có thích hợp luyện võ công của tôi không. Cho nên, chờ mấy năm rồi nói đến chuyện này xem ra sẽ ổn hơn." 

Tống Vân Nhi nghe thế, lập tức cảm kích nhìn Liễu Nhược Băng. 

Dương Thu Trì ngớ người, lập tức hiểu rõ nếu như con của Tần Chỉ Tuệ và Tống Tình bài Liễu Nhược Băng làm thầy, như vậy sẽ là sư huynh muội với Tống Vân Nhi, vô hình trung Tống Vân Nhi lại kém Dương Thu Trì một bối, thì làm sao mà thành thân cho được? 

Kỳ thật, lại tình huống hai phía đều khó này rất thường xuất hiện trong những gia đình xưa, vốn không cần hắn phải lo, nhưng là vì nó liên quan đến hôn nhân đại sự, nên hắn không thể không vì Tống Vân Nhi mà ưu phiền. 

Hiện giờ Liễu Nhược Băng không lập tức nhận lời bái sư, vừa không làm mất mặt Dương mẫu, lại để cho Tống vân Nhi đủ thời gian để gả về nhà họ Dương. Đương nhiên, nàng cũng vì chuyện bái sư này mà lưu lại đường cho mình sau này. 

Liễu Nhược Băng nói tiếp: "Thái phu nhân thịnh tình mời Nhược Băng ở lại, Nhược Băng cảm kích bất tận, còn về chuyện ở lại thì..." 

Dương Thu Trì nghe lời nàng có phần do dự, sợ nàng ra miệng cự tuyệt, lập tức nói: "Liễu tiền bối, đừng quên là người đáp ứng bảo hộ cho sự an toàn của ta đó!" 

Liễu Nhược Băng hướng mắt nhìn Dương Thu Trì, thấy hắn đang khẩn trương nhìn mình, trong mắt tràn đầy sự mong mỏi âu lo sợ mất, không khỏi dâng lên sự thương xót tràn đầy trong lòng. 

Trong trận chiến trên Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn, Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng cùng trải qua khảo nghiệm giữa sống và chết. Trước đó, Liễu Nhược Băng vốn chỉ nghĩ cho mình, nghĩ đến nếu như Dương Thu Trì không thể chấp cánh cùng nàng bay khắp phương trời, thì nàng chỉ cần con của hắn, sau đó ở vậy nuôi con đến già. 

Nhưng lần trước sau khi rời khỏi Dương Thu Trì ở Nhất Chỉ Phong, nàng mới phát hiện kỳ thật ý nghĩ của nàng chẳng qua là tự lừa dối chính nàng, vì sự ái luyến của nàng đối với Dương Thu Trì vô cùng sâu đậm, càng lúc nàng càng không thể rời xa Dương Thu Trì. 

Trước khi gặp Dương Thu Trì trong sơn động sào huyệt của Kiến Văn dư đảng, Liễu Nhược Băng dường như sống một ngày dài bằng một năm, suốt ngày cứ nghĩ đến Dương Thu Trì, khi xác định có con với hắn, loại tư niệm này càng lúc càng mạnh. Sau trận đấu sinh tử đó, Liễu Nhược Băng biết cuộc đời và sinh mệnh này của nàng không thể không có Dương Thu Trì nữa rồi. 

Chỉ có điều, nàng cao ngạo thành tính, nên không có cách gì tiếp thụ chuyện chia sẻ tình cảm của Dương Thu Trì với nữ nhân khác. Nhưng nàng lại không thể rời khỏi hắn, cho nên nàng đã chọn cách trốn tránh, đáp ứng đến Thành Đô cư trú theo yêu cầu của Dương Thu Trì. 

Những ngày tháng ở Thành Đô, gần như cách mấy ngày là nhận được thư của Dương Thu Trì. Liễu Nhược Băng không thiện biểu đạt tình cảm của mình, nhưng sự bày tỏ tình yêu và nổi nhớ nhung của Dương Thu Trì đối với nàng qua từng trang viết đã làm cho tim nàng ngày càng tích tụ mong muốn cháy bỏng được ở bên nhau, bất chấp tất cả. 

Hồng nhạn truyền thư khiến nàng có thời gian từ từ hiểu được sự ái luyến thâm sâu của Dương Thu Trì đối với nàng, và khiến nàng bắt đầu do dự, tự hỏi sau này con sinh ra đời, nàng sẽ làm thế nào. 

Sâu trong nội tâm, nàng không muốn rời khỏi Dương Thu Trì. Chỉ cần ở bên cạnh hắn, dù cho khổ hơn đi chăng nữa nàng cũng nhịn chịu được. Chỉ có điều, khi nghĩ đến Dương Thu Trì nồng nhiệt với nữ nhân khác, tim của nàng lập tức như dao cắt. 

Trong sự do dự này, họ lại cùng đến Niên Bảo Ngọc Tắc thần sơn. Ở trước ngôi chùa trên đường, sau cuộc đối thoại về sinh tử luân hồi kim sinh lại thế, Liễu Nhược Băng tiến thêm một bước cảm thấy vị trí của nàng trong tim Dương Thu Trì thế nào, và từ sâu trong tâm khảm, nàng bắt đầu đứng ở góc độ của Dương Thu Trì mà suy nghĩ. 

Trên đỉnh thần sơn, bọn họ lại cùng trải qua cuộc khảo nghiệm sinh tử trong biển lửa như địa ngục. Nàng chứng kiến Dương Thu Trì vì để mang hi vọng sống còn cho hai mẹ con nàng, đã bất chấp tất cả quay cuồng dập lửa trong mưa tên biển lửa, dường như sắp bị thiêu sống đến nơi. Thời khắc ấy, nàng sâu sắc cảm nhận được vị trí của mình trong tim Dương Thu Trì là như thế nào, và khối băng lạnh trong tim nàng cuối cùng cũng lốc tốc tan chảy ra. 

Con của hai người sinh ra trong căn phòng gỗ nhỏ trên kim đỉnh ấy, rồi thời khắc chỉ có ba người... lúc ấy, nàng chân chánh cảm giác được một gia đình trọn vẹn. Và đối với nàng, đối với con nàng, cái gia đình ấy trọng yếu đến thế nào. 

Liễu Nhược Băng nhớ lại khi xưa rời khỏi Dương Thu Trì trên Nhất Chỉ Phong, nấm kín một chỗ nhìn hắn đuổi theo chạy lên đỉnh, ngã rồi đứng dậy, phát điên gọi tên nàng, tay bị cào rách máu chảy đầm đìa thế mà chẳng biết gì... sự tuyệt vọng ấy làm nàng rúng động tận tâm can. 

Trong căn phòng nhỏ kia, Liễu Nhược Băng nghĩ, nếu mà nàng mang con đi thật, không biết Dương Thu Trì sẽ đau lòng như thế nào, và nàng cũng thương tâm ra làm sao. Con sinh ra không có cha, đáng thương cho nó biết nhường nào. 

Đến lúc đó, ý nghĩ mang con đi của nàng triệt để lay động. Cho nên, khi ở Ba châu, Dương Thu Trì biên tạo ra một lời nói xạo không tròn vẹn tuy đích xác là làm Liễu Nhược Băng lưu lại, nhưng kỳ thật, cho dù không có lời nhận định chưa lấy gì xác đáng đó của hắn, Liễu Nhược Băng không nhất định là muốn đi thật. 

Lần này đến Vũ Xương, Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết đối với Liễu Nhược Băng tốt phi thường, giống như đối đãi với thân nhân vậy. Hơn nữa, chân chánh cảm giác được mái ấm gia đình làm nàng cảm thấy hạnh phúc vô cùng. 

Giờ đây, khi nghe Dương mẫu thịnh tình mời nàng ở lại, rồi nhìn ánh mắt tràn trề hi vọng và bất an của Dương Thu Trì, nghĩ đến hai người ái luyến sanh sanh tử tử như vậy rồi, thì cho dù lòng có cứng lạnh như băng đá thế nào cũng phải tan chảy ra. Nàng thầm hạ quyết định, không đến lúc vạn bất đắc dĩ, nàng sẽ không rời khỏi Dương Thu Trì. 

Hơn nữa Dương Thu Trì đã nói trước mặt mọi người, rằng nàng đáp ứng bảo hộ cho sự an toàn của hắn. Và đây cũng chính là lời thật. Vì Dương Thu Trì nói về chuyện thỏ chết chó bị thịt kia nửa chân nửa giả, nhưng đích xác là chuyện khiến người phải quan tâm. Liễu Nhược Băng hạ quyết tâm, nếu như có cái cớ như vậy, thì nàng không thể rời khỏi Dương Thu Trì nữa rồi, không thể để cho con nàng không có cha nữa rồi. 

Liễu Nhược Băng dịu dàng nói: "Dương tước gia tập nã Kiến Văn dư đảng, đại phá thuyền bang, thu địch rất nhiều. Nhược Băng đã đáp ứng với Dương tước gia, tận lực bảo hộ cho sự bình an của người. Thái phu nhân hiện giờ thịnh tình yêu thỉnh như vậy, nếu Nhược Băng từ chối nữa là có chút bất cận nhân tình. Nếu như đã vậy, thì Nhược Băng cung kính không bằng tòng mệnh rồi." 

"Quá tốt rồi!" Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi dị khẩu đồng thanh vui mừng hoan hô, đưa mắt nhìn nhau rồi cười cười. 

Dương mẫu mừng rỡ, cùng Phùng Tiểu Tuyết đối mắt nhìn nhau. Phùng Tiểu Tuyết cầm chén rượu lên, Dương mẫu vui mừng bảo: 'Quả thật là tốt quá, sau này chúng ta là người một nhà rồi!" Ba người cao hứng uốn cạn chén rượu này. 

Trong số đang ngồi ở đó, đương nhiên người cao hứng nhất là Dương Thu Trì. Hắn cầm chung rượu lên, kính Liễu Nhược Băng: "Đa tạ Liễu tiền bối! Sau nay là người một nhà, Thu Trì thật lòng thật ý kính người một chung rượu!" 

Liễu Nhược Băng đương nhiên biết ý tứ của Dương Thu Trì, nâng chung nên, hai người cùng cười và uống cạn. 

Tiệc tất niên vô cùng sảng khoái. Giao thừa đến, mọi người đốt và xem pháo bông, phát lì xì, và cả nhà cùng chúc nhau hưởng một năm đoàn viên khoái lạc. 

Bố chánh sứ, đề hình án sát sứ, đô chỉ huy sứ, cẩm y vệ thiên hộ cùng các quan cao cấp của Hồ Quảng đã biết Trấn Viễn bá Dương Thu Trì trở về rồi, nhưng do là ngày ba mươi tháng chạp nên không tiện đăng môn bái phỏng. Hôm sau chính là ngày mồng một tết, những người này đều trước sau đến Dương phủ mừng năm mới, cung chúc tân xuân, tự nhiên náo nhiệt phi thường. 

Do ngày rằm tháng giêng phải đến kinh thành, cùng hoàng thượng hưởng tiết nguyên tiêu, cho nên qua ngày mồng một là mọi người lên đường. 

Công tác chuẩn bị xuất phát đều đã được mọi người lo liệu. 

Đêm mồng một, Dương mẫu kéo Dương Thu Trì cùng Phùng Tiểu Tuyết vào phòng nói chuyện. 

Sau khi Dương Thu Trì và Phùng Tiểu Tuyết ngồi, Dương mẫu vốn là nông phụ xuất thân, không quanh co gì, hỏi thẳng Dương Thu Trì: "Thanh Khê công chúa Vân Lộ con tính làm sao?" 

"Cái gì mà tính làm sao?" Dương Thu Trì biết chuyện gì đến cũng đã đến, tránh mãi cũng không được, nhưng nhất thời không biết nên nói cái gì cho phải, chỉ vờ hỏi lại. 

Dương mẫu nghiêm mặt: "Tình Tình đã đem chuyện của Vân Lộ nói cho mẹ biết, con à, làm người không nên vong ân phụ nghĩa, Vân Lộ người ta đối với con một mực tình thâm, lại cứu mạng của con. Mấy tháng nay, đến ở trong nhà của ta, nó cũng không tỏ vẻ là công chúa gì, đối với mẹ, đối với Tiểu Tuyết đều rất tôn kính, người nó cũng xinh xắn, con hãy cưới nó về nhà đi." 

Đây là kết quả mà Dương Thu Trì đã sớm nghĩ tới. Đối với Vân Lộ, lúc đầu hắn chỉ có chút hảo cảm đối với nàng, hoàn toàn không thể coi là yêu, nhưng thâm tình của Vân Lộ đối với hắn dần dần khiến hắn cảm động. 

Có những lúc, bị yêu có thể dẫn đến yêu, giống như Vương Ngữ Yên và Đoàn Dự trong Thiên Long Bát Bộ vậy. Cảm tình của Vân Lộ đối với hắn ra sao hắn biết rất rõ, trong lòng cũng rất vui và thích Vân Lộ dám yêu dám hận này. Chỉ có điều, hắn đã hứa không nạp thiếp nữa, hiện giờ phải làm thế nào đây? 

Dương Thu Trì đem chuyện lúc trước nói với Tần Chỉ Tuệ, Tống Tình rằng nếu họ sinh con với hắn, hắn sẽ không nạp thiếp nữa. Dương mẫu nhíu mày, trao đổi ánh mắt với Phùng Tiểu Tuyết. Dương mẫu nói: "Hiện giờ Chỉ Tuệ và Tình Tình chẳng phải là chưa sanh hay sao, lời của con vẫn còn chưa có hiệu lực. Hơn nữa, vạn nhất hai đứa nó sanh đều là con gái thì sao? Chẳng phải là tiếp tục nạp nữa hay sao?" 

Dương Thu Trì hỏi: "Chẳng phải còn có Tố Mai sao?" 

"Hầy! Tố Mai phải thủ hiếu hai năm nữa. Được rồi, chuyện này cứ định như vậy, mẹ làm chủ nạp Vân Lộ làm thiếp cho con!" 

Lệnh của mẹ cha, áo mặt sao qua khỏi đầu... những thứ này Dương mẫu bắt đầu phát huy rất tốt. 

Phùng Tiểu Tuyết nhìn thấy vẻ khó xử của Dương Thu Trì, cười lấy lòng nói với Dương mẫu: "Mẹ, chuyện này chúng ta còn phải hỏi Vân Lộ và người nhà của muội ấy nữa mới được." 

Dương mẫu gật gật đầu: "Án theo quy củ thì phải hỏi, nhưng mà Vân Lộ đã nói với mẹ, cha của nó là Miêu vương lúc trước muốn đem nó gả cho Thu Trì, coi như là báo đáp ơn cứu mạng của Thu Trì đối với họ, nhưng mà cái đầu gỗ mục Thu Trì này không chịu mở khiếu, đã từ chối thẳng, hại cho Vân Lộ suýt chút nữa bị tam hoàng tử hại chết." 

Bị Dương mẫu mắng thành đầu gỗ, Dương Thu Trì quả thật là khóc cười không xong, nhưng khi nghe Phùng Tiểu Tuyết nói về chuyện hỏi người nhà của Vân Lộ, linh cơ của hắn liền động, nói: "Mẹ, Vân Lộ hiện giờ không phải chỉ có mình Miêu vương là cha, cô ấy là công chúa, còn có một ông cha nữa!" 

Dương mẫu ngẩn người: "Đúng a, vậy... vậy phải làm sao đây?" Dương mẫu đã nghĩ ra, Vân Lộ là con gái nuôi của hoàng thượng, hiện giờ có thân phận công chúa. Chuyện hôn nhân của công chúa chỉ sợ hoàng thượng đồng ý mới được. Hoàng thượng có đồng ý công chúa làm tiểu thiếp của người ta hay không, chuyện này cũng thật khó nói. 

Nghĩ đến chỉ tiết này, Dương mẫu đâm bối rối, suy nghĩ hồi lâu, chợt lấy hết can đảm quyết định: "Lần này tiến kinh, sau khi gặp hoàng thượng, ta đem cái mạng già này liều nói ra, đề thân với hoàng thượng. Vân Lộ nói rồi, cả đời này nó nếu như không lấy được con thì ở giá đến già. Ta không thể nào hại con gái nhà lành của người ta được!" 

Dương Thu Trì nghe Dương mẫu nói khẳng khái hiên ngang như vậy, không khỏi buồn cười: "Mẹ, đề thân thôi mà, hoàng thượng có khó lắm là không đáp ứng, chứ đâu có cần bắt mẹ phải lấy mạng ra làm gì." Dừng một chút, hắn tiếp: "Như vầy đi, chờ mẹ đề thân với hoàng thượng rồi, nếu hoàng thượng đáp ứng cho Vân Lộ làm thiếp cho con, thì coi như là hoàng thượng tứ hôn, chúng ta không đồng ý là kháng chỉ, không ai trong chúng ta có gan làm vậy, do đó mọi chuyện hài nhi sẽ nghe theo sự an bài của mẹ. Còn nếu không, chúng ta cũng không có biện pháp nào, ai bảo người ta là công chúa làm chi, đúng không nào?" 

Phùng Tiểu Tuyết cũng phụ họa: "Đúng a, mẹ, phu quân nói có đạo lý, nhất thiết mọi chuyện chúng ta hãy theo ý của hoàng thượng đi." 

Dương mẫu ngẫm nghĩ, gật đầu: "Như vậy cũng phải, được a, đến lúc đó, mẹ sẽ đem chỗ khói xủ của Vân Lộ nói ra hết, mẹ tin là hoàng thượng cũng là người có tâm, dù sao cũng có thể hiểu được chuyện này." 

Dương Thu Trì kéo Phùng Tiểu Tuyết đứng dậy: "Vậy được, con và tiểu Tuyết về phòng trước, mẹ nghỉ sớm đi, ngày mai phải lên đường rồi." 

Dương mẫu nói: "Chờ đó, còn có một chuyện chưa nói xong, vội vàng gì thế!" 

Hai người nghe thế vội vàng ngồi xuống. 

Dương mẫu hỏi: "Vân nhi làm sao? Nó theo con hơn một năm rồi, còn định chừng nào cưới nó về nhà đây?" 

Xem ra hai chuyện này nhất mực là mối bận tâm trong lòng Dương mẫu, và có lẽ bà đã sớm nghĩ, chờ con trai về phải giải quyết một lượt. 

Trước khi rời khỏi Ba châu, điều kiện để Liễu Nhược Băng lưu lại là Dương Thu Trì phải cưới Tống Vân Nhi. Chỉ có điều, Tống Vân Nhi không nhất định đáp ứng là vào lúc này sẽ lấy hắn, cho nên hắn cười khổ đáp: "Mẹ, chuyện này không thể tránh con, con đã đề cập với Vân nhi rồi, nhưng muội ấy chưa chịu." 

Dương mẫu nói: "Nói bậy! Trong lòng Vân Nhi nghĩ thế nào bộ mẹ không biết hay sao? Lúc ở Quảng Đức, người ta một lòng một dạ chờ con mở lời, nhưng con cứ như ông già vậy, giờ lại còn đem chuyện đó ra mà gạt mẹ..." 

"Không phải đâu! Mẹ...." Dương Thu Trì xua hai tay, nhưng không biết nên giải thích chuyện này thế nào.Lúc trước Tống Vân Nhi cự tuyệt Dương Thu Trì, nhân vì không muốn bịt kín cơ hội Liễu Nhược Băng gả về cho hắn, nhân vì hai người là sư đồ, và án chiếu theo lễ giáo phong kiến, sư đồ chẳng khác gì mẹ con, không thể nào cùng lấy một tấm chồng. 

Dương mẫu trợn mắt nhìn Dương Thu Trì, chờ hắn giải thích, nhưng Dương Thu Trì không có cách nào giải thích, chỉ còn biết sử dụng chiêu cứu nguy: đá bóng qua cho người khác. 

Dương Thu Trì nhún vai: "Nếu như mẹ không tin lời con, thì như vầy đi, chỉ cần Vân Nhi chịu lấy con, con sẽ lập tức nạp muội ấy về, có được không?" 

Dương mẫu cười: "Ha ha, được, không cần Vân nhi đáp ứng, chuyện này phụ mẫu chúng ta thương lượng xong định ra là được. Lần này chúng ta tiến kinh hãy đi vòng một chút, đến Ninh Quốc phủ một chuyến. Ta tính lộ trình rồi, yên tâm đi, vẫn còn kịp." 

Dương Thu Trì kỳ quái: "Mẹ, chúng ta đến Ninh quốc phủ làm gì?" 

"Hầy! Con giả bộ khờ hả? Đến Ninh Quốc phủ làm cái gì à, đến đó gặp cha mẹ của Vân nhi đề thân cho con a!" 

Chà! Dương Thu Trì bấy giờ mới dám khẳng định, thì ra là Dương mẫu đã nghĩ kỹ mọi chuyện hết rồi. Tống Vân Nhi theo hắn hơn năm nay, mới đầu hắn chỉ coi nàng là muội muội, sau đó ngày dài tháng rộng lửa gần rơm tình bén rễ, đặc biệt là sau mấy lần cùng vào sinh ra tử, Vân nhi đã trở thành cục thịt trong tim hắn, không thể nào cắt ra được, do đó rất muốn cưới nàng về làm vợ. 

Nhưng mà, hai người có thành hay không quan trọng là ở chỗ Liễu Nhược Băng. Vấn đề của Liễu Nhược Băng chưa giải quyết, thì với tính cách của Tống Vân Nhi, nàng tuyệt đối không thể nào chẳng màng đến sư phụ mà chỉ lo cho bản thân. 

Dương Thu Trì biết kết quả này, nhưng hắn không giải thích cho Dương mẫu, vì có giải thích cũng không rõ được, bèn nói: "Vậy cũng được, chỉ cần họ đồng ý gả Vân Nhi về làm thiếp cho nhà ta, và Vân Nhi cũng đồng ý, thì con đương nhiên không còn lời gì để nói." 

Dương mẫu cười nhìn Phùng Tiểu Tuyết: "Tiểu Tuyết, con nhận thấy sao?" 

Phùng Tiểu Tuyết cười đáp: "Phu quân nói cũng có lý, chuyện này không thể tình nguyện không được, nếu như Vân nhi và người nhà của muội ấy đồng ý, Vân nhi đối tốt với phu quân như vậy, Tiểu Tuyết đương nhiên nguyện ý cho phu quân cưới muội ấy về." 

"Vậy thì được, cứ định như vậy đi." Dương mẫu vui mừng nói. 

Ngày hôm sau, Dương Thu Trì phó thác cho hai mẹ con Bạch phu nhân chiếu cố Tần Chỉ Tuệ và Tống Tình, rồi cả nhà dưới sự bảo hộ của năm trăm thiết giáp kỵ binh của Vân Lộ và hai trăm hộ vệ của Dương Thu Trì, rầm rộ xuất phát tiến về kinh. 

Trên đường, Dương mẫu đem kết quả đàm luận lén cho Vân Lộ biết, Vân Lộ tự nhiên là hoan hỉ vô cùng. Hai người xì xào thương lượng cả nửa ngày làm sao để nói với hoàng thượng. Vân Lộ lần này quyết định chủ ý, dù mềm dù cứng thế nào cũng phải khiến cho phụ hoàng đáp ứng gả nàng cho Dương Thu Trì. 

Dương mẫu không đem chuyện đề thân nói cho Tống Vân Nhi nghe, nhân vì bà tin vào sự phán đoán của mình, nhận thấy chuyện này ổn thỏa đến chín phần mười. 

Lên đường gấp rút, mấy ngày sau, họ cuối cùng cũng đến được Ninh Quốc phủ. 

Cha của Tống Vân Nhi hiện giờ đã trở thành tri phủ của Ninh Quốc phủ rồi. Khi ông ta biết bọn Dương Thu Trì về đến, vui mừng quá đỗi, kéo hết thê thiếp cùng mẹ của Tống Tình là Tống phu nhân cùng toàn bộ tá quan trong nha môn ra ngoài thành mười dặm chờ đón, rồi nghênh tiếp giống như tiếp đón khâm sai đại thần vậy. 

Tống Vân Nhi từ xa đã nhìn thấy mẹ cha đứng chờ, lập tức phóng xuống ngựa, như con én nhỏ bay xà tới trước mặt Tống tri phủ và Hàn thị: "Cha! Mẹ!" rồi nhào vào lòng Hàn thị. 

Hàn thị ôm con gái, bầu mắt ướt nhòe. Tống tri phủ vuốt hàm râu dê, cười ha ha nhìn con gái nửa năm không gặp. 

Đến lúc này thì đội ngũ của Dương Thu Trì cũng đã đến. Hắn xuống xe ngựa, đưa Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết tới chào. 

Tống tri phủ cúi người lắp bắp nói: "Ti chức tham, tham kiến Dương, Dương tước gia." 

Dương Thu Trì bước lên một bước, vội vã hoàn lễ: "Bá phụ, người làm thế này thật khiến cho tiểu chất xấu hổ quá!" 

Tống tri phủ cười ha ha, lại cùng làm lễ chào hỏi với Dương mẫu, Liễu Nhược Băng cùng mọi người. Sau khi uống rượu tẩy trần, đoàn người được nghênh tiếp về tri phủ nha môn trong thành. 

Đêm đó, theo yêu cầu của Dương Thu Trì, Tống tri phủ chỉ bày tiệc dành cho gia đình để tiếp phong tẩy trần cho mọi người. 

Sau tiệc rượu, người hai nhà ngồi trong phòng khách nội nha nói chuyện. Liễu Nhược Băng là sư phụ của Tống Vân Nhi, đương nhiên ẵm con trai ngồi đó cùng nói chuyện. 

Dương mẫu lệnh cho đem sính lễ đã sớm chuẩn bị vào. Tuy chỉ là nạp thiếp, theo quy củ không cần dùng sính lễ, nhưng Dương mẫu biết Tống Vân Nhi đối với con trai mình không phải là người thường, nên đặc biệt tham chiếu theo quy củ cưới dâu chính, chính thức dâng sính lễ, sau đó trịnh trọng đem hôn thư trình lên. 

Chi tiết này chính là điều Tống tri phủ và Hàn thị mong mỏi từ lâu, hai người cười như hoa nở, luôn miệng gật đầu ưng thuận. 

Quả nhiên như sở nguyện, Dương mẫu cũng cười không khép miệng. 

Không ngờ, Tống Vân Nhi đỏ mặt nói với Tống tri phủ và Hàn thị: "Cha, mẹ, con vẫn còn chưa gả cho Thu Trì ca ca được." 

"Vì sao?" Tống tri phủ, Hàn thị, còn có Dương mẫu đều cả kinh, đồng thanh hỏi. 

Tống Vân Nhi quay nhìn Liễu Nhược Băng, thấy sư phụ của nàng cũng ngồi ngẩn ra ở đó, Tống Vân Nhi không biết giải thích làm sao về chuyện này, dậm chân nói: "Dù gì thì con cũng không chịu!" Xong chuyển thân chạy vào nội đường.

Người cả nhà đều ngẩn ngơ. Hàn thị thấy Dương mẫu rất hỗ thẹn, vội nói: "Lão thân gia, đừng gấp, để tôi đi hỏi Vân nhi rốt cuộc là chuyện gì." 

Liễu Nhược Băng giành nói trước: "Hay là để tôi đi, tôi biết nó là vì cái gì." 

Hàn thị cảm kích gật đầu. 

Liễu Nhược Băng giao con trai cho hai nha hoàn là chị em sinh đôi Sương Nhi và Tuyết Nhi, đi vội vào hậu đường, không tìm thấy Tống Vân Nhi, bèn đi tìm, qua cửa vòm nguyệt, ra hậu hoa viên, thấy Tống Vân Nhi đang đứng dựa vào lan can nơi đó. 

Liễu Nhược Băng bước tới: "Vân nhi, sư phụ biết con đều là vì sư phụ... làm chi cho khổ thế này..." 

Quyết định vừa rồi là nói ra trước mắt mọi người, đặc biệt là trước mặt Dương mẫu. Lần cự hôn này lỡ khi làm mất mặt lão thái thái, chỉ sợ sau này không còn cơ hội lấy Dương Thu Trì được nữa. Tống Vân Nhi biết điều đó, nhưng nàng không có lựa chọn nào khác. 

Cho dù là như thế, sâu kín trong lòng nàng vô cùng thương tâm. Giờ phút này khi nghe Liễu Nhược Băng dịu dàng an ủi, tức thì lòng buồn tủi bi thương chợt dâng trào, nàng nhào vào lòng Liễu Nhược Băng, khóc nấc lên. 

Liễu Nhược Băng khẽ vuốt ve mái tóc dài của Tống Vân Nhi, chờ nàng hơi đỡ khóc, mới nói: "Vân nhi, con có biết không, con làm như vậy kỳ thật là đang bức sư phụ đi." 

Tống Vân Nhi cả kinh, gạt lệ còn đang ứa đầy mắt: "Không, sư phụ, người mà mang hài tử đi, Thu Trì ca ca sẽ phát điên đấy. Con biết rất rõ. Người nhất định đừng đi đâu, nếu như người đi, con không biết Thu Trì ca ca sẽ làm chuyện gì nữa." 

Liễu Nhược Băng nói: "Hài tử ngốc, con không biết con trong lòng Thu Trì trọng yếu như thế nào sao? Con không chịu lấy hắn, nhất định sẽ khiến hắn phát điên đấy." 

"Không, không có đâu. Nhân vì con và huynh ấy chưa có con." Tống Vân Nhi lắc đầy quầy quậy, khóc òa nói, "Nhưng sư phụ và Thu Trì ca ca đã có hài tử với nhau rồi. Con mà lấy huynh ấy, sư phụ người sẽ vĩnh viễn không thể nào lấy huynh ấy được, vậy thì hai tử của hai người sẽ ra sao đây? Chờ nó lớn rồi, bảo nó sẽ làm sao đối diện với Thu Trì ca ca, cha con gần nhau ngay trước mặt, vì cớ gì không thể nhận nhau? Để cho nó đi đến đâu cũng nhân vì không biết cha là ai mà không dám ngẩn mặt nhìn đời hay sao?" 

Tống Vân Nhi đã khóc thành con người lệ, Liễu Nhược Băng khi nghe những lời này, cuối cùng cũng ngẩn ngơ. Xem ra, nàng và Dương Thu Trì còn suy nghĩ quá đơn giản, nhưng sự tình thế này không ngờ Tống Vân Nhi đều nghĩ đến hết cho hai người rồi, đó chính là hợp với câu người trong cuộc thì tối, người ngoại cuộc lại sáng. 

Chính vào lúc này chợt có một tiếng thở dài cất lên. Hai người cả kinh, chuyển đầu nhìn, thấy ở xa xa cạnh cửa vòm nguyệt ở hậu hoa viên có Tống tri phủ và Hàn thị đang đứng. Người vừa rồi thở dài chính là Tống tri phủ. 

Tống tri phủ và Hàn thị lo cho con gái, mới xin lỗi Dương mẫu rồi đi tìm. Khi đến cửa vòm nguyệt ở hậu hoa viên, thấy Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi đang nói chuyện với nhau. Có lẽ vì khoản cách khá xa, và vì tâm tình của hai thầy trò đang xúc động, nên không chú ý đến sự xuất hiện của hai người. Tuy nhiên, trong hậu hoa viên yên tĩnh thế này, giọng nói của hai thầy trò lại khá lớn, nên truyền ra xa, khiến cho Tống tri phủ và Hàn thị nghe rõ hết. Bấy giờ họ mới biết, thì ra hai sư đồ đều yêu Dương Thu Trì, và Liễu Nhược Băng đã có con, và chính là con của Dương Thu Trì. Tống Vân Nhi vì sư phụ, cho nên mới không bằng lòng lấy Dương Thu Trì. 

Liễu Nhược Băng lúc này cũng cả kinh vô cùng, nếu như bí ẩn thân thế của con nàng truyền ra, thì từng chủng hậu quả thế nào nàng không dám nghĩ nữa. Toàn thân nàng hiện giờ lạnh toát, run rẫy từ đầu tới chân, đứng sững ở đó. 

Tống Vân Nhi đương nhiên cũng biết hậu quả ấy, cũng cảm thấy Liễu Nhược Băng đang run rẫy, không khỏi nắm chặt lấy sư phụ, sợ sư phụ chống chịu không nổi. Rất may người nghe được chính là cha mẹ của nàng, nàng hy vọng hai người sẽ giữ kín chuyện này. 

Tống Vân Nhi vội nói: "Cha! Mẹ! Hai người..." Nhưng lời này nàng không biết nên nói sao cho phải. 

Tống tri phủ bấy giờ thở dài một hơi, lẩm bẩm: "Mọi chuyện đều là báo ứng! Chuyện đến nước này, ta, ta còn ẩn giấu nữa làm gì..." Xong ông ta lớn tiếng nói: "Vân nhi, Nhược Băng, hai, hai con cùng ta đến, đến phòng khách, ta, ta có chuyện này cần nói." Xong quay người bỏ đi. 

Liễu Nhược Băng nghe ông ta gọi thẳng tên cúng cơm của mình, hơi cảm thấy kỳ quái. Hiện giờ sự tình đã tiết lộ, chỉ còn biết theo mệnh trời mà thôi. 

Tống Vân Nhi vội chạy đuổi theo: "Cha! Cha nghe con giải thích..." 

Tống tri phủ lắc lắc đầu: "Không, không cần nói, cha, cha đều hiểu hết rồi. Hai con trước hết theo ta về, ta có chuyện này cần, cần cho hai con biết. Chờ hai người nghe, nghe xong chuyện ấy, sẽ, sẽ hiểu hết." 

Tống Vân Nhi nghe phụ thân của mình nói với giọng rất trịnh trọng và hơi kỳ quặc, không biết là chuyện gì, cũng hơi hiếu kỳ, đưa mắt nhìn Liễu Nhược Băng, thấy sư phụ của nàng cũng nghi hoặc y như vậy. 

Bốn người trở về phòng khách ngồi xuống. Dương mẫu cùng mọi người thấy Tống tri phủ trở về thần tình ngưng trọng, không biết vì sao đếu không lên tiếng, tĩnh lặng nhìn ông ta. 

Tống tri phủ lại thở dài, từ từ nói: "Có, có một chuyện ta cần phải nói rõ, chuyện này đã, đã giấu ở trong lòng ta nhiều năm rồi, nếu như không nói ra, không, không những có tội với mẹ của Nhược Băng, mà còn có tội với Nhược băng nữa." 

Mọi người nghe thế, đưa mắt nhìn nhau, không biết ông ta đang nói gì. 

"Chuyện, chuyện này cần phải nói lại từ đầu,' Tống tri phủ đưa mắt xa xăm nhìn lên trần nhà, hãm nhập vào trong hồi ức xa xưa, lời của ông ta không ngờ lúc này cũng bớt cà lăm đi: "Thời còn trẻ, lúc ta, ta còn chưa đậu tiến sĩ, có người mối đề nghị với cha mẹ ta một cuộc hôn nhân. Nữ tử ấy vô cùng xinh đẹp, làng trên xóm dưới đầu nghe danh, chỉ có điều nhà rất nghèo. Nữ tử đó tên là Liễu Hồng Dao." 

Người Liễu Nhược Băng khẽ rúng động, ngước mắt lên kinh ngạc nhìn Tống tri phủ. 

Tống tri phủ từ từ nói tiếp: "Sau khi nhìn thấy nữ tử đó, người, người rất đẹp, nên cha mẹ ta đã đồng ý. Sau khi thành, thành thận được hai năm, cũng chính là giờ hợi ngày tám tháng bảy năm Hồng Vũ thứ 11, nương tử của ta sinh được một con gái. Nhân, nhân vì trên tay của con gái có một nốt ruồi đen cở hạt gạo, nên ta đã đặt tên tục cho con gái lúc nhỏ gọi là, là 'Điểm Điểm'' 

Liễu Nhược Băng khẽ a một tiếng, sắt mặt tái nhợt, nhìn Tống tri phủ chằm chằm. 

Dương Thu Trì cũng hô lên một tiếng cả kinh, phảng phất như đã hiểu ra chuyện gì, nhìn về phía Liễu Nhược Băng. 

Tống tri phủ không hề nhìn họ, vẫn ngửa mặt chìm sâu trong hồi ức của mình: "Không, không ngờ là một đêm mùa hè năm đó, trong nhà xảy ra hỏa hoạn, ta ôm con chạy ra ngoài. Khi quay trở vào cứu nương tử của ta, nàng ấy đã bị lửa cháy toàn thân rồi. Tuy là cứu nàng ấy được, nhưng toàn bộ gương mặt đã bị bỏng nặng, hủy luôn cả một vành tai." 

Liễu Nhược Băng nghe đến đi, lại khẽ a lên một tiếng nữa, sững sờ nhìn Tống tri phủ. 

Tống tri phủ tiếp tục nói: "Từ ngày ấy trở đi, người trong trấn gọi nàng ấy là, là quỷ. Con nít gặp nàng là muốn dùng đá ném nàng. Sau đó, ta khảo trúng tiến sĩ, sắp làm quan. Cha mẹ ta lúc đó lại, lại bức ta bỏ vợ, nói một người xấu như dạ xoa thế không làm sao khắm khá lên được. Mệnh lệnh của mẹ cha ta không dám cải, tuy trong lòng rất thương xót cho nương tử của ta, nhưng cuối cùng vẫn viết, viết một phong hưu thư (tờ bỏ vợ)." 

Nói đến đầy, lời của Tống tri phủ bắt đầu nghẹn ngào, từ từ cúi đầu u buồn nói tiếp: "Nương, nương tử của ta cầm tờ hưu thư khóc ngất cả ngày. Ta cảm thấy thật có lỗi, nên len lén lấy một ít ngân tử từ trướng phòng gói lại cho nàng, còn, còn đưa cho nàng cái trường, trường mệnh tỏa (bùa hộ mạng) ta đeo trên người từ nhỏ. Thật không ngờ, sáng hôm sau khi ta tỉnh lại, nương tử của ta đã, đã mang con gái của ta đi rồi. Gói bạc ấy vẫn còn nằm nguyên trên bàn, chỉ có lấy đi cái trường mệnh tỏa của ta. Từ đó về sau, ta, ta không còn nhìn thấy nương tử của ta nữa..." 

Liễu Nhược Băng run rẫy hỏi: "Cái trường mệnh tỏa đó của ... của .. ông có hình dạng thế nào?" 

"Là, là một khố bạch ngọc làm thành một cái khóa nhỏ, nhân vì ta thuộc về mạng chúc tiểu long, cho nên mặt chính của ngọc có khắc, khắc một con rắn nhỏ, mặt sau có ghi mấy chữ 'Chí Chánh Thập Lục Niên Nhị Nguyệt Thập Lục Mão Thì Thủy Ngưu Sanh'" 

"A!" Đến lúc này thì Liễu Nhược Băng, Tống Vân Nhi và Hàn thị ba người đều hô lên cả kinh. Tống Vân Nhi run giọng hỏi: "Cha. Đấy không phải là tám chữ ghi ngày giờ sinh của cha sao?" 

Tống tri phủ gật gật đầu: "Đấy chính là sau khi ta được sinh ra, bà của con cho, cho thợ ngọc làm cho ta, nhân vì lúc nhỏ ta thân thể yếu đuối nhiều bệnh. Gia gia của con thậm chí còn đặt cho ta cái tên tục gọi là 'Thủy ngưu', hy vọng ta sẽ lớn khỏe mạnh như trâu nước vậy. Hà hà, thật không ngờ, cha của con đến từng tuổi này rồi mà vẫn còn ốm, ốm giống như con khỉ vậy." 

Liễu Nhược Băng đưa mắt nhìn Tống tri phủ, từ từ móc một cái khóa nhỏ bằng bạch ngọc đeo ở cổ ra, nhìn nó một cái, hỏi: "Ông... ông là cha ta?" 

Tống tri phủ gật gật đầu, mắt hàm lệ nhìn Liệu Nhược Băng: "Hài tử, ta... ta thật không phải với hai mẹ con con." 

Đến lúc này thì không những Tống Vân Nhi và Hàn thị hô lên cả kinh, mà ngay cả Dương mẫu, Phùng tiểu Tuyết cùng mọi người cũng kinh ngạc ồ lên thành tiếng. 

Chỉ có Dương Thu Trì là không còn kinh ngạc nữa, vì kỳ thật, ngay từ lời nói đầu, khi Tống tri phủ bảo dưới nách con gái ông ta có nốt ruồi đen bằng hạt gạo, thì hắn đã đoán ngay Liễu Nhược Băng có khả năng chính là con gái của Tống tri phủ. 

Nhân vì khi hắn và Liễu Nhược Băng mưa gió ái ân, đã từng nhìn thấy dưới nách nàng có nốt ruồi đen như vậy. Khi Tống tri phủ nói ra hình dạng và chữ khắc trên cái khóa nhỏ, so với cái khóa bằng ngọc mà hắn nhìn được trên cổ Liễu Nhược Băng hoàn toàn tương đồng, thì Dương Thu Trì đã tin chắc không còn nghi ngờ gì nữa. 

Trước đây hắn cũng kỳ quái là vì sao Tống tri phủ (lúc đó là Tống tri huyện) năm sáu chục tuổi rồi mà con gái lớn Tống Vân Nhi của ông ta mới mười bốn mười lăm tuổi. Hiện giờ thì hắn đã hiểu, thì ra, Tống tri phủ còn có một vợ trước, một người vì gia đình bần cùng, lại chỉ sinh ra con gái, lại còn bị hoản hoạn thiêu hủy dung nhan... để rồi bị gia đình chồng bắt chồng giết giấy bỏ. Người con gái đáng thương ấy chính là mẹ của Liễu Nhược Băng. 

Tống tri phủ trong lúc mẹ con Liễu Nhược Băng cần ông ta nhất, thì dưới mệnh lệnh bức bách của cha mẹ, bất đắc dĩ đã thôi mẫu thân của Liễu Nhược Băng, để rồi mẫu thân của nàng cuối cùng chết rất thê lương. 

Tống tri phủ thở dài một tiếng, cốc cốc vào đầu, thống khổ nói: "Ta thật không phải, đối không phải với hai mẹ con con. Ta tuy không dám phản kháng cha ta, nhưng khi ta ra ngoài làm quan, vẫn, vẫn nhất mực không chịu cưới vợ nữa. Cha mẹ ta có bức thế nào ta cũng không chịu. Mười mấy năm sau, cha ta bệnh chết. Trước khi lâm tử, ông đã nắm tay ta nói, nói là xin lỗi ta, bảo ta hãy đi tìm hai mẹ con con. Sau đó ta đến nhà cha mẹ của mẹ con để tìm hai người, thế rồi mới biết... mẹ con sau khi trở về mấy năm là bệnh chết... con cũng bị, bị một đạo cô vân du đây đó mang đi, không biết là đã đi đâu rồi..." 

Nghe đến đây, từng giọt lệ của Liễu Nhược Băng lăn dài rơi tốc tốc xuống ghế: "Đó chính là sư phụ của ta, sư phụ đã lén dạy võ nghệ, lúc đó ta vừa tròn năm tuổi. Nửa năm sau, mẹ ta phát bệnh nặng, trước khi mất, người đã cởi cái trường mệnh tỏa này đeo vào cổ ta, sau đó cứ lấp bấp nói mãi 'Điểm Điểm'... 'Điểm Điểm'..., "Thủy Ngưu'... 'Thủy Ngưu'..., mãi cho đến khi người đứt hơi...." 

"Ai...!" Tống tri phủ thở một tiếng dài, lão lệ tung hoành, "Lúc đó, khi con đến tìm ta, muốn, muốn thu Vân nhi làm đồ đệ, có phải là mẹ con bảo con làm vậy không?" 

Liễu Nhược Băng lắc đầu, sụt sùi đáp: "Không phải, là sư phụ trước khi lâm chung bảo tôi làm vậy, nói con gái của ông rất có thiên phận, bảo tôi đến xem, nếu như ổn thì thu làm đồ đệ, để đem võ học một phái của chúng tôi truyền lại. Xem ra sư phụ đã từ chỗ mẹ tôi biết được chân tướng, mới chỉ điểm tôi tìm đến ông, nhưng lại sợ ông không nhận, do đó nên không đem toàn bộ chân tướng cho tôi biết." 

Tống tri phủ gật gật đầu: "Hèn gì... năm đó con đến nói muốn thu Vân nhi làm đồ đệ, ta vừa nhìn con là đã biết, con nhất định là con gái 'Điểm Điểm' của ta - Con rất giống mẹ của con, không khác điểm nào..." 

Liễu Nhược Băng ngước đôi mắt lệ, khóc hỏi: "Vậy vì sao ông lại không nhận tôi?" 

"Ta không dám..." Tống tri phủ cúi đầu, "Ta, ta không phải với mẹ con, con có võ công cao như vậy... ta cho rằng mẹ con bảo con tới, tới tìm ta báo cừu. Ta sợ con giết ta, thương hại đến Vân Nhi và mọi người...., hiện giờ, nếu như ta không nói, không nói chuyện này ra, sẽ hại con đi con đường mà năm xưa mẹ con đã đi, và cũng sẽ hại Vân nhi, ta, ta không thể nào làm sai thêm lần nữa... Được rồi, hài tử, nếu như con muốn báo cừu cho mẹ, thì hãy động thủ đi. Ta làm sai chuyện đó, đáng, đáng chết sớm lắm rồi. Chỉ mong con hãy tha cho dì Hàn và các em nó...." 

Tống tri phủ nói xong, nhắm hai mắt lại chờ chết.

Liễu Nhược Băng khóc không thành tiếng: "Báo thù....? Ông... là cha của tôi mà! Cho dù ông có đối không phải với hai mẹ con tôi thế nào, lúc mẹ con tôi cần ông nhất... thì ruồng bỏ chúng tôi, nhưng mẹ tôi không hề hận ông, nếu không, đến lúc mất, mẹ vẫn không ngừng gọi tên ông như vậy..., tôi trước đây rất hận ông, hận ông vô tình vô nghĩa vứt bỏ hai mẹ con tôi... nhưng ông... nhưng ông dù sao cũng là cha tôi a! Tôi... tôi sao lại có thể giết cha ruột của mình chứ?" 

"Cảm ơn con, hài tử." Tống tri phủ lau nước mắt chan hòa lệ nóng, hàm râu dê rúng động, "Là... là ta lo nghĩ quá nhiều, sau đó ta mới minh bạch, lúc hai mẹ con con li khai, con mới có mấy tháng, cho nên con không hề nhận ra ta. Ta bấy giờ mới yên tâm. Lúc đó ta không biết vì sao con lại đến tìm được ta. Ta càng không dám nhận con, không dám đưa con về quê, sợ người ở quê sẽ nhận ra con. Ta đối không phải với hai mẹ con con, hại cho mẹ con chết thảm, ta lúc nào cũng sợ con biết ra chân tướng, sẽ hạ thủ báo phụ. Nhưng mà, ta nhất mực yêu thương con như con gái ruột vậy a..." 

Liễu Nhược Băng gật gật đầu, trước đây nàng không hiểu vì sao Tống tri phủ lại tốt với mình như vậy, còn cho rằng là vì cảm kích nàng dạy võ công cho Tống Vân Nhi. Hiện giờ nàng mới biết, thì ra là nó xuất phát từ tình cảm thầm lặng của phụ thân. 

Nàng sụt sùi nói: "Tôi có hỏi mẹ cha con là ai, mẹ không nói. Sau tôi hỏi sư phụ, sư phụ đến chết cũng không nói. Tôi còn cho rằng suốt cả cuộc đời này sẽ không biết cha của mình là ai nữa. Thật không ngờ, cha ruột của mình ở bên cạnh nhiều năm là vậy, thế mà mình lại không nhận ra...." 

Lòng nàng bi thương với hạn, đau đớn có dư, đột nhiên nhớ tới vừa rồi Tống Vân Nhi đã nói qua, nếu như con của nàng và Dương Thu Trì gần nhau mấy xích mà chẳng thể nhận nhau, thì bi khịch của nàng chẳng phải diễn lại trên người con của nàng hay sao? 

Liễu Nhược Băng ngước đôi mắt lệ, nhìn Dương Thu Trì, nhất thời lòng loạn như ma. 

Dương Thu Trì giờ mới minh bạch, gia đình của Liễu Nhược Băng bất hạnh như vậy, hèn gì tính cách của nàng cô tịch như vậy, hèn gì khi nàng biết không thể cùng hắn chấp cánh liền cành, thì thà một mình mang con đi sống nuôi con suốt đời... Thì ra, mẹ của Liễu Nhược Băng trước đây đã từng hành động như vậy, một mình mang theo nàng và sinh sống như vậy... 

Dương Thu Trì bước đến cạnh Liễu Nhược Băng, ngồi xuống, cầm chặt tay nàng. Liễu Nhược Băng không nhịn được cảm xúc, nhào vào lòng Dương Thu Trì, lớn tiếng òa khóc. 

Liễu Nhược Băng và Dương Thu Trì thân mật như vậy, Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết lại không hề có điểm kỳ quái gì, phảng phất cho đó là tình lý của câu chuyện phải là như vậy. Thậm chí hai người còn đồng tình nhỏ lệ. 

Người trong phòng khách, bao gồm cả Vân Lộ, Sương nhi, Tuyết nhi, Hồng Lăng đều ứa nước mắt theo, chỉ có Tống Vân Nhi mở to mắt, vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Nàng không có cảm thu hai cha con gặp nhau ở cạnh nhau mà không nhận nhau của Liễu Nhược Băng, càng không có cảm giác xấu hổ tự trách của Tống tri phủ. Lòng nàng hiện giờ không thể nào nói hết nổi vui mừng. 

Tống Vân Nhi chạy lại, ngồi cạnh Liễu Nhược Băng, reo lê: "Tỷ tỷ sư phụ! Thì ra tỷ là chị cùng cha khác mẹ với con! Quá tốt rồi! Tỷ tỷ sư phụ!" 

Liễu Nhược Băng không nhịn được đổi thành cười: "Cái gì... cái gì mà tỷ tỷ sư phụ, gọi tỷ mà xưng con, gọi loạn cái gì vậy..." 

Tống Vân Nhi ôm giữ tay của Liễu Nhược Băng: "Người tuy là sư phụ của con, nhưng mà trước đó người là tỷ tỷ của con, do đó con phải gọi người là tỷ tỷ sư phụ." 

Dương Thu Trì ngoác miệng cười, vấn đề thế mà dễ giải quyết: Nếu như Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi là hai cịi em, tỷ tỷ dạy muội muội võ công chẳng thể coi là sư đồ được. Quan hệ sư đồ của hai người trước đây cũng nhân vì quan hệ tỷ muội mà tự động giải trừ. Do hai người là hai chị em, án chiếu theo Đại Minh luật, thì đương nhiên đồng thời... gả về cho hắn! 

Hắn khổ não ưu phiền cố tìm ra biện pháp giải quyết, không ngờ vấn đề nguyên bổn không tồn tại, chỉ là mọi người đều bị những biểu hiện bề ngoài mê hoặc mà thôi. Xem ra đây cũng rõ ràng là ý trời. Nghĩ đến đây, Dương Thu Trì không khỏi tức cười, hắn là một bác sĩ pháp y thời hiện đại, thế mà không nhận ra hai người là chị em, và bây giờ lại bắt đầu tin vào thuyết mệnh trời rồi! 

Dương mẫu nước mắt lưng tròng, mỉm cười nói: "Hiện giờ hai cha con đã nhận nhau, quả là tốt rồi! Hiện giờ chuyện thân sự này xem ra không còn vấn đề nữa rồi?" 

Tống Vân Nhi đỏ mạt vội nói: "Không không, còn một vấn đề nữa!" 

Mọi người đều kỳ quái nhìn nàng, lòng nghĩ chuyện của nha đầu này quả thật là nhiều. 

Tống Vân Nhi nắm tay Liễu Nhược Băng, nhỏ giọng nói: "Tỷ tỷ sư phụ, quan hệ của tỷ và ca ca nên chăng nói ra luôn cho rồi? Dù sao cũng không thể để cho hài tử trải qua nỗi thống khổ mà tỷ từng trải qua!" 

Liễu Nhược Băng chấn động thân người. Câu nói này của Tống Vân Nhi khiến nàng cảm nhận được sự chấn hám sâu sắc. Nàng có thể không cần phu quân, nhưng hài tử không thể không cần cha. Hơn nữa, kinh qua hàng loạt biến cố và khảo nghiệm sống chết như vậy, nàng đã sâu sắc hiểu được bản thân không thể nào rời khỏi Dương Thu Trì nữa rồi. 

Liễu Nhược Băng ngước đôi mắt đẫm lệ, nhìn Dương Thu Trì, thấy được sự yêu thương vô hạn trong đáy mắt hắn, một tình cảm nhẹ nhàng nhưng tràn ngập xâm chiếm cõi lòng nàng, Liễu Nhược Băng quy đầu lại, kiên định nói với Tống Vân Nhi: "Để ta tự nói." 

Liễu Nhược Băng yêu thương đưa mắt nhìn đứa con đang ngủ yên trong lòng, rồi ngẩng đầu lên nói với Tống tri phủ: "Cha...! Đứa bé này của con gái có với Thu Trì, con gái cũng muốn.... cũng muốn gả về cho Thu Trì...." 

"Được...!" Một tiếng gọi cha của Liễu Nhược Băng lập tức khiến Tống tri phủ ứa trào lệ nóng. Chỉ có điều, đây lại chính là nước mắt vui mừng, "Được! Cha đáp ứng rồi, cả con và Vân nhi đều gả cho Thu Trì...!" 

Dương Thu Trì mừng rỡ, nhìn Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi, ba người cùng đứng lên, vén y bào quỳ xuống đất lạy Tống tri phủ và Dương mẫu ba lạy, được hai người vội vã đỡ dậy. 

Liễu Nhược Băng lòng đầy hoan hỉ, ẵm hài tử nói với Dương mẫu: "Thái phu nhân, thật xin lỗi, Nhược Băng không nói thật, đã ẩn man thân phận của hài tử này..." 

Dương mẫu đã cười không khép miệng, đối mắt nhìn Phùng Tiểu Tuyết. Dương mẫu tiếp lấy em bé từ Liễu Nhược Băng, nhìn chú bé khôi ngô bậm trợn đã thức dậy, cười ha ha nói: "Ngày mà các con về, Hồng Lăng đã len lén cho chúng ta biết chuyện này, chúng ta đã biết hết rồi, đây là huyết nhục của Dương gia chúng ta a, ha ha. Do đó, chúng ta mới nghĩ cách lưu con lại. Hiện giờ tốt rồi, cháu nội của ta có thể danh chính ngôn thuận kế thừa tông tự của Dương gia rồi, ha ha" 

Ha ha, thì ra Hồng Lăn là tiểu nội gian! Tiểu nha đầu này băng tuyết thông minh, có chuyện gì mà giấu được cô nàng này chứ? Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng vui mừng nhìn về phía Hồng Lăng, rất may tiểu nha đầu này thông minh, đã len lén cho Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết biết, dùng tình cảm giữ người lại, cuối cùng đã hiệu quả. 

Hồng Lăng đỏ mặt, làm một lễ chữ phúc: "Xin lỗi lão gia...! Liễu tiền..., không, tứ phu nhân." 

Án chiếu theo thứ tự trước sau, thì Phùng Tiểu Tuyết là đại thái thái, Tần Chỉ Tuệ là nhị phu nhân, Tống Tình là tam phu nhân, Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi đồng thời tiến môn, chiếu theo tuổi tác phân biệt thành tứ phu nhân và ngũ phu nhân. Bạch Tố Mai còn chưa quá môn, không thể tính chung vào. 

"Để ta coi, ta xem nào," Tống tri phủ cười ha ha tiếp lấy hài tử, "Coi cháu ngoại của ta nè, khà khà, thật là kháu khỉnh a! Giỏi giỏi, tương lai nhất định có tiền đồ!" 

Tiếp ngay sau đó, Dương mẫu lại bổ thêm một phần sính lễ và hôn thư, chính thức ký văn khế, Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi bấy giờ coi như thiếp chính thức của Dương Thu Trì. 

Đường đường là Trấn Viễn bá cưới vợ, cưới con gái tri phủ của Ninh Quốc phủ, đương nhiên phải làm cho rềnh rang một chút. 

Ngày hôm sau, hôn lễ chánh thức bắt đầu. Giống như lần cưới Tần Chỉ Tuệ vậy, ngoại trừ bái thiên địa, sáu lễ khác đều theo quy củ. Tống tri phủ hối lỗi với Liễu Nhược Băng, không những đáp ứng cho nàng lấy họ Liễu của mẹ, còn nghĩ cách thông qua hôn lễ mà đền bồi. Ngoài ra, Tống Vân Nhi là con gái yêu của Tống tri phủ, hai khuê nữ cùng lấy chồng, đương nhiên càng náo nhiệt. Toàn bộ Ninh Quốc phủ bao trùm trong bầu không khí vui vẻ. 

Người của Ninh Quốc phủ đều biết con gái thất lạc của Tống tri phủ đã trở về, cùng tiểu thư nguyên là thiên kim cùng gã cho vị lao đầu quản giam năm xưa đã phá dư đảng Kiến Văn tại Bảo Ninh phủ (người ta hiện giờ là Trấn viễn bá). Mọi người đến chúc mừng không ngớt, lễ mừng chất thành núi nhỏ. 

Lần rượu mừng này Dương Thu Trì bị chuốc cho say rồi mới được đưa vào động phòng. 

Hôm nay vào động phòng đương nhiên là Tống Vân Nhi. 

Tiến vào động phòng đầy hoa và nến, Dương Thu Trì hơi thanh tỉnh, thấy Tống Vân Nhi mặc đồ cô dâu màu đỏ, trùm khăn đỏ ngồi bên giường. 

Dương Thu Trì mừng rỡ như lòng nở hoa, cái đuôi nhỏ tinh nghịch ngày nào từ giờ trở đi là nữ nhân của hắn rồi. 

Hôm nay quá cao hứng, uống rượu quá nhiều, Dương Thu Trì cảm thấy đầu óc choáng váng. Hắn nỗ lực khiến cho hai chân không được loạn, bước từng bước tới trước mặt Tống Vân Nhi, cúi người xuống: "Vân nhi, ta đến rồi!" 

Tống Vân Nhi ư một tiếng, trách: "Huynh mà không chịu mở khăn là muội tự mở đấy, ngồi một mình trùm kín mít ở đây buồn muốn chết!" 

"Ha ha!" Dương Thu Trì rất vui, cầm lấy khăn mở hé lên, lộ ra gương mặt tiếu lệ hồng hào của Tống Vân Nhi. 

"Vân nhi của ta thật đẹp!" Dương Thu Trì không khỏi buột miệng khen. 

Tống Vân Nhi ngữa gương mặt xinh, đôi mắt như có ánh sao, đứng dậy khẽ gọi: 'Ca....!" Lòng yêu thương cùng cực, không nhịn được dựa vào lòng Dương Thu Trì. 

Dương Thu Trì vòng tay ôm eo nhỏ của nàng, tay còn lại nâng cầm nàng lên: "Vân nhi, lúc xưa ở Ân Dương trấn, ta muốn hôn nàng, nàng vì sao không chịu cho ta hôn?" 

Tống Vân Nhi cười hi hi: "Huynh bị xuân dược bức làm vậy, chứ đâu phải tự nguyện đâu, muội không thèm!" 

"Vậy hiện giờ ta muốn hôn, nàng có chịu không?" Dương Thu Trì nhìn đôi môi hồng kiều diễm khêu gợi của Tống Vân Nhi, lòng rộn lên nỗi niềm khó tả. 

"Dạ...!" Tống Vân Nhi e thẹn vô cùng, ngước mặt, từ từ khép hờ đôi mắt, dâng bờ môi thơm. 

Môi Dương Thu Trì bắt đầu khe tiếp xúc bờ môi của Tống Vân Nhi, thân người nàng khẽ rúng động, nhưng không mở mắt. Dương Thu Trì lại chạm một cái nữa, Tống Vân Nhi nhịn không nỗi, dùng hai tay câu cổ hắn, chủ động hôn lên môi hắn. 

Hai người hôn nhau say sưa như quên cả đất trời, phảng phất như đem sự ái luyến vô hạn tỏ bày trong cái hôn ngọt ngào say sưa này. 

Đôi ma trảo của Dương Thu Trì khẽ cởi cúc áo của Tống Vân Nhi, đưa vào trong, cuối cùng cũng chạm tới đỉnh vu sơn cao vòi vọi của nàng. 

Tống Vân Nhi rên một tiếng, run giọng gọi "Ca...!" Toàn thân như bị rút hết xương, mềm oặt trong lòng Dương Thu Trì. 

Dương Thu Trì ôm xốc nàng lên, đặt vội lên gối, tay chân hấp tấp cởi quần áo của hai người, leo lên giường, rồi ôm ngọc thể trắng như thạch cao của nàng vào lòng, nhanh tay kéo lẹ tấm màn che. 

Từng tiếng thở gấp phì phò, tiếng rên đau đớn xen lẫn chút gì đó hạnh phúc vang lên... Ánh nến đỏ bên ngoài lung linh hoan khoái, nhảy múa lung linh như hòa nhịp cùng hai người.

Trước tiết nguyên tiêu một ngày, đoàn người của Dương Thu Trì cuối cùng cũng lên đến được kinh thành. 

Hôm ấy khí trời rất tốt. Bằng hữu của Dương Thu Trì ở kinh thành là Phủ doãn Cố đại nhân của Ứng Thiên Phủ, Cổ hàn lâm, cẩm y vệ Mã Độ, Ngưu Đại Hải cùng mọi người đã bày một đàn rượu ngon mang theo hơn mười quan kiệu ra ngoài kinh thành mười dặm chờ. Ngoài ra, đón họ còn có Lễ bộ thượng thư Lý đại nhân và Công bộ thượng thu Cung đại nhân đích thân nghênh tiếp. 

Tuy thượng thư lục bộ là hàm chánh nhị phẩm, nhưng Dương Thu Trì là Trấn Viễn bá, hàm siêu phẩm. Hơn nữa, Dương Thu Trì còn được hoàng thượng ngự chỉ mời đến kinh thành cùng hưởng tiết nguyên tiêu, Lễ bộ đương nhiên phải ra mặt. Còn Công bộ ra mặt chủ yếu là lo liệu việc giao tiếp của Dương Thu Trì. 

Hoàng thượng Minh Thành Tổ sau khi phong thưởng cho Dương Thu Trì làm Trấn Viễn bá, đã hạ chỉ cho Công bộ dành ra công khoản ở kinh thành kiến tạo bá tước phủ cho Dương Thu Trì. Bá tước phủ này đã hoàn thành vào một tháng trước. 

Gặp nhau rất hữu hảo, nồng ấm phi thường. Họ bày bàn rượu ở một cái đình cách thành mười dặm, uống với nhau rất vui, xong mới lên quan kiệu tiến kinh thành. Được sự dẫn đầu của Công bộ thượng thư Cung đại nhân, Dương Thu Trì và mọi người đến nhà mới của họ ở kinh thành. 

Dương Thu Trì xuống quan kiệu, ngước mắt nhìn, quả là một hào môn đại trạch vô cùng uy vũ và hùng tráng! 

Hai con sư tử đá ở hai bên cửa dữ tợn oai hùng, mấy chục bậc thang đá dẫn đến của lớn sâm nghiêm... Trên cửa treo đèn kết hoa, trên đó có một biển đen khắc chữ vàng, dùng lối viết chữ lệ (chú: loại chữ thông dụng thời Hán) ghi: "Ngự tứ Trấn Viễn bá Dương phủ" gồm bảy chữ lớn, lập lòe sáng chói. 

Dương Thu Trì đắc ý sờ cằm hân thưởng. Hoàng đế này đối với hắn thật là không tệ. Như vậy có thể nói, không giống với vẻ hoàng thượng muốn "Thỏ chết giết chó" như hắn đã nghĩ, nên cũng có hơi an lòng. 

Dương mẫu và mọi người cũng xuống kiệu, thấy phủ này hùng vĩ đại khí như vậy, đều rất cao hứng.

Dương Thu Trì vừa mới đến nơi, cần phải an đốn việc nhà, nhưng rất may là Dương phủ ở đây đã được kiến tạo tinh trí và đầy đủ cả, chỉ cần vào ở mà thôi. Lễ bộ thượng thư Lý đại nhân cùng mọi người đưa đến cửa Dương phủ, rồi cáo từ trước, ngày hôm sau sẽ đến bái phỏng. 

Sau khi tiễn các vị lão bằng hữu đi, cả nhà Dương Thu Trì tiến vào nhà mới. 

Phụ trách quản lý lâm thời của Dương phủ chính là một vị viên ngoại lang Quan đại nhân tòng ngũ phẩm. Ông ta dẫn Dương Thu Trì cùng mọi người đi thị sát hết một vòng Dương phủ to lớn này. Đây là nhà do hoang thượng ngự tứ, có câu nói rằng: "Tài sản có lớn cũng lớn không qua công khoản", nếu như đã là tiền của quốc gia, công bộ dùng dĩ nhiên không xót rồi. Dương phủ chiếm trên một khoản đất rất rộng, trang sức hào hoa, bố cục tinh mỹ, cấu tứ tinh xảo, vượt xa gia sản ở Vũ Xương. 

Thị sát hoàn tất, bàn giao xong xuôi, vị Quan đại nhân dẫn theo các nhân viên quản lý cáo từ. 

Dương phủ này quá lớn. Phùng Tiểu Tuyết chủ trì phân chia các viện lạc cho Dương mẫu, bản thân và các di nương. Đương nhiên còn có phòng làm việc và thư phòng riêng của Dương Thu Trì. Rất may là lần này Dương mẫu mang theo đủ nha hoàn và người hầu để sai bảo, cho nên nhất thiết án chiếu nhiệm vụ mà tiến hành, đâu ra đó đường hoàng. 

Vân Lộ là Thanh Khê công chúa, ở kinh thành có phủ đệ công chúa của mình, nhưng Phùng Tiểu Tuyết vẫn chuẩn bị cho nàng một khu nhà vườn riêng. 

Do ngày hôm sau là tiết Nguyên tiêu, thời gian không còn nhiều, nên Lễ bộ thượng thư Lý đại nhân đã an bài cho quan viên phụ trách ngôn lễ của Lễ bộ đến để chỉ dẫn về lễ nghi liên quan cho Dương mẫu cùng mọi người. 

Tối đó, trong cung có thái giám đến tuyển chỉ lệnh cho Dương Thu Trì sáng sớm hôm sau mang theo Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết dự triều sớm để tấu kiến. 

Đêm đó, Liễu Nhược Băng và Dương Thu Trì, Tống Vân Nhi ba người bàn luận dự đoán sự tình sẽ phát sinh vào ngày mai, định ra phương án ứng phó, vì họ không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất. 

Ba người bàn định, thấy do Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi không có lời tuyên triệu, không thể vào điện Kim Loan, chỉ có thể ở ngoài chờ. Nếu như Dương Thu Trì thượng triều có nguy hiểm, thì sử dụng phích lịch đạn (súng ngắn) của hắn bắn làm hiệu. Phích lịch đạn này có uy lực thế nào Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi đều biết qua, cho rằng trên thế gian này không người có thể địch. Còn hoàng thượng và quần thần không biết Dương Thu Trì có vũ khí bí mật này. Khi phát hiện không ổn, trước hết hắn đương trường giết chết Lý công công cùng cao thủ ở bên cạnh, khống chế hoàng thượng, như vậy mới trấn áp được người khác. 

Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi ở ngoài khi nghe Phích lịch đạn nổ vang, lập tức đánh giết vào trong, tiếp ứng cho Dương Thu Trì, bắt hoàng thượng làm con tin rời khỏi kinh thành, đặt kế chạy ra hải ngoại. Có Liễu Nhược Băng là cao thủ tuyệt thế ở đây, lại có hoàng thượng làm con tin, muốn bình an li khai cũng không phải là vấn đề lớn. 

Lúc này gác cổng chợt vào báo, nói có cẩm y vệ phó thiên hộ Mã Độ cùng Ngưu Đại Hải đến bái phỏng. 

Dương Thu Trì hơi kỳ quái, hai người này giờ đến đây để làm cái gì? 

Sau khi thỉnh hai người vào phòng khách nghênh tiếp và ngồi hàn huyên vài câu, hai người kia đều là kẻ thẳng thắn, lại lấy nghĩa huynh đệ mà xưng hô, nên cũng không xa cách gì, Mã Độ vào để thẳng: "Huynh đệ, hai người chúng ta muốn đến hỏi, đệ định chừng nào đến bái kiến Chỉ huy sứ Kỷ Cương Kỷ đại nhân vậy?" 

Dương Thu Trì ngẩn ra, kiếp trước hắn là tên ngốc chỉ biết học học làm việc, sau này làm đại quan rồi nhưng chỉ lo bận rộn phá án, chưa bao giờ chính thức kinh lịch qua quan trường, hơi bối rối nói: "Cái này... Kỷ đại nhân không có ý triệu kiến tôi a." 

Mã Độ và Ngưu Đại Hải cùng cười, Mã Độ nói: "Chúng ta đoán là đệ sẽ trả lời như vậy. Huynh đệ à, chiếu theo tính tình của ngươi như vậy, sau này ở kinh thành làm sao mà hòa hợp đây?" 

Ngưu Đại Hải cũng nói: "Đúng a, huynh đệ, hai chúng ta là lo tính tình của đệ quá thẳng thắn, nên đêm rồi mà vẫn đến tìm đệ. Đệ là đặc sứ của Kỷ đại nhân, đệ đến kinh thành không chịu đến ra mắt đại nhân, cái này nói sao cho được đây? Không cần nói gì Kỷ đại nhân, ngay cả huynh đệ của chúng ta ở đây, đệ đến mà không chịu nói một tiếng thì coi sao cho được à?" 

Dương Thu Trì gải gải đầu, hơi bối rối: "Đệ nghĩ dù gì hôm sau cũng thượng triều hoặc Nguyên tiêu tiết rồi không phải là gặp hay sao?" Thấy Mã Độ và Ngưu Đại Hải cười khổ, Dương Thu Trì biết mình nghĩ quá giản đơn, vội nói: "Vậy đêm nay đệ đến bái phỏng Kỷ đại nhân vậy." 

Mã Độ vỗ đùi: "Như vậy là đúng rồi!" 

Hai người lập tức kể ra mọi sở thích và tính cách của Kỷ Cương cho Dương Thu Trì nghe. Dương Thu Trì được biết Kỷ Cương thích nhất là tiền tài, liền thở phào nhẹ nhõm, cái gì thì không có, chứ tiền tài thì hắn có đủ. Hắn lập tức lệnh cho người chuẩn bị một phần lễ vật trọng hậu. 

Dương Thu Trì đối với tính trọng yếu của tiền bạc mở đường đèo này biết rất rõ. Hắn tin rằng, có tài lực hùng hậu làm hậu thuẫn, làm quan này không có gì bất lợi. Cho nên lần này đến đây, hắn đã chuẩn bị khá nhiều kim ngân châu báo. 

Khi danh sách lễ vật tống tặng cho Chỉ huy sứ Kỷ Cương được đưa ra, Mã Độ và Ngưu Đại Hải cùng kinh ngạc trợn tròn mắt, lưỡi lè thật dài, cả nửa ngày cũng không thụt vào được - bọn họ biết Dương Thu Trì có tiền, nhưng không ngờ lại có nhiều tiền như vậy. 

Dương Thu Trì vào hậu đường đem chuyện này nói cho Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi hay. Hai người phân tích, nếu như hoàng thượng đã hạ thánh chỉ triệu kiến, trước khi gặp được hoàng thượng thì Kỷ Cương sẽ không vội động thủ, cho nên đêm nay xem ra không có nguy hiểm. Nhưng mà, Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi vẫn không an tâm, giả trang thành tùy tùng đi cùng hắn. 

Dưới sự bồi đồng của Mã Độ và Ngưu Đại Hải, Dương Thu Trì ngồi quan kiệu dẫn theo đội hộ vệ đến phủ của cẩm y vệ chỉ huy sứ Kỷ Cương. Loại hội kiến riêng tư này người khác không tiện tham dự, do đó sau khi đến nơi, Mã Độ và Ngưu Đại Hải liền cáo từ ra về. 

Dương Thu Trì trình bái thiếp và lễ đan (danh sách ghi lễ vật tặng) lên, chỉ chờ một chút là cửa lớn của Kỷ phủ mở toạt, mời Dương Thu Trì cùng mọi người tiến vào. Họ được đưa thẳng đến phòng khách, được mời trà thơm. Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi hóa trang thành thân binh tùy tùng, đứng sau lưng Dương Thu Trì. Mấy rương lễ vật được khiêng vào đặt trong phòng khách. 

Chẳng mấy chốc sau, một vị cân ban trưởng tùy lớn tiếng xướng: "Chỉ huy sứ Kỷ Cương Kỷ đại nhân đến...!" 

Tiếp theo đó, hậu đường truyền đến tiếng cười sảng khoái: "Dương đại nhân, ngài đến thật rồi!" Sau khi chuyển qua bình phong, một đại hán khôi ngô, mày rậm mắt to bước vào phòng khách. 

Dương Thu Trì hơi cảm thấy kỳ quái, Kỷ Cương này quả thật là kiêu hùng, dáng vẻ tướng mạo xem ra đường đường một đấng chứ không thường. Hắn vội vã đứng dậy, cung thân thi lễ: "Ti chức Dương Thu Trì tham kiến Chỉ huy sứ đại nhân." 

Kỷ Cương cười ha hả, bước đến trước mặt Dương Thu Trì, một tay nắm lấy cánh tay hắn, tay còn lại dùng lực vỗ vai: "Ừ...! Thân hình xương cốt rất chắc chắn, là hàng tốt thích hợp làm cẩm y vệ của chúng ta a!" Y quét mắt nhìn mấy rương lễ vật trong sảnh, miệng lộ nụ cười mỉm hài lòng, lại vỗ mạnh lên vai Dương Thu Trì, "Thu Trì, sau này đều là huynh đệ một nhà, những tục lễ như vậy sau này hãy miễn đi a, ha ha ha, mời ngồi." 

Thấy phần hậu lễ như vậy, Kỷ Cương chuyển sang gọi thẳng tên Dương Thu Trì, hiển nhiên là muốn biểu hiện đã coi hắn là người của mình. Dương Thu Trì cũng cười hắc hắc đáp lại: "Đa tạ Kỷ đại nhân." Xong hắn vén y bào ngồi xuống. Chỗ bị Kỷ Cương vỗ vẫn còn đau, khiến hắn phải cắn răng cố chịu. 

Kỷ Cương xuất thân là con nhà võ, từ nhỏ đã luyện tập võ công, cưỡi ngựa bắn cung đều thành thục. Trong chiến dịch Tĩnh nạn, Kỷ Cương chủ động đầu nhập vào quân của Chu Lệ, đảm nhiệm thị vệ thân binh của Chu Lệ. Từ đó về sau, trong rất nhiều chiến dịch, Kỷ Cương theo sát bên người Chu Lệ, đã từng có tiếng là hung mãnh trong tác chiến. 

Do đó, một loạt cú vỗ này của Kỷ Cương suýt khiến Dương Thu Trì bị vỗ bẹp nát. Rất may là hắn theo Tống Vân Nhi luyện được nửa năm nội công, thân hình chắc chắn hơn nhiều, nếu không nhất định là đã lộ mặt xấu ngay đương trường. 

Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi quan sát hết mọi cử chỉ vào trong mắt, không phát hiện ra Kỷ Cương có sát cơ gì, nên cũng không động thanh sắc. 

Kỷ Cương ngước nhìn Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi đang đứng sau Dương Thu Trì, cười hà hà bảo: "Thu Trì à, hai vị tiểu thiếp sau lưng ngươi đứng mệt rồi, cũng thỉnh họ ngồi xuống luôn đi." 

Dương Thu Trì cả kinh, tiếp đó lập tức minh bạch, khẳng định là trong hai trăm vị hộ vệ của hắn có mai phục mấy nội tuyến của Kỷ Cương. 

Điều này kỳ thật không dùng đầu óc cũng nghĩ ra, Kỷ Cương là người thế nào? Đó là người đứng đầu của cơ quan đặc vụ chuyên thu thập thông tin tình báo! Là người cấp cho Dương Thu Trì chức vị trọng yếu trên một vạn người dưới một vài người, lại có đặc quyền tiền trảm hậu tấu.... Đương nhiên y phải an bài vài nội tuyến, nghiêm mật khống chế hắn, để đề phòng bất trắc. 

Chỉ có điều hắn không biết nội tuyến mai phục bên người hắn là ai, xem ra là nhân số không ít. Rất may hắn lòng trung như nhất, cúc cung tận tụy, nếu không đã sớm bị đưa về phương Tây rồi.

Dương Thu Trì không khỏi ngầm vuốt mồ hôi lạnh, bảo Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi ngồi xuống phía dưới của mình, cười hì hì nói: "Kỷ đại nhân, hai vị tiểu thiếp của ti chức đây cũng biết chút võ nghệ, nên làm thiếp thân hộ vệ luôn cho ti chức, đi đâu cũng theo cùng." 

Kỷ Cương cười ha ha, nhìn Dương Thu Trì chằm chằm: "Hơi biết chút võ nghệ? Khặc khặc, huynh đệ ngươi quá khiêm tốn rồi, trong trận chiến ở sào huyệt của Kiến Văn ở Trấn Viễn châu Thanh Khê huyện, hai người tung hoành ngang dọc, giết địch vô số. Trên kim đỉnh của Niên bảo ngọc tắc thần sơn đã kích sát đệ nhất cao thủ của Đóa Cam là Đế Lạc... Thủ đoạn như vậy chỉ sợ không phải là hơi biết chút võ nghệ mà làm được đâu a?" 

Dương Thu Trì lại giật mình cả kinh, căn cứ vào tình huống đương thời, những tin tức thế này bọn hộ vệ xem ra không thể biết rõ, xem ra Kỷ Cương đã thông qua việc thẩm tra tường tận các tù binh để moi ra được những tin này. Và thứ tiêu diệt Đế Lạc thật sự chính là súng ngắn của hắn, nhưng lúc đó chỉ có bốn người ở đó cộng thêm tiểu hắn cẩu, rồi đầu của Đế Lạc bị Tống Vân Nhi chém đứt, cũng chính nàng quát bảo xuống dưới lúc đó, trong khi hắn không biết võ công, nên công lao này xem ra là đã tính lên người hai tiểu thiếp của hắn. 

Xem ra, mọi động tác của hắn đều không thể tránh được con mắt của Kỷ Cương. Dương Thu Trì càng cảm thấy toàn thân phát lãnh. 

Kỷ Cương lại cười: "Ngươi có nhiều thiếp thân hộ vệ không mang, lại mang hai tiểu thiếp, ha ha, ngươi sợ ta và hoàng thượng chim chết bẻ ná hay sao? Ha ha, ngươi quả là lo lắng thái quá rồi, ha ha ha." 

Tên 'tiểu tử' này chẳng những cài một loạt máy "thu âm" cạnh miệng của ta, mà còn có mấy bộ vi xử lý "deepblue" phân tích a! Dương Thu Trì không nhịn được nghĩ như vậy. Nhưng mà, điều này cũng là một sự tình rất dễ nhận thấy: Kỷ Cương nếu như biết Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi đều là thiếp thất của hắn, hơn nữa võ nghệ cao cường, trong khi nhưng hộ vệ của hắn đều là do hoàng thượng và Kỷ Cương phái đến, hắn không mang họ lại mang theo tiểu thiếp, mục đích bên trong chỉ cần suy luận một chút đại khái sẽ biết ngay. 

Kỷ Cương nhìn ra vẻ bối rối của Dương Thu Trì, cười ha ha phẩy tay: "Được rồi, không nói những chuyện này nữa. Huynh đệ à, hoàng thượng phi thường xem trọng ngươi, đương nhiên bổn quan cũng vậy. Ngươi chỉ cần tận tâm kiệt lực phụ tá hoàng thượng như dĩ vãng là được. Hiện giờ thiên hạ thái bình, không cần ngươi phải chinh chiến tứ hải nữa. Nhưng nếu như có thể giữ gìn cho sự bình an của một phương, đặc biệt là vùng kinh sư của chúng ta thì là công đức vô lượng, và cũng chia bớt một phần ưu sầu cho hoàng thượng." 

Dương Thu Trì luôn miệng vâng dạ. 

Kỷ Cương nói: "Huynh đệ chúng ta sau này còn dài, ngày mai ngươi còn phải thượng triều, chiều còn phải tham gia cùng hoàng thượng chơi đèn trong tiết Nguyên tiêu. Ta cũng không lưu ngươi ở lại làm gì. Chúng ta nhanh nhẹn dứt khoát, hãy về sớm nghỉ ngơi cho khỏe đi, chuẩn bị tinh thần đầy đủ, đừng để mất mặt cẩm y vệ của chúng ta." 

Dương Thu Trì vội vã đứng dậy, làm một lễ thật sâu: "Ti chức cảm tạ Kỷ đại nhân tài bồi, nhất định tận tâm kiệt lực để báo thánh ân." 

Rời khỏi Kỷ phủ, Dương Thu Trì bấy giờ mới phát giác khắp đầu của hắn đã toát đầy mồ hôi lạnh. Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi cũng cảm thấy Kỷ Cương thập phần lợi hại. Ba người cùng suy gẫm, vẫn chưa minh bạch Kỷ Cương đang toan tính điều gì. Tuy Kỷ Cương nói hoàng thượng không hề có ý tứ điểu tận cung tàng, nhưng không thể yên lòng chẳng nghĩ ngợi gì được. 

Trở về Dương phủ, thấy sáng sớm ngày mai đã phải thượng triều gặp hoàng thượng, Liễu Nhược Băng, Tống Vân Nhi và Dương Thu Trì lại thương lượng một hồi, nghĩ kỹ đối sách rồi mới yên tâm chia tay. 

Tuy nói là hi vọng nghỉ ngơi cho tốt, nhưng nghĩ đến sáng sớm mai phải gặp hoàng thượng, không biết là phúc hay là họa, cả nhà Dương Thu Trì đều không ngủ được. 

Canh tư hôm sau, trời còn tối om, cả nhà của Dương Thu Trì đã thức dậy, ăn mặc hoàn chỉnh. Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi giả thành tùy tùng y như cũ, rời khỏi cửa Dương phủ, đi trong đêm tối băng lạnh, ngồi quan kiệu đến hoàng cung. Họ xuyên qua cửa Đông Hoa, đến phòng Cửu Khanh, chờ được thượng triều. 

Trong phòng đã tụ tập rất nhiều quan viên của triều đình chờ thượng triều. Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi là tùy tùng, không thể tiến qua Đông Hoa môn, chỉ có thể chờ ở ngoài. 

Trong phòng này có treo mấy chục đèn lồng, khiến nó sáng trưng. Trong số nhiều người này Dương Thu Trì nhìn không nhận được ai ngoài Lễ bộ thượng thư Lý đại nhân, Công bộ thượng thư Cung đại nhân, và Ứng thiên phủ phủ doãn Cố đại nhân. Những bằng hữu khác của Dương Thu Trì có cấp bậc quá thấp, không đủ tư cách thượng triều. 

Lý đại nhân, Cung đại nhân và Cố đại nhân cùng bước lên làm lễ chào hỏi với Dương Thu Trì, những người khác nghe nói Dương Thu Trì chính là Trấn Viễn bá phá án như thần cũng vội bước tới tương kiến. 

Làm quan ở kinh thành phải chú ý hòa khí nhất đoàn, cái gọi là trong kiệu hoa mọi người đều cười, núi không chuyển nhưng nước chuyển, đến lúc nào đó cũng phải áp dụng lên chính bản thân chúng ta mà thôi. Tuy nói trong kinh thành vương hầu khanh tướng nhiều vô số kể, công hầu bá cả quần, và Dương Thu Trì trước mắt chẳng thể coi là chức vị cao hay hiển hách gì, nhưng hắn tủổi còn trẻ vậy mà đã làm siêu phẩm bá tước, ai biết được sau này hắn sẽ làm đến chức vì nào? Cho nên biểu hiện nói nói cười cười, nồng nhiệt thân mật khi làm lễ kiến diện này ai ai cũng phải làm. 

Dương Thu Trì dù sao tuổi cũng còn trẻ, người khác nói hai ba câu dễ nghe là lập tức coi thành bằng hữu tốt của mình, do đó mọi người nhanh chóng coi như quen nhau. 

Trong lúc bận rộn đó, chợt nghe một câu "Thu Trì huynh đệ, ha ha, ngươi đến sớm thật a!" Một đại hán khôi ngô tiến vào, đó chính là cẩm y vệ chỉ huy sứ Kỷ Cương. 

Mọi người đua nhau tránh ra nhường đường, Dương Thu Trì vội vã khom người thi lễ: "Ti chức xin ra mắt Kỷ đại nhân." 

Kỷ Cương cười ha ha bước tới, lại vỗ vai Dương Thu Trì: "Ừ, huynh đệ thật không tệ. Buổi triều sớm hôm nay huynh đệ phải đem hết tinh thần ra mới được. Các người nói có phải không?" 

Mọi người đều đua nhau phụ họa. 

Kỷ Cương và Dương Thu Trì ngồi xuống nói chuyện phiếm một hồi, cuối cùng thì giờ Mão - giờ thượng triều cũng đến. 

Các quan viên xuyên qua một quảng trường và đại điện rộng, đến Cẩn Thân điện. Đây là chỗ diễn ra tảo triều. Án chiếu quan phẩm lớn nhỏ nhà như bầy cá tiến vào, chia ra hai ban văn võ. 

Dương Thu Trì là quan ở ngoài, trên triêu đình không có vị trí của hắn. Hắn phụng chỉ tấn kiến, cho nên cùng Dương mẫu, Phùng tiểu tuyết ở ngoài Cẩn Thân điện chờ. 

Chờ thật lâu, bấy giờ mới nghe tiếng hô the thé của thái giám: "Hoàng thượng khẩu dụ, tuyên Trấn Viễn bá Dương Thu Trì mang theo thái phu nhân, phu nhân tấn kiến....!" 

Dương Thu Trì phẫy ống tay áo, đưa Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết tiến vào đại điện. Án chiếu lễ nghi học đường từ Lễ bộ, mấy người quỳ khấu lạy ba lạy ra mắng, miệng xưng vạn tuế. 

Dừng một chút lâu không nghe Minh Thành Tổ lên tiếng, Dương Thu Trì hơi ngước cổ liếc mắt nhìn trộm, thấy trong mông lung, Minh Thành Tổ thần hình cao lớn, diện mạo không rõ lắm, dương như là mặt ngựa, âm trầm ngồi ở đó không nói một lời, lòng không khỏi thác thỏm. 

Đến lúc này, chợt thấy có một vị thái giám cầm quyển trục màu vàng, lớn tiếng đọc một đạo thánh chỉ. Sau một phiên từ ngữ chi hồ giả dã, Dương Thu Trì tạm hiểu ra đó là phong thưởng cho hắn, Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết. 

Dương Thu Trì nghe thánh chỉ nhiều rời, cố cũng nghe được yếu quyết trong đó. Lần này cuối cùng hắn cũng nghe được hoàng thuợng phong hắn làm chánh tam phẩm Ứng thiên phủ phủ doãn kiêm tòng tam phẩm cẩm y vệ đồng tri. Tước vị thì thăng lến làm Trấn Viên hầu. Hưởng lộc một nghìn năm trăm thạch (Chú: đong thì 100 thưng gọi là 1 thạch, cân thì 120 cân gọi là 1 thạch. ND), miễn thuế khoán. Phong Dương mẫu là Trấn Viễn hầu thái phu nhân, phong Phùng Tiểu Tuyết làm Trấn Viễn hầu phu nhân. 

Ứng Thiên Phủ phủ doãn xem như chức thị trưởng kinh thành của Minh triều, tương đương chức thị trưởng Bắc Kinh thời nay ở Trung Quốc. Đương nhiên, quyền lực phải lớn hơn chức thị trưởng hiện giờ. Cẩm y vệ có lĩnh tụ tối cao là chỉ huy sứ, hàm chánh tam phẩm (Kỷ Cương bất đồng, y là chánh nhị phẩm đô đốc thiêm sự kiêm cẩm y vệ chỉ huy sứ), ở dưới có hai vị đồng tri, phẩm vị là tòng tam phẩm. Do đó, Dương Thu Trì mang chức đồng tri ở cẩm y vệ này cũng là dưới một người trên vạn người, tương đương với chức chỉ huy sứ đặc sứ của hắn. 

Dương Thu Trì nghe thế, lòng vui như hoa nở. Hắn cao hứng không phải vì bản thân từ cấp bậc chánh ngũ phẩm đồng tri của Bảo Ninh phủ kiêm tòng ngũ phâm tri châu của Ba châu trực tiếp thăng vượt cấp lên chánh tam phẩm phủ doãn (Cố phủ doãn hiện giờ được thăng lên tòng nhị phẩm nội các học sĩ), và lại làm luôn chức thật là đồng tri của cẩm y vệ, bản thân được đề thăng lên hầu tước, mà hắn càng cao hứng hơn là cuối cùng cũng có thể được điều trở về để làm quan, có thể ở chung chỗ với Phùng Tiểu Tuyết và các người vợ. Đối với chuyện này, Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết cũng vô cùng cao hứng. 

Dương Thu Trì, Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết theo lễ khấu đầu tạ ơn. Tiếp theo đó, Minh Thành Tổ không nói không rằng, đứng dậy bãi triều bỏ đi. 

Chúng đại thần đương nhiên đều kéo đến chúc mừng. Dương Thu Trì cười tươi cảm ơn luôn miệng. 

Sau khi thối triều, Dương Thu Trì cứ hồi hộp mãi trong lòng. Hoàng thượng này sao lại không nói một lời nào, cho thái giám tuyên thánh chỉ xong là thối triều. Quả thật là kỳ quái. 

Sau khi ra khỏi Đông hoa môn, Phùng Tiểu Tuyết bấy giờ mới hưng phấn cầm tay Dương Thu Trì: "Phu quân, thật là tốt quá! Chàng có thể trở về làm quan rồi!" 

"Đúng a! Vừa rồi ta ở trên triều đình, cũng cao hứng muốn cười thật to." Dương Thu Trì cũng vui mừng nói. 

Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi chờ mà lòng gấp như lửa đốt, khi thấy Dương Thu Trì đi ra, vội bước lên đón. Dương Thu Trì đem chuyện phong thưởng giản đơn thuật lại, hai người đều vui mừng, vội hướng tới Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết chúc mừng. 

Dương mẫu nói: "Mừng cái gì mà mừng, ta đến hiện giờ trong bụng còn đánh trống đây này. Rất may khi vào là cứ quỳ mãi, ta hiện giờ mới biết vì sao khi gặp hoàng thượng phải quỳ, thật ra thì ngươi có muốn đứng cũng đứng không nỗi a." 

Mọi người đều cười. 

Phùng Tiểu Tuyết cũng hưng phấn nói: "Thiếp cũng vậy, hiện giờ hai đầu gối vẫn còn run. Khi tiến vào thiếp nhất mực cúi đầu, ngay hoàng thượng có dáng vẻ thế nào thiếp cũng không nhìn thấy." 

Tuy bản thân cũng không hơn gì, nhưng Dương Thu Trì khi nghe Phùng Tiểu Tuyết nói, lòng thật thương xót, vuốt ve gương mặt đã bị lạnh cóng của nàng nói: "Đừng gấp, chiều nay còn chơi đèn, sẽ còn gặp hoàng thượng." Hắn lại cúi đầu hạ giọng cười hì hì nói: "Kỳ thật hoàng thượng cũng là có một lỗ mũi hai con mắt ột cái miệng, không có gì đâu mà kỳ." 

Phùng Tiểu Tuyết biết Dương Thu Trì đang cổ động cho nàng, có phu quân ở bên cạnh, nàng tự nhủ cái gì cũng không cần sợ, nhìn về phía Dương Thu Trì cao hứng gật đầu. 

Mọi người về đến Dương phủ thì trời mới vừa hừng sáng. 

Tin tức Dương Thu Trì nhậm chức phủ doãn của kinh thành và đồng tri của cẩm y vệ nhanh chóng truyền đi. Tiếp theo đó, người của Ứng Thiên Phủ nha môn và cẩm y vệ bắc trấn phủ ti cùng đua nhau đến chúc mừng. Ngoài ra, không ngừng có những quan liêu chức sắc và những người giàu có trong kinh thành đến ra mắt. Hắn chưa hề nhậm chức mà lễ vật đã thu không biết bao nhiêu mà kể. 

Đến lúc này, người của Lễ bộ đến xác nhận lần nữa với Dương Thu Trì, rằng buổi chiều phải đến hoàng cung tham gia yến thỉnh của hoàng thượng, và buổi chơi đèn trong tiết Nguyên tiêu

Kỳ thật, ở Minh triều vào những năm Vĩnh Nhạc, tiết Nguyên tiêu đã bắt đầu từ ngày mồng tám tháng giêng, hai bên kinh thành đã đầy đèn hoa, treo không biết bao nhiêu là đèn. Trên sông Tần hoài thậm chí còn đắp đài cao thả bến nước, về đêm hàng vạn ngọn đèn cũng lập lòe tỏa sáng, khiến cho không khí tưng bừng ngày hội. Chuyện treo đèn kết hoa này phải tới ngày 17 tháng giêng mới hết. 

Chiều ngày 15 tháng giêng, Dương Thu Trì đưa Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết, Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi, được Thanh Khê công chúa Vân Lộ bồi đồng, do Nam Cung Hùng và các hộ vệ hộ tống, rồi được Lễ bộ thượng thư Lý đại nhân dẫn đường ngồi kiệu đến ngoài cửa cung. 

Do thánh chỉ chỉ yếu cầu Dương Thu Trì mang theo thái phu nhân Dương mẫu và phu nhân Phùng Tiểu Tuyết diện thánh, không mang theo thiếp thất, nên Dương Thu Trì để phòng vạn nhất đã mang theo Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi chờ sẵn ở ngoài hoàng cung. 

Lễ bộ thượng thư Lý đại nhân nhận được không ít lợi ích từ chỗ Dương Thu Trì, nên đã lo liệu với thủ vệ của hoàng cung, cho tất cả tiến vào. Đến ngoài ngự hoa viên, Lý đại nhân lại nói với thái giám quản sự vào câu, cũng cho Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi qua. Nhưng mà do không có thánh chỉ của hoàng thượng, cho nên chỉ có thể an bài cho hai người xem đèn ở một góc khác của ngự hoa viên. 

Cho dù như thế, Dương Thu Trì cũng đã yên tâm hơn nhiều, dù gì cũng là tiến vào ngự hoa viên rồi, tùy thời có thể tăng viện. Ngoài ra hắn còn có Phích lịch đạn (súng lục) phòng thân, cho nên không cần phải sợ. 

Trong ngự hoa viên cây cối xanh tươi, cây cối hoa lá đều kỳ dị đẹp xinh, và cũng treo đầy đèn hoa, màu sắc xinh tươi lạ mắt, rạng ngời nét hào hoa. 

Đến của Ngự hoa viên, Lý đại nhân liền dừng chân cáo từ ra về, được thái giám quản sự của ngự hoa viên thay thế dẫn đường. Ông ta trước hết an trí Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi ở một đình đài đã bày thịnh yến, ngoại trừ cung nữ và thái giám, tịnh không có người ngoài. 

Tiếp theo đó, hoạn quan mang theo Dương Thu Trì, Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết và Vân Lộ công chúa đến hành lang của khu lâm viên hơi cao có đầy đủ giả sơn và hồ nước, vào trong một khu vườn tinh trí cũng đầy đèn nến, đầy không khí vui tươi. 

Hoạn quan nhất mực dẫn đường đến một gian phòng có lò sưởi trong vườn, Dương Thu Trì ngước đầu nhìn, thấy có một gương mặt già đang nhìn hắn cười, thì ra là Lý công công đã đến gặp hắn hạ chỉ mấy lần. 

Lý công công rất giống thái giám trong kịch hay phim, trong tay cầm phất trần, cười hề hề nhìn Dương Thu Trì cùng mọi người, cất giọng the thé nói: "Dương đại nhân, mau tiến vào. Hoàng thượng đang chờ trong đó. Ái yêu, Thanh Khê công chúa, công chúa cũng đến rồi, thỉnh mau tiến vào." 

Dương Thu Trì cùng mọi người tiến vào phòng sưởi, trong đó thật rộng rãi. Điều làm mọi người bất ngờ chính là, trong phòng sưởi này ngoài trừ vài thái giám và cung nữ, chỉ có Minh Thành Tổ với gương mặt âm trầm ngồi đó, không có đại thần nào khác. 

Dương Thu Trì dẫn theo Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết vội bước đến mấy bước, quỳ dập đầu tung hô vạn tuế ba lần. 

Minh Thành Tổ gật gật đầu, mở miệng nói: "Dương ái khanh, bình thân." Thanh âm của ông ta trầm thấp, phảng phất như có nỗi ai thương bất tận. Ba người Dương Thu Trì khấu tạ thánh ân rồi mới đứng dậy, cung kính đứng một bên. 

Đây không phải là trường hợp chính thức, do đó Vân Lộ không cần dùng đại lễ, chỉ làm một lễ chữ phúc: "Vân Lộ bái kiến phụ hoàng, chúc phụ hoàng vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế." 

Minh Thành Tổ thấy Vân Lộ, khóe miệng lộ nụ cười, gật đầu: "Lộ nhi, mau đến bên cạnh phụ hoàng." 

Vân Lộ dạ một tiếng, nhấc váy hoa của Miêu gia bước lại cạnh Minh Thành Tổ. Chỗ ngồi của Minh Thành Tổ rất rộng, có thể tùy tiện ngồi ba bốn người. Minh Thành Tổ vỗ vỗ tay trái: "Ngồi xuống cạnh phụ hoàng." 

Vân Lộ cười ngọt ngào, ngồi xuống cạnh Minh Thành Tổ, hỏi: "Phụ hoàng, khí sắc của người không được tốt, bệnh rồi sao? Thái y có xem chưa ạ?" 

Minh Thành Tổ miễn cưỡng cười: "Phụ hoàng không sao, chỉ là tâm tình không vui - con sao đi lâu quá mới quay trở lại?" 

Vân Lộ cười hi hi: "Con đi nhiều chỗ lắm, đến Tứ Xuyên, lại đến Vũ Xương, sau đó lại trở lại quê nhà Thanh Khê, cuối cùng cùng Dương tước gia, à không, cùng Dương hầu gia cùng trở về. Phụ hoàng, tâm tình của người không tốt, chờ một chút xem hoa đăng con hát sơn ca cho người nghe, nhé?" 

Minh Thành Tổ gật đầu, mỉm cười nói: "Được lắm, lâu rồi không nghe Lộ nhi hát sơn ca, chúng ta đêm nay ca hát uống vài chén mới được." Ông ta chuyển người hỏi Lý công công: "Lão Lý đầu, tửu yến xem đèn đã chuẩn bị xong chưa?" 

"Chuẩn bị xong rồi." Lý công công cúi người thưa. 

Dương Thu Trì suýt cười thành tiếng, vị Lý công công võ công cao tuyệt này không ngờ có ngoại hiệu là Lý lão đầu, vừa nghe qua giông giống như là canh phu chuyên môn đi đánh cười, thật thú vị!

Minh Thành Tổ nói: "Dương ái khanh, hôm nay trẫm thỉnh cả nhà ngươi đến cùng trẫm cộng thưởng hoa đăng, cộng độ nguyên tiêu, không có người ngoài, các ngươi đừng có khúm núm mới được." 

"Dạ." Dương Thu Trì cung thân đáp. 

Minh Thành Tổ nói với Lý công công: "Ngươi dẫn đường đưa thái phu nhân, phu nhân đi trước, trẫm còn có lời nói với Dương ái khanh." 

Lý công công ứng thanh dẫn đầu mời ba người Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết và Vân Lộ đi. 

Dương Thu Trì thắc thỏm trong lòng, không biết Minh Thành Tổ sẽ nói gì với hắn. 

Minh Thành Tổ đứng dậy: "Dương ái khanh, ngươi theo trẫm." Ông ta chuyển thân chắp tay đi ra cửa sau của phòng sưởi. 

Có vẻ như ông ta muốn một mình nói chuyện với hắn, không chừng có sự tình trọng yếu gì đó. Lòng Dương Thu Trì hơi định, theo sát phía sau, không dám đi sánh vai với hoàng thượng, mà lùi lại phía sau nửa bước, không nhanh không chậm bám theo. 

Thái giám và cung nữ bốn phía thấy hoàng thượng ra ngoài, ngay từ phía xa đã cung kính nghiêm người, khi đến gần thì quỳ xuống dập đầu. Minh Thành Tổ phảng phất như không thấy, chắp tay nhìn về phương xa, trong ánh mắt đầy sự lạc lõng vô hạn. 

Dương Thu Trì không dám tùy tiện nói, lão lão thật thật theo cạnh một bên. Hai người dưới đèn hoa đủ sắc chậm bước đạp trên con đường rải đá nhỏ ở ngự hoa viên, năm sáu thái giám cung nữ theo sau xa xa. 

Đến cạnh Ngọc đái hà, Minh Thành Tổ dựa vào lan can bằng bạch ngọc, nhìn dòng sông xanh rì xào xạt đến xuất thần. 

Dương Thu Trì đứng cách đó nửa thước, cung kính cúi đầu. Hắn thấy vẻ bi thương của Minh Thành Tổ, lòng hơi kỳ quái. Hoàng thượng này quân lâm thiên hạ, còn có chuyện gì mà không làm được nữa? Còn có chuyện gì mà phải phiền não ưu sầu nữa? 

Minh Thành Tổ khẽ thở dài, bấy giờ mới mở lời nói: "Dương ái khanh, ngươi có biết vì sao trẫm điều ngươi về kinh thành làm quan không?" 

"Hoàng thượng minh kiến vạn lý, vi thần không dám to gan đoán mò." Dương Thu Trì cung thân đáp. 

"Một năm nay ngươi thế trẫm tập nã Kiến Văn dư đảng, công huân trác truyện, trong đó có phá nhiều kỳ án, trẫm rất thưởng thức. Do đó, ta đặc ý điều ngươi trở về, thế trẫm quản lý kinh thành." 

"Đa tạ hoàng thượng, vi thần tuy tận tâm kiệt lực, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa bắt được Kiến Văn, hổ thẹn đối với sự trọng dụng của hoàng thượng." 

Minh Thành Tổ nói: "Trẫm phái tam bảo xuất sứ đi Tây dương, mấy ngày trước có tin tức truyền về đã tham tri biết Kiến Văn dưới sự hộ vệ của Diệp Hi Hiền có khả năng đã chạy ra hải ngoại. Bọn chúng đang tìm hiểu chỗ hạ lạc." 

Dương Thu Trì nghe thế vô cùng kinh ngạc. Thì ra một trong những mục đích Trịnh Hòa đi Tây dương là tìm kiếm Kiến Văn Đế. Hiện giờ họ đã tìm kiếm ra nơi hạ lạc của Kiến Văn ở hải ngoại, hèn gì muốn điều hắn trở về, không phải là "Thỏ tử cẩu phanh", mà là thỏ bự đầu đàn đã chạy ra hải ngoại, thỏ con trong nước đã bị chó săn hắn bắt hết rồi. Minh thành tổ xem trọng khả năng phá án của hắn, do đó mới điều hắn về làm con chó săn để bảo chứng cho trị an ở kinh thành. 

Minh Thành Tổ nói tiếp: "Kiến Văn nếu như đã chạy xa, cái chức chỉ huy sứ đặc sứ của ngươi coi như thoát được rồi. Nhưng mà làm nguy hại cho quốc gia xã tắc không phải chỉ có một đảng của Kiến Văn. Cho nên trẫm nhậm mệnh cho ngươi làm cẩm y vệ đồng tri là muốn ngươi tiếp tục lo chung với trẫm dò xét bá qua, tìm ra gian thần loạn đảng ẩn tàng trong triều." 

Dương Thu Trì vội quỳ xuống dập đầu: "Vi thần lĩnh chỉ! Vi thần nhất định tận tâm kiệt lực để báo thánh ân hoàng thượng!" 

"Được, đứng dậy đi, bất tất câu nệ lễ tiết." Minh Thành Tổ chuyển thân quay đi, đưa mắt nhìn vào dòng nước, vẻ lạc lõng vô hạn lại hiện lên, từ từ nói: "Dương ái khanh, ngươi còn nhớ hiền phi của trẫm hay không?" 

Hiền phi? Chính là Hiền phi do Triều Tiên tiến cống được Minh Thành Tổ sủng ái đấy sao? Dương Thu Trì đương nhiên nhớ rõ, năm xưa khi hắn phát hiện trong bức thư mưu phản bị thiêu hủy của Kiến Văn dư đảng âm mưu bắt cóc Hiền phi, bức bách Minh Thành Tổ, dùng bồ câu đưa thư báo cáo mới khiến Hiền phi bình an thoát li hiểm cảnh, lại đem những kẻ mưu phản trong Kinh Doanh binh bắt gọn hết, khiến cho Kiến Văn dư đảng bị thiệt hại nặng nề. 

Dương Thu Trì gập người thưa: "Vi thần nhớ rõ." 

"Lần đó ngươi cứu được Hiền phi, nhưng mà... ai...! Nàng ấy vẫn không thể thoát khỏi nạn kiếp..." 

Dương Thu Trì cả kinh, chẳng lẽ Hiền phi sau đó vẫn bị người của Kiến Văn giết chết? Hèn gì Minh Thành Tổ mặt mày tang thương, hôm nay thượng triều cũng âm trầm nét mặt, thì ra là còn chưa khôi phục được từ sự thảm tử của ái phi. 

Theo sử liệu ghi lại, Minh Thành Tổ Chu Lệ đặc biệt yêu thương nữ tử người Triều Tiên này. Dã sử tương truyền đây là vì sinh mẫu của Chu Lệ không phải là Mã hoàng hậu, mà là một vị quý phi người Cao Lệ (Triều Tiên) của Chu Nguyên Chương. Dù sao đi nữa, Chu Lệ yêu quý người con gái Triều Tiên này là sự thật không thể chối cải. 

Kỳ thật, từ thời Nguyên trở đi, triều đình mỗi năm đều yêu cầu Cao Lệ cống hiến mỹ nữ. Minh triều vẫn tiếp tục thói cũ. Thời Hồng Vũ của Chu Nguyên Chương, hậu cung có không ít phi tần người Cao Lệ. Cho đến thời kỳ Vĩnh Lạc của Chu Lệ, do Minh Thành Tổ Chu Lệ yêu thích điều này, nên càng không ngừng phái người tuyên chiếu cho Triều Tiên tuyển tú nữ nhập cung. 

Hiền phi Quyền thị là mỹ nữ do Triều Tiên tuyển chọn tiến công, tư chất dáng vẻ đều tuyệt vời, giỏi thổi sáo ngọc, được Minh Thành Tổ sủng ái vô cùng. Sau khi Từ hoàng hậu chết, ông ta cho Hiền phi chưởng quản hậu cung. Minh Thành Tổ tuy là một đại kiêu hùng, nhưng không thiếu chuyện nhân nữ tình trường. Sự ái luyến của ông ta đối với nàng đã khiến cái chết của nàng tạo ra vết thương lòng rất sâu đậm. Điều này cũng ghi lại trong sử thu. 

Căn cứ "Minh sử - Nhất kiếm thu thành, Hậu phi truyện" thì: "Hiền phi Quyền thị được hiến vào cung là người Triều Tiên, vào thời Vĩnh Nhạc, Triều Tiên cống nữ sung vào dịch đình. Là ngươi tư chất cao tuyệt, giỏi nghề thổi ngọc tiêu. Đế thương lắm. Bảy năm phong Hiền phi, phong cho cha là Vĩnh Quân làm Quang Lộc khanh. Năm sau tháng mười hai đế bắc chinh. Khải hoàn thì bà chết ở lâm thành, táng ở Dịch huyện." 

Căn cứ "Lý triều thật lục" của Triều Tiên, có ghi: Quang Lộc khanh Quyền Vĩnh Quân trở về kinh sư, viết tấu thưa: 'Đến ngày 14 tháng mười năm canh dần, Hiển Nhân Phi Quyền thị đã bệnh chết ở đường về nam, phải chôn ở dọc đường, lệnh cho Tể nam dân dịch thủ hộ, lấy lễ hoàng hậu mà táng. Đế phòng chức Quang Lộc, chưa hưởng đã cáo mệnh, đáng tiếc vô cùng. Sau đó sự đãi ngộ tăng gấp đôi so với ngày trước. Khi Đế tứ ngôn, hàm lệ tang thương, chí thành không gì sánh được'" 

Theo tư liệu ghi lại, thì Quyền Vĩnh Quân là phụ thân của Hiền phi, yêu cây nên yêu cả gốc, Minh Thành Tổ đã phong ông ta thành Quang Lộ khanh. Sau khi con gái Quyền thị chết rồi, Quyền Vĩnh Quân trở về Triều Tiên tấu bày, nhớ lại sau cái chết của Hiền phi, Minh Thành Tổ nhìn thấy phụ thân của Hiền phi liền nhớ tới người đã chết, cảm thương vô hạn, nước mắt lăn dài, ngay lời cũng không nói ra, có thể thấy tình cảm của Minh Thành Tổ đối với hiền phi sâu nặng tới cỡ nào. 

Nhưng mà, điều này liên quan đến chuyện riêng của hoàng thượng, hắn không dám hỏi loạn. Dương Thu Trì cúi đầu, lẳng lặng chờ nghe Minh Thành Tổ nói tiếp.

Tháng hai năm nay, trẫm thân chinh phía bắc Trường thành, đắc thắng hồi triều, trên đường ngang qua Lâm thành ở Sơn đông, Hiền phi nàng... nàng ấy không ngờ bạo bệnh mà chết...!" Minh Thành Tổ đấm mạnh một quyền trên lan can bằng ngọc thạch, hiển nhiên là đau đớn đến cực điểm. 

Dương Thu Trì không nói gì, tuy hoàng thượng quân lâm thiên hạ, có hoàng quyền sinh sát chí cao vô thượng, nhưng đối mặt với sinh tử của người thân cũng bất lực như kẻ thường. 

Dương Thu Trì muốn khuyên mấy câu đại loại như người chết rồi không thể sống lại, hãy dằn nén cõi lòng gì đó, nhưng lời đến miệng thì cảm thấy dư thừa, vì Minh Thành Tổ văn công vũ lược, nhất đại kiêu hùng, cần gì dùng đến cái giọng bà bà mụ mụ nhiều chuyện của hắn khuyên nhủ chứ. 

Kỳ thật, lòng Dương Thu Trì rõ như gương sáng, Minh Thành Tổ lúc này hướng về hắn đề cặp chuyện này, tuyệt đối không phải là tìm sự đồng tình, hay tìm người cùng nhớ đến Hiền phi cùng ông ta, mà là có nguyên nhân khác. 

Quả nhiên, Minh Thành Tổ sầm mặt, từ từ nói tiếp: "Vốn ra, trẫm cũng cho rằng Hiền phi bị bệnh nặng mà vong, nhưng những ngày gần đây trẫm càng lúc càng cảm thấy không ổn, cho gọi thái y chẩn trị cho Hiền phi lúc đó lại hỏi kỹ, càng cảm thấy trong này có vấn đề. Nhưng mà trẫm không biết vấn đề xảy ra ở chỗ nào, cho nên mới điều ngươi trở về." 

Hiện giờ Dương Thu Trì đã hiểu, Minh Thành Tổ hạ chỉ bảo hắn trở về trong tiết Nguyên tiêu, một là con thỏ lớn Kiến Văn đế đã chạy ra hải ngoại, thỏ bé đã bị bắt gần như toàn bộ, cho nên gọi chó săn trở về kinh thành để bắt thỏ hay hồ li gì đó ở kinh thành. Hai là, gọi hắn về là để hắn trinh tra ra chuyện Hiền phi bị bệnh chết có điều gì đó mờ ám hay không, tìm ra một đáp án khiến người tín phục. Nếu như là mưu sát, thì coi như tổ tông mười tám đời của chân hung ắt phải xui xẻo theo. 

Hiện giờ hắn mới biết nội dung chân chánh của thánh chỉ chẳng phải là thỏ chết giết chó gì, tảng đá lớn trong lòng Dương Thu Trì mới được buông bỏ. Đạo thánh chỉ không minh bạch kia đã khiến cả nhà hắn thần kinh căng thẳng, xét ra quả có điểm tức cười. 

Minh Thành Tổ chuyển thân, nhìn xoáy vào Dương Thu Trì: "Dương ái khanh, trẫm giao cho ngươi án đầu tiên để điều tra chính là dò ra chân tướng tử vong của Hiền phi! Vô luận là tra đến ai, đều phải tra cho đáo để, cấp cho trẫm một đáp án minh minh bạch bạch!" 

Dương Thu Trì vén y bào quỳ xuống dập đầu: "Vi thần tuân chỉ, vi thần nhất định đem án này tra ra cho rõ ràng, cấp cho vạn tuế gia một câu trả lời vừa ý!" 

Minh Thành Tổ gật đầu: "Bình thân đi." 

"Tạ vạn tuế!" Dương Thu Trì đứng dậy, ngẫm nghĩ, lại thưa: "Vạn tuế, nếu như muốn tra rõ nguyên nhân tử vong của hiền phi, vi thần chỉ sợ phải khai quan nghiệm thi, thỉnh vạn tuế châm chước." 

Minh Thành Tổ hơi trầm ngâm, sau đó gật đầu: "Trẫm ưng chuẫn, phàm là điều gì cần cho tra án, ngươi cứ tận khả năng mà làm. Có tình huống gì, ngươi trực tiếp hướng trẫm báo cáo. Trẫm chuẩn cho ngươi tiến cung bất cứ lúc nào." 

"Dạ, thần lĩnh chỉ." Dương Thu Trì cung thân đáp, "Hoàng thượng có thể nói qua tình cảnh lúc Hiền phi nương nương khứ thế hay không, để vi thần xem coi có mắc mứu gì hay không." 

"Ừ," Minh Thành Tổ ngẫm nghĩ, "Chiều ngày mười ba tháng bảy, đội ngũ đến Lâm thành ở Sơn Đông, khí trời rất nóng, trẫm và hiền phi vào canh ba còn chưa ngủ, đột nhiên có quân tình khẩn cấp báo đến, trẫm đến thư phòng phê duyệt tấu văn, cho đến sáng hôm sau thì cung nữ báo hiền phi bệnh nặng. Trẫm cả kinh vội đến, thấy Hiền phi đã... đã mất rồi." Lời nói có chút nghẹn ngào. 

Hồi ức lại cái chết của người yêu dầu sao vẫn làm cho người ta vô cùng thống khổ. Dương Thu Trì biết rõ điều này, vội nắm lấy yếu điểm hỏi ngay: "Hoàng thượng, vi thần cần biết tình trạng tử vong của Hiền phi và những người tại đương trường lúc đó." 

"Hiền phi chết rất đột nhiên, trước đó Hiền phi không có triệu chứng sinh bệnh gì..." Minh Thành Tổ thật tại không nguyện ý hồi ức lại tình cảnh lúc đó, đành nói: "Lúc đó chẩn trị cho Hiền phi có hai vị thái y Cao Đức và Ngải hành theo trẫm xuất chinh. Tình huống cụ thể thế nào ngươi hỏi nữ quan Vương Tư Thái trong cung. Trẫm lệnh cho nàng ta cùng Quyền phi đồng hành, nàng ta biết một số tình huống. Ngày đó người phát hiện Hiền phi bệnh chết trước nhất đó là thiếp thân thị nữ Liên nhi. Những tình huống khác, ngươi có thể tìm Tư lễ giám chưởng ấn thái giám là Kim Lương tùy hành để tìm hiểu." 

Cơ qua nội vụ ở Minh triều có tới hai mươi bốn cái, bao gồm mười hai giam, bố ti, tám cục, tổng cộng hai mươi bốn nha môn. Trong thời kỳ của Minh Thành Tổ, Tư Lễ giám không có quyền thế lớn mạnh như sau này, chẳng qua là một cơ cấu quản lý phục vụ cho sinh hoạt ăn ở của hoàng đế mà thôi. Thủ lĩnh của Tư lễ giám được goi là "Chưởng ấn thái giám". 

"Thần minh bạch rồi." Nghe Minh Thành Tổ vắn tắt nói như vậy, một con đường phá án đại khái đã hình thành trong đầu Dương Thu Trì. 

"Được rồi, đi xem đèn thôi!" Minh Thành Tổ chắp tay sau lưng từ từ quay trở lại. Dương Thu Trì bám theo sau y như cũ. 

Có hoàng thượng làm cái hậu đài lớn nhất, án mạng này xem ra khá thuận tiện để điều tra. Dương Thu Trì thầm nghĩ, nguyên nhân tử vong của nàng ta có lẽ không phải là chuyện khó gì. Bỏ qua không tính Kiến Văn dư đảng, án này có thể xem là án đầu tiên mà hoàng thượng giao cho hắn, cần phải làm cho chu đáo mới được, có như thế đối với tiền đồ sẽ hữu ích cực lớn. 

Dương Thu Trì theo Minh Thành Tổ đến chỗ tửu yến thưởng đèn. Tửu yến này được bày trong một vườn mai. Hàng vạn đóa mai tranh nhau khoe sắc, cạnh tranh phô bày. Dưới gốc mai có bày một bàn yến tiệc thịnh soạn. Trên bàn tiệc có mấy đạo bình phong che gió, bốn phía có những đống lửa hồng tỏa hơi ấm. 

Trên một cây mai già treo đầy các loại đèn. Lúc này trời đã tối, đèn đã được đốt sáng, khiến cho những cây mai như các vị tiên tử, đua nhau nhảy múa tứ phía. 

Trước tửu yến có một vùng đất trống có hai hàng nhạc công, cạnh đó bày đủ loại nhạc khí. 

Trên yến tiệc đã có Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết ngồi. Vân Lộ trong trang phục Miêu tộc đang ngồi bên còn lại nghe Dương mẫu nói chuyện. Phùng Tiểu Tuyết thỉnh thoảng nhìn về một phía, thần tình sột ruột và lo lắng. Trên yến tiệc còn có năm phi tần, đều mặc khăn áo của mệnh phụ, mỗi người một vẻ, khuynh quốc khuynh thành. 

Thấy Dương Thu Trì cùng Minh Thành Tổ đến, Phùng Tiểu Tuyết bấy giờ mới đỡ lo, suýt chút nữa mừng rỡ gọi một tiếng phu quân. Nhưng khi nàng thấy Minh Thành Tổ đi trước, nhớ tới lời của lễ quan trong Lễ bộ dặn dò, rằng trước mặt vạn tuế gia không được tùy ý lớn tiếng náo loạn, cho nên vội vã ngậm miệng đứng dậy, quỳ xuống nghênh thánh giá. Dương mẫu và mọi người cùng các phi tần kia cũng vội vã quỳ xuống. 

Minh Thành Tổ đến bên bàn ngồi xuống, bảo: "Bình thân!" 

Mọi người bấy giờ mới đứng dậy, theo thứ tự mà ngồi. 

Minh Thành Tổ nói: "Hôm nay là tiết Nguyên tiêu, chúng ta cùng cộng hưởng hoa đăng, bất tất câu thúc." Tiếp đó ông ta giản đơn giới thiệu, ngồi cạnh Minh Thành Tổ là quý phu Vương thị. 

Sau khi hoàng hậu Từ thị chết đi, Minh Thành Tổ không lập hoàng hậu nữa. Hiền phi Quyền thị sau khi tiến cung, đã được Minh Thành Tổ sủng ái vạn phần, cho chưởng quản hậu cung, địa vị tương đương với hoàng hậu. Rất tiếc là Hiền phi phúc mỏng, chỉ tiến cung hai năm đã hương tiêu ngọc nát.

Sau đó, Minh Thành Tổ đem quyền quản lý hậu cung cho vị quý phi Vương thị này. Vương thị là con gái của Hà Gian Trung vũ vương đã được truy phong, Là người Tô châu. 

Những người còn lại đều là những phi tần người Triều Tiên cùng tiến cung với Hiền phi Quyền thị, phân biệt gồm Thuận phi Nhâm thị, Chiêu nghi Lý thị, Tiệp dư Lữ thị, mỹ nhân Lự thị. Nhân vì bọn họ cùng tiến cung với Hiền phi Quyền thị, nên được hưởng phúc lây. Trong dịp xem đèn tiết Nguyên tiêu năm nay, Minh Thành tổ đặc biệt cho gọi năm người họ mà không gọi những phi tần khác. 

Đến lúc này, tiếng đàn sáo du dương cất lên. 

Dương Thu Trì cùng mọi người nâng ly hướng Minh Thành tổ kính rượu, chúc hoàng thượng vạn thọ vô cương xong bấy giờ mới nâng ly uống cạn. 

Hòn đá tảng trong lòng đã được phóng xuống, rượu này được Dương Thu Trì uống một cách sướng khoái. Hắn nghĩ đến Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi bên ngoài còn chưa biết tình huống thế nào, nhất định là trong lòng nôn nóng lắm. Trong khi đó, tửu yến này xem ra còn tiếp tục rất lâu. 

Sau mấy ly rượu vào bụng, hơi rượu bốc lên, khiến gan Dương Thu Trì cũng to hơn một chút. Hắn bẩm báo với Minh Thành Tổ: "Hoàng thượng, vi thần có một lời thỉnh cầu không hợp tình, không biết có nên nói hay là không." Lòng hắn rất tức cười, hắn không biết mình đã học nói theo giọng điệu nho nhã văn vẻ trớ trớ từ bao giờ nữa. 

Minh Thành Tổ bảo: "Dương ái khanh có chuyện gì cứ nói đi, trẫm đã bảo rồi, bất tất phải câu nệ." 

"Tạ hoàng thượng!" Dương Thu Trì đắn đo một chút, cuối cùng lấy hết dũng khí thưa: "Hai thiếp thất của vi thần cũng theo vi thần mà đến, vi thần muốn..." 

"Ta biết rồi." Minh Thành Tổ vẫy vẫy tay, quay đầu lại nói với Lý công công ở bên cạnh: "Lão Lý đầu, ngươi đi đưa hai vị thiếp thát đó của Dương ái khanh đến đây." 

Lý công công dạ một tiếng, phe phẫy phất trần khoan thai bước đi. 

"Đa tạ hoàng thượng!" Dương Thu Trì vội cung thân cảm ơn. 

Minh Thành Tổ cười cười: "Dương ái khanh, nhìn không ra là ngươi cũng đa tình như vậy a." Khẽ thở dài, ông ta than, "Giai nhân của ái khanh ở bên người, còn Hiền phi và trẫm... đã cách nhau dương gian và chín suối rồi a.... ai!" 

Những phi tần Triều Tiên trước khi tiến cống đã được tập trung huấn luyện Hán ngữ, hơn nữa ở thời Minh, Triều Tiên cũng lưu hành Hán ngữ, đều lấy chuyện có thể nói năng thông thạo Hán ngữ mà tự hào. Do nên, Hán ngữ của những phi tần này có thể coi là không tệ. Khi họ nghe Minh Thành Tổ thương cảm Hiền phi Quyền thị, và năm người họ đều cùng rời khỏi quê nhà đến trong cung của Minh triều này, tình như tỷ muội, cho nên khi nghe vậy không khỏi lấy ống tay áo che mắt, nhỏ lệ đỏ hoe đôi mắt. 

Vương quý phi cũng rơi lệ, cầm ly rượu trước mặt Minh Thành Tổ, từ từ đổ xuống đất: "Ly rượu này là do vạn tuế gia cấp cho Hiền phi tỷ tỷ, hy vọng tỷ tỷ ở âm gian mọi chuyện bình an như ý..." 

Minh Thành Tổ gật đầu, thanh thản nhìn Vương quý phi. 

Vương quý phi lau sạch nước mắt, lại châm đầy ly rượu cho hoàng thượng, cầm lên cười ngọt ngào dùng giọng như gió xuân phất qua cành liễu: "Vạn tuế gia, hôm nay cao hứng, chúng ta hay là đừng nghĩ đến những chuyện thương tâm nữa. Nào, thần thiếp kính người một bôi." 

Vân Lộ nói: "Đúng a, phụ hoàng, chúng ta không nghĩ đến chuyện đó nữa, Vân Lộ cũng kính phụ hoàng một bôi." 

Những phi tần khác đều lau khô nước mắt, nâng ly lên cùng. 

Minh Thành Tổ tiếp lấy ly rượu: "Được, không nói nữa, không nói đến chuyện đó nữa." Nói xong uống cạn, mọi người cùng uống theo. 

Dương Thu Trì lần đầu tiên nhìn thấy được các mỹ cơ Triều Tiên, quả nhiên ôn nhu như thủy, ngọt ngào như mía lau, khiến cho người ta cảm thấy như cây được gió xuân thổi mát. Đặc biệt là vị mỹ nhân Lữ thị ở cuối hàng đó, mặt trái xoan, mắt hàm tình, đôi mắt dường như biết nói, ôn nhu đến cùng cực, và cũng kiều mị đến cùng cực. 

Lữ mỹ nhân phát hiện Dương Thu Trì lén nhìn mình, mắt liền thoáng hiện chút thẹn thùn, cúi đầu, lát sau cũng len lén nhìn Dương Thu Trì một cái, phát hiện hắn vẫn còn ngơ ngẩn nhìn mình, khóe miệng chợt dậy lên nụ cười mỉm ôn nhu khó hiểu.

Đến lúc này, Lý công công đã dẫn Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi tiến vào. Hai người thấy Dương Thu Trì ngồi lù lù ở đó, đều thở phào nhẹ nhõm. Sau khi khấu đầu ra mắt Minh Thành Tổ, đến ngồi dưới Phùng Tiểu Tuyết. 

Minh Thành Tổ đang cầm ly rượu định uống, đột nhiên nhìn thấy Liễu Nhược Băng, lập tức ngẩn người, mắt nhìn nàng không chớp, ly rượu đó cũng quên cả uống. 

Liễu Nhược Băng khẽ nhíu mày, hừ lạnh một tiếng. Dương Thu Trì sợ nàng bực mình, vội mời nàng ăn. Liễu Nhược Băng mỉm cười nhìn hắn, gật gật đầu. 

Nụ cười này của Liễu Nhược Băng suýt đem ba hồn chín vía của Minh Thành Tổ cướp đi mất. Cho đến khi Vương quý phi khẽ ho một tiếng, Minh Thành Tổ bấy giờ mới phản ứng, vội cười chữa ngượng, uống cạn chung rượu. Sau đó, ông ta đưa tay chỉ Liễu Nhược Băng, hỏi: "Dương ái khanh, vị này là...." 

"Vị này là tứ thiếp thất của vi thần, họ Liễu." Dương Thu Trì cũng nhìn thấy bộ dạng trư ca ca của Minh Thành Tổ, vừa rồi ông ta còn thương cảm hồng nhan đã chết, không ngờ hiện tại đã ham muốn mỹ sắc khác rồi. 

Hắn lập tức nghĩ tới đây là vị hoàng thượng quân lâm thiên hạ, chuyện gì cũng dám làm. Từ cổ đến giờ hoàng thượng cướp con gái thậm chí thê thiếp của đại thần là chuyện không hiếm, không thể nào để hoàng thượng động tâm với Liễu Nhược Băng được. Hắn ho khan một tiếng, quay sang Liễu Nhược Băng, cố ý hỏi: "Băng nhi, lúc nàng đến đây đã cho con chúng ta bú chưa?" 

Liễu Nhược Băng không biết vì sao Dương Thu Trì lại đột nhiên hỏi đến chuyện này, đỏ mặt thấp giọng đáp: "Dạ cho rồi..." 

Quả nhiên, Minh Thành Tổ hơi ngẩn người, hơi bối rối, hỏi: "Dương ái khanh mừng có quý tử rồi sao?" 

"Dạ a," Dương Thu Trì nhún người thưa, "Vị tứ thiếp Liễu thị này của vi thần vừa sinh được một con trai cho vi thần, đây là trưởng tử của vi thần." 

"Vậy sao?" Minh Thành Tổ quay đầu sang nhìn cái hắc ban to trên mặt của Phùng Tiểu Tuyết, lại nhìn Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi, cười nói: "Dương ái khanh, thiếp thất của ngươi người nào cũng đẹp, hiện giờ lại sinh con cho ngươi nữa, ngươi đừng có quên người vợ tào khang đó nghe." 

Dương Thu Trì vội cúi người cười nịnh đáp: "Vi thần không dám, vi thần nhất định nhớ kỹ lời dạy của hoàng thượng." 

Tống Vân Nhi tuổi còn nhỏ, lại là kẻ không sợ trời không sợ đất, nhịn không được lên tiếng: "Hoàng thượng, ca ca của tôi chưa bao giờ quên Tiểu Tuyết tỷ tỷ, năm xưa Bạch thiên tổng bức huynh ấy bỏ vợ cưới con gái của Bạch thiên tổng, bị ca ca của tôi cự tuyệt thẳng đấy." 

"Ca ca của ngươi?" Minh Thành Tổ nhất thời không minh bạch lối xưng hô của nàng là đang chỉ ai. 

Dương Thu Trì vội giải thích: "Vị thiếp thứ năm này của vi thần là Tống thị, trước đây xưng hô huynh muội với vi thần, sau đó gả về cho vi thần, cách xưng hô này vẫn chưa được cải." 

Minh Thành Tổ lúc này mới minh bạch, cười khà khà, lấy làm hứng thú hỏi Tống Vân Nhi: "Ngươi vừa rồi nói ca ca của ngươi cự tuyệt bức hôn, rốt cuộc sự thể thế nào?" 

Tống Vân Nhi liền đem chuyện đó kể lại một lượt. Trong quá trình tự thuật, không khỏi thêm dầu thêm mở, biến cho con mèo Dương Thu Trì không khỏi trở thành một vị tình thánh, khiến cho hắn và Phùng Tiểu Tuyết đều đỏ mặt thẹn thùng. 

Chờ Tống Vân Nhi nói xong, Minh Thành Tổ khen: "Không ngờ Dương ái khanh là một con người trong tình cảm như vậy. Giỏi, Trẫm thập phần bội phục! Nào, trẫm kính hai vợ chồng nhà ngươi một bôi!" 

Dương Thu Trì và Phùng Tiểu Tuyết cũng nâng ly rượu đứng dậy, cung thân tạ ơn, rồi uống cạn rượu trong ly. 

Từ khi tiến vào ngự hoa viên, Dương mẫu nhất mực tính toán làm sao để mở lời đề thân. Dương gia họ hiện giờ đã là siêu phẩm Trấn Viễn hầu, muốn cưới một vị công chúa cũng có thể coi là môn đăng hộ đối. Chỉ có điều, bà ta chỉ đang định yêu cầu công chúa người ta gả về cho con trai mình làm tiểu thiếp, hơn nữa Dương mẫu là nông phụ xuất thân, trước đây gặp Tống tri huyện nói chuyện cũng sợ đến nỗi không nói nên lời, hiện giờ bảo bà đề thân với hoàng thượng thì quả thật là... Khi nghĩ đến chuyện này, ngay cả đầu lưỡi của Dương mẫu cũng không thể uốn được, lòng cứ quay cuồng tính toán làm sao để mở miệng cất lời. 

Minh Thành Tổ cũng phát hiện Dương mẫu mãi không hề lên tiếng, ngồi ở đó run lẫy bẫy, biết là bà ta khẩn trương, không khỏi cười bảo: "Thái phu nhân, bà cũng uống một bôi đi...? Thái phu nhân....?" 

Phùng Tiểu Tuyết liếc nhìn, thấy Dương mẫu đang phân tâm nghĩ chuyện khác, không nghe được lời của hoàng thượng, vội thò tay dưới bàng đẩy đẩy Dương mẫu, hạ giọng nhắc: "Mẹ, hoàng thượng gọi mẹ kìa." 

Dương mẫu bấy giờ mới phản ứng: "Hả? Cái gì?" 

Phùng Tiểu Tuyết đỏ mặt, lại nói thêm một lần nữa. Dương mẫu nghe hoàng thượng nói chuyện với mình, tức thời hoảng loạn, cầm chung rượu đứng dậy, run rẫy thưa: "Hoàng ... thượng...., Vân Lộ công chúa.... con trai của tôi,.... tiểu thiếp... được không?" 

Minh Thành Tổ ngẩn người, không nghe ra được ý Dương mẫu nói gì. Kỳ thật cho dù ông ta chú ý lắng nghe, nghe ra được toàn bộ, cũng không hiểu được gì, nhân vì Dương mẫu quá khẩn trương, câu nói này thật ra không nói được sao cho hoàn chỉnh. 

Vân Lộ ngược lại nghe hiểu rất rõ, đỏ mặt đến tận mang tai, cúi đầu không nói, nhưng vành tai cứ dỏng lên. Nhưng nghe Dương mẫu nói cả nửa ngày cũng không nói rõ ra được, lòng không khỏi gấp lên. 

Minh Thành Tổ thấy Dương mẫu khẩn trương đến nỗi mặt tái nhợt, ly rượu cầm trong tay vì run đã sánh rượu ra ngoài hết hơn phân nữa, khe khẽ cười bào: "Thái phu nhân, đừng gấp, bà uống rượu trước đi, rồi từ từ nói." 

Phùng Tiểu Tuyết đứng dậy, đỡ lão thái thái, giữ vững cánh tay bà, nhẹ giọng xoa dịu: "Mẹ, hoàng thượng cho mẹ uống rượu trước, xong từ từ nói, đừng có gấp." 

Dương mẫu nghe lời, vội vã uống cạn rượu trong chung, kỳ thật rượu đã bị sánh ra ngoài gần hết rồi. 

Uống cạn gần nửa ly rượu còn lại, được Phùng Tiểu Tuyết đỡ, Dương mẫu từ từ ngồi xuống, hít hà một tiếng, nói: "Hoàng thượng, lão thân... lão thân muốn hướng đến hoàng thượng đề thân..." 

Minh Thành Tổ cười đáp: "Được a, thái phu nhân, trầm có Hàm Ninh công chúa chưa có hôn phối," rồi chuyển thân, ông ta nắm cánh tay của Vân Lộ, "Còn có Thanh Khê công chúa của trẫm cũng chưa có hôn phối, thái phu nhân định đề thân lấy ai? Nói ra nghe thử?" 

Dương mẫu nghe Minh Thành Tổ nói đến Vân Lộ, lòng mừng khấp khởi, miệng lưỡi cũng trơn tru hơn, đáp: "Lão thân muốn đề thân Thanh Khê công chúa Vân Lộ." 

"À, được a, là vị công tử nào trong phủ nào vậy?" 

"Lão thân... lão thân muốn đề thân cho con trai ạ." 

"Hả?" Minh Thành Tổ ngẩn người, nụ cười trên mặt từ từ tiêu thất, "Thái phu nhân, bà có mấy con trai a." 

Dương mẫu kéo tay Dương Thu Trì, cười ruồi đáp: "Dạ... chỉ có một người con thôi a." 

Mặt Minh Thành Tổ sầm ngay lại: "Thái phu nhân không phải là muốn trẫm đem Thanh Khê công chúa gả về làm thiếp cho Dương ái khanh chứ?" 

Dương mẫu cũng nghe ra vẻ không vui của Minh Thành Tổ, lo sợ vô cùng, nhưng lời đã nói ra rồi, rốt cuộc cũng phải nói ra cho rõ hết, nên e dè đáp: "Vân Lộ công chúa .... thích Thu Trì nhà chúng tôi...., trước đây đã tốt với nhau rồi... do đó lão thân mới...." 

Minh Thành Tổ nhìn về phía Vân Lộ: "Lộ nhi, Dương ái khanh chính là vị như ý lang quân mà lúc trước con đã nói đó hả?" 

Vân Lộ thẹn đỏ mặt gật đầu. Nàng cũng nghe ra vẻ không vui của Minh Thành Tổ, lòng lo lắng vô cùng, cố lấy hết dũng khí nói: "Phụ hoàng, lúc con ở Thanh Khê huyện, cha của con đã có ý đem con gái gả cho Thu Trì ca ca làm thiếp rồi...." 

"Vậy đã gả hay chưa?" Minh Thành Tổ lạnh lùng hỏi. 

"Chưa...." 

"Vậy thì đúng rồi, Dương ái khanh tuổi trẻ tài cao, vốn ra đây là một cuộc hôn nhân tốt, nhưng Dương ái khanh đã có nguyên phối rồi, lúc xưa thà chết không chịu bỏ vợ, đối với chuyện vợ chồng khang lệ tình thâm như vậy, trẫm rất kính trọng. Nếu là như thế, con không có cách gì làm vợ Dương ái thanh được. Còn về chuyện làm thiếp - con cảm thấy một công chúa mà làm thiếp của người ta là thỏa đương hay sao?" 

"Phụ hoàng...." 

Minh Thành Tổ khoát tay, ngắt ngang lời của Vân lộ: "Được rồi, chuyện này không được đề cập nữa. Phụ hoàng hơi mệt, về trước đây." Ông ta đứng dậy, cúi đầu thấy Vân Lộ ứa nước mắt đáng thương như vậy, vỗ vỗ vai của nàng, "Lộ nhi, chuyện hôn nhân của con không cần con lo, phụ hoàng sẽ an bài cho con." 

Minh Thành Tổ cũng không nhìn bọn Dương Thu Trì, chấp tay sau lưng vững bước bỏ đi. Vương quý phi cùng các phi tần mỉm cười ra vẻ áy náy với Dương Thu Trì cùng mọi người rồi cũng bỏ đi. Vị Lữ mỹ nhân trước lúc đi đã nhìn sâu vào mắt Dương Thu Trì, đôi mắt biết nói đó đầy vẻ nhu nhuận, khiến người ta dậy lên sự thương xót vô hạn. 

Trong trường chỉ còn lại một nhà Dương Thu Trì, người này nhìn người kia, người kia nhìn người nọ, đều ngẩn ngơ hết. 

Vân Lộ oa một tiếng gục xuống bàn khóc rống lên. 

----o0o---- 

Ngày hôm sau, Dương Thu Trì bàn với Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết, Liễu Nhược Băng, Tống Vân Nhi, quyết định ủy thác cho mẹ của Tống Tình là Tống phu nhân đến Vũ Xương lo liệu chuyện làm ăn ở Hồ Quảng. Hắn viết một phong thư cho mẹ của Tống Tình, sau đó nhờ Hạ Bình mang theo nữ hộ vệ đến Ninh Quốc phủ, tiếp mẹ của Tống Tình hộ tống đến Vũ Xương, sau đó hộ tống Tần Chỉ Tuệ, Tống Tình và hai mẹ con Bạch Tố Mai trở về. 

Tiếp sau đó, hắn mang theo Kim sư gia, Long sư gia đến Ứng Thiên Phủ nha môn tiếp nhiệm trước, sau khi tiếp thu sự ra mắt của các tá quan, hắn cho hai vị sư gia lo liệu bàn giao tiền bạc sổ sách tín vật và các vụ án đang điều tra xử lý với các sư gia của Cố phủ doãn tiền nhiệm... Đem chính vụ của nha môn giao cho hai vị sư gia lo liệu xong, Dương Thu Trì lại đến đồng tri nha môn tại cẩm y vệ Bắc trấn phủ ty mà hắn vừa được bổ nhiệm, chính thức bái kiến chỉ huy sứ Kỷ Cương, sau đó mới quay trở về Dương phủ. 

Dương Thu Trì cho gọi Tống Vân Nhi lại, rồi đem chuyện hoàng thượng giao điều tra án nói tổng thể cho nàng biết. Tống Vân Nhi khi nghe nói án điều tra lần này lại là vụ tử vong ly kỳ của ái phi mà hoàng thượng sủng ái nhất khi xưa, vừa hưng phấn vừa khẩn trương. Chuyện liên quan đế án mạng trong hoàng thất là không thể giản đơn được, không biết sẽ liên lụy đến ai. Nhưng mà, lần này hậu đài chính là hoàng thượng, cho nên cũng không cần lo lắng quá. 

Về việc phá án như thế nào, Dương Thu Trì đã có kế hoạch sơ bộ. Hắn trước hết tiến hành điều tra, tra rõ tình huống đương thời, cho đến khi trong tay nắm chắc rồi, thì mới đến Sơn Đông Lâm thành khai quan nghiệm thi, xác định tử vong có tính chất tự sát, rủi ro bất ngờ hay là bị người ta giết, sẽ căn cứ vào đó tra rõ án này, sau đó sẽ tính đến bước cuối cùng. 

Nếu như hiện giờ Dương Thu Trì đã là cẩm y vệ đồng tri, thân phận cẩm y vệ đã công khai rồi, nên hắn mặc quan bào của cẩm y vệ đồng tri, cho Nam Cung Hùng và sáu thiếp thân hộ vệ mặc áo cánh chuồn, mang theo Tống Vân Nhi vào hoàng cung bắt đầu tra án. 

Do hoàng thượng đã hạ chỉ cho phép Dương Thu Trì có thể tiến cung bất cứ lúc nào, nên không có bất kỳ trở ngại gì. Dương Thu Trì cùng mọi người tiến vào trong cung, tìm đến nữ quan Vương Tư Thái. 

Vương Tư Thái hai chục tuổi, cũng có mấy phần xinh đẹp (vì để tránh dọa sợ hoàng thượng, trong hoàng cung cấp tuyệt những co gái xấu như khủng long tiến cung), cấp cho người ta cảm giác rất giỏi giang. 

Vương Tư Thái vừa nghe nói có cẩm y vệ tìm mình, tức thì sợ run. Từ thời Vĩnh Nhạc của Chu Lệ, cẩm y vệ, sau đó là đông hán và tây hán đều khiến cho mọi người kinh tâm tán đởm, là những từ ngữ dùng để đe nẹt những em bé khóc nhè trong đêm. 

Tư Thái kỳ thật là một nữ quan chưởng quản phòng lưu trữ trong hoàng cung. Và buổi điều tra này được tiến hành trong phòng làm việc của Vương Tư Thái.

Dương Thu Trì ngồi ở giữa, Tống Vân Nhi đứng sau lưng hắn, Nam Cung Hùng cùng sáu hậu vệ cũng đứng, truyền Vương Tư Thái vào trong ngồi xuống. Dương Thu Trì hỏi: "Vương Tư Thái, bổn quan phụng thánh chỉ của hoàng thượng điều tra án tử vong li kỳ của Hiền phi, có chuyện muốn hỏi ngươi. Ngươi phải như thật hồi đáp, có rõ không?" 

Vương Tư Thái cười cầu tài: "Hạ quan minh bạch, nhất định y như thật bẩm cáo." 

"Vậy tốt, ngươi đem chuyện xảy ra vào ngày Hiền phi tử vong kể kỹ lại cho ta nghe." 

"Dạ." Vương Tư Thái có hơi khẩn trương, liếm môi một lúc rồi đắc ý nói: "Hạ quan hơi có chút tài thơ, đã từng viết một bài từ ca vịnh Hiền phi nương nương, được hoàng thượng và Hiền phi nương nương thưởng thức. Bài từ này là như vầy:" Vương Tu Thái hắng giọng đọc lên: 

Quỳnh hoa di nhập đại minh cung, 

Y nỉ nùng hương vận vãn phong. 

Doanh đắc quân vương lưu bộ liễn, 

Ngọc tiêu liệu lượng nguyệt minh trung 

Tạm dịch: 

Hoa quỳnh vào ở Đại minh cung 

Hấp dẫn tỏa hương hút ong đêm 

Giành được quân vương dừng xe kéo 

Sáo ngọc réo rắc ánh trăng thanh. 

Sau khi xướng xong bài cung từ này, Vương Tư Thái dương dương tự đắc nhìn Dương Thu Trì, cho rằng hắn sẽ vỗ tay khen hay, không ngờ trong đầu Dương Thu Trì không có bao nhiêu tế bào thơ từ, ngoại trừ những bài thơ yêu cầu phải học thuộc lòng ở những giờ học văn thời trung học, hắn chẳng có cảm giác gì với những thi từ khác. Hơn nữa, đây là bài cung từ phải hát lên, càng khiến hắn giống như trượng nhị hòa thượng sờ đầu hoài chẳng hiểu tại sao, cho nên vẫn lạnh lùng nhìn ả. 

Vương Tu Thái hơi hổ thẹn, nhanh chóng thu lại nụ cười đắc y, nói tiếp: "Hoàng thượng lần đó xuất chinh Mạc bắc, cho hạ quan đồng hành chung xe với Hiền phi nương nương. Hoàng thượng xuất chinh đắc thắng trở về, ngày 13 tháng 7 trở về đến Sơn Đông Lâm thành. Hiền phi nương nương dọc đường đều bình an, không ngờ gần đến Lâm thành thì trời đã tối, đại quân hạ trại, hoàng thượng và Hiền phi nương nương ngụ ở dịch trạm Lâm thành." 

Dương Thu Trì chen lời hỏi: "Dịch trạm có người nào khác ở không?" 

"Không có, toàn bộ Dịch trạm chỉ có mình hoàng thượng và Hiền phi nương nương ngụ, ngoại ra còn có thái giám cung nữ tùy hành vả cả tôi. Đếm đó trời rất nóng, hoàng thượng và nương ngương ở mái hiên ngoài vườn nói chuyện, tôi ở một bên hầu. Đến canh ba, trời hơi mát mẻ, hoàng thượng và nương nương mới trở về phòng ngủ. Tôi cũng đi ngủ. Sáng hôm sau, tôi còn chưa dậy, thì thiếp thân thị nữ của nương nương đã chạy đến phòng gọi tôi, nói là nương nương bên rồi, nằm ở giường gọi hoài không tỉnh. Tôi đến nơi, quả nhiên là thế, tức thời sợ điếng cả người." 

"Ngươi nói tử tế lại một chút coi, lúc đó tình trạng của Hiền phi nương nương thế nào." Dương Thu Trì hỏi. 

Vương Tư Thái ngửa cổ suy nghĩ một hồi: "Người lúc đó còn nằm ở trên giường, trợn mắt, ở miệng có vật ói mữa. Sau đó, hai thái y đến chẩn trị, phát hiện nương nương đã... đã băng rồi. Còn về nguyên nhân tử vong, hai người họ cãi nhau cả nửa ngày, cuối cùng nói là bị bạo tật mà chết." 

Bạo tật mà chết? Đột tử hay là bị ức chế mà chết? Nếu như là tật bệnh liên quan đến tim và óc dẫn đến đột tử, thì có thể tra ra, nhưng nếu là ức chế mà chết thì thật phiền. Chết do ức chế về mặt y học cũng không hiếm hoi gì. Trước mắt bệnh chứng này nhân loại còn chửa hiểu rõ đích xác, có những biến đổi bệnh lý (Chú: thay đổi tổ chứa hay tế bào do bệnh gây ra. ND) được thể hiện có tính chất công năng, tức chức năng của cơ thể, chứ không phải có tính khí chất. Do đó về mặt hình thái học, văn bản không tìm được chứng cứ hay dấu vết tương ứng với bệnh. 

Nhưng mà, Hiền phi rốt cuộc là do đột tử hay là chết do ức chế? Nếu chỉ bằng lời của Vương Tư Thái thì không thể định luận được. 

Dương Thu Trì gật gật đầu, ngẫm nghĩ, hỏi: "Lúc đó ở hiện trường ngoại trừ ngươi, Liên nhi và hai thái y ra, còn có người nào khác nữa không?" 

"Mới đầu là Liên nhi gọi tôi tới, sau đó tôi bảo nó đi gọi thái y, ngay sau đó là hoàng thượng tới. Sau đó hai vị thái y cũng đến, đúng rồi, còn có tư lễ giám chưởng ấn thái giám Kim Lương. Sau đó còn có một số thái giám, cung nữ, nhưng những kẻ đóđều đến sau khi Hiền phi đứt hơi rồi." 

"Được, chỉ hỏi ngươi trước như vậy thôi, sau này có thể còn có chuyện hỏi ngươi. Khi chuyện này chưa tra ra rõ ràng, ngươi không thể ly khai hoàng cung, minh bạch không?" 

"Vâng, hạ quan minh bạch rồi." Vương Tư Thái cúi đầu đáp. 

Rời khỏi phòng làm việc của Tư Thái, Dương Thu Trì thẳng tới thái y viện. 

Thái y viện không ở hoàng cung, mà là ở một góc ngự đạo cạnh Ngũ Long Kiều ngoài hoàng cung, hợp cùng một chỗ với lục bộ nha môn. 

Vừa tiến vào thái y viện, một mùi thuốc nồng nặc ập vào mũi. Dương Thu Trì rất thích mùi này, hít sâu một hơi, rồi tiến vào trong vườn. 

Thái y viện viện sứ nghe nói có cẩm y vệ đồng tri Dương hầu gia đến muốn tra án, hoảng loạn chạy ra nghênh tiếp. Y là lãnh tụ tối cao của thái y viện, nhưng chẳng qua cũng là quan chánh ngũ phẩm, so với Dương Thu Trì còn kém rất xa. Cẩm y vệ đến tìm y, nhất định là có chuyện gì đó cần tra hỏi, làm sao không khỏi khiến y hoảng sợ cho được? 

Sau khi được mời đến phòng khách ngồi, Dương Thu Trì cũng không nhiều lời, trực tiếp cho gọi thái y Cao Đức và Ngải Hành - vốn có cấp bậc tương đương viện sứ - đã chẩn trị cho Hiền Phi đêm hôm đó. 

Tự khi Hiền phi chết bất đắc kỳ tử, hai vị thái y này như ngồi trên bàn chông. Tuy trước mắt hoàng thượng không hề tìm bọn họ quở trách gì, nhưng bọn họ đã cảm thấy có gì đó không ổn. Cho nên mỗi lần có tin tức về sự hỉ nộ ai lạc của Minh Thành Tổ, hai người đều căng thẳng thần kinh và đã đến mức gần như sụp đổ. 

Hiện giờ đột nhiên nghe cẩm y vệ đồng tri Dương hầu gia muốn tìm họ, hai vị thái y suýt chút nữa sợ đến ngất đi. Cẩm y vệ là nhân vật gì? Từ khi đương kim hoàng thượng đăng cơ đến giờ, bọn họ cùng rất nhiều người tốt đều bắt đầu hiểu rõ vấn đề nghiêm trọng trong chuyện này. 

Thật không ngờ, cuối cùng rồi cũng có một ngày bọn chúng cũng tìm thấy họ. 

Hai vị thái y run rẫy đến phòng làm việc của thái y viện, nhìn thấy Nam Cung Hùng cùng các cẩm y vệ mặc áo cánh chuồn, tức thì sợ run lập cập, đứng đực ở đó, tay chân không biết đặt ở chỗ nào. 

Dương Thu Trì cho người an bài hai cái ghế cho họ ngồi, còn phái người của viện sứ châm trà cho họ. Không có chứng cứ chứng minh hai vị thái y có bất kỳ hiềm nghi phạm tội gì, cho nên chỉ có thể hỏi họ trong tư cách người làm chứng. Trong tình huống này, nếu như sợ sệt quá độ sẽ ảnh hưởng đến ký ức của họ. Đương nhiên, đây không phải là điều Dương Thu Trì hi vọng. 

Thấy Dương hầu gia vui vẻ hòa nhã như vậy, hai vị thái y hơi hơi an tâm một chút, tợp một ngụm trà cười cầu tài nhìn Dương Thu Trì. 

Dương Thu Trì nói: "Bổn quan phụng thánh chỉ của hoàng thượng điều tra án tử vong li kỳ của Hiền phi. Lúc đó hai ngươi là thái y theo đoàn viễn chinh, tham dự chuẩn trị cho Hiền phi. Bổn quan muốn hỏi các ngươi, hiền phi rốt cuộc là làm sao mà chết?" 

Vấn đề này đã quẩn quanh trong đầu hai người không biết bao nhiêu lần, và cũng là chuyện mà hai người thường xuyên tranh luận. Lúc này Dương hầu gia hỏi tới, hai người đột nhiên ngẩn cả ra. 

Một lát sau, Cao Đức thái y mới thưa: "Ngày hôm trước Hiền phi nương nương có hơi váng đầu, ù tai, ói mữa, đau nhức nóng sốt và tay chân uể oải, hai lưỡng quyền (xương gò má) phát đỏ, đổ mồ hôi trộm, hình thể ốm o, miệng khô thích uống nước lạnh, lưỡi đỏ vâng vâng. Ti chức cho rằng đấy là chứng phế âm tổn hại, phải dùng sa sâm, mạch môn, thiên đông môn, sinh địa...." 

"Không phải không phải!" Ngải Hành lắc đầu lia lịa, "Đã sớm trước khi xuất chinh, ti chức bắt mạch cho Hiền phi, đã phát hiện mạch trầm nhảy rất nhẹ, ho nhiều, khí cấp, đàm nhớt và ít, lưỡng quyền hồng, sốt theo ngàu, mồ hôi trộm, lưỡi đóng đờm... Đó chính là triệu chứng âm hư hỏa vượng...." 

"Huynh đài nói lời này kém lắm," Thái y Cao Đức xua tay lia lịa, mặt lộ vẻ khinh thường, "Hiền phi nương nương rõ ràng là phế âm tổn hại, sao lại hỏa vượng cơ chứ?" 

Ngải Hành đứng phắt dậy: "Cao thái y coi thường ti chức hay sao?" 

Cao Đức ưỡn ngực, nhướn cái cổ đỏ chót như gà chọi đứng lên vừa định cãi thì Dương Thu Trì đã vỗ bàn: "Được rồi! Hai ngươi làm cái gì thế? Ngồi xuống hết cho bổn quan!" 

Hai người bấy giờ mới ngượng ngập ngồi xuống ghế, nhưng mặt người nào cũng đều lộ vẻ không phục người kia. 

Dương Thu Trì quát: "Ai bảo các ngươi khai bệnh chứng của Hiền phi ra? Bổn quan là hỏi các ngươi, ngày Hiền phi qua đời đó có chứng trạng gì? Hai ngươi cứ lải nhải tranh luận cái gì mà âm hư phế tổn, làm cái quái gì vậy? Toan tính đảo loạn hay sao?" 

Hai người vội vã chuyển thân, đưa mắt nhìn nhau, không dám đấu khí nữa, ngẫm nghĩ một lúc, Cao Đức nói trước: "Hồi bẩm hầu gia: ngày đó hai người bọn ti chức đến phòng của Hiền phi, Hiền phi đã bất tĩnh nhân sự rồi, mạch chẳng còn gì. Quan sát thì miệng đỏ bầm, ói mửa ngất đi, người mềm oặt, âm thương thiếu khí, âm kiệt dương thoát, nhất định là phong tà nhập vào trong, lan tới thần minh gây ra bị bạo tật mà vong." 

Lần này Ngải Hành không hề tranh biện nữa, gật đầu lia lịa, xem ra triệu chứng tử vong của Hiền phi cùng ở điểm này, ý kiến của hai người là nhất trí. 

Dương Thu Trì đối với trung y không hiểu lắm, cũng không hiểu bọn họ đang nói loạn cái gì gì đó, nhíu mày trầm tư thật lâu, rồi hỏi: "Hai ngươi nhận thấy Hiền phi nương nương la bị phong tà nhập não, dẫn đến bạo tật mà vong, đúng không?" 

Hai người đồng thời gật đầu. 

"Hai ngươi nhìn thấy ở khóe miệng của nương nương có vật ói mửa?" 

"Vâng, nương nương nằm nghiêng, bên khóe miệng có một vệt chất ói mửa." 

Dương Thu Trì động tâm, vội hỏi: "Vậy vật ói mửa đó đâu? Các ngươi có bảo lưu hay không?" 

Hai người đưa mắt nhìn nhau, lắc đầu đáp: "Lúc đó khi xử lý di vật của nương nương, đều đem thiêu hết." 

Hai thầy lang băm! Dương Thu Trì mắng thầm, mấu chốt quan trọng như vậy mà bị bọn chúng thiêu mất, thật là khiến hắn bó tay! Hắn lại tiếp tục hỏi những chi tiết liên quan khác, không phát hiện được manh mối có ích gì. 

Sau khi rời khỏi thái y viện, Dương Thu Trì cùng mọi người đi tìm thị nữ Liên nhi phụ thị Hiền phi lúc đó. Nhân vì Hiền phi đột nhiên mất tuy Minh Thành Tổ không trách tội các thái giám cung nữ phục dịch, nhưng cũng lạnh nhạt không còn sử dụng họ. Do đó, Liên nhi đã theo các cung nữ lớn tuổi làm tạp dịch. Khi tìm thấy, nàng ta đang giặt tẩy y phục trong phòng tạp dịch. Trong ngày lạnh như thế này, đôi tay đã rét đỏ tấy lên. 

Nghe nói có cẩm y vệ tìm mình tra án, Liên nhi sợ nhũn cả người, run cầm cập lắp bắp nói không ra lời. 

Dương Thu Trì phí sức cả nửa ngày mới khiến cô ả khôi phục bình tĩnh, sau đó mới bắt đầu hỏi về những chuyện đã kinh qua. 

Tuy sự tình đã trải qua hơn nửa năm, khi nói đến chuyện này Liên nhi hoảng sợ phi thường. Dù gì thì cô ả là thiếp thân thị nữ phục thị cho Hiền phi nương nương, so với các thị nữ, cung nữ hay thái giám phục thị cho nương nương khác có trách nhiệm lớn hơn nhiều. Cho dù hai vị thái y đều nói nương nương bị bạo bệnh mà chết, nhưng rốt cuộc có trách nhiệm tới cô ả hay không, sau này có bị trách tội liên lụy hay không... cô ả vẫn chẳng có chút gì an lòng.

Liên nhân kể: "Thân thể của nương nương thường không khỏe, nhưng không có bệnh gì lớn, thái y nói là âm hư, nên uống thuốc bổ suốt. Đại quân phản hồi kinh thành, trên đường đi ngang Sơn Đông Lâm thành, ngày ấy khí trời quá nóng, hoàng thượng, nương nương ngủ rất trễ, tôi và các thị nữ khác cùng công công phục thị hoàng thượng, nương nương ngủ xong rồi li khai. Tôi và Kim công công ở ngoài cửa hầu." 

Dương Thu Trì hỏi: "Kim công công? Đây có phải là quan tư lễ giám chưởng ấn thái giám Kim Lương không?" 

"Dạ phải." Liên nhân đáp, "Qua nửa canh giờ thì có quân báo khẩn cấp, Kim công công tiến vào phòng bẩm báo hoàng thượng, tôi tiến vào phục thị hoàng thượng mặc long bào. Hoàng thượng liền đến thư phòng của dịch trạm phê duyệt tấu chương. Kim công công cũng theo hoàng thượng, chỉ còn một mình tôi ở bên ngoài hầu." 

"Hiền phi nương nương không thức dậy sao?" 

"Không có, lúc tôi phụ thị hoàng thượng mặc y phục, nương nương vốn định dậy, nhưng đầu của người hơi đau, nên hoàng thượng liền cho người ngủ một mình trước, không cần phải dậy, cho nên nương nương không dậy." 

"Đau đầu?" Dương Thu Trì hỏi, "Không thỉnh thái y sao?" 

"Không hề, nương nương không cho, nói đau không nhiều lắm, không hề gì, ngủ một chút dậy sẽ không sao." 

"Ngoại trừ đau đầu, còn có triệu chứng gì khác nữa hay không?" 

Liên nhi ngẫm nghĩ, đáp: "Không hề có, chỉ nói là bị đau đầu chút chút, sau đó ngủ luôn." 

"Sau đó nữa thì sao? Giữa thời gian này ngươi có tiến vào trong xem xét gì không?" 

"Không có, tôi nhất mực hầu ở cửa, khi chúng tôi trực ban, thì chỉ có thể được đứng hầu ở cửa, không có lời triệu của nương nương thì không thể tùy tiện vào trong. Mãi cho đến canh năm, khi lâu quá không nghe nương nương gọi, tôi cảm thấy rất kỳ quái..." 

Dương Thu Trì chen lời hỏi: "Trước đó nương nương vào ban đêm thường gọi ngươi sao?" 

"Vâng, thân thể của nương nương không được khỏe, đêm về thường hay đổ mồ hôi khát nước, thường muốn uống nước, sau đó tiểu tiện. Trước đây những đêm quá nóng còn bảo tôi quạt, nhưng sau đó thái y nói nương nương bị âm hư, trong trời mùa hè không thể lộ cơ thể ra gió lạnh, cho nên rất ít khi yêu cầu hầu quạt để ngủ, cũng không mở cửa sổ." 

Dương Thu Trì gật gật đầu. Hắn biết trong y lý của Trung y, lý luận về trăm loại bệnh liên quan đến phong hàn rất dài, nào là tính chất của gió vào đầu mùa, trong gió có mang những loại tà bệnh gì, ví dụ như phong hàn, phong thấp vâng vâng, vì thế trong Trung y thường có bàn đến những cách làm sao để tránh gió tránh phong. Đây là những thường thức trong Trung y, hắn dù sao cũng có biết sơ qua một chút. 

Dương Thu Trì ra ý bảo Liên nhi nói tiếp. 

Liên nhi tiếp tục: "Khi tôi tiến vào phòng, từ xa đã khẽ gọi một tiếng nương nương, nhưng không nghe người hồi đáp. Tôi liền đến bên giường gọi tiếp tiếng nữa, nhưng vẫn không nghe người hồi đáp. Án theo lý mà nói, thì nương nương không ngủ mê như vậy. Tôi hơi hoảng, đưa tay lay lay, nương nương vẫn không có động tĩnh gì. Nhân vì trong phòng không có đèn, tôi không nhìn rõ nương nương ra làm sao - nương nương khi ngủ không thích để đèn, nói như thế ngủ không được. Tôi vội vã tìm hỏa thạch đốt đnè lên, nhìn thì thấy nương nương trợn mắt không động đậy, bên miệng chảy ra một vệt ói...." 

Dương Thu Trì lại chen lời hỏi: "Ngươi có động chân tay của nương nương không? Cứng người rồi hay chưa?" 

"Không có cứng, lúc tôi lay người nương nương, người không động đậy gì, mắt nhìn thẳng đăm đăm về phía trước, chẳng chớp nháy gì. Tôi sợ quá, khóc chạy ra ngoài gọi Vương Tư Thái. Vương Tư Thái đến xem, cũng hoảng hồn, bảo tôi mau đi gọi thái y. Tôi vội chạy đi gọi thái y, đồng thời gọi các công công trực ở ngoài đi báo cáo hoàng thượng. Sau đó, hoàng thượng và hai vị thái y đều đến. Sau khi thái y kiểm tra, nói... nói nương nương đã bị bệnh qua đời rồi." 

Dương Thu Trì hỏi: "Ngày ở Lâm thành đó, nương nương có ăn cái gì không?" 

"Trời nóng, nương nương cũng không có ăn gì khác lạ, trưa chỉ uống chén cháo loãng, tôi trước khi ngủ uống một chén bột mì nấu đặc. Không có ăn cái gì khác nữa." 

Lời của Liên nhi nói đại khái giống với thái y và Vương Tư Thái, xem ra tình huống là như vậy. 

Rời khỏi phòng tạp dịch, Tống Vân Nhi nhịn không được hỏi: "Xem ra vị nương nương này thật là bệnh chết rồi." 

"Vì sao lại nói vậy?" Dương Thu Trì hỏi. 

"Huynh nghĩ coi, hoàng thượng và mọi người ngụ ở dịch trạm, bên ngoài là mấy vạn đại quân, toàn bộ dịch trạm đều được đại nội thị vệ bảo vệ trùng trùng, muốn mưu sát thì ai tiến vào được?" 

"Vậy nếu là người bên cạnh nương nương mưu sát thì sao?" 

Tống Vân Nhi ngẩn người, đáp: "Không thể nào a, thái y nói phong tà nhập não dẫn tới bạo tật tử vong, nếu như là mưu sát, thái y nhất định có thể nhìn ra." 

Dương Thu Trì cười cười: "Thái y chỉ biết trị bệnh, còn luận tra chuẩn xác các nguyên nhân tử vong là thuộc lĩnh vực của bác sĩ lâm sàng." 

"Bác sĩ lâm sàng?" Tống Vân Nhi đối với danh từ kỳ quái này không hiểu gì. 

"Chính là lang trung, thái y." Dương Thu Trì đáp, "tra rõ nguyên nhân tử vong và chẩn đoán tật bệnh là hai chuyện khác nhau, cùng là một bệnh nhân chết, thì thái y khác nhau sẽ đưa ra những phán đoán khác nhau." 

Nghe Dương Thu Trì nói thế, Tống Vân Nhi bắt đầu cảm thấy khó hiểu: "Vậy Hiền phi này rốt cuộc là vì sao mà chết?" 

Dương Thu Trì lắc đầu: "Trước khi khai quan nghiệm thây, kiểm tra cẩn thận đối với thi thể, ta cũng không có cách gì phán đoán." 

"Vậy chúng ta mau đi khai quan nghiệm thi thôi." 

"Không cần phải vội, chúng ta còn phải tìm một người tra rõ tình huống, sau đó mới đi. Sơn Đông Lâm thành không phải là gần đâu." 

"Còn tìm ai nữa?" Tống Vân Nhi hỏi, ngay lập tức hai mắt sáng rực, "Muội biết rồi, tìm quan chưởng ấn thái giam Kim Lương theo cùng hoàng thượng khi đó!" 

"Ừ! Đúng rồi." Dương Thu Trì gật gật đầu, "Y là tổng quản thái giám tùy hành trong chuyến viễn chinh này, có tình huống dị thường gì hay không thì y phải biết rõ trước." Nói xong, dừng lại một chút, hắn tiếp tục: "Chỉ sợ là y chỉ cười ha ha chối quanh thôi, loại sự tình này nếu lỡ có sơ sẩy gì, thì người bị truy cứu trách nhiệm đầu tiên là y. Cho nên, cho dù có vấn đề gì đi chăng nữa, y cũng không có khả năng nói rõ ra. Nhưng cứ đi gặp y trước rồi tính." 

Rất nhanh sau đó, bọn hắn đã tìm ra được tư lễ giám chưởng ấn thái giám Kim Lương. Vị thái giám Kim Lương này đang ở phòng làm việc của Tư lễ giám, nghe nói có cẩm y vệ tìm, cũng sợ hãi rụng rời. Nhưng mà, rốt cuộc y cũng là người hầu hạ bên cạnh hoàng thượng lâu ngày, cho nên nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. 

Nở nụ cười tươi tiếp đón Dương Thu Trì và mọi người vào phòng, y lớn tiếng bảo các tiểu thái giám rót trà thơm. 

Dương Thu Trì hỏi về những chuyện y đã trải qua lúc Hiền phi nương nương qua đời, kết quả đều tương tự như những người đã khai trước đó. Chỉ có điều, Kim Lương này còn cường điệu nói rằng bản thân đã theo hoàng thượng đi phê duyệt tấu chương khẩn cấp, nhất mực hầu hạ bên người hoàng thượng, không hề rời đi. Cho đến khi nghe được tin tức là Hiền phi bệnh nặng, y mới theo hoàng thượng trở về, sau đó, thái y đã nói Hiền phi nương nương đã bị bệnh qua đời. 

Hỏi có gì dị thường không, Kim Lương khẳng định là không có. Mọi nhiệm vụ trực ban y đều an bài thỏa đáng, căn bản không có chỗ hở gì, càng không có người nhàn tạp tiến vào dịch trạm do hoàng thượng đang cư trú. 

Điều này thực ra nằm trong dự liệu của Dương Thu Trì. Trước khi điều tra ra Hiền phi có phải là bị mưu sát hay không, hắn không chuẩn bị dùng những hành động quá khích, để tránh đả thảo kinh xà. Hắn yêu cầu Kim Lương theo hán đến Dịch trạm của Lâm thành, chỉ nhận hiện trường, đồng thời khai quan nghiệm thi. Kim Lương xem ra cũng rất sảng khoái, đáp ứng ngay. 

Dương Thu Trì cùng mọi người rời khỏi hoàng cung, đến Công bộ tìm người phụ trách tu kiến lăng mộ là viên ngoại lang Lý đại nhân, yêu cầu ngày hôm sau cũng với hắn đến dịch huyện. Sau đó, hắn trở về Dương phủ, đem chuyện đi Sơn Đông Lâm thành báo cho Dương mẫu và mọi người ở nhà hay. 

Vân Lộ đang nói chuyện với Dương mẫu, bầu mắt đỏ hồng rõ ràng là vừa khóc xong, Dương Thu Trì đương nhiên hiểu là vì cái gì. Tối qua từ hoàng cung trở về, cho đến khi trở về phủ của công chúa, Vân Lộ cứ khóc mãi. Xem ra nàng không chuẩn bị đủ về mặt tư tưởng, đặc biệt là thiếu hẳn nhận thức về chuyện công chúa không thể làm tiểu thiếp của người ta. 

Mới sáng sớm Vân Lộ đã đến, cùng Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết nói chuyện trong phòng đến tận trưa, xem ra tình tự đã tốt hơn nhiều. 

Dương mẫu nghe nói Dương Thu Trì phải đi Sơn Đông, lộ trình rất xa, có hơi lo lắng. Bà vốn định cho Liễu Nhược Băng đi theo bảo hộ, nhưng Dương Thu Trì nói con của Liễu Nhược Băng còn nhỏ, không thể rời xa mẫu thân, và lần này hắn đi không phải là đánh nhau, lại có mang theo đội hộ vệ và cả Tống Vân Nhi, cho nên cứ yên tâm không sao cả. 

Đêm đó, Phùng Tiểu Tuyết thu thập hành lý cho Dương Thu Trì. Tuy Tống Vân Nhi hiện giờ là thiếp của Dương Thu Trì, nhưng nàng làm đại tiểu thư quen rồi, không biết làm sao để phục thị người khác, do đó nên cho Hồng Lăng cùng đi, để tiện chăm sóc Dương Thu Trì. 

Sáng hôm sau, Dương Thu Trì mang theo Tống Vân Nhi, Hồng Lăng, và tư lễ giám chưởng ấn thái giám Kim Lương cùng người phụ trách xây dựng lăng mộ của Hiền phi là Công bộ viên ngoại lang Lý đại nhân được sự bảo hộ của Nam Cung Hùng dẫn đầu đội hộ vệ xuất phát kéo thẳng đến Lâm thành ở Sơn Đông. 

Do uy hiếp từ ngoại địch chủ yếu của Minh triều là đến từ phương Bắc, cho nên đường từ Ứng Thiên Phủ (Nam Kinh) đến Thuận Thiên phủ (Bắc Kinh) là đường quan đạo trọng điểm, được tu bổ và duy trì rất tốt, vừa rộng vừa bằng phẳng. 

Bọn họ không gấp đi đường, cho nên nửa tháng sau mới đến được Sơn Đông Lâm thành. Dương Thu Trì trước hết đến hiện trường là dịch trạm ở Lâm thành, để quan sát và có ấn tượng bao quát trước. 

Lâm thành ở Minh triều (còn gọi là Kim Tiết thành) chỉ là một thành trấn nhỏ, dịch trạm tương đối đơn sơ, nhưng so với những chỗ khác ở Lâm thành, nó cũng được xem là một chỗ ở rất tốt, cho nên hoàng thượng trong lúc hồi triệu đã sử dụng dịch trạm nơi này làm chỗ qua đêm. 

Trong khuôn viên khá nhỏ của dịch trạm, mấy căn phòng đan qua chéo lại hơi loạn. Theo sự chỉ dẫn của Kim Lương, mọi người đến phòng mà hoàng thượng và Hiền phi từng ở. Sau khi tra khán, Dương Thu Trì không phát hiện được gì dị thường. 

Lúc đó hoàng thượng đang phê duyệt tấu chương ở một căn phòng không xa mấy, Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi đến đó điều tra, cũng không phát hiện được gì dị thường. 

Rời khỏi Lâm thành, đại đội nhân mã tiến đến "Kim tảo trang thị" của Dịch huyện. Hiền phi được an táng ở đây. Hai địa phương cách nhau không xa, cho nên hai ngày sau họ đã đến được huyện nha của Dịch huyện. 

Vương tri huyện của huyện Dịch biết cẩm y vệ đồng tri Dương hầu gia đến, vội vã chạy khắp khởi dẫn đầu một đám dân tráng theo Dương Thu Trì ra đến mộ của Hiền phi được chôn ở Bạch Mao sơn bên ngoài thành. 

Mộ của Hiền phi có ba mặt là núi, phía trước có một dòng suối, hợp với câu "Tả sư hữu tượng sung thủ vệ, tam sơn nhất thủy táng hoàng nương" (Chú: Một câu trong thuật phong thủy, bên trái là tượng sư tử bên phải là tượng voi được sung làm thủ vệ, địa thế ba núi một nước là chỗ thích hợp để an táng vợ vua. ND) 

Đất của mộ phần chiếm cả một vùng bằng nửa sân bóng đá, lăng mộ dùng tường cao bao quanh, được huyện nha đương địa phái dân tráng thay nhau coi sóc. 

Hiền phi tuy rất được Minh Thành Tổ sủng ái, nhưng nàng chỉ là hoàng phi, là tiểu thiếp của hoàng thượng, cho nên không có tư cách được an táng trong hoàng lăng. Lúc đó Minh Thành Tổ đã mấy lần đề nghị đem Hiền phi an táng bên cạnh Từ hoàng hậu, nhưng đều bị các đại thần nỗ lực khuyên giải và cản trở. 

Do vừa mai táng được nửa năm, hơn nữa lại có quan viên của Công bộ phụ trách xây dựng lăng mộ khi xưa, nên họ đã nhanh chóng xác định được vị trí cửa vào mộ địa, cho dân tráng đào bới hết nửa ngày thì tìm được cửa lăng mộ.

Vén lộ mộ đá, mở cửa mộ, sau đó là một mộ đạo dài. Chờ cả hơn nửa thời thần để cho khí ô uế trong đó tản ra sạch, Dương Thu Trì cho người tìm một con chó rồi dùng dây thừng cột đưa vào sâu trong mộ đạo, lát sau kéo ra, khi thấy chó không sao, hắn mới yên tâm, cho đốt đèn tiến vào trong. 

Mộ đạo đi thấp dần xuống dưới, đang là mùa đông, lại đi sâu vào trong lòng đất, nên vô cùng âm sâm lạnh lẽo. 

Vị công bộ viên ngoại lang phụ trách tu kiến lăng mộ đi trước dẫn đầu, cẩn thận giải trừ những cơ quan phòng chống trộm mộ ở hai bên, cuối cùng cũng dẫn mọi người đến tận cùng là mộ thất chính nơi chứa quan tài của Hiền phi. 

Ngôi chủ mộ này không lớn, ở giữa có đặt một quan quách bằng bạch ngọc cao bằng đầu người, được chế tạo rất khéo léo. Trên đỉnh của quan quách có cắm nghi trượng và cờ hiệu bằng gỗ, sắc màu đã hơi cũ. Chung quanh quan quách có đặt ngọc thạch, hương liệu, hoa quả... 

Lý viên ngoại lang chỉ huy bọn dân tráng cẩn thận kéo nắp quan tài qua một bên, sau đó dựng một thang gỗ hai bên quan tài. 

Tiếp theo đó, Dương Thu Trì cho dân tráng lui hết ra ngoài lăng mộ, cho Nam Cung Hùng cùng sáu hộ vệ canh phòng cửa mộ, chỉ còn lại tư lễ giám chưởng ấn thái giám Kim Lương, Lý viên ngoại lang, Vương tri huyện, hắn và Tống Vân Nhi trong mộ thất. 

Hơn mười cái đèn lồng được treo lên giá ở hai bên tường, chiếu cho ngôi chủ mộ sáng trưng. Chưởng ấn thái giám Kim Lương và Vương tri huyện đứng quan sát ở mộ đạo xa xa. 

Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi cùng mang găng tay, mỗi người cầm một cái đèn lồng, phân biệt trèo lên thang gỗ, tâm tình lo lắng phập phồng nhìn vào trong quan quách tra xét. 

Tầng trên cùng của quan quách được bọc bằng một tấm gấm đoạn, sau khi cẩn thận mở lớp này ra, không ngờ phía dưới vẫn là gấm. Sau khi tháo gở đến tầng thứ chín, thì mới lộ ra di thể của Hiền phi nương nương. Trên đầu của Hiền phi nương nương đội mũ hắc sa chéo góc, trên có cắm kim trâm, kim thoa, trên người được bao bọc bằng gấm vàng thêu hình long phượng, ở dưới mặc một giáp khố thêu hoa sen và váy dài có hình viền mây rồng, ở chân mang một cái hài bằng vàng. 

Hai bên di thể có từng đống cẩm đoạn, y phục, đồ vàng bạc chất chồng cùng từng lớp áo quần được dùng đồ vàng bạc đè nén thật chặt. 

Do ngay sau khi Hiền phi chết, công tác phòng chống thối rữa được thực hiện kịp thời, sau đó được chôn vào trong lòng đất lạnh lẽo, cho nên thi thể chỉ bị hơi thối nhẹ, sắc mặt vẫn như thường, quả nhiên thập phần mỹ lệ. 

Điều này cũng khiến Dương Thu Trì hơi khó xử. Nếu như thi thể đã thối rữa cao độ thì còn dễ, vì hắn có thể trực tiếp lấy phủ tạng tương ứng về kiểm nghiệm, nhưng hiện giờ cơ thể vẫn còn hoàn hảo, sắc diện như còn sống, làm sao bây giờ? 

Đây dù sao cũng là Hiền phi nương nương, là phi tử mà Minh Thành Tổ yêu thương nhất, ngay cả xuất chinh ở Mạc Bắc cũng mang theo, còn hắn thì không phải bọn tặc đào mộ, tuy là phụng thánh chỉ khai quan nghiệm thi, nhưng thời cổ đại khai quan nghiệm thây chỉ giới hạn ở kiểm tra vẻ ngoài, chứ không cho phép tiến hành giải phẩu. 

Nếu như hắn tự tiến hành giải phẩu, Minh Thành Tổ biết phi tử mà ông ta yêu thương nhất bị cởi trần trụi, y phục bị lột sạch, rồi bị mổ bụng moi ruột, lấy tim rút gan, cắt từng miếng từng miếng tra xét, lại còn làm vỡ nát xương sọ ái phi của ông ta, moi não trắng muốt như đậu hủ ra tùy tiện chọc chọc quậy quậy, không tức đến thổ huyết ở đương trường thì cũng thất khiếu bốc khói. Còn về hậu quả, ông ta không diệt mười tộc nhà hắn thì cũng diệt chín tộc, còn với hắn thì không lăng trì hai lần chỉ sợ không giải được hận. 

Đương nhiên có thể giải phẩu xong rồi khâu lại, nhưng mà cho dù giải phẩu khéo đến đâu cũng không khỏi lưu lại dấu vết. Một khi nhân vì nguyên nhân khác mà lại khai quan tiếp, thì lập tức sẽ lộ chuyện ngay. Cho nên, cho dù có cho hắn thêm mười tám lá gan, hắn cũng không dám làm loạn. Tra không rõ thì nhiều lắm gặp hoàng thượng nhận là hắn không có bản lãnh tra, cùng lắm thì ông ta bớt tin dùng hắn vài phần, chứ còn nếu hoàng thượng mà biết hắn bất kính với thi thể của Hiền phi nương nương, coi như cả nhà hắn tiêu đời hết. Hắn không muốn mạo hiểm như vậy. 

Nhưng mà, không giải phẩu làm sao mà tra rõ nguyên nhân tử vong đây. Làm sao bây giờ? 

Vấn đề này nhất mực xoay chuyển trong đầu Dương Thu Trì sau khi hắn xác định phải khai quan nghiệm thây. Hi vọng lớn nhất của hắn là sau khi mở quan tài, thi thể đã thối rữa cao độ, nếu là như vậy thì có thể trực tiếp lấy nội tạng tương ứng ra kiểm nghiệm, sau đó đưa trở vào trong, người khác không thể nhận ra được. 

Nhưng hiện giờ, thi thể có trình độ thối rữa kém rất xa so với mức độ mà hắn hi vọng. Hiện giờ là những ngày tháng còn lạnh giá, xem ra nếu muốn thi thể thối rửa đến trình độ đó, cần phải mất hơn nửa năm nữa. 

Đương nhiên còn có một biện pháp khác, đó là tăng cường nhiệt độ trong mộ thất. Như vậy trong vòng mấy ngày có thể khiến thi thể thối rữa cao độ. 

Nhưng chuyện này hiển nhiên không làm được, nhân vì người cổ đại đã nhận rõ nhiệt độ cao sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự thối rữa của thi thể, cho nên các mộ địa thường được chôn sâu, lợi dụng nhiệt độ thấp làm giảm trình độ thối rữa của thi thể (*). Nếu như bây giờ hắn đốt lửa trong mộ thất để gia tăng nhiệt độ, thì công bộ Lý viên ngoại lang hiển nhiên không theo hắn làm trò điên, khẳng định là đem tình huống này báo cáo lên trên, như vậy hắn cũng tiêu đời thật sự. 

Do đó, muốn chờ cho thi thể thối rữa hết rồi lấy chất dịch nội tạng kiểm nghiệm hiển nhiên là không thể. 

Về điều này, trên đường đi Dương Thu Trì đã suy đi nghĩ lại, cuối cùng nhận thấy nếu trong tình huống hiện giờ, chỉ có thể dùng một biện pháp duy nhất là "Ngân châm tham hầu" (Dùng ngân châm để chọc vào thăm dò cổ họng). 

"Tẩy oan lục" có ghi: "Phàm kiểm nghiệm thi thể chết vì độc, đặc biệt thời gian phục độc đã lâu, ẩn tích vào bên trong không thể nghiệm ra, thì trước tiên dùng ngân châm hoặc đồng châm chọc vào cổ của người chết, dùng dấm ấm tẩy từ dưới lên, từ từ chỉa lên trên, để cho thấu khí, đến khi độc khí bay lên, tất màu đen sẽ hiện." Ngân châm tham hầu trong Tẩy oan lục có đề cập, là phương pháp hợp pháp để nghiệm thi thời cổ. 

Khi hỏi Vương Tư Thái, hai vị thái y và thị nữ Liên nhi, tất cả đều nói đến một tình tiết, đó là Hiền phi lúc ấy nằm nghiêng, trên khóe miệng và mép giường có dấu ói mửa. Tuy vật ói mửa đó sau đó được thiêu cùng với mền chiếu, nhưng nếu như lúc còn sống Hiền phi đã ói mửa qua, như vậy có thể là ở yết hầu, thực quản vẫn còn vật chưa ói ra hết. Nếu như có thể lấy mẫu, có thể kiểm nghiệm là trúng độc hay không. 

Do độc dược thời cổ đại chủ yếu là tì sương, hơn nữa kỹ thuật sản xuất lại lạc hậu, nên trong tì sương thường có lẫn một lượng tạp chất nhỏ, chủ yếu là lưu huỳnh hay chất lưu hóa, và lưu huỳnh có thể sản sinh phản ứng hóa học với bạc, biến thành bạc lưu hóa có màu đen. Cho nên, khi sử dụng ngân châm chọc vào cổ, nếu như trong cổ họng và thực quản có thành phần của tì sương, ngân châm nhất định sẽ phản ứng biến thành màu đen. Như vậy có thể nói là nạn nhân bị trúng độc. 

Dương Thu Trì rút từ trong người ra một cây ngân trâm đã chuẩn bị sẳn, cúi người xuống cẩn thận cắm vào phần dưới cằm của Hiền phi, sau đó đẩy sâu vào cổ họng. Sau thời gian uống cạn một chung trà, hắn từ từ rút ra, hai người đưa mắt nhìn, đều giật mình cả kinh. 

Thì ra phần đầu của ngân trâm đó đã biến thành màu xám đen! Điều này chứng minh, Hiền phi đã bị người dùng tì sương hạ độc giết chết! 

Căn cứ vào lời làm chứng của Liên nhi, Hiền phi nương nương ngày ấy chỉ uống một chén cháo loãng, trước khi ngũ có ăn một chén bộ mì nấu đặc, và hai món đó đều không thể chứa lưu huỳnh, vì thế, bổn thân thực vật không thể làm ngân châm biến màu đen, mà trong món ăn đã bị người bỏ tì sương. Trúng độc tì sương sẽ phát sinh phản ứng ở bao tử và đường ruột, gây phản ứng ói mửa. Và trong cổ họng, ống tiêu hóa vẫn còn một lượng độc tàn dư chưa ói ra hết, nên ngân châm tham hầu đã biến thành màu đen. 

Như vậy xem ra người phụ trách ẩm thực của Hiền phi hôm ấy là kẻ bị hiềm nghi trọng đại. 

Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi đều biến sắc, tuy đối với kết quả này hay người đều đã dự đoán trước được, đã chuẩn bị về tâm lý, nhưng vẫn cảm thấy cả kinh. 

Dương Thu Trì đưa cây ngân trâm đó cho Tống Vân Nhi. Tống Vân Nhi lấy một cái khăn tay cẩn thận gói lại, cất vào trong người. 

Do không thể giải phẩu, thậm chí không dám cởi bỏ y phục của hiền phi tiến hành kiểm nghiệm toàn thân, công tác của hai người họ chỉ làm được tới vậy. 

Tiếp theo đó, Dương Thu Trì đậy thi thể lại cẩn thận bằng những lớp lụa vừa rồi. Hai người leo xuống thang, Kim thái giám, Lý viên ngoại lang và Vương tri huyện thấy bọn Dương Thu Trì ra cửa, vội vã bước tới. Kim thái giám hỏi: "Dương hầu gia. Thế nào? Phát hiện được gì hay không?" 

Dương Thu Trì thầm tức cười, ngươi là cái thá gì chứ, cho dù phát hiện được gì cũng không thể nào nói cho ngươi được a! Hắn mỉm cười, chuyển thân nói với Lý viên ngoại lang là đã kiểm tra xong, có thể đậy nắp quan tài lại rồi đóng cửa mộ địa trở về. 

Sau khi chứng kiến Lý viên ngoại lang bố trí dân tráng khôi phục lại nguyên trạng lăng mộ của Hiền phi nương nương, bọn Dương Thu Trì lên đường trở về huyện nha. 

Do trời đã tối, bọn họ vào ngụ trong dịch trạm của huyện Dịch. Dương Thu Trì lập tức viết một phong mật thư gửi chỉ huy sứ Kỷ Cương, nói rõ những phát hiện của mình, thỉnh y lập tức tiến hành khống chế đối với những nhân viên phụ trách ẩm thực của Hiền phi nương nương vào ngày đó và thị nữ Liên nhi, chưởng ấn thái giám Kim Lương cùng những người có liên quan khác, chờ hắn về sẽ triển khai bước điều tra mới. Hắn còn đính kèm theo cây trâm nhiễm độc màu đen, phong kín mật thư lại cho Nam Cung Hùng phái hai hộ vệ đưa về bắc Trấn phủ ti trước giao cho Kỷ Cương. 

Sáng hôm sau, Dương Thu Trì cùng mọi người khởi hành trở về. 

Lần này là chuyến viễn hành đầu tiên sau khi Tống Vân Nhi làm tiểu thiếp của Dương Thu Trì, trước kia hai người hi hi ha ha nói cười, hầu hết là thân tình, hiện giờ hai người ôm ấp triền miên, phần lớn là nhu tình. 

Trên đường yên ấm hạnh phúc, mười mấy ngày sau họ trở về kinh thành. 

Vừa tiến vào thành, họ liền cảm thấy một trận mưa máu gió tanh, trên đường lạnh lạnh gai gai, dường như là không thấy người đi đường nào, thỉnh thoảng có người cưỡi ngựa chạy qua, nhưng đều là cẩm y vệ mặc áo phi ngư, eo đeo tú xuân đao. 

Dương Thu Trì rất ngạc nhiên, chẳng lẽ kinh thành đã xảy ra chuyện lớn gì hay sao? 

Vừa trở về Dương phủ, được thông báo, cả nhà Dương phủ đều đến khách sảnh. 

Tần Chỉ Tuệ, Tống Tình và hai mẹ con Bạch Tố Mai đã đến kinh thành. Phùng Tiểu Tuyết an bài cho hai mẹ con Bạch Tố Mai một ngôi nhà vườn sạch sẽ thanh nhã, mời hai mẹ con tạm thời ngụ tại Dương phủ. 

Dương Thu Trì trước hết làm lễ chào Dương mẫu, sau đó trao đổi vài câu với Phùng Tiểu Tuyết, đưa mắt nhìn thấy Bạch Tố Mai đứng cạnh Bạch phu nhân đang vui mừng nhìn hắn, rất cao hứng bước tới mấy bước, trước hết làm lễ chào Bạch phu nhân, sau đó ngồi xuống cầm tay Bạch Tố Mai: "Tố Mai, mọi người đến rồi, dọc đường chắc mệt nhọc lắm!" 

Bạch Tố Mai cười hi hi, lúng liếng mắt nhìn hắn: "Thu Trì ca ca, chàng lại thăng quan rồi, muội và mẹ đều rất cao hứng." 

Dương Thu Trì hơi ngượng: "Hì hì, cái này mà tính làm gì, cứ mong mọi người đến mãi nè, hiện giờ đã lên đến nơi rồi, cả nhà chúng ta đoàn viên, thật là vui!" 

Bạch Tố Mai bị Dương Thu Trì nắm tay, hơi hơi run, đôi mắt như làn thu thủy nhìn hắn, khe khẽ nói: "Thu Trì ca ca, Tố Mai cũng rất cao hứng...." 

Dương Thu Trì ngước mắt nhìn gương mặt thanh tú của nàng, nghĩ tới lần đầu tiên ở liệm phòng, khi hắn dùng hô hấp nhân tạo cứu nàng, hai làn môi áp chặt vào nhau. Kỳ thật, xuyên việt đến Minh triều, ngoại trừ vợ chính là Phùng Tiểu Tuyết ra, người con gái đầu tiên mà hắn hôn chính là Bạch Tố Mai. Tuy đó không phải là chuyện hai bên tình nguyện, nhưng kỹ niệm ngọt ngào đó làm sao Dương Thu Trì có thể quên? 

Dương Thu Trì đưa mắt nhìn Bạch Tố Mai, khẽ bảo: "Tố Mai, ta chờ cưới nàng về nhà để sinh cho ta một cậu bé mập mạp nữa!" 

Bạch Tố Mai buông tay Dương Thu Trì, đỏ mặt khẽ đáp: "Đừng...., coi huynh kìa, huynh mau đi xem Chỉ Tuệ muội muội đi, muội ấy sắp sanh rồi!" 

Dương Thu Trì quay nhìn về phía Tần Chỉ Tuệ, tính ra thì chẳng mấy ngày nữa nàng sẽ sanh rồi, lòng nôn nao, vội nắm tay Bạch Tố Mai bóp chặt một cái rồi bước nhanh đến cạnh Tần Chỉ Tuệ, dịu dàng hỏi: "Chỉ Tuệ, sắp sanh rồi ha? Ta còn sợ nàng không thể lên kinh được nữa chứ." 

Tần Chỉ Tuệ nhìn Dương Thu Trì nhất lộ phong trần, thế mà đối với nàng vẫn dịu dàng âu yếm như vậy, lòng vô cùng vui mừng, đáp: "Hài tử chà chàng về mới hàng sinh đấy!" 

Dương mẫu vui mừng nói: "Lang trung nói rồi, hài tử đã tới thời dưa chín cuống rụng, ngày một ngày hai là sinh thôi!" 

"Hay quá!" Dương Thu Trì vô cùng hưng phấn, "Một trai một gái một cành hoa, thật tốt quá a! Đúng rồi, con trai ta thế nào rồi?" Hắn chuyển thân, chạy đến cạnh Liễu Nhược Băng, thấy con trai đang ngủ khò khò trong lòng nàng, không khỏi rầu rĩ, "Ơ, đứa con trai này của ta sau tối ngày rúc đầu ngủ hoài vậy, rõ ràng là con sâu lười!" 

Liễu Nhược Băng phì cười: "Chàng mới là sâu lười! Không nghe nói ngủ nhiều chóng lớn hay sao? Tiểu hài tử chẳng đứa nào mà không ngủ để lớn mau chứ?" 

"Ơ? Nàng làm sao biết vậy? Nàng không phải là sanh lần đầu tiên hay sao?" Dương Thu Trì cố ý chọc nàng. 

Liễu Nhược Băng cười: "Mẹ bảo vậy!" 

Dương Thu Trì nhìn về phía Dương mẫu, thấy bà tâm sự nặng nề, không biết là đang nghĩ gì, hơi ngạc nhiên, hỏi: "Mẹ, mẹ sao vậy?" 

Dương mẫu giống như vừa ngủ thức dậy vậy: "Con à, con không biết đó thôi, kinh thành... kinh thành này đã lật tung trời lên rồi...!" 

Dương Thu Trì cả kinh: "Mẹ, mẹ đừng gấp, có chuyện gì vậy?" 

Thấy Dương mẫu hơi run run không lên tiếng, Phùng Tiểu Tuyết mới nói thay: "Phu quân, mấy ngày nay trong kinh thành đã giết rất nhiều người. Trong hoàng cung có từng đội từng đội người bị áp giải ra, đều là cung nữ thái giám, bị chém đầu từng người một ở Thập tự nhai. Người trong thành không ái dám ra đường nữa." 

Vân Lộ thấy Dương Thu Trì trở về, cảm thấy rất vui. Nhưng khi nghe nói đến chuyện này, cũng vô cùng khó chịu: "Thu Trì ca ca. Muội tiến vào hoang cung, nghe phụ hoàng nói đã bắt được tên cầm đầu trong việc sát hại hiền phi, do đó mới giết rất nhiều người liên quan như vậy." 

Cái gì? Dương Thu Trì giật mình cả kinh, người sát hại Hiền phi nương nương? Ai? Sao người phụ trách phá giải án này là hắn mà không hề hay biết. Chưa gì hết kinh thành đã đại khai sát giới rồi vậy? Dương Thu Trì hơi trầm ngâm, nói: "Tình huống có điều không ổn, ta cần phải vào hoàng cung một chuyến!" Nói xong hắn đứng dậy, xâm xâm bước ra ngoài. 

Lúc này, hắn chợt nghe một tiếng gọi trong trẻo: "Thu Trì ca ca! Huynh sao không chịu nhìn muội vậy!" 

Không cần nghe tiếng, Dương Thu Trì đã biết đó là Tống Tình. 

Vừa chuyển thân, thấy Tống Tình khoa trương ưỡn bụng, nhìn hắn có vẻ trách móc, Dương Thu Trì cười ha ha: "Búp bê bùn, búp bê bùn nhỏ của nàng còn mấy tháng nữa mới ra mà. Không cần gấp, trở về rồi nói sau a." Nói xong hắn như làn khói rời khỏi phòng. Tống Vân Nhi nhìn Tống Tình cười, sau đó cũng đi ra theo. Chỉ còn lại Tống Tình giậm chân thở phì phì tức tối. 

Dương Thu Trì mang Tống Vân Nhi, Nam Cung Hùng, sáu hộ vệ tiến vào hoàng cung. Sau khi hỏi, biết hoàng thượng Minh Thành Tổ đang ở hậu cung của Hiền phi. 

Hiền phi cung? Hiền phi đã chết rồi, hoàng thượng đến đó làm gì? Dương Thu Trì rất nghi hoặc, cả đoàn người vội vã đến bên ngoài Hiền phi cung, thông báo vào, lát sau có thái giám ra truyền Dương Thu Trì vào tấn kiến. 

Dương Thu Trì cho Tống Vân Nhi, Nam Cung Hùng và sáu hộ vệ chờ ở ngoài, một mình tiến vào trong. 

Vừa tiến vào cửa, hắn đã nghe một tiếng nữ tử gào thảm cùng những tiếng khóc lóc khẩn cầu truyền ra, khiến cho người ta rởn tóc gáy. 

Dương Thu Trì nhìn tứ phía, thanh âm này chấn động trong hiền phi cung, nhất thời không xác định rõ từ đầu truyền ra. 

Hắn đi qua giếng trời, hai bên có hai dãy cẩm y vệ mặc phi ngư phục đứng gác, thấy cẩm y vệ đồng tri Dương Thu Trì tiến vào, đều quỳ gối một chân ra mắt. 

Dương Thu Trì đi thẳng vào chính phòng, thái giám gác cửa cười ha ha bảo Dương Thu Trì dừng bước, nói hoàng thượng đang ở sương phòng ở một góc của Hiền phi cung. Thái giám dẫn Dương Thu Trì đến sương phòng, để hắn chờ một chút, chạy vào trong báo. 

Đến cửa sương phòng, Dương Thu Trì mới tin chắc là tiếng gào khóc khủng khiếp vừa rồi là từ sương phòng này truyền ra. Đồng thời, mũi hắn nghe mùi máu tanh quen thuộc, hơn nữa phi thường nồng nặc. Dương Thu Trì đang nghi hoặc, thái giám vào thông báo đã chạy ra, khom người thưa: "Dương hầu gia, hoàng thượng thỉnh ngài tiến vào trong." 

Dương Thu Trì tiến vào phòng, giật mình kinh sợ. 

Gian sương phòng khá lớn này hiện giờ đã trở thành địa ngục nhân gian, có thể nói tất cả hình cụ trong thẩm tấn thất của cẩm y vệ nha môn đều có mặt ở đây. 

Trong phòng có mấy lò than cháy đỏ hồng, trên đó có cắm mấy cái bàn ủi sắt. Đầu bàn ủi đã được nung đỏ lòm, nhìn mà cảm thấy ớn lạnh. 

Bên cạnh tường có đặt hai cái giá gỗ. Giá thứ nhất có một nữ tử bị trói vào, kéo đầu dài ra, tóc phủ xuống che cả mặt không nhận ra được là ai, quần áo toàn thân đã bị cởi sạch, da thịt chỗ nào cũng có dấu bị bàn ủi nóng áp vào, máu thịt mơ hồ. Trong phòng tán phát mùi thịt cháy và mùi máu tanh hôi khiến hắn muốn nín thở. 

Ở giá gỗ thứ hai cũng có một nữ tử bị trói, cũng bị lột sạch quần áo, hai tên cảm y vệ đang dùng roi da thật dài đánh hết sức vào nữ tử này. Tiếng kêu thảm và khẩn cầu vừa rồi chính là do nữ tử này phát ra. Hai chiếc roi da đã khiến thịt da của nữ tử nát bét, máu thịt mơ hồ, máu thịt bắn tứ tung, trên tường, trên đất đều có những dấu máu lốm đốm. 

Ở giữa phòng chệch về phía sau có một chiếc ghế rồng dài, người đang ngồi chính là Minh Thành Tổ Chu Lệ. Đứng bên cạnh là cẩm y vệ chỉ huy sứ Kỷ Cương và Lý công công. 

Dương Thu Trì quỳ xuống dập đầu: "Vi thần Dương Thu Trì khấu kiến vạn tuế!" 

Gương mặt âm trầm của Minh Thành Tổ hiện chút nét cười, nói: "Dương ái khanh, ngươi không hổ là phá án như thần, vừa không quá một tháng mà đã phá được án của Hiền phi, trẫm rất vừa ý. Ngươi thế Hiền phi báo cừu tuyết hận, thế trẫm hả được cái giận này, thật tốt! Bình thân đi!" 

"Tạ chủ long ân!" Dương Thu Trì khom người thưa, rồi đứng lên lui qua một bên, cúi đầu đứng thẳng, trong lòng hợi ngạc nhiên, vì nghe ý tứ của hoàng thượng, thì dường như nói hắn đã phá được án Hiền phi chết một cách li kỳ. Nhưng rốt cuộc hung thủ là ai, thế mà người đảm nhiệm phá án là hắn đây không hề hay biết, thật không khỏi có điểm kỳ quái. 

Kỷ Cương nhìn ra vẻ nghi hoặc của Dương Thu Trì, cười bảo: "Dương đại nhân, mật tín của ngài truyền đến, hoàng thượng đã căn cứ vào đó tra rõ tình huống, từ thân tổ chức đột thẩm, nhanh chóng tra rõ án tình. Đây đều là kết quả của hoàng thượng anh minh thần vũ, biết rõ thị phi a." 

Đối với phán đoán này, Dương Thu Trì có thể nói là không thể nào chỉ ra nửa phần không phải, cho nên cười ha hả gật đầu lia lịa. 

Minh Thành Tổ đưa tay chỉ vào nữ tử bất động trên giá gỗ đầu tiên, hậm hực nói: "Chủ mưu sát hại ái phi của ta chính là tiện nhân này - mỹ nhân Lữ thị! Bên cạnh đó là một trong số thị nữ của nó, trẫm muốn đánh chết từng đứa từng đứa một!" 

Mỹ nhân chính là một loại nội mệnh phụ của hoàng thượng. Trong thời kỳ của Minh Thành Tổ, vợ của hoàng thượng là hoàng hậu, nhưng phi tần khác của hoàng thượng đều là thiếp thật. Địa vị tối cao là quý phi, tiếp đó lấy những chữ hiền, thục, trang, kính, huệ, thuận, khang, Trữ làm thứ tự. Và từ đó thiết đặt ra những hiền phi, thục phi, trang phi, kính phi, huệ phi, thuận phi, khang phi, trữ phi. Những người này đều có liên quan đến xưng hiệu là "Phi", là vợ lẽ chính thức của hoàng thượng, được khép vào hàng chính nhất phẩm. 

Những thiếp thất khác được gọi là "Cung tần", danh xưng bất đồng, chia ra làm chiêu nghi, tiệp dư, mỹ nhân, số lượng và định chế không đồng đều, phẩm trật chia ra làm chính nhị, tam, tứ phẩm. 

Mỹ nhân có định chế chín người. Lữ mỹ nhân này chính là một trong chín vị "mỹ nhân" trong cung tần của hoàng thượng, họ Lữ, là nữ tử do Triều Tiên tiến cống. 

Dương Thu Trì nghe nói đến Lữ mỹ nhân, lòng liền rúng động, nghĩ đến vị nữ tử Triều tiên có đôi mắt biết nói ngồi ở hàng cuối trong bàn cũng được gọi là Lữ mỹ nhân, chẳng lẽ là nàng ta? 

Minh Thành Tổ hiện vẻ đắc ý, trước mặt Dương Thu Trì hào xưng là phá án như thần này, ông ta tự phá án mưu sát ái phi của mình, quả thật là tự cảm thấy thập phần hả giận, không khỏi có chút dương dương tự đắc. 

Minh Thành Tổ nói tiếp: "Mật tín của ngươi nói đến chuyện ngân trâm tham hầu, phát hiện Hiền phi là bị hạ tì sương mà chết, trẫm lập tức cho Kỷ Cương mang theo cẩm y vệ tiến hành thảm tra đột ngột đối với những cung nữ và ngự trù phụ trách ẩm thực theo hầu lúc đó, nhưng lời khai của chúng bất nhất, không thu được yếu lĩnh. Trong lúc vô kế khả thi, có người nhắc ta là thiếp thân thị nữ Liên nhi phục thị Hiền phi đã từng là thị nữ của tiện nhân Lữ Viên Thiện, không biết có vấn đề gì hay không." 

Dương Thu Trì nghe đến đây, hơi thở phào nhẹ nhõm. Nếu như vậy, thì nữ tử trên giá gỗ có tóc che kín mặt này là mỹ nhân Lữ Viên Thiện, chứ không phải là Lữ mỹ nhân có cặp mắt biết nói mà hắn đã gặp trong lúc hưởng tiết Nguyên tiêu. 

Minh Thành Tổ nói tiếp: "Trẫm chỉ phái Kỷ Cương tiến hành thẩm tấn đối với thị nữ Liên nhi, quả nhiên, thị nữ này nhanh chóng khai nhận, chính là chủ cũ Lữ Viên Thiện của nó chỉ sử nó hạ độc!" 

Nói đến đây, Minh Thành Tổ nhìn trừng trừng một cách độc ác mỹ nhân Lữ Viên Thiện trên giá gỗ, đứng phắt dậy, bước đến giữa phòng, lấy cái bàn ủi đã nung nóng đỏ lên, bước tới áp mạnh vào gò ngực đã cháy khét máu me ghê rợn của của nữ tử đó. 

Nữ tử ấy động đậy một chút, miệng phát ra tiếng rên rĩ thống khổ, sau đó bất động. Xem ra, thân thể của nàng ta đã bị bàn ủi nung vô số lần, cảm giác đã gần như tê liệt rồi. 

Kỷ Cương ở một bên nói: "Hoàng thượng, dùng nước lạnh đổ một chút, chờ ả tỉnh dậy rồi hãy đốt tiếp, như vậy mới khiến tiện nhân này thụ thống khổ hơn." 

Dương Thu Trì nghe thé, không khỏi rùng mình. Tên Kỷ Cương này không khỏi thái quá ngoan độc rồi. Giết người bất quá rơi đầu là cùng, cho dù là Lữ mỹ nhân này giết chết Hiền phi, nhưng là kẻ đã từng đầu ấp tay gối với hoàng thượng, loại hình phạt dày vò cho chết từ từ này không khỏi là quá tàn nhẫn, không hợp chút nào với hành vi của bậc thượng phu quân tử hay sao? 

Kỷ Cương thật ra nghĩ không giống như cách nghĩ của Dương Thu Trì, đó không phải là vấn đề xứng hay không xứng với hành động của bậc trượng phu, mà làm sao cho hoàng thượng Minh Thành Tổ dày vò thê thảm hơn nữ tử đã giết ái phi của mình, để hoàng thượng giải tỏa nổi căm hận trong lòng!

Minh Thành Tổ gật gật đầu, trở về chỗ ngồi. Kỷ Cương múc một bồn nước lạnh từ ngoài vào, trên mặt nước còn nổi lềnh bềnh mấy đốm băng, tạt mạnh vào đầu Lữ Viên Thiện đang bị tóc che kín. 

Toàn thân Lữ Viên Thiện co giật rùn mình, phát xuất mấy tiếng rên rĩ thống khổ, từ từ ngẩn đầu, hai mắt vô thần nhìn bọn họ. 

Minh Thành Tổ cười lạnh nói tiếp: "Trẫm được báo cáo của Kỷ ái khanh, mới đầu còn bán tín bán nghi, sau đó trẫm tự thân tra hỏi thị nữ Liên nhi, quả nhiên như thế. Trẫm đem tiện nhân Lữ thị này tra khảo, dùng nghiêm hình đánh đập, ả vẫn không chịu thừa nhận. Sau khi Kỷ ái khanh đã hạ nữ hình tấn với ả, cuối cùng cũng khai ra. Như vậy mới biết tiện nhân này đã sớm có toan tính hạ thủ đối với Hiền phi!" 

Minh Thành Tổ hận cùng cực nên nói rất gấp, hơi thở hỗn hễn, bảo Kỷ Cương: "Ngươi nói tiếp cho Dương ái khanh nghe về án này." Ông ta nghĩ tới cái chết thảm của ái phi, vô cùng tức giận, cần cái bàn ủi khác đã nung đỏ, không ngừng áp vào người Lữ Viên Thiện mà đốt. Lữ Viên Thiện bị nước lạnh tạt cho tỉnh, cảm giác khôi phục không ít, bị đốt liên hét những tiếng dài thảm thiết, thê lương vô cùng. Một lúc sau, nàng ta lại hôn mê đi, Minh Thành Tổ vẫn không hả được giận, không ngừng dùng bàn ủi đốt tiếp. 

Kỷ Cương coi như không có chuyện gì, cười nói: "Dương huynh đệ, hoàng thượng tự thân tiến hành thẩm tấn đối với thị tì và nội thị (thái giám) bên cạnh Lữ Viên Thiện, tra rõ Lữ Viên Thiện đã từng mục vô tôn thượng (không kính người trên), chế giễu Hiền phi nương nương. Lúc xưa khi Từ hoàng hậu khứ thế, hoàng thượng cho Hiền phi nương nương chưởng quản nội cung, Lữ Viên Thiện này không ngờ mở miệng nói lời đại nghịch bất đạo, chế giễu luôn cả Từ hoàng hậu và Hiền phi nương nương là 'Hoàng hậu có con cái cũng đã chết rồi. Ngươi mà quản được mấy tháng?' Vô lễ như vậy, Dương huynh đệ, ngươi nghĩ coi, Lữ thị này có còn phải là con người không?" 

Loại tranh đấu trong cung như thế này Dương Thu Trì đương nhiên không thể lý giải, nhưng mà lời vừa rồi của Lữ Viên Thiện dường như là quá ngông nghênh, khiến cho hắn không dám tin đó là lời nói thật. 

Kỷ Cương phảng phất nhìn ra vẻ nghi hoặc của Dương Thu Trì, nói: "Câu nói này bọn thị tì và nội thị của Lữ Viên Thiện đều nghe thấy, thị tì của Hiền phi nương nương cũng nghe. Chứng cứ chính xác không còn nghi ngờ gì. Nhưng mà, chỉ bằng mấy câu nói đó, hoàng thượng niệm tình ả là dân xứ lạ, lại không phải đâu xa, mà là từ Triều Tiên đến triều cống cho hoàng thượng, nên cũng không tính toán gì. Không ngờ khi tiến hành thẩm tấn, mới tra rõ Lữ Viên Thiện này vì tranh sủng đã tâm như xà hạt (rắn và bò cạp, ý chỉ độc ác), hạ độc thủ đối với Hiền phi nương nương." 

Kỷ Cương miết mắt nhìn Lữ Viên Thiện đã bị Minh Thành Tổ đốt ngất đi trên giá gỗ, nói tiếp: "Lữ thị này cấu kết với tư lễ giám chưởng ấn thái giám Kim Lương tùy hành, từ ở một thợ bạc tên là Hứa Tứ ở Lâm thành mua được tì sương, nghiền thành phấn, hạ vào chén bột Hiền phi nương nương ăn trước khi đi ngủ. Hoàng thượng nhân vì phê duyệt tấu chương khẩn cấp đã rời khỏi tẩm cung, nương nương ăn bột có độc đã tình kêu cứu, nhưng thị nữ Liên nhi này đóng chặt cửa, không cho tiếng kêu cứu của nương nương truyền ra ngoài, dẫn đến cái chết thảm của nương nương." 

Dương Thu Trì lạnh người. Hắn đã từng hỏi qua thị nữ Liên nhi này, nếu như có âm mưu như vậy, sao hắn không phát hiện được một chút gì? Nếu như đã tra thành như vậy, xem ra tai kiếp của Lữ Viên Thiện này là khó tránh khỏi rồi. 

Đến lúc này, Minh Thành Tổ đã quẳng bàn ủi, trở về ngồi trên long án. Mấy cẩm y vệ chạy ra xách nước băng vào, lại bắt đầu đổ vào đầu Lữ Viên Thiện. Thị nữ bị trói trên giá gỗ thứ hai đã ngất đi, hai cẩm y vệ thi hành cũng dùng nước băng tạt của ả tỉnh, tiếp tục dùng roi đánh. 

Kỷ Cương nói: "Loại phụ nhân như rắn rết này nếu như dễ dàng dung túng, sao lại đối phải với Hiền phi nương nương đã chết thảm. Do đó, hoàng thượng trong cơn thịnh nộ đã thi hình với Lữ Viên Thiện này, còn viết thư cho Triều Tiên đem cả nhà Lữ Viên Thiện giết sạch. Thị nữ Liên nhi, chưởng ấn thái giám Kim Lượng, tùy đường thái giám Kim Đắc, thợ bạc Hứa Tứ tội ác cực lớn, đã bị hoàng thượng hạ chỉ lăng trì xử tử. Những thị nữ của Lữ Viên Thiện biết chuyện mà không báo, khiến cho Hiền phi bị hại, và còn Cao thái y và Ngải thái y lại không tra ra nguyên nhân cái chết của nương nương là do mưu sát, lại còn có ngự trù tùy quân đều có tội không thể tha, chém đầu tất cả." 

Dương Thu Trì bấy giờ đã minh bạch, Kỷ Cương nói ra có vẻ rất nhẹ nhàng, kỳ thật khi đến bên ngoại, và cũng là khi hắn trở về nhìn thấy trận mưa máu gió tanh, thì đó là mấy trăm cung nữ và thái giám bị liên lụy xử tử, ngay cả gia đình của Lữ Viên Thiện ở Triều Tiên cũng bất hạnh không tránh khỏi. Nhưng tất cả chuyện này, đối với Minh Thành Tổ và Kỷ Cương, thì chẳng qua là một chuyện nhỏ như cái lá mà thôi. 

Từ cách nói của Kỷ Cương, án này có rất nhiều chỗ hở, tuy khẩu cung đều nhất trí, nhưng dùng nghiêm hình tra khảo và bức cung của cẩm y vệ, thì khẩu cung gì cũng có thể bức khai ra được. Hơn nữa, cho dù Lữ Viên Thiện muốn hạ độc thủ hại chết Hiền phi, loại đại sư cơ mật này làm sao có thể khiến cho thị nữ và thái giám dưới quyền hay biết được chứ? Hiện giờ bọn chúng dị khẩu đồng thanh đều khai y như vậy, rõ ràng là Kỷ Cương vì muốn lập công, đã dùng hình tấn làm cơ sở, tiến hành dụ cung. Nhưng mà, chuyện này chỉ nằm ở trong ý nghĩ của hắn, Kỷ Cương hiện giờ là hồng diện nhân (kẻ thân tín tin dùng) của Minh Thành Tổ, hắn không thể chọc vào. 

Lúc này, một cẩm y vệ bước tới quỳ thưa: "Khởi bẩm hoàng thượng, Lữ thị dường như.... dường như đã chết rồi...." 

Minh Thành Tổ và Kỷ Cương không hề có chút ngạc nhiên nào. Minh Thành Tổ bảo Dương Thu Trì: "Dương ái khanh, ngươi đến kiểm tra một chút xem tiện nhân đó chết thật hay chết giả." 

Dương Thu Trì dạ một tiếng, bước lại trước giá gỗ, vén tóc dài của Lữ Viên Thiện lên, nhướn mắt nhìn, quả nhiên không phải là Lữ mỹ nhân gặp trong tiết Nguyên tiêu. Hắn đưa hai ngón tay áp vào động mạch cảnh ở cổ, cảm giác không còn mạch đập, vén mi mắt lên, thấy đồng tử đã tản ra, dùng miếng vải đốt lửa ở lò đưa lại phất qua lại trước mắt Lữ Viện Thiện, thấy đồng tử và tròng mắt không có bất kỳ phản ứng gì đối với ánh sáng. 

Dương Thu Trì lắc đầu: "Ả đã chết rồi." Rất rõ ràng, Lữ Viên Thiện này nhân vì chịu sự đau đớn kịch liệt trong một thời gian dài, dẫn đến trung khu thần kinh cho sự phản xạ bị chướng ngãi, bị xốc nguyên phát gây tử vong. Đương nhiên, hơn mười ngày bị đốt bị đánh, có thể dẫn tới hồng huyết cầu trong người nàng ta bị phá hỏng thải ra một lượng lớn kali, dẫnd đến chứng cao huyết áp làm cho tim đột ngột ngừng đập. Chỉ có điều, nguyên nhân tử vong của nàng ta bây giờ không còn trọng yếu nữa. 

Minh Thành Tổ hừ lạnh một tiếng: "Tiện nghi cho con tiện nhân này!" 

Kỷ Cương cũng vậy: "Đúng vậy, thứ xà hạt nữ nhân này, chịu đốt suốt mười ngày mới chết, cái mạng cũng lớn thật!" 

Sau khi Lữ Viên Thiện chết rồi, sự dày vò đối với thị tì của nàng ta cũng không còn ý nghĩa gì, Minh Thành Tổ sai đem thị tì đang bị đánh đó ra ngoài chém đầu. 

Dương Thu Trì hơi cảm thấy u uất, án mạng này không ngờ lại kết thúc như vậy, khiến hắn thập phần bất ngờ. Hắn viết thư chỉ mong Kỷ Cương tiến hành giám khống đối với những người này, chờ hắn trở về rồi sẽ tiến một bước nữa điều tra. Thật không ngờ, Kỷ Cương lại sử dụng hình tấn bức cung với những người này, tra ra chân tướng có cả trăm chỗ hở, những kẻ đáng giết hay không đáng giết thì đều bị giết sạch hết rồi, còn có thể điều tra cái gì nữa. 

Minh Thành Tổ ngược lại rất vừa ý, cảm giác cuối cùng rồi ông ta cũng báo được thù cho ái phi. Ông ta bảo Dương Thu Trì: "Dương ái khanh, nếu như không có ngươi phát hiện hiền phi bị trúng độc tì sương, án này không thể phá được, thù của Hiền phi không thể báo. Ngươi thật giỏi, thật có tài, trẫm muốn phong thưởng trọng hậu cho ngươi, nói đi, ngươi muốn cái gì?" 

Dương Thu Trì vội nói: "Hoàng thượng, đây đều là phận sự mà vi thần phải làm, không dám tiếp thụ phong thưởng..." Hơi do dự, hắn quyết định đem sự lo lắng trong lòng nói ra, để khỏi sau này có vấn đề gì nãy sinh sẽ lại bị trách biết mà không tâu trước, ắt bị khép tội khi quân. Cho nên hắn rụt rè nói: "Hoàng thượng, án này vi thần cảm thấy còn một vấn đề còn chưa tra rõ." 

Minh Thành Tổ hơi ngẩn người; "Còn chưa tra rõ? Được, ngươi nói coi, còn có vấn đề gì chưa tra ra?" 

Nếu như đã lên tiếng, lời này phải nói cho đáo để, Dương Thu Trì làm gan nói tiếp: "Vi thần cũng không dám xác định Hiền phi chết là do trúng độc tì sương..." 

Minh Thành Tổ hỏi: "Ngươi không phải dùng ngân châm tham hầu, phát hiện ngân châm biến thành màu đen hay sao?" 

"Đích xác là vậy..." 

"Như vậy thì đúng rồi, đấy không phải là trúng độc tì sương thì là cái gì?" Minh Thành Tổ nói. 

Dương Thu Trì không dám dạy cho hoàng thượng một khóa pháp y, giải thích ngân trâm biến thành màu đen còn có khả năng khác, càng không dám nói cần phải tiến hành giải phẩu thi thể đối với hiền phi. Ngẫm nghĩ một chút, hắn đáp: "Hoàng thượng, ngân trâm này chỉ thăm dò đến cổ họng của nương nương, không có cách gì đạt đến dạ dày. Cho dù trong nội thể nương nương có độc, trước mắt chỉ có thể nói cổ họng có độc, chứ không thể đoán là trong nội thể của nương nương trúng độc tì sương. Hay nói cách khác, chỉ có thể nói ở cổ họng nương nương có khả năng tồn tại tì sương, nhưng không thể từ đó khẳng định nương nương bị trúng tì sương mà chết." 

Lời này từ góc độ pháp y mà nói thì rất nghiêm túc và cẩn thận, nhưng đến tai Minh Thành Tổ thì giống như đi giữa mây mù, phảng phất như khẩu lệnh dùng trong quân. Ông ta nhíu mày, hỏi: "Dương ái khanh, ngươi nói đơn giản một chút đi." 

"Giản đơn một chút?" Dương Thu Trì cảm thấy hắn đã nói quá giản đơn rồi, giản đơn hơn thì không thể nào nói rõ ra được, đầu óc xoay chuyển, nghĩ ra cách khác: "Ý tứ của vi thần chính là, trong cổ họng của nương nương có chất tì sương, nhưng không nhất định là do ăn chén bột có độc, dẫn đến ói mửa rồi còn dư lại vật ói chưa hết, mà còn có khả năng khác, ví dụ như... ví như...." Dương Thu Trì nhớ tới tình tiết trong phim Cửu Phẩm Chi Ma Quan (Quan tép riu cửu phẩm) do Châu Tinh Trì đóng, liền tự tin cho ví dụ: "Ví dụ sau khi Hiền phi chết rồi bị người đổ thuốc độc vào." 

Cái gì? Minh Thành Tổ và Kỷ Cương đều cả kinh. Minh Thành Tổ hỏi: "Dương ái khanh, ngươi nói lời này có chứng cứ gì?" 

Dương Thu Trì vội vã khom người: "Không có, đó chỉ là suy đoán của vi thần, cho nên, vi thần vốn định thỉnh Kỷ đại nhân trước hết giám khống thị nữ Liên nhi và đầu bếp theo quân cũng những người có liên quan, chờ vi thần trở về...." 

Chỉ huy sứ Kỷ Cương ở bên cạnh không nóng không lạnh nói chen một câu: "Nói như vậy Dương đại nhân hiềm hoàng thượng và Kỷ Cương ta đa sự rồi?" 

Dương Thu Trì cả kinh, vội vã vén y bào quỳ xuống trước mặt Minh Thành Tổ: "Vi thần tuyệt không dám có ý nghĩ đại nghịch bất đạo như vậy, vi thần chỉ mong triệt để tra rõ án này mà thôi..." 

Ngữ khí của Minh Thành Tổ có phần không vui: "Thôi được, án này đã tra rõ ràng rồi, Dương ái khanh lao khổ công cao, trở về nghỉ ngơi trước đi." 

Dương Thu Trì không dám nói nữa, đáp ứng dập đầu xong rồi đứng dậy, khom người lùi ra tới cửa rồi mới chuyển thân bước ra khỏi phòng. 

Trong phòng các bồn lửa đốt nóng hừng hực, nhưng đến bây giờ Dương Thu Trì mới phát hiện trán và đầu của hắn đã đầy mồ hôi lạnh, lòng nghĩ coi như xong rồi, nếu như án này hoàng thượng đích thân thẩm tra, nếu mà hắn tự lật lại tra tiếp, thì có nghĩa là uốn nắn hoàng thượng xử án sai, sự tình vừa phí lực vừa không hài lòng ai như vậy hắn không làm hay hơn, cho nên quyết định cho qua. 

Dương Thu Trì ủ rũ ra khỏi Hiền phi cung, Tống Vân Nhi bước tới đón, hỏi: "Ca, thế nào rồi?" 

Dương Thu Trì lắc đầu thở dài: "Đi, về nhà thôi."

Rời khỏi hoàng cung trở về Dương phủ, Phùng Tiểu Tuyết và mọi người hỏi chuyện liên quan, Dương Thu Trì không muốn nói rõ, chỉ bảo một câu là án đã phá rồi. 

Hồng Lăng thấy Dương Thu Trì tâm tình không tốt, bỏ hết lòng làm một bàn thức ăn thật ngon, đều là những món Dương Thu Trì thích ăn. Phùng Tiểu Tuyết, Liễu Nhược Băng cùng chúng thê thiếp bồi hắn uống rượu, tâm tình Dương Thu Trì mới từ từ tốt trở lại. 

Sau đó mấy ngày, Dương Thu Trì chủ yếu đến nha môn của Ứng Thiên Phủ làm việc. Hắn tuy là đồng tri của cẩm y vệ bắc trấn phủ ti, nhưng đây chủ yếu là vì hắn phụng chỉ tra án dùng cho dễ, do đó thỉnh thoảng mới đi qua một hai lần, làm những chuyện do Kỷ Cương giao, còn công việc chính vẫn là ở Ứng thiên phủ. 

Ngày ấy, Dương Thu Trì từ Ứng Thiên Phủ trở về, ngồi quan kiệu đến cửa lớn của Dương phủ. Vừa xuống kiệu vào trong, hắn đã nhìn thấy trong vườn có những người lạ, ngoài ra còn có một kiệu hoa xinh đẹp, không giống như của nhà. Hắn hơi ngạc nhiên, hỏi cẩm y vệ hộ vệ gác cổng: "Trong nhà của khách hay sao?" 

Tên hộ vệ đó cười cầu tài hồi đáp: "Đúng ạ, hầu gia, Hàm Ninh công chúa đến rồi." 

Hàm Ninh công chúa? Dương Thu Trì nhớ lại, lần trước ở ngự hoa viên hưởng tiết Nguyên Tiêu với hoàng thượng, Minh Thành Tổ đã từng đề cập qua, rằng ông ta có một người con gái là Hàm Ninh công chúa còn chưa có hôn phối, và hắn chưa hề gặp bao giờ. 

Dương Thu Trì đi thẳng vào phòng khách, còn chưa đến cửa thì đã nghe từ trong đó từng đợt cười truyền ra, nghe thanh âm dường như là Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết và Vân Lộ, ngoài ra còn có một nữ tử nữa, thanh âm trong trẻo dễ nghe, dường như là tiếng của con chim sơn ca hót vậy. 

Dương Thu Trì chậm rãi tiến vào phòng khách, lên tiếng gọi "Mẹ!" rồi ngước mắt nhìn, quả nhiên ngồi bên cạnh Dương mẫu có một thiếu nữ khoảng đôi tám, người mặc áo bào trắng viền hoa, cổ đeo chuỗi ngọc lấp lánh, váy dài màu xanh, mặt hoa da phấn, eo thon vai tròn. Cô nàng thấy Dương Thu Trì tiến vào, gương mặt xinh hơi ửng hồng. 

Dương mẫu cao hứng gọi Dương Thu Trì đến, bảo: "Vị này là Hàm Ninh công chúa, còn không mau đến làm lễ ra mắt." 

Dương Thu Trì vội vã bước tới, vái dài một lễ: "Hạ quan Dương Thu Trì bái kiến Hàm Ninh công chúa." 

Hàm Ninh công chúa cười hi hi, cũng đứng dậy hoàn lễ. Tiếp theo đó cùng Vân Lộ hòa giọng mà cười. Xem ra, Hàm Ninh công chúa và Vân Lộ có mối quan hệ rất tốt. 

Thì ra, lần trước ở ngự hoa viên Dương mẫu đề thân đụng phải cây đinh mềm, Vân Lộ sau đó nghĩ đến chiêu khúc tuyến cứu quốc, vận động hành lang xem ra có hiệu quả, nên kéo Dương mẫu đi liên hệ các nơi. Hai người đi lấy lòng Vương quy phi và các tần phi khác, ngoài ra còn liên lạc cảm tình cả gia quyến và công chúa con vua. Thứ Dương gia của bà có chính là tiền, nên đi đến đâu cũng tống lễ, cho nên quan hệ nhanh chóng diễn biến theo chiều hướng tốt đẹp. 

Dương Thu Trì nói: "Mọi người nói chuyện, ta đến thư phòng đây." 

"Ê! Chờ chờ một chút." Hàm Ninh công chúa bảo, "Sao vậy, ta đến nhà các ngươi ngồi một chút, ngươi là chủ nhân mà không chịu tiếp, thật là không phải mà!" 

Hàm Ninh công chúa này vừa nhìn là biết quen sống trong nhung lụa cưng chiều, lời nói thẳng thừng chẳng hề quanh co giấu diếm gì cả. 

Dương Thu Trì hơi bối rối, chỉ còn biết ngồi bên cạnh Phùng Tiểu Tuyết mà tiếp. 

Hàm Ninh công chúa giương con mắt to nhìn lên nhìn xuống Dương Thu Trình, giương gương mặt xinh bảo: "Ê! Nghe Vân Lộ tỷ tỷ nói, ngươi phá án rất lợi hại, có phải là thật không đó?" 

Dương Thu Trì nhìn Vân Lộ: "Đừng nghe cô ấy, ta chẳng qua là mèo mù vớ phải chuột chết vậy thôi." 

"Phải không vậy?" Hàm Ninh công chúa cười hi hi nói, "Cái gì thì ta không rõ, chứ hai ngày nay ta nghe phụ hoàng cứ khen ngươi, nói là nhờ có ngươi mới phá được án Hiền phi nương nương bị hại chết, thế Hiền phi nương nương báo cừu." Chuyển đầu sang Vân Lộ, nàng hỏi gặn: "Phải không tỷ tỷ?" 

Vân Lộ gật gật đầu, đôi mắt phượng long lanh nhìn Dương Thu Trì. Cô nàng này rõ ràng là tỏ ý không đạt mục đích thề không ngưng, khiến cho Dương Thu Trì quả là đau đầu, hắn quyết định chạy trốn cho xong. 

Nghĩ đến đây, Dương Thu Trì đứng dậy, vái một lễ thật dài: "Hai vị công chúa, hạ quan còn có công vụ khẩn cấp cần phải xử lý, không thể bồi tiếp được nữa." Nói xong không để ý đến Hàm Ninh công chúa cứ réo gọi, như một làn khói rời khỏi phòng khách. 

Thư phòng tạm thời không thể đến, nói không chừng Hàm Ninh công chúa lại đòi Vân Lộ dẫn đến tìm. Ngẫm nghĩ một chút, hắn quyết định đến phòng của Liễu Nhược Băng để chơi với con trai. 

Dương Thu Trì đến khu nhà vườn của Liễu Nhược Băng. Sương nhi, Tuyết nhi thấy hắn đến, vội mời vào trong. Tuyết nhi cũng chạy nhanh vào phòng bẩm báo. 

Dương Thu Trì tiến vào phòng, thấy Liễu Nhược Băng đang ngồi cho con bú bên cửa sổ. Thấy Dương Thu Trì, nàng mỉm cười: "Chàng đến rồi, mau vào trong ngồi." 

Dương Thu Trì nhấc một cái ghế đến ngồi cạnh Liễu Nhược Băng. Sau khi bọn họ đến kinh thành, Dương Thu Trì lại đi Sơn Đông tra án, sau khi trở về vừa khéo đến lượt của Phùng Tiểu Tuyết, cho nên đã nhiều ngày không đồng phòng với Liễu Nhược Băng rồi. 

Lúc này hắn nhìn thấy gò ngực căng tròn trắng mịn mê ngừơi lộ ra ngoài của Liễu Nhược Băng khi cho con bú, không khỏi suy nghĩ vẩn vơ, cố ý nuốt nước bọt đánh ực một cái thật lớn. 

Liễu Nhược Băng phì cười, thương yêu liếc mắt nhìn hắn, đưa bờ môi hồng qua hôn lên mô hắn, dịu giọng hỏi: "Thế nào hả?" 

Dương Thu Trì vuốt ve gương mặt của nàng, nhìn vào đôi mắt phượng của nàng, bị gò ngực xinh của Liễu Nhược Băng đốt bừng lửa dục, không khỏi nhiệt huyết phi đằng: "Ta.... ta muốn yêu nàng!"

"A! Hiện giờ là ban ngày ban mặt mà!" Liễu Nhược Băng trách móc. Án chiếu theo luật năm ngày một vòng, đêm nay là đến lượt nàng, Liễu Nhược Băng ngẫm nghĩ, dịu giọng nói: "Chúng ta đợi đến đêm rồi hẳn.... được không?" 

"Không, ta muốn ngay bây giờ cơ!" Dương Thu Trì giở trò vòi vĩnh, "Đưa con cho bọn Sương nhi, chúng ta đã lâu không yêu nhau vào ban ngày rồi, hay là hôm nay làm một lần đi!" 

Gương mặt mỹ lệ của Liễu Nhược Băng ửng hai đóa hồng, tuy đã gả về cho Dương Thu Trì, nhưng ban ngày mà làm chuyện đó không khỏi có hơi thẹn thùng. Nàng khẽ bảo: "Không được đâu, để người ta biết được...." 

"Ai mà biết chứ!" Dương Thu Trì đang bị lửa dục đốt cháy, ôm Liễu Nhược Băng hôn thật sâu, sau đó giành ẵm con, chuyển thân định gọi Sương nhi vào tiếp, chợt nghe tiếng gọi của Tống Vân Nhi ở ngoài vườn: "Ca....! Ca....!" 

Không xong rồi! Lại là cái đuôi nhỏ đó nữa, cái mộng giữa ban ngày này xem ra là làm không được rồi! 

Dương Thu Trì rầu rầu lên tiếng: "Ở đây nè!" 

Liễu Nhược Băng cười nắc nẻ, cũng nhìn ra được vẻ mất hứng của Dương Thu Trì, ôm hắn nhanh chóng đặt một nụ hôn lên môi: "Tối nay Băng nhi sẽ cho chàng a." 

Dương Thu Trì đành bất lực gật đầu. 

Lúc này, Tống Vân Nhi đã như con chím én nhỏ bay vào trong phòng, gọi: "Muội biết là huynh ở đây mà, mau đi đi! Hoàng thượng tới rồi!" 

A? Dương Thu Trì giật nãy mình, hoàng thượng đến rồi? Hoàng thượng sao lại đột nhiên giá lâm vậy? Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng đưa mắt nhìn nhau. 

Dương Thu Trì bảo: "Băng nhi, ta đi nghênh tiếp thánh giá...." 

"Không phải đâu!" Tống Vân Nhi ngắt lời hắn, "Tỷ của muội cũng phải đi bái kiến hoàng thượng." 

"Vì sao?" Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng cùng hỏi. 

"Hoàng thượng nói muốn gặp hết mọi người trong nhà ta, còn mang rất nhiều lễ vật để khao thưởng, lúc này đang ở phòng khách." 

Ba người vội vàng đến phòng khách. Ngoài phòng khách đầy đại nội thị vệ. Trong phòng khách bày mấy chục đống lễ vật, đều được bọc bằng lụa hồng. 

Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết, Tần Chỉ Tuệ, Tống Tình đều đã có mặt, sau khi quỳ nghênh đón hoàng thượng cho bình thân, đều đứng nghiêm ở hai bên. 

Ba người Dương Thu Trì tiến vào, quỳ xuống làm lễ. Minh Thành Tổ đang ngồi ở giữa, hai bên có Lý công công và chỉ huy sứ Kỷ Cương. 

Minh Thành Tổ xem có vẻ tâm tình rất tốt, cười ha ha bảo: "Dương ái khanh, bình thân đi." 

Dương Thu Trì cùng mọi người đứng dậy, bước sang một bên đứng hầu. 

Minh Thành Tổ bảo: "Trẫm lần này đặc ý đến khao thưởng ngươi, ngươi lần trước giúp trẫm phá án Hiền phi bị hại, trẫm còn chưa khao thưởng ngươi, thuận tiện cũng đến nhìn xem hầu tước phủ của ngươi thế nào, xem coi Công bộ của chúng ta trang trí hầu tước phủ của ngươi ra sao. Xem hình dạng thì không tệ a, chỉ có điều cái biển ngoài cửa sao lại còn là bá tước phủ chứ." Ông ta quay lại bảo Lý công công: "Lão lý đầu, trở về làm việc với Công bộ, bảo chúng nhanh chóng thay biển đi." 

Lý công công khom người đáp ứng. 

Minh Thành Tổ quét mắt nhìn: "Dương ái khanh, người nhàcủa ngươi đã tề tựu về đây hết chưa?" 

Dương Thu Trì đưa mắt nhìn một vòng, mẹ con Bạch Tố Mai và Hồng Lăng không ở trong phòng khách. Nhân vì Bạch Tố Mai chưa quá môn, nên vẫn chưa thể coi nàng là người nhà. Hồng Lăng hiện giờ vẫn còn là thân phận nha hoàn, cũng không thể tính, liền khom người thưa: "Hồi bẩm hoàng thượng, đều đã đến đủ." 

Minh Thành Tổ nhìn Kỷ Cương, Kỷ Cương hơi gật đầu, cười hì hì nói: "Dương huynh đệ, hoàng thượng lần này đích thân khao thưởng, điều này coi như là vinh dự mà thần tử chúng ta chưa từng có nghe. Như vầy đi, ngươi cho gọi hết nha hoàn người hầu trong phủ đến, cùng tiếp thụ khao thưởng của hoàng thượng." 

Dương Thu Trì không biết y đang làm trò quỷ gì, vội đáp ứng, chạy ra cửa dặn người nhanh chóng đi gọi hết nha hoàn người hầu trên dưới đều đến, quỳ ở ngoài vườn chờ. 

Sau khi mọi người đã đến đủ, Minh Thành Tổ đứng dậy, từ từ bước ra cửa, đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy trong vườn đầy người đang quỳ. 

Minh Thành Tổ đưa mắt quét nhìn từ từ, đột nhiên dừng lại trên người Hồng Lăng, tức thì hai mắt phóng quang, chuyển đầu nhìn Kỷ Cương ở bên cạnh, hai người cùng cười. 

Minh Thành Tổ chỉ Hồng Lăng hỏi Dương Thu Trì: "Dương ái khanh, vị nha đầu này là ai a?" 

Dương Thu Trì chợt nhói đầu ù tai, thầm kêu không ổn, tức thời hiểu rõ dụng ý Minh Thành Tổ đích thân đến đây khao thưởng, thì ra là ý của Túy ông không phải ở rượu a! Hắn cứ thầm mắng mình đáng chết, sao không sớm biết đề phòng điểm này chứ? 

Dương Thu Trì vội thưa: "Hồi bẩm hoàng thượng, đây là thiếp thất của vi thần, tên là Hồng Lăng." 

"Thật vậy sao?" Minh Thành Tổ lừ mắt nhìn Dương Thu Trì đăm đăm. 

Nghe lời của hoàng thượng như vậy, Dương Thu Trì lập tức minh bạch, tên Kỷ Cương này khẳng định là đem tình hình của Hồng Lăng điều tra rõ ràng mọi thứ rồi báo cáo lên hoàng thượng, muốn giấu trời vượt biết nhất định không xong, nói không chừng còn bị khép vào tội khi quân nữa. 

Nếu như hoàng thượng và Kỷ Cương đã hiểu rõ tình huống của Hồng Lăng, hơn nữa là có chuẩn bị mà đến, còn hắn cho dù sớm đem Hồng Lăng giấu đi, cũng không thể nào trốn được tai mắt của cẩm y vệ mà Kỷ Cương bố trí trong số hộ vệ của hắn. 

Dương Thu Trì do dự một chút, thưa: "Là... là thông phòng đại nha hoàn của vi thần, cũng có thể coi là tiểu thiếp chưa quá môn. Nói cho đúng ra thì chỉ cần nàng ấy sinh cho vi thần hài tử, thì vi thần sẽ nạp nàng ấy về một phòng..." 

"Vậy cô ta có mang hay chưa?" 

Thanh âm của Minh Thành Tổ vẫn còn lạnh như băng, khiến cho tim Dương Thu Trì cứ đập thình thịch. Sự tình này xem ra có muốn giấu cũng giấu không được, nghe khẩu khí của ông ta, thì tên Kỷ Cương đáng chết này thậm chí đã dò đến từng đường tơ kẻ tóc báo cáo lên hoàng thượng rồi. Hắn không dám nói loạn, chỉ còn biết nhỏ giọng đáp: "Vẫn.... vẫn chưa có...." 

"Hồng Lăng cô nương, đừng sợ hãi, ngẩng đầu lên đi." Không ngờ Minh Thành Tổ là một nhân vật thiết huyết, thế mà đối với nữ nhân ôn nhu như vậy. 

Hoàng thượng có lệnh, ai dám không theo? Hồng Lăng đã dự cảm được sẽ phát sinh chuyện gì rồi, sắc mặt trắng nhợt, thân người run run, từ từ ngước mặt, ánh mắt không dám nhìn thẳng hoàng thượng, mắt vẫn cụp. 

Toàn thân Minh Thàn Tổ chợt chấn động, như bị điện giật, há hốc mồm nhìn Hồng Lăng, hàm dưới suýt rớt xuống đất. Hoàng thượng cũng là nam nhân, trước mặt mỹ nhân tuyệt sắc, so với những cẩm y vệ không khác gì, đều có biểu hiện của Trư ca ca. 

Nhìn một cách thèm thuồng một hồi, Minh Thành Tổ mới nuốt nước bọt đánh ực, tặc lưỡi hai cái, nói với Dương Thu Trì: "Dương ái khanh, ngươi theo trẫm vào cung, trẫm có chuyện muốn nói với ngươi." Trong lúc nói chuyện, ánh mắt của ông ta vẫn như người bệnh và đói lâu ngày nhìn thấy cái bánh màn thầu nóng, quét đi quét lại trên những đường cong tuyệt mỹ của Hồng Lăng. Thật lâu sau đó, ông ta mới quyến luyến không nở rời thu hồi ánh mắt, chắp tay sau lưng dẫn đầu bước ra cửa. Kỷ cương và Lý công công theo sát phía sau. 

Dương Thu Trì nhìn thấy Hồng Lăng mặt mày tái nhợt, thân hình lắc lư muốn ngã, lòng không khỏi đau xót vạn phần, bước tới đỡ nàng, khẽ gọi: "Lăng Lăng!" 

Hồng Lăng nắm chặt tay Dương Thu Trì, nước mặt ứa ra chảy dài xuống má: "Lão gia... Hồng Lăng cả đời này chỉ theo một mình lão gia... không đi đâu cả...!" 

"Ứ" Dương Thu Trì nắm chặt tay nàng, "Đừng lo lắng! Ta dù có chết cũng không để nàng rời khỏi ta đâu!" Thấy Kỷ Cương ở xa xa quay lại nhìn, gọi hắn theo, Dương Thu Trì nói vội với Hồng Lăng: "Lăng Lăng, ta và hoàng thượng vào cung, xem coi hoàng thượng nói gì, đừng có gấp a. Chúng ta đều đã nói rõ rồi, sinh tử gì cũng ở bên nhau!" 

Hồng Lăng mắt đầy lệ, lấy sức gật đầu. 

Tiến vào hoang cung, trực tiếp thẳng đến Càn Thanh cung - tẩm cung của hoàng thượng. 

Minh Thành Tổ ngồi trên tọa tháp bằng vàng, cười hề hề nhìn Dương Thu Trì: "Dương ái khanh, ngươi thật là có phúc khí a, tuy nương tử của ngươi tướng mạo xấu xí, nhưng mấy thiếp thất của ngươi đều mạo mỹ như hoa, hưởng tận cái phúc tề nhân (phúc có nhiều vợ) a, ha ha ha...." 

Dương Thu Trì đứng thẳng, cười theo hai tiếng, lòng không ngừng tính toán. Nếu như Minh Thành Tổ có chủ ý chiếm Hồng Lăng thì nên làm thế nào đây? Trong lòng hắn lúc này rất hối hận, sớm biết như vậy thì sớm nạp Hồng Lăng làm tiểu thiếp cho rồi, bịt chặt cái miệng của hoàng thượng. Mong sao hoàng thượng lần này đừng đề cập đến chuyện đó, hắn trở về sẽ nạp Hồng Lăng làm thiếp ngay, để cắt tuyệt ý muốn bậy bạ của bọn sắc quỷ này. 

Minh Thành Tổ thở dài một tiếng: "Trẫm sánh với khanh không hề có phúc khí tốt như vậy, ngươi nhìn xem cái gọi là tam cung lục viện thất thập nhị tần phi của trẫm ai ai cũng tư sắc bình thường, không đáng để vào mắt a!" 

Chẳng thể nào, Dương Thu Trì nói thầm, ngày ấy trong tiết Nguyên Tiêu, mấy phi tần của ông người nào cũng oanh oanh yến yến, đều là tuyệt sắc mỹ nữ cả. Tuy họ không thể sánh với Hồng Lăng, nhưng cũng không kém bao nhiêu. Nhưng mà, chẳng qua là ông nhìn họ quen sử dụng họ chán chê rồi mới thành như vậy, cho dù có cấp cho ông một nàng tiên trên trời, chẳng qua mấy ngày thì ông cũng chán mà thôi! 

Lòng thì nghĩ loạn như vậy, nhưng trên mặt hắn chẳng dám lộ chút phản ứng gì, vẫn cười cười dỏng tai lên nghe. 

Minh Thành Tổ lại nói: "Chỉ có Hiền phi mà trẫm sủng ái nhất mới được coi là tuyệt sắc nữ tử, nhưng không ngờ đã sớm rời bỏ trẫm rồi, ai....!" 

Nghĩ đến cảm tình của Minh Thành Tổ đối với Hiền phi, Dương Thu Trì cũng có mấy phần đồng tình.

Minh Thành Tổ nói tiếp: "Trẫm nhất mực tìm một nữ tử có thể sánh với Hiền phi," ông ta chỉ vào Kỷ Cương, hậm hực bảo: "Nhưng bọn chúng tìm cho trẫm đều là những kẻ rất bình thường!" 

Kỷ Cương khom người khúm núm, dáng vẻ làm bộ bối rối vô cùng. 

Minh Thành Tổ nói tiếp: "Ngay cả các tú nữ do Triều Tiên tiến cống cũng không thể nào sánh được với Hiền phi. Rất may là trời không phụ ta! Hai ngày trước, Kỷ Cương cho trẫm biết, nói trong phủ của ngươi còn có một vị nha hoàn gọi là Hồng Lăng, quốc sắc thiên hương, không ai sánh kịp. Trẫm có mấy phần không tin, tự nghĩ, một nha hoàn thì làm gì có thể đẹp đến như vậy chứ. Hôm nay đến nhìn thử, quả nhiên chẳng có điểm nào sai, thật là tuyệt mỹ hơn người, so với Hiền phi của trẫm còn có phần hơn a!" 

Lòng Dương Thu Trì trầm hẳn, sợ cái gì thì đến cái đó, làm sao bây giờ? Trong đầu hắn quay cuồng suy nghĩ, nhưng không hề nghĩ ra được chủ ý nào hay. 

Kỷ Cương bước đến bên cạnh Dương Thu Trì, hạ giọng nói: "Dương huynh đệ, ý tứ của hoàng thượng huynh đệ xem ra là đã hiểu rõ a?" 

Dương Thu Trì đang suy nghĩ tìm cách, đành giả ngốc hỏi lại: "Cái gì... ý tứ gì a?" 

"Hầy! Ngươi thật là có cái đầu gỗ mà - đem Hồng Lăng cô nương tiến cung dâng cho hoàng thượng a!" 

"A? .... cai này...." Lời cuối cùng đã trắng ra rồi, Dương Thu Trì loạn cả tâm thần, nhất thời không biết nên ứng phó thế nào. 

Kỷ Cương đanh mặt: "Thế nào? Dương đại nhân không nở?" 

"Cái này.... cái này..." Dương Thu Trì há hốc mồm, mồ hôi lạnh ứa đầy mặt, đưa mắt lén nhìn Minh Thành Tổ, thấy nụ cười của ông ta từ từ biến mất, mặt trở nên âm trầm, hắn càng cảm thấy khủng hoảng hơn. Hoàng thượng này nếu mà bực mình, thì sẽ không để yên chơi không thôi. 

Lý công công ở bên cạnh cười ruồi giải vậy cho Dương Thu Trì: "Hoàng thượng, chuyện này nói ra hơi cập rập, Dương hầu gia nhất thời đầu óc còn chưa chuyển động được, ha ha...." 

Dương Thu Trì ngầm cảm kích Lý công công, từng rương kim ngân châu báo tặng cho ông ta xem ra không uổng phí, đến lúc quan trọng còn nói giúp hắn vài câu. Kỷ Cương này cũng nhận của hắn rất nhiều lễ vật, không ngờ chỉ biết vuốt mông ngựa hoàng thượng mà hại hắn, thật là khốn kiếp mà. 

Nghe lời của Lý công công, mặt Minh Thành Tổ hơi hòa hoãn lại chút ít. 

Lý công công bước đến cạnh Dương Thu Trì, nói nhỏ: "Dương hầu gia, nói thật với ngài, vốn là lần trước trong tiết Nguyên tiêu, hoàng thượng đã nhìn trúng tiểu thiếp Liễu thị đẹp như thiên tiên của ngài, có tâm thu làm tần phi, nhưng khi biết nàng ta đã sinh cho hầu gia ngài một tiểu thiếu gia, lại là trưởng tử của Dương gia, cho nên không nhẫn tâm chia rẻ hai người, cho nên mới rút lui và chuyển sang cầu Hồng Lăng." 

Nghe lời này, lòng Dương Thu Trì lạnh hẳn. Nếu như Liễu Nhược Băng không phải là sanh hài tử rồi, thì e rằng không chạy thoát được ma trảo của Minh Thành Tổ này. Xem ra, cho dù hắn đã nạp Hồng Lăng làm thiếp, thậm chi là sinh con cho hắn, nhưng nếu hoàng thượng nhìn trúng, thì ông ta chẳng thèm quản ba lần bảy hai mươi mốt gì cả. Đừng nói là tiểu thiếp, ngay cả khi hoàng thượng nhìn trúng vợ của đại thận, thậm chí con dâu của mình như chuyện Đường Minh Hoàng với Dương Quý phi năm xưa, thì đều có thể cướp về làm đàn bà của hoàng thượng hết. Lịch sử xảy ra không ít chuyện như vậy. 

Lý công công lại cười khe khé: "Dương hầu gia, đại trượng phu sợ gì không có vợ, huống chi ngài đã thê thiếp thành quần. Hồng Lăng cô nương này bất quá là một tiểu nha hoàn của ngài mà thôi, chứ không phải là thê thiếp gì, có gì mà không bỏ được chứ? Hiếm khi hoàng thượng lại thích Hồng Lăng cô nương như vậy, tiến cống cho hoàng thượng, ngài chẳng phải là có lợi ích rất lớn hay sao? Dương hầu gia hãy đừng vì mỹ sắc mà làm lỡ tiền đồ a, thậm chí hi sinh tính mệnh của người thân nữa!" 

Câu cuối cùng tuy nói bằng một cách hời hợt nhẹ nhàng như vậy, nhưng nghe vào lại khiến người ta rợn cả tóc gáy. Lời của Lý công công thật ra là đùa dọa suông, vì nếu chọc giận hoàng thượng, bị chém cả chín họ là chuyện thường. 

Dương Thu Trì cười khổ thưa: "Không phải hạ quan mê luyến mỹ sắc, thật tình là... thật tình là Hồng Lăng và hạ quan đã từng cùng vào sinh ra tử, phát thệ là sẽ cùng sống chết trọn đời bên nhau." 

Kỷ Cương lớn tiếng: "Dương đại nhân! Ngài đừng quên trong trời đất này không có đất nào không phải là của vua; không có ai không phải là thần tử của vua! Thiên hạ này đều là của hoàng thượng, mọi thần dân đều là của hoàng thượng, bao quát cả Hồng Lăng cô nương! Thương lượng với ngươi là nễ mặt ngươi, ngươi đừng có...." 

Lý công công vội xua tay: "Kỷ đại nhân đừng nóng! Hãy để Dương hầu gia suy nghĩ kỹ, những chi tiết lợi hại bên trong, nhất định Dương đại nhân sẽ hiểu rất rõ." 

Dương Thu Trì bây giờ mới biết thì ra hai người này đang đóng vai trò ông thiện và ông ác, đang tung hứng với nhau để làm công tác tư tưởng cho hắn. 

Kỷ Cương hừ lạnh một tiếng, phất tay áo đi đến cạnh Minh Thành Tổ. 

Minh Thành Tổ mỉm cười, bảo: "Dương ái khanh, trẫm biết là ngươi rất thương yêu Hồng Lăng cô nương, sợ trẫm sẽ đối đãi không tốt với cô ta, phải không? Ha ha, như vầy đi, chờ cô ta tiến cung, trẫm sẽ sắc phong làm thục phi." 

Trong thời kỳ Minh Thành Tổ, phi tử tối cao của hoàng thượng là quý phi, kế đến sắp xếp theo hiền, thục, trang, kính, huệ, thuận, khang, trữ. Minh Thành Tổ muốn sắc phong cho Hồng Lăng làm thục phi, do hiền phi trước đó đã chết, phía trên chỉ có mỗi mình Vương quý phi, như vậy, thụ phi ở hậu cung có thể coi là nhân vật số hai, do đó có thể thấy Minh Thành Tổ đối với Hồng Lăng yêu thích thế nào. 

Kỳ thật, ở cổ đại, không có nam nhân nào thực sự coi trọng nữ nhân. Trong thời tam quốc, thậm chí có người giết vợ của mình để làm món ăn cho chúa công ăn. Thê thiếp còn là như thế, huống chi là nha hoàn tì nữ. Họ đều là thứ đồ chơi của nam nhân, có thể tùy tiện buôn bán tặng cho người. Giống như vị tình thánh trọng tình cảm như Dương Thu Trì quả thật là khó kiếm hơn khủng long ở thời hiện đại. 

Cho nên, Lý công công cùng mọi người đều cho rằng chuyện này đối với Dương Thu Trì đơn giản là cái bánh nhân thịt từ trên trời rơi xuống, cơ hội một bước lên tận mây xanh đang ở ngay trước mắt đó thôi! Ông ta nói đây cũng là do hảo ý, nên vội vã thúc giục Dương Thu Trì: "Dương hầu gia, còn không mau quỳ xuống tạ ơn!" 

Dương Thu Trì thầm nghĩ, chẳng quản sau đó thể nào, bây giờ thì hảo hán bất cật nhãn tiền khuy (hảo hán thì nên biết nhường một bước trước những trở ngại không thể vượt qua), hiện giờ chẳng phải là lúc lấy cứng chọi cứng, cùng lắm thì trở về nhà từ quan mà đi! Dương Thu Trì đau khổ quỳ xuống tạ ơn. 

"Dương ái khanh, bình thân đi." Minh Thành Tổ vừa ý gật đầu, "Ngươi yên tâm, trẫm không chỉ đòi không Hồng Lăng cô nương của ngươi đâu." Ông ta quay đầu nhìn Lý công công. Lý công công hội ý, khom người lui ra khỏi phòng. 

Dương Thu Trì thầm nghĩ: Cái gì mà không đòi không? Hay là còn thăng quan thêm cho hắn, hoặc thưởng cho hắn kim ngân châu báo? Không thèm! Hắn từ từ nhỏm dậy, đứng thẳng một bên, lòng thầm tính toán, rằng sau khi trở về sẽ thương lượng cùng Liễu Nhược Băng và mọi người, làm cách nào mang theo cả nhà từ quan mà đi. 

Chốc lát sau, Lý công công dẫn theo một nữ tử tiến vào. 

Minh Thành Tổ mỉm cười nói: "Dương ái khanh, ngươi xem xem đây là ai?" 

Dương Thu Trì vội quay lại nhìn, tức thì sửng sờ. Vị nữ tử tiến vào tuổi vừa đôi tám, tóc bới nửa bên, mắt sáng răng trắng, môi nhỏ như châu, hai má lúm đồng tiền, da dẻ như ngọc, tay chân thon thả, xinh tươi như đóa hải đường. Đặc biệt, nàng ta có đôi mắt như làn nước, long lánh sáng ngời, phảng phất như biết nói. 

Vị nữ tử này chính là Lữ mỹ nhan có cặp mắt biết nói mà Dương Thu Trì nhìn thấy trong tiết nguyên tiêu. 

Ở trước mặt hoàng thượng mà nhìn thẳng phi tần của ông ta là đại bất kính. Dương Thu Trì vội vã cúi đầu, không biết Minh Thành Tổ giờ này cho gọi Lữ mỹ nhân đến để làm gì.

"Dương ái khanh, vị này là tú nữ do Triều Tiên tiến công năm rồi, tên là Lữ Hoàn Cơ. Lúc đó đã sắc phong làm mỹ nhân. Trong tiết Nguyên tiêu, trẫm cũng nhìn ra được là ngươi rất thưởng thức vị Lữ mỹ nhân này. Ha ha, mỹ nữ tặng anh hùng mà." Minh Thành Tổ cười nói tiếp: "Trẫm đã triệt tiêu sắc phong đối với Lữ Hoàn Cơ. Nàng ta hiện giờ là bình dân rồi. Trẫm hịen giờ thưởng tứ cho ngươi làm thiếp!" 

Kỷ Cương ở bên cạnh nhìn Lữ mỹ nhân đến hai mắt phóng quang, nuốt ực một ngụm nước bọt, hạ giọng nói: "Dương huynh đệ, hoàng thượng đối với ngươi quả thật là không có chỗ nào chê, ngay cả mỹ nhân bên mình cũng tống tặng cho ngươi, còn không mau quỳ xuống tạ ơn đi!" 

Kỷ Cương nhìn dáng vẻ sầu khổ của Dương Thu Trì, thật không hiểu vì sao mà hắn phát sầu, hận không đá vào đít hắn một cước. 

Đầu óc của Dương Thu Trì lúc này đã loạn thành một nồi cháo, quỳ xuống dập đầu tạ ơn như cái máy. 

Trong lúc xem đèn trong tiết Nguyên tiêu ở Ngự hoa viên, hắn cảm thấy Lữ mỹ nhân là người đẹp nhất trong số phi tần của Minh Thành Tổ, không khỏi nhìn lén thêm vài cái. Nam nhân nhìn mỹ nữ cũng giống như hân thưởng phong cảnh mỹ lệ vậy, chẳng phải là vì bất cứ ý đồ đen tối gì. Thật không ngờ hắn nhìn lén tần phi của hoàng thượng như vậy, lại bị chính hoàng thượng phát giác. 

Minh Thành Tổ nói với Lữ mỹ nhân: "Hoàn cơ, sau này ngươi là người của Dương ái khanh rồi. Dương ái khanh là trọng thần mà trẫm thập phần ỷ trọng. Ngươi phải phục thị cho tốt đấy nha." 

Lữ mỹ nhân đỏ mắt len lén miết mắt nhìn Dương Thu Trì, bước mau lại cạnh hắn, quỳ xuống dập đầu tạ ơn hoàng thượng, lòng vô cùng hoan hỉ, dùng thứ Hán ngữ hơi cứng nói: "Thần thiếp tuân chỉ, khấu tạ hoàng ân." 

Mỹ nhân là cấp thấp nhất trong số phi tần của hoàng đế thời kỳ Minh Thành Tổ. Trong hậu cung của hoàng thượng có ba nghìn giai lệ, mỹ nữ như mây, một nữ tử muốn được hoàng thượng ân sủng thì thật khó như lên trời. Tuy trong mắt của Dương Thu Trì, Lữ Hoàn Cơ là người đẹp nhất trong các phi tần người Triều Tiên, nhưng từ thái độ của Minh Thành Tổ đối với nàng này mà xét, thì rõ ràng là ông ta không cảm cái đẹp của nàng, thật đúng với câu "cà rốt cải thìa món nào cũng được". Chính vì thế, Lữ Hoàn Cơ ở trong cung chỉ sợ vì thế mà như ở giá dù là có chồng. Hơn nữa nàng ta còn không thể tự do sống, đương nhiên là không thể nào sánh với chuyện đi theo vị Dương hầu gia đại danh đỉnh đỉnh này. Cho nên nàng ta mới biểu lộ vẻ hoan hỉ như vậy. 

Nàng ta thì cao hứng, còn Dương Thu Trì thì rầu thối ruột. Hắn đã từng nói không nạp thiếp nữa, nhưng chuyện của Vân Lộ còn chưa tính xong, bây giờ lại thêm một Lữ Hoàn Cơ này. Hơn nữa nàng ta lại là người Triều Tiên, lại là kẻ được hoàng thượng tứ hôn, nên nếu không tiếp thụ thì là kháng chỉ. Vừa rồi sự tình của Hồng Lăng hắn đã chuẩn bị kháng chỉ rồi, hiện giờ không chịu tiếp thụ Lữ Hoàn Cơ, chẳng phải là kháng chỉ thêm một lần nữa hay sao. Làm sao bây giờ? 

Hay là cứ về nhà trước, nếu thực tế không thể nào giải quyết, thì hay học theo Vi Tiểu Bảo (Chú: Nhân vật chính trong tiểu thuyết Lộc Đỉnh Ký của Kim Dung): lão tử không làm nữa! Trước hết cứ mang cô nàng Triều Tiên này về trước, sau đó đá bỏ, mang Hồng Lăng cùng các thê thiếp và kim ngân tài bảo trống đến địa phương nào đó sống khoái lạc tiêu diêu qua hết tháng ngày! 

Định rõ được chủ ý, Dương Thu Trì ân tâm hơn. Vì sợ hoàng thượng khởi nghi, hắn giả vờ ôn nhu đỡ vị Lữ mỹ nhân này lên. Hai người cùng đứng qua một bên. 

Minh Thành Tổ cười ha hả bảo: "Được rồi, các ngươi về đi. Sáng ngày mai đưa Hồng Lăng cô nương tới, chiều trẫm sẽ mở đại yến thết đãi quần thần tại Hoa Cái điện, chúc mừng thục phi tiến cung!" 

Lòng Dương Thu Trì trầm hẳn, Minh Thành Tổ làm lớn như vậy, nếu mà biết hắn kháng chỉ không tuân, từ quan chạy trốn, thì nhất định là tức nhảy nhỏm ba thước, gào thét như sấm a! Chỉ sợ ông ta lập tức tổ chức truy nã hắn trên toàn quốc cũng nên. 

Quản ông ta làm gì? Dù sao cái mạng này của hắn cũng là lượm lại được, nếu không thì ngày ấy hắn đã chết nhăn răng trong trận lỡ tuyết ở Tây Tạng A Lý rồi. Đến lúc đó, nếu như chạy không thoát, nhất định phải bảo Liễu Nhược Băng ôm con chạy đi, lưu lại một chút hương hỏa này cho hắn. Chỉ sợ là nàng nhất quyết không chịu thôi. Hiện giờ chỉ còn biết quay về rồi tính sau. 

Nếu như Lữ Hoàn Cơ mỹ nhân đã gả về cho Dương Thu Trì, thì đương nhiên nàng ta phải về cung dọn dẹp đồ đạc của mình. 

Dương Thu Trì theo Lữ mỹ nhân trở về mỹ nhân cung của nàng trước, vừa vào cửa đã trố mắt nhìn. Trong vườn, một đại đội nội thị hoạn quang đã đứng chờ sẵn với một đội mã xa. Trên những chiếc xe ngựa này đã chất đầy rương hòm to nhỏ. Đồ đạc của Lữ mỹ nhân xem ra đã chuẩn bị xong, nhìn tình thế này, Dương Thu Trì bấy giờ mới minh bạch, thì ra mọi chuyện đều đã được Minh Thành Tổ tính toán sắp xếp hết rồi. 

Ngoại trừ đội xe mang đồ đạc, Lữ Hoàn Cơ còn mang theo hai thị nữ người Triều Tiên ngồi kiệu cùng Dương Thu Trì về Dương phủ. 

Lúc này, người trên kẻ dưới trong Dương phủ đều vô cùng khẩn trương, không khí rất nặng nề. Dương mẫu cùng mọi người đều tụ tập trong phòng khách. Hồng Lăng ngồi ở vị trí cuối, đang sụt sùi khóc. 

Liễu Nhược Băng cùng mọi người đều biết Dương Thu Trì là người có tính tình quật cường, lo sợ hắn sẽ va chạm với hoàng thượng, và hoàng thượng trong lúc nổi giận đã trách tội đem chém. Hiện giờ họ đang tìm kiếm giải pháp, để một khi tình huống xấu nhất xảy ra thì nên làm thế nào. 

Thấy Dương Thu Trì trở về, mọi người đều vui mừng, bước ra nghênh đón, chợt phát hiện sau lưng Dương Thu Trì có một nữ tử mỹ lệ bám theo, lại còn ngọc bội leng keng, mài ngài cổ trắng, mi tâm hơi nhíu, đôi mắt to đầy sóng nước như biết nói. Xem ra, nàng này không giống như người Trung quốc, nhưng so với nữ tử Trung Quốc có mấy phần xinh đẹp và nhu mì hơn. Sau lưng nàng ta còn có hai thị nữ, cũng thanh tú dễ thương. Mọi người đều nghi hoặc đưa mắt nhìn Dương Thu Trì. 

Dương Thu Trì phát hiện Vân Lộ và Hàm Ninh công chúa không còn ở đây, hỏi ra mới biết hai người họ vì lo cho hắn, và được sự ủy thác của Dương mẫu, đã vừa trở về tiến cung. Xem ra thì hai bên đã lỡ dịp không gặp nhau. 

Dương Thu Trì giản đơn thuật lại mọi chuyện. Mọi người nghe qua, biết thì ra nữ tử này chính là Triều tiên cống nữ được hoàng thượng tứ hôn cho Dương Thu Trì, và hoàng thượng còn ra lệnh ngày mai hắn phải đưa Hồng Lăng tiến cung, tức thời ai nấy đều ngẫn ra. Hồng Lăng càng lớn tiếng khóc òa. 

Dương Thu Trì trước hết bảo Phùng Tiểu Tuyết an bài cho ba chủ tớ Lữ Hoàn Cơ chỗ trú ngụ, đây là người do hoàng thượng khâm tứ, tạm thời không thể chậm trễ. 

Tống Tình lạnh mặt nói: "Lão gia, lão gia chẳng phải là nói có con trai thì không nạp thiếp nữa sao? Hiện giờ mợ tư đã sinh con cho đại lão gia rồi, sao lão gia còn mang con nhỏ Triều Tiên này về nhà làm gì nữa..." 

Dương Thu Trì đang bực mình, lập tức rống lên: "Nghe cho rõ đây, không phải là ta mang về nhà, mà là hoàng thượng tứ hôn, có phải là nàng muốn ta kháng chỉ không? Muốn cả nhà bị chém đầu hết mới cao hứng hả?" 

Tống Tình vừa thấy Dương Thu Trì phát cáu, lập tức ngậm miệng không dám hó hé tiếng nào. 

Liễu Nhược Băng điểm đạm hỏi: "Vậy chàng chuẩn bị làm sao đây?" 

Dương Thu Trì không dám phát hỏa với Liễu Nhược Băng, bản thân hắn đã nói không nạp thiếp, hiện giờ lại lãnh một nữ tử trở về, tuy là người do hoàng thượng tứ hôn, nhưng rốt cuộc cũng là lỗi của hắn. Hắn gảy gảy đầu, nhưng chưa kịp nói gì, thì Tống Vân Nhi đã dậm chân bảo: "Chuyện này sau này hẳn tính, chuyện cấp bách hiện giờ là tính sao cho Hồng Lăng đây?" 

Dương Thu Trì vỗ vỗ đầu, cảm thấy mụ mị muốn hôn mê đi. Hắn bước đến cạnh Hồng Lăng, cầm tay nàng, nhất thời không biết nói thế nào cho phải. 

Hồng Lăng phốc vào lòng Dương Thu Trì, ôm chặt hắn, phảng phất như lơi tay là nàng sẽ bị cuốn bay mất vậy. Nàng nức nở: "Lão gia... Hồng Lăng không muốn tiến cung.... Hồng Lăng chết cũng không rời khỏi lão gia..." 

Dương Thu Trì vuốt ve mái tóc dài của nàng, dịu dàng bảo: "Lăng Lăng đừng khóc, yên tâm đi, vô luận là thế nào thì ta cũng không để nàng rời xa ta đâu." 

"Thật không?" Hồng Lăng vừa kinh vừa mừng, nước mắt đầm đìa nhìn Dương Thu Trì, tiếp đó nhãn thần ảm đạm, hỏi: "Hoàng thượng nếu trách tội... thì làm sao bây giờ?" 

"Kháng chỉ từ quan!" Dương Thu Trì trả lời một cách chém đinh chặt sắt. "Dù gì thì nữ tử người Triều Tiên đó ta không chuẩn bị nạp rồi, như vậy chính là kháng chỉ. Có câu gần vua như gần hổ, lần này ta mới thấm thía câu nói đó như thế nào. Chức quan này làm cũng chẳng hay ho gì, chỗ này không lưu ta, thì ắt có chỗ khác chứa được ta. Chúng ta đi!" 

Lời này nói hùng hồn có lực, khiến cho chúng nữ cả kinh ngẩn người. Tống Tình vỗ tay cười nói: "Hay quá, từ quan, vừa có thể không lấy con nhỏ Triều Tiên đó, vừa có thể giữ lại được Hồng Lăng, cứ định như vậy đi!" 

Tống Vân Nhi trừng mắt: "Cái gì mà định như vậy đi, sự tình lớn thế này, tỷ định được không?" 

Tống Tình nghĩ lại cũng đúng, bỏ quan mà đi không phải là chuyện tầm thường a. Nàng nhìn nhìn mọi người, thấy ai ai cũng không dám đưa ra chủ ý, và tất cả cùng nhìn về phía Dương mẫu. 

Dương mẫu lẩm bẩm câu: "Bỏ quan?..." mấy lần. Con trai bà ta cực khổ chạy đông tây nam bắc mới có chút cơ nghiệp này, giờ đây chỉ thoáng chốc đã bỏ hết tất cả, bà quả thật là có điểm không nỡ. Nhưng khi nhìn thấy bộ dạng thê lương đau khổ của Hồng Lăng, bà lại bất nhẫn. Bà thấy Liễu Nhược Băng cùng các nàng phản đối Dương Thu Trì tiếp tục nạp thiếp, hoàng đế tứ hôn cho cũng đành phải kháng chỉ mà thôi, xem ra con trai bà tính tình quật cường như vậy, có khuyên cũng không được. Cho nên, Dương mẫu thở dài một tiếng: "Ai.... được thôi!" 

Dương mẫu tán đồng, những người khác không còn ý kiến gì nữa. Hồng Lăng lòng tràn đầy sự hoan hỉ, vội vã lau mắt, chuẩn bị thu thập mọi thứ. 

"Nếu như bỏ quan mà đi..." Vừa nói được một phần, Tần Chỉ Tuệ đã ôm bụng, nhíu mày, vừa rồi em bé trong bụng máy động, ngắt ngang lời của nàng, buộc nàng phải dừng lại một chút mới nói tiếp được: "Vậy chúng ta trốn ở nơi nào? Cần phải trốn đến một nơi mà hoàng thượng không tìm thấy mới được." 

Tống Tình nhíu mày nói: "Làm gì có địa phương đó a, xúc giác của cẩm y vệ của hoàng thượng thò đi khắp bốn biển, trốn đến nơi nào cũng sẽ bị phát hiện." 

Hồng Lăng nghe thế, ánh mắt từ từ chuyển thành tuyệt vọng, vội vã nắm chặt cánh tay Dương Thu Trì, mặt không còn chút máu nào. 

Liễu Nhược Băng nói: "Chỗ trốn thì có, nhưng mà cả nhà chúng ta cùng trốn đi thì mục tiêu quá lớn, cẩm y vệ không chổ nào không chui vào, đích xác là rất dễ bị lộ. Trước mắt, chúng ta chỉ còn một chỗ để đi." 

"Địa phương nào?" Tống Vân Nhi vội hỏi. 

"Hải ngoại! Chỉ có thể giương bườm ra hải ngoại, thì mới có thể tránh được sự tập nã của cẩm y vệ."

Mọi người đua nhau gật đầu. Về điểm này thì Dương Thu Trì đã sớm nghĩ ra, đích xác là chỉ có chạy ra hải ngoại thì mới có thể trốn tránh được ma trảo của hoàng thượng. 

Dương Thu Trì nói: "Băng nhi nói đúng lắm, cứ làm như vậy. Mọi người lập tức chia nhau hành động, mạng theo đồ nhẹ, tận hết sức tinh gọn hành lý, lập tức xuất thành nhắm về phía biển!" 

Chúng nữ đáp ứng, vừa đứng dậy ra cửa, thì Liễu Nhược Băng đột nhiên ngưng thần đứng yên, thở dài: "Trễ rồi, chỉ sợ không còn đi kịp nữa. Dương phủ của chúng ta đã bị bao vây rồi." 

Mọi người nghe thế đều cả kinh. Liễu Nhược Băng có võ công cái thế, phán đoán của nàng ắt là tuyệt đối không sai. 

Quả nhiên, gác cổng vội chạy vào báo: "Lão gia, hoàng cung gởi đến đội ngũ đưa dâu, nói là hoàng thượng đưa đồ đạc tới tứ hôn." 

Mọi người lắng tai nghe, quả nhiên là nghe đâu đó tiếng cổ nhạc khèn trống. Chuyện đã đến nước này, chỉ có thể ổn định trận cước trước, tạm ngưng công tác đào tẩu lại. Dương Thu Trì ra lệnh mở rộng cửa lớn.

Đội cổ nhạc kèn thổi trống đánh ồn ào tiến vào trong phủ, sau đó là một đội hoạn quan khiêng những cái rương lớn lớn nhỏ nhỏ bao bọc vải đỏ, kế nữa là mấy chục cẩm y vệ. 

Đi trước có hai người, chính là Lý công công và Kỷ Cương. Nhìn thấy Dương Thu Trì, họ cười ha ha bước tới. Lý công công cất giọng the thé nói: "Dương hầu gia, hoàng thượng phái chúng ta mang của hồi môn đến cho Lữ mỹ nhân, à không, nên gọi là tân phu nhân của hầu gia mới phải a." 

Kỷ Cương cũng nói: "Đúng vậy, hôm này là ngày đại hỉ của huynh đệ, bổn quan mang các huynh đệ cẩm y vệ đến chúc mừng Dương huynh đệ, náo nhiệt một phen a." 

Dương Thu Trì cười khổ, thầm nghĩ làm gì có chuyện các ngươi đến chúc mừng chứ, đến giám thị hắn thì có! Xem ra, Minh Thành Tổ sành sỏi giảo hoạt, đã sớm nghĩ đến khả năng hắn bỏ quan mà chạy trốn rồi. 

Dương Thu Trì chỉ còn biết ra lệnh bày yến tiệc, chiêu đãi các huynh đệ cẩm y vệ này trước. Long sư gia phụ trách tiếp nhận và đăng ký lễ vật. 

Dương Thu Trì đưa Kỷ Cương, Lý công công và các quan lớn của cẩm y vệ an bài ở phòng dành cho khách quý, trước hết cho họ ăn uống, rồi nói mình còn bận an trí phòng tân hôn cũng như cho tân phu nhân thay đồ trang điểm, nên cáo từ đi vào trong một chút. 

Chúng nữ đều trợn tròn mắt há hốc mồm. Tống Vân Nhi nói: "Muội vừa ra ngoài tra, có rất nhiều cẩm y vệ và đại nội thị vệ đã bao vây đoàn đoàn quanh Dương phủ của chúng ta, nói là bảo vệ cho ngày tân hôn đại hỉ của Dương hầu gia. Đây chẳng phải là đề phòng chúng ta bỏ chạy hay sao? Hay là chúng ta xông ra đại đi!" 

Tống Tình vội nói: "Cái gì a, xông đại ra? Muội muốn đại khai sát giới sao? Như vậy là mưu phản đó! Một khi đánh giết xảy ra, hài tử trong bụng ta thế nào?" 

Tống Vân Nhi hỏi lại: "Vậy tỷ nói thế nào đây? Chẳng lẽ tỷ nhẫn tâm nhìn Hồng Lăng bị tống tiễn vào cung sao?" 

Tống Tình vội vã phân bua: "Ta nói muốn nhìn thấy Hồng Lăng bị tống tiễn vào cung khi nào/ Hồng Lăng là nha hoàn của ta, ta không xót lòng hay sao? Ta nói đây là mọi người cần phải tìm kế sách vạn toàn nào đó a." 

Tống Vân Nhi cười lạnh: "Tỷ mà đau lòng? Tỷ đau lòng thì lúc trước không đem Hồng Lăng đi tống tặng cho người ta!" 

"Muội....!" Tống Tình tức mình, ngồi phịch xuống ghế khóc òa. Nàng tuy là đường tỷ của Tống Vân Nhi, nhưng rõ ràng không phải là đối thủ của cô em, cả võ công lẫn võ miệng. 

Tống Vân Nhi thấy Tống Tình khóc, cũng cảm thấy mình nói có phần hơi quá, bước tới an ủi nàng, Tống Tình ẹo người không chịu, vẫn khóc như cũ. 

Liễu Nhược Băng nói: "Tình Tình nói đây không phải là không có đạo lý. Chúng ta không thể dùng cứng được, một khi đánh nhau thì bị khép tội mưu phản ngay. Nơi này cách biển quá xa. Cả nhà chúng ta đùm túm chạy đi, chỉ sợ chưa tới bờ biển đã bị cẩm y vệ và quân đội bao vây trùng trùng. Cho dù là đến được bờ biển, hải thuyền của Minh quân không phải là thứ ăn không ngồi rồi. Tốt nhất vẫn là len lén li khai." 

Hồng Lăng gạt nước mắt, kéo tay Dương Thu Trì, ngước mắt nhìn hắn: "Thu Trì ca. Chàng thật sự hi vọng Hồng Lăng cả đời ở bên cạnh chàng chứ?" 

Dương Thu Trì không biết Hồng Lăng vì sao lại hỏi như vậy, gật đầu đáp: "Cái đó đương nhiên. Chúng ta đã nói rõ rồi, sinh tử cả đời đều ở bên nhau!" 

Mắt Hồng Lăng ướt sũng lệ nóng, gật đầu từ từ đứng dậy, bước đến cửa, nhìn mọi người đang huyên náo ở ngoài, cười thảm một tiếng. Đột nhiên nàng lật tay, trong tay có thểm một đoản đao sáng lòe, phất tay một cái, quạt cắt lên gương mặt mỹ lệ tuyệt luân của nàng. 

Hồng Lăng một là đang đứng ở cửa, hai là cách mọi người khá xa. Họ căn bản không ngờ Hồng Lăng đột nhiên tự gây tổn thương cho mình, muốn ngăn trở thì đã trễ rồi. 

Đột nhiên, hàn quang lóe lên, Liễu Nhược Băng bắn ra một mũi liễu diệp phi đao, xé gió bay tới, lập tức nghe một tiếng keng, đao của Hồng Lăng dường như bị đứt tới cán. 

Đao ngắn tuy bị đánh bay, nhưng do sự việc xảy ra đột nhiên, toàn bộ thanh đao không bị đánh gãy, cán đao còn dư ra một chút lưỡi đao. Lưỡi đao này đã cắt vài vành tai của Hồng Lăng, để lại một vết thương nhỏ, máu tươi tức thời bắn ra. 

Dương Thu Trì ở gần Hồng Lăng nhất, vội bước tới trước, chụp lấy tay nàng: "Lăng Lăng! Nàng điên rồi!" 

Cùng lúc đó, Tống Vân Nhi đã như làn gió phóng tay, thò tay đoạt lấy cán đao trong tay Hồng Lăng. Sau khi tra xét vết thương ở vành tai, thấy nó chỉ to bằng hạt đậu, không đắp thuốc cũng không đáng ngại gì, bấy giờ mới yên tâm. 

Hồng Lăng bi thảm khóc: "Em gạch nát mặt rồi, hoàng thượng sẽ không muốn em nữa đâu...!" 

Dương Thu Trì lòng đao như cắt, ôm chặt nàng vào lòng: "Nàng thật ngốc!" 

Mặt là chỗ mà nữ nhân bảo vệ kỹ nhất, đặc biệt là đối với những nữ tử xinh đẹp. Không đến lúc tuyệt vọng cùng cực, Hồng Lăng quyết không đi đến quyết định này. 

Hồng Lăng dựa vào lòng Dương Thu Trì, khóc ròng như con chim đỗ quyên (chim cuốc) cất tiếng thở than vậy. 

Dương Thu Trì yêu thương vô hạn, khe khẽ lau lệ cho nàng, dịu dàng bảo: "Lăng Lăng, lần trước ta đã nói với nàng rồi, nàng là người của ta, thân thể của nàng cũng là của ta, một khi ta chưa đồng ý, nàng tuyệt đối không được làm hại chính mình, còn nhớ hay không?" 

Hồng Lăng gật đầu: "Nhưng mà...." 

"Không nhưng nhị gì hết!" Dương Thu Trì khe khẽ đẩy Hồng Lăng ra, cúi đầu nhìn vào đôi mắt đẫm lệ của nàng, nói gằn từng tiếng: "Lăng Lăng, hãy nhớ rằng, nếu như sau này nàng tự làm hại mình như vậy nữa, ta cũng sẽ làm theo - nàng rạch mặt thì ta rạch nát mặt, nàng tự sát thì ta tự sát theo! Ta xin thề với trời như thế!" 

Toàn thân Hồng Lăng chấn động, đôi mắt long lánh ánh nước nhìn Dương Thu Trì, gọi khẽ: "Thu Trì ca!" Rồi lại rúc vào lòng hắn khóc òa. 

Dương Thu Trì ôm chặt nàng, khẽ bảo: "Lăng Lăng, lời ta nói nàng nhớ kỹ chưa?" 

Hồng Lăng khóc lóc dùng lực gật mạnh đầu. 

Dương Thu Trì khẽ vuốt tóc nàng: "Nha đầu ngốc, chúng ta còn chưa bị dồn đến mức sống chết, nàng quên rồi sao? Trong tay ta còn có một vương bài chi!" 

Vừa nghe đến hai chữ vương bài, Tống Vân Nhi đang đứng ở bên cạnh chợt sáng rực mắt lên: "Miễn tử kim bài!" 

"Đúng! Miễn tử kim bài!" Dương Thu Trì nói, "Ta hiện giờ lấy miễn tử kim bài tiến vào hoàng cung tìm hoàng thượng, thỉnh cầu mang theo Lăng Lăng của ta từ quan quy ẩn!" 

Hồng Lăng vừa kinh vừa mừng, nhịn không được hôn lên má của Dương Thu Trì một cái. 

Trước mắt chỉ còn một chiêu tối hậu này nữa thôi. Phùng Tiểu Tuyết chạy vội vào phòng lấy Kim thư thiết khoán. Dương Thu Trì dặn Bạch Tố Mai cùng mọi người: "Mọi người lập tức chuẩn bị xuất phát, ta trở về thì chúng ta đi ngay trong đêm!" 

Dương mẫu nghĩ tới một chuyện, hỏi: "Vậy.... vậy Vân Lộ thế nào?" 

Dương Thu Trì cười khổ, xem ra Dương mẫu đã bị Vân Lộ mê hoặc đến lậm luôn rồi, ngay cả đào vong cũng không quên hôn sự với Vân Lộ. Dương Thu Trì nói: "Nàng ta là công chúa, lại chẳng có can hệ gì tới chúng ta, sẽ không gặp nguy hiểm gì đâu. Chúng ta đi trước, sau này sẽ liên lạc với nàng ấy." 

Dương mẫu ngẫm nghĩ, xem ra chỉ đành phải như vậy. 

Liễu Nhược Băng giao con cho hai chị em Sương nhi, bảo: "Thu Trì, ta đi với chàng." Tống Vân Nhi cũng nói: "Muội cũng đi." 

Dương Thu Trì gật đầu, biết hai nàng lo lắng cho hắn, nhưng mà hoàng thượng nếu trở mặt không nhận người, cái miễn tử kim bài trong tay hắn đây chỉ sợ là khối sắt phế liệu mà thôi. Có hai người Liễu Nhược Băng ở hai bên, hắn sẽ an tâm hơn nhiều. Tuy thật ra khi đã trở mặt rồi, náo loạn tung trời, thì ở trong hoàng thành giới bị sâm nghiêm như vậy, ba người họ chỉ sợ mọc thêm cánh cũng không thoát. 

Nếu như đã muốn đi, thì Dương Thu Trì nghĩ ngay đến cái tủ bằng hợp kim của hắn. Món đồ chơi đó chính là đồng vốn trọng yếu nhất để làm ăn nuôi cả nhà họ Dương, là một thứ bảo bối không thể bỏ đi, nhất là hệ thống pin năng lượng mặt trời và bộ sạc tích điện. 

Dương Thu Trì dặn dò bọn Liễu Nhược Băng vài câu, xong xâm xâm đi về thư phòng thu thập mọi thứ. 

Tủ hợp kim của hắn đặt trong thư phòng, còn bộ chuyển hóa điện mặt trời thì đặt trên đỉnh phòng. 

Dương Thu Trì đến cửa thư phòng. Hai thị nữ người Triều Tiên đứng ở cửa nhìn thấy Dương Thu Trì đến, sắc mặt kinh hãi, làm một lễ chữ phúc xong lớn họng rộng tiếng nói: "Hầu gia, người đến rồi." 

Dương Thu Trì hơi kỳ quái, hắn chẳng phải là điếc, nói lớn như vậy để làm gì? Hắn hỏi: "Các ngươi sao lại ở đây?" 

Một thị nữ người Triều Tiên đáp: "Là phu nhân an bài." 

Dương Thu Trì lập tức minh bạch, khẳng định là Phùng Tiểu Tuyết gấp quay lại thương lượng chuyện nhà, nên không có đủ thời gian an bài cho bọn họ, và đương nhiên cũng không tính sắp xếp chỗ ỡ cho bọn họ thật. Cho nên, nàng đã tạp thời an bài chủ tớ họ vào ở trong thư phòng của Dương Thu Trì. 

"Nương nương của các ngươi đâu?" Dương Thu Trì thuận miệng tùy tiện hỏi. 

Một thị nữ lớn tiếng đáp: "Nương nương... nương nương nghỉ ngơi trong phòng. Người hơi mệt... muốn ngủ một chút...." 

Dương Thu Trì chợt động tâm, hai thị nữ này làm cái trò quỷ gì thế? Hắn chậm bước tiếng lên, hai thị nữ lùi một bước, vội vã thưa: "Hầu gia, thỉnh dung cho nô tì vào thông báo một tiếng." 

Dương Thu Trì càng nghi ngờ hơn, gật đầu bảo: "Được, mau đi!" 

Một lúc sau thị nữ mới đi ra, nói: "Thỉnh hầu gia vào." 

Dương Thu Trì chậm bước tiến vào thư phòng, Lữ Hoàn Cơ nghênh đón, mặt đầy sự hoan hỉ: "Hầu gia..." 

Dương Thu Trì quét mắt nhìn, khóe miệng nhếch nụ cười lạnh rất khó phát giác, bước đến kệ sách lấy một vật trong một góc bỏ vào lòng. 

Sau đó, Dương Thu Trì bước đến trước mặt Lữ Hoàn Cơ, ôm chầm lấy eo của nàng ta, thân mật cười: "Hoàn cơ, ta đến lấy một vật... là lễ vật nho nhỏ tặng cho Kỷ Cương Kỷ đại nhân. Chúng ta đang uống rượu ở tiền sảnh. Nàng nếu đã mệt rồi thì hãy nghỉ ngơi cho khỏe đi. Đêm nay là đêm động phòng hoa chút của hai ta. Tối đến bọn họ có thể còn quậy động phòng, không thể nào tránh được thù tiếp đến âận khuya, sau đó hai ta còn phải... hắc hắc hắc... nói không chừng suốt cả đêm không thể ngủ đó nha. Hà ha, nàng phải nghỉ ngơi cho đầy đủ tinh thần đó! Ha ha ha." 

Lữ Hoàn Cơ đỏ mặt, khe khẽ gật đầu. 

Dương Thu Trì hôn vào má nàng, âm thanh rất kêu, sau đó thô lỗ vò bóp ngực của nàng, khiến cho Lữ Hoàn Cơ không rên rỉ mấy tiếng nho nhỏ, rồi Dương Thu Trì mới cười ha hả chuyển thân rời khỏi phòng. 

Bước ra ngoài cửa, Dương Thu Trì đến một góc vắng, móc từ trong lòng ra vật vừa lấy ở trên giá sách, thì ra là cái máy ghi hình kỹ thuật số mỏng. 

Chiếc máy ghi hình này có chức năng tự động giám sát, hay nói cách khác, khi điều chỉnh trong trạng thái này, chỉ cần có vật thể hoạt động trong phạm vi mà nó giám thị, thì chức năng tự động bắt hình sẽ hoạt động và ghi hết mọi chi tiết diễn ra. Sau khi vật thể đình chỉ vận động trong một thời gian nhất định, nó sẽ tự động khôi phục chức năng chờ. Một lần sạc điện, trong tình huống chờ đợi hoàn toàn, máy này có thể duy trì trạng thái giám sát trong vòng nửa tháng. 

Dương Thu Trì để theo dõi xem món bảo bối là cái tủ hợp kim có bị động chạm tới hay không, thường đặt máy quay tự động ở giá sách đối diện. Cho dù có trộm vặt tiến vào, thì y nhất định cũng không đến giá sách lục lọi làm gì. 

Dương Thu Trì bật chức nặng xem lại của máy quay, xem được khoảng một thời gian uống cạn chung trà thì chợt cười lạnh, ngước đầu lên, ánh mắt đầy ánh sáng kỳ dị.

Trở lại đại sảnh, Dương Thu Trì kéo Tống Vân Nhi qua một bên, kề tai nàng nói nhỏ vài câu. 

Ánh mắt của Tống Vân Nhi trợn trừng, kinh ngạc phi thường, gật đầu lia lịa, chuyển thân chạy ra ngoài. 

Mọi người đều không biết hai người họ đang làm trò quỷ gì, hỏi Dương Thu Trì hắn cứ trầm mặt không nói. 

Giờ phút này, Phùng Tiểu Tuyết đã đem kim thư thiết khoán đến. Dương Thu Trì lấy nó ra khỏi cái rương đầy trân châu mã não, dùng một khối bố trắng bao lại, trước hết cho Phùng Tiểu Tuyết bảo quản, chờ một chút hắn sẽ lấy đi. 

Lúc này, cẩm y vệ chỉ huy sứ Kỷ Cương tiến vào: "Dương huynh đệ, các huynh đệ cẩm y vệ chúng ta đang chờ ngươi ra uống rượu mừng kìa." 

Dương Thu Trì cười ha ha bước ra, đến bên bàn của Kỷ Cương, Lý công công và quý khách, mời rượu lia lịa. Rượu mừng của đồng tri đại nhân không thể không uống, huống chi lại có đồng tri đại nhân đích thân mời, cho nên tiệc rượu vô cùng xôm tụ. 

Lý công công và Kỷ Cương thấy Dương Thu Trì như vậy, đều cho rằng hắn đã tưởng thông, không khỏi mặt nở nụ cười, nâng ly lia lịa. 

Chẳng mấy chốc, Tống Vân Nhi chạy xộc vào, nhỏ giọng nói vài câu vào tai hắn. Dương Thu Trì khoa trương kêu lên: "Cái gì....! Ngoại tình?" 

Lời này khá lớn, khiến cho ba bốn bàn chứa đầy cẩm y vệ cao quan và thái giám đến từ trong cung ngồi quanh đó đều cả kinh. Căn phòng lập tức an tĩnh hẳn lại. 

Kỷ Cương hỏi: "Có chuyện gì vậy? Dương đại nhân, phát sinh chuyện gì?" 

Dương Thu Trì trầm giọng đáp: "Lữ mỹ nhân ngoại tình!" Hắn đứng phắt dậy, nổi giận đùng đùng đi ra ngoài. Nam Cung Hùng cùng sáu thiếp thân hộ vệ cũng bám sát sau Dương Thu Trì. 

Kỷ Cương và Lý công công đều cả kinh, quẳng đủa vội chạy theo. 

Lời của hắn cùng hành động của Kỷ Cương và Lý công công đã đủ lực hiệu triệu, mọi người đưa mắt nhìn nhau, lén lúc nghị luận rồi cũng lén bám theo. Đại đa số người trong họ đương nhiên đều có lòng muốn xem náo nhiệt, và muốn cười trên nỗi đau của kẻ khác. 

Khi gần đến thư phòng, Dương Thu Trì phất tay, một đám lớn cẩm y vệ, thái giám và cung nữ theo sau tức thời hội ý, lập tức im hơi lặng tiếng. 

Bước đến trước thư phòng, hắn thấy hai thị nữ người Triều Tiên nằm bất động trên mặt đất. Khóe miệng Dương Thu Trì lộ nụ cười mỉm rất khó phát hiện, quay nhìn Kỷ Cương và Lý công công, rồi khẽ bước đến cạnh cửa sổ. Kỷ Cương và Lý công công cũng bước đến nghe theo, ẩn ước nghe được trong phòng có tiếng người, là giọng của một nam một nữ. Ba người đưa mắt nhìn nhau, dường như đồng thời đưa tay thấm nước bọt trên miệng, chọc thủng một lổ trên giấy dán cửa, nhìn vào bên trong. 

Họ thấy trong phòng có một nam nhân quỳ trước mặt Lữ Hoàn Cơ, đang khổ khổ van cầu: "Hoàn cơ, cùng ta đi đi, ta cầu xin nàng đấy. ta không thể không có nàng a! Cầu xin nàng!" 

Một ống tay áo của Lữ Hoàn Cơ đang bị y nắm chặt, nàng ta dậm chân nói: "Chàng mau đi đi! Chậm một chút sẽ bị hầu gia phát hiện, chàng không còn mạng đâu!" 

"Không! Ta có chết cũng không rời xa nàng! Cùng ta đi đi, nàng đã nói là nàng yêu ta mà!" 

Lữ Hoàn Cơ tránh không thoát, không còn cách nào khác đành nói: "Hoàng thượng đã đem thiếp gả cho hầu gia rồi. Chàng hãy bỏ tâm tư này đi, mau li khai! Nếu không không còn mạng thật đấy!" 

"Ta không đi! Nàng đã nói rồi, chỉ cần ta giúp nàng làm chuyện đó, nàng cái gì cũng đáp ứng ta! Ta muốn mang nàng đi. Ta không thể để nàng lấy tên hầu gia quỷ sắc đó được...." Nói xong, hai tay của y giữ chặt đùi của Lữ Hoàn Cơ, nói sao cũng không buông. 

Dương Thu Trì khẽ hừ một tiếng, mặt sậm sì chuyển thân đi tới cửa phòng. Lý công công và Kỷ Cương vội bám theo. Đến cửa phòng, thấy cửa đóng chặt, hiển nhiên là khóa từ bên trong. 

Dương Thu Trì nhìn Lý công công. Lý công công gật đầu, giơ tay phải lên, phành một chưởng đã đánh nát hai cánh cửa bật vào trong! 

Trong bụi cát tung bay, Dương Thu Trì đạp bước tiến nhanh vào phòng. Lý công công và Kỷ Cương cũng bám nhanh theo. Nhưng người đi theo xem náo nhiệt cũng như bầy ong cùng tiến vào. 

Nam nhân quỳ dưới đất có thân hình khôi ngô, tướng mạo đường đường, thập phần anh tuấn. Chỉ có điều, y hiện giờ đã sợ đến mặt tái nhợt, đang hoảng loạn đứng dậy. Đợi khi nhìn rõ mọi người, sắc mặt y càng tái nhợt, chẳng còn hạt máu nào. 

Lý công công sẩm mặt, quát lạnh: "Cẩu giản (*), ngươi thật là to gan!" 

Kỷ Cương phất tay, quát: "Bắt lại cho ta!" 

Các đại hán cẩm y vệ xông lên, đè nam nhân đó trói lại. Nam nhân ấy không dám chống đối, xem ra đã sợ quá rồi. 

Kỷ Cương quay người lại, nhìn trừng vào đám cẩm y vệ và đại nội thị vệ đang xem náo nhiệt: "Muốn xem náo nhiệt thì đến gần lại một chút, ở đó xa lắm, xem cho rõ con chó mới của hầu gia đây." 

Những người ấy nghe nói thế, sợ quá chạy ra ngoài hết như bầy ong vỡ tổ. 

Dương Thu Trì sậm sì mặt mũi, nhìn nam nhân trừng trừng, hỏi: "Ngươi này là ai?" 

Lý công công nhíu mày nói: "Hắn là một tiểu đầu lĩnh trong cung, tên là Cẩu Giản, thật là lòng tặc to bằng trời rồi!" 

Hôn sự này là do hoàng thượng tứ hôn, liên quan đến tân phu nhân của Dương hầu gia. Không ngờ hôn sự chưa xong, động phòng chưa nhập thì đã xảy ra chuyện này. Lý công công và Kỷ Cương hai người chẳng thể đưa ra được chủ ý gì, đều nhìn về phía Dương Thu Trì. 

Dương Thu Trì bước đến trước mặt Cẩu Giản đang bị trói chặt, nhìn ytrừng trừng, giơ tay tát mạnh vào mặt y một cái. Dương Thu Trì đã tập luyện nội công được nửa nam, cú tát này rõ ràng có lực hơn trước nhiều, khiến cho Cẩu Giản ngã lăn quay, máu mũi máu miệng chảy đầy, hai cái răng rụng rớt ra ngoài. 

Khí khái anh hùng của Cẩu Giản lúc đó không còn gì nữa, hàm hồ cầu xin tha mạng không ngừng. Lữ Hoàn Cơ ngồi bên giường sụt sùi khóc. 

Dương Thu Trì chẳng nói hai lời, chuyển thân bước lại cạnh Nam Cung Hùng, rút cây tú xuân đao đeo ở eo y xuống giơ đao sầm mặt bước thẳng tới chỗ Cẩu Giản, khiến cho y hoảng sợ xin tha lia lịa.

Kỷ Cương và Lý công công vội ngăn hắn lại. Lý công công nói: "Thỉnh hầu gia bớt giận, người này tạm thời không thể giết, làm sao hắn lại to gan lớn mặt dám trong đêm tân hôn của hầu gia đến chòng ghẹo tân phu nhân vậy, trước hết phải tra cho rõ, nếu không hoàng thượng mà hỏi ra, làm sao báo đáp đây?" 

Dương Thu Trì tức giận quát ầm như sấm: "Không được, ta phải giết đôi gian phu dâm phụ này trước! Hoàng thượng mà muốn trách tội, thì ta thế hai cái mạng cho chúng là cùng!" 

Kỷ Cương nghe Dương hầu gia chẳng những muốn giết nam nhân này, mà còn muốn giết cả Lữ mỹ nhân, lập tức hoảng sợ. Nhưng mà cũng chả trách, ngày tân hôn đại hỉ của mình lại chính là lúc bị cho cắm sừng, ai lại không tức giận chứ. Y vội vã khuyên: "Hầu gia, Lý công công nói đúng a, chúng ta hãy tra chuyện này cho rõ, đây là hôn nhân do hoàng thượng ban tứ, phải tra cho rõ rồi chờ hoàng thượng xử lý mới ổn." 

Dương Thu Trì bấy giờ mới quẳng đao qua một bên, hậm hực bảo: "Dù gì không lột da đôi gian phu dâm phụ này, lão tử quyết không nguôi." 

"Đúng đúng!" Kỷ Cương luôn miệng an ủi, thấy phu nhân mới của Dương Thu Trì thông gian với người ta, chuyện náo nhiệt này qủa thật là có ý nghĩa a! Kỷ Cương mấy lần suýt cười thành tiếng, phải cố ráng nhịn, khiến cho quai hàm đến mệt cả ra. 

Đến lúc này, Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết, Liễu Nhược Băng, Hồng Lăng cùng mọi người nghe tin chạy đến, đều thập phần kinh ngạc, đương nhiên cũng thầm cao hứng. Phát sinh chuyện lớn thế này, hôn sự đương nhiên là không thành rồi, thánh chỉ không cần phải kháng nữa! Họ có thể danh chánh ngôn thuận từ chối hôn sự này, hoàng thượng chỉ đành phải đồng tình với Dương Thu Trì mà thôi. 

Chuyện này xảy ra xong phải chờ coi kết quả thế nào mới đi đến quyết định nên đối phó ra sao với chuyện của Hồng Lăng. Lý công công hòa nhã mời Dương mẫu cùng mọi người rời khỏi đó, chờ bọn họ tra rõ sự tình sẽ bẩm báo với thái phu nhân. Dương mẫu cùng mọi người bấy giiờ mới nén vui mừng bước đi. 

Bọn họ cao hứng, Dương Thu Trì càng cao hứng. 

Vừa rồi khi đến thư phòng thu thập trang bị của mình, hắn phát hiện hại thị nữ Triều Tiên có vẻ mờ ám, lòng cả kinh. Hắn thật ra không ngờ Lữ mỹ nhân có gian tình gì, mà là sợ bọn họ đang nhắm tới số trang bị của hắn. 

Vội vã tiến vào thư phòng xem xét, hắn thấy lớp bố bao tủ hợp kim của mình vẫn còn nguyên, không có ai động qua, bấy giờ mới yên tâm. Tuy nhiên, hắn lại phát hiện sắc diện của Lữ mỹ nhân có phần hoảng hốt, cảm thấy kỳ quái, tiếp đó phát hiện ở tủ đồ lớn có cửa tự động khép kín lại một cách rất chậm chạm, tức thì minh bạch là trong đó có người. 

Lúc này, hắn đã đoán trong đó có khả năng là có gian tình gì, nên cố ý thân mật sàm sỡ với Lữ mỹ nhân, thử tạo sự kích động cho người trong tủ, đồng thời nói với Lữ mỹ nhân là hắn còn bận đi uống rượu, để cho hai người họ cho rằng hắn không có thời gian quan lại, có thể yên tâm nói chuyện. Sau đó, hắn không động sắc mặt, tới lấy cái máy kỹ thuật số giám sát. 

Sau khi ra ngoài mở ra nhìn, quả nhiân hắn phát hiện có một nam nhân tiến vào phòng, nói chuyện với Lữ Hoàn Cơ. Thái độ của hai người rất thân mật, người nam có hơi say, không ngừng nói không muốn Lữ Hoàn Cơ lấy Dương hầu gia, muốn cùng nàng tư bôn. Lữ Hoàn Cơ dịu giọng an ủi nam nhân đi, vừa lúc đó thì hắn tiến vào. 

Cũng không trách, trong thâm cung đại viện, chỉ có hoàng thượng là nam nhân, mấy nghìn nữ nhân đều tranh, tranh không được thì xuân cung tịch mịch, nếu nhịn không được tịch mịch thì buộc phải hồng hạnh xuất tường, ngầm đi kiếm nam nhân khác. 

Nhưng mà, trong hoàng cung ngoại trừ những thái giám không có "kê kê (vật giống)" ra, thì những nam nhân khác không thể tiến vào. Lữ mỹ nhân này làm sao quyến rũ nam nhân này? 

Bất quản là họ làm sao dính với nhau được, bất quản là họ cái ái tình thật sự hay không, nếu như bọn họ đã đụng vào vết thương của hắn, đừng trách hắn vô tình! 

Dương Thu Trì vào phòng khách đem chuyện này nói cho Tống Vân Nhi, bảo nàng lén lên nóc nhà giám thị. Tống Vân Nhi đương nhiên biết chuyện này vào lúc này có ý nghĩa như thế nào, nên len lén lên mái nhà, trong quá trình giám thị đã phát hiện nam nhân chui ra tủ tiếp tục nói chuyện với Lữ Hoàn Cơ, liền len lén đánh cho hai thị nữ Triều Tiên gác cửa hôn mê đi, rồi nhanh chóng chạy đi báo cho Dương Thu Trì. 

Dương Thu Trì thực ra đang ngồi uống rượu chờ tin, cố ý lớn tiếng, rồi sau đó giả vờ phẫn nộ, mang theo Kỷ Cương, Lý công công cùng những người đi bắt gian đến bắt tại trận đôi gian phu dâm phụ, sau đó lấy tư cách là người bị hại định giết hai người. Kỷ Cương và Lý công công không rõ nội tình, đương nhiên mắc mưu bước lên khuyên giải. 

Đến lúc này, Hạ Bình mang theo các cẩm y vệ nữ hộ vệ kéo đến. Kỷ Cương ra lệnh cho giam Lữ Hoàn Cơ và hai thị nữ người Triều Tiên lại, rồi thẩm vấn riêng Cẩu Giản trước. 

Kỷ Cương hỏi Cẩu Giản: "Ngươi làm cách nào cấu kết với Lữ Hoàn Cơ hả?" Nếu như đã xảy ra chuyện gian tình thế này, Lữ Hoàn Cơ đừng tưởng tiếp tục làm tân phu nhân của hầu gia nữa, và cũng đừng mong trở về hoang cung tiếp tục làm mỹ nhân, mà chờ bị bỏ vào nồi nước mổ heo mà thôi. 

Cẩu Giản phun ra một ngụm máu, đáp: "Đại nhân tha mạng a, đây đều là nàng ta quyến rũ tôi." 

"Đánh rấm!" Kỷ Cương quát, "Ả hôm nay thành thân với hầu gia, người đã đến hầu tước phủ rồi, làm sao lại có thể quyến rũ ngươi? Ngươi lợi dụng cơ hội đưa dâu hóa trang lẻn vào trong hầu tước phủ, làm sao lại thành ả ta quyến rũ ngươi?" 

Những thiếp thân hộ vệ của Kỷ Cương lập tức ngầm hiểu ý, bước tới chụp lấy tay của Cẩu Giản, sử dụng phương pháp bức cung truyền thống và đơn giản nhất của cẩm y vệ đó là "đoạn chỉ đại pháp", bẻ gãy từng ngón tay của Cẩu Giản, tiếng lách cách vang lên không ngừng, từng lóng từng lóng một, khiến cho Cẩu Giản kêu thảm liên hồi, ngất đi. 

Tiếp sau đó, cẩm y vệ dùng nước lạnh đổ cho y tỉnh, Cẩu Giản rên rĩ nói: "Tôi xin khai...., năm trước sau khi Hiền phi nương nương bệnh mất, trong thời gian xây dựng lăng mộ, di thể có đặt trong hầm băng của hoàng cung. Lúc đó tôi phụ trách mang thị vệ thủ hộ, có một ngày Lữ mỹ nhân phái thị nữ đến xin một khối băng, chỉ định tôi đưa tới..." 

Hoàng cung có chỗ chuyên môn đặt hầm chứa băng dưới đất, nằm ở ngoài Bắc An môn của hoàng thành, dùng để giải nhiệt thoáng mát vào mùa hè và những việc khác. Người cổ đã biết dùng nhiệt độ thấp để bảo hộ thi thể, do đó, trước khi lăng mộ của Hiền phi nương nương được xây dựng xong, di thể của Hiền phi được lưu giữ trong băng khó. Đây là lý do tại sao khi khai quan nghiệm thây, Dương Thu Trì phát hiện tuy hiền phi chết đã nửa năm rồi mà thi thể vẫn bảo toàn rất tốt, chỉ hơi thối rửa một chút mà thôi, thì ra là tác dụng của việc giữ lạnh ở trong hàm băng thế này. 

Khi nghe Cẩu Giản khai là y phụ trách canh giữ di thể của Hiền phi, và Lữ mỹ nhân lại sai thị nữ tìm cách gọi y tới, Dương Thu Trì liền động tâm, ngầm cảm thấy trong đây có chuyện gì đó không ổn, liền ngưng thần lắng nghe. 

Cẩu Giản khai tiếp: "Tôi vận băng khối đến cung của Lữ mỹ nhân. Nàng ta gọi tôi vào phòng, nói tôi anh tuấn, nàng ta muốn... muốn hoan hảo với tôi, cởi quần áo ôm tôi, còn nói nếu tôi không đáp ứng, thì nàng ta sẽ kêu toáng lên nói tôi định cưỡng bức nàng ta...., tôi bị bức không còn cách nào, chỉ còn biết y lời..." 

Dương Thu Trì cười thầm, người ta thường nói: nữ mà theo đuổi nam thì dễ dàng như hai người chỉ cách một tờ giấy. Một mặt là định lực của nam nhân không đủ, mặt khác là chiêu vừa rồi của nữ nhân xem ra rất hữu dụng. 

Trong hoàng cung của Minh triều có hai bộ phân: bên trong cùng gọi là cung thành, từ nam Khởi Ngọ môn đến bắc Huyền Vũ môn, phân ra nội cung và ngoại cung. Ngoại cung là chỗ làm việc của hoàng đế, nội cung là chỗ ở của hoàng đế và các phi tần. Cung Thành là ở bên ngoài hoàng thành, là chỗ thiết đặt các cơ quan như Đô đốc phủ của năm thứ quân (tương đương Trung ương quân ủy), lục bộ (ngoại trừ hình bộ), cùng thái y viện, hàn lâm viện, cẩm y vệ và các cơ quan trung ương khác. Cung thành hợp với hoàng thành gọi là hoang cung, bên ngoài là kinh thành. 

Án chiếu theo quy củ, đại nội thị vệ chỉ có thể ở trong hoàng thành và ngoại cung của cung thành (tức nơi làm việc của hoàng đế) làm nhiệm vụ cảnh giới. Còn Lữ mỹ nhân và các phi tần của hoàng đế thì cư trú ở nội cung, đại nội thị vệ không thể tiến vào, chỉ có cung nữ và thái giám hầu cận. Cái này gọi là bên ngoài khẩn mà bên trong lỏng lẽo, trừ khi hoàng đế hay thị vệ có sự triệu hoán của phi tần thì mới được tiến vào, làm xong việc lập tức li khai. 

Do đó, Cẩu Giản chỉ có thể lợi dụng cơ hội đưa nước đá tới cho Lữ mỹ nhân mà hò hẹn cùng nàng, nhưng mà việc này cũng vô cùng nguy hiểm. 

Kỷ Cương hỏi: "Vậy hôm nay tại sao ngươi lại lẻn theo đến hầu tước phủ vậy?" 

"Sau khi tôi cùng nàng ta hoan hảo, thường mượn cơ hội đưa băng khối tới để gặp gỡ nàng ta. Như vậy là vô cùng mạo hiểm, nhưng... nhưng tôi cũng thật sự thích nàng ấy, liền thương lượng với nàng ấy cùng trốn đi, nàng ta không chịu, tôi... rơi vào tình cảnh không thể ngóc đầu. Hôm nay nghe nàng ấy sắp gả về cho Dương hầu gia, tôi đau lòng lắm, liền mượn cơ hội đưa lễ vật tống hôn đến hầu phủ, uống chút rượu, nhất thời kích động liền tìm đến nàng, muốn mang nàng đi trốn...." 

Kỷ Cương nghe y khai cũng khá hợp lý, bèn ra lệnh đem giam lại, cho đưa Lữ Hoàn Cơ lên. Lữ Hoàn Cơ chỉ khóc ròng, không chịu nói gì. Trước khi hoàng thượng tỏ rõ thái độ, Kỷ Cương vẫn chưa dám động hình với nàng ta, ra lệnh cho giải xuống, đưa một trong hai thị nữ người Triều Tiên lên. 

Ả thị nữ ấy trước đã bị Tống Vân Nhi đánh hôn mê, giờ đã được cứu tỉnh, biết gian tình của chủ bị bại lộ, đều sợ tái mặt. Kỷ Cương chỉ hơi động dụng một hai loại khốc hình, thì thị nữ này đã khai ra ngay, cách nói cũng tương đồng với Cẩu Giản, đơn giản chỉ là gian tình bên trong cung đình mà thôi.

Nhưng Dương Thu Trì không nhận thấy như vậy. Lữ Hoàn Cơ tại sao không quyến rũ thị vệ khác, mà cứ chọn người đứng đầu đội thị vệ bảo vệ di thể của Hiền phi nương nương? Hơn nữa phi tần của hoàng đế mà quyến rũ thị vệ thì nguy hiểm vô cùng, một khi bị phát hiện sẽ bị khép tội diệt môn. Lữ Hoàn Cơ nếu chỉ vì khát vọng ái tình mà làm như vậy là quá mạo hiểm, không hợp với lý thường. 

Đặc biệt là khi ba người họ nghe lén, Cẩu Giản đã từng nói một câu: "Nàng đã nói rồi, chỉ cần ta giúp nàng làm chuyện đó, nàng cái gì cũng đáp ứng ta!" Chuyện đó rốt cuộc là chuyện gì mà có thể khiến Lữ mỹ nhân cái gì cũng đáp ứng làm theo Cẩu Giản? Nhất định là không đơn giản. 

Nghe Dương Thu Trì phân tích, Kỷ Cương và Lý công công đua nhau gật đầu, bên trong nhất định có gì mờ ám! 

Và thế là, Kỷ Cương tiến hành khốc hình bức cung với hai thị nữ người Triều Tiên này, không hề dụ cung, và hai nữ tử Triều Tiên ấy làm sao chịu nổi sự tra tấn khắc nghiệt của cẩm y vệ, đều chia nhau khai hết. Lời khai của hai người cũng hoàn toàn giống nhau. 

Khẩu cung của hai người này khiến cho Kỷ Cương, Lý công công và Dương Thu Trì trợn mắt nhìn nhau, không ngờ sự tình lại như vậy. 

Kỷ Cương tới đây quả thật là vừa mừng vừa lo, ra lệnh cho đưa Cẩu Giản lên tra hỏi tiếp. 

Khi Cẩu Giản bị áp giải lên, lần này Kỷ Cương sậm sì nét mặt, quát: "Lữ Hoàn Cơ quyến rũ ngươi rốt cuộc là có mục đích gì? Ngươi hãy nghĩ cho kỹ cho lão tử, nếu không lão tử lột da ngươi!" 

Cẩu Giản run bắn người, cố cứng giọng khai: "Tôi... tôi đã khai rồi a, .... nàng ta nói tôi tướng mạo anh tuấn, thích tôi, muốn cùng tôi...." 

"Đánh rấm cái con mẹ ngươi!" Kỷ Cương đá một cước, trúng ngay mặt của Cẩu Giản, xương mũi gãy rụm, máu mũi vừa ngưng chảy lập tức phún ra như suối, ướt sủng cả mặt. 

Kỷ Cương chuyển thân nói với Dương Thu Trì: "Dương đại nhân, bổn quan muốn mượn thư phòng của ngài làm phòng thẩm vấn, được không?" 

Dương Thu Trì gật đầu: "Chỉ cần cạy miệng của chúng, phá án này, Chỉ Huy Sứ đại nhân cho dù có phá nát thư phòng này cũng được. Dù gì thì ta cũng chuẩn bị đốt hết thư phòng này, để tránh khỏi nhớ lại mà thêm bực!" 

Kỷ Cương cười hăng hắc, tiếp đó phất tay, mấy cẩm y vệ bước lên phân biệt chụp hai cánh tay của Cẩu Giản. Rắc rắc hai tiếng, họ đã bẻ gãy xương vai của y, đau đến nổi Cẩu Giản suýt ngất đi. 

Cẩm y vệ cởi dây trói cho y, cho dựng lên giá gỗ, trói căng hai tay ra hai giá sách lớn, rồi xoạt một cái xé rách y bào sau lưng y. 

Một cẩm y vệ cầm một cây đuốc đốt sau lưng Cẩu Giản một hồi, sau đó cầm một mũi đao mổ trâu lên, rạch đánh xoẹt sau lưng y, sau đó lấy mũi dao cẩn thận vít một góc da ngay miệng vết thương, dùng miệng cắn mũi đao, hai tay cầm lấy da lật kéo ngược, từ từ xé toạt xuống dưới. 

Cẩu Giản dài giọng gào thét, âm thanh vừa cao vừa ghê rợn, chấn động cả màn nhĩ. 

Tên cẩm y vệ ấy chảng hề động tâm, cứ tiếp tục từ từ lột da lưng của Cẩu Giản xuống tới eo mới buông tay. Miếng da người đó lập tức quắn lại, sau lưng Cẩu Giản lập tức lộ ra một lớp da thịt máu huyết mơ hồ, máu không ngừng ứa ra chảy xuống đất, mặt đất đã đọng một vũng máu nhỏ. 

Trong quá trình này, Cẩu Giản bị đau ngất đi tỉnh lại mấy lần, nhưng vẫn kiên trì không khai. 

Một cẩm y vệ khác lấy tới một chậu muối rồi giống như người gieo mạ rảy mạnh vào vết thương đầy máu của Cẩu Giản! Cẩu Giản lại kinh khủng hét dài, đầu không ngừng đập vào giá sạch, định bụng đập đầu tự vẫn, miễn phải chịu sự đày ải thống khổ thế này. Nhưng ở đầu của hắn chỉ có một sợ dây để giữ sách và một vài cuốn sách mỏng, cụng đầu vào chẳng có tác dụng gì. 

Sau khi rãi muối, cẩm y vệ lại dùng tay vốc một vốc muối lần, không ngừng chà sát lên vết thương! 

Đau đớn kịch liệt dường như khiến cho gương mặt anh tuấn của Cẩu Giản nhăn nhúm méo mó trở thành ma quỷ, hai môi đã bị y cắn nát, răng nghiến trèo trẹo, máu huyết lâm li. 

Cẩu Giản cuối cùng thở hỗn hễn kêu lên: "Tôi khai... tôi xin khai..." 

"Nói!" 

"Lữ Hoàn Cơ quyến rũ tôi... là để tôi... tôi đổ độc dược tì sương vào... di thể của Hiền phi nương nương... để hãm hại Lữ Viên Thiện Lữ mỹ nhân....." 

Lời nói của y hoàn toàn phù hợp với hai thị nữ người Triều Tiên! Ba người này bị phân biệt thẩm tấn, không hề dụ cung, và lời khai hoàn toàn phù hợp, ấn chứng mọi lời khai là thật. 

Và sau khi khẳng định sự thật, thì án Lữ Viên Thiện hạ độc giết hại Hiền phi nương nương hoàn toàn là một án oan! 

Thì ra, hai nữ tử người Triều Tiên này đều được hoàng thượng sắc phong mỹ nhân. Hoàng thượng tứ hôn cho Dương Thu Trì lấy mỹ nhân Lữ Hoàn Cơ này vốn là người tranh đua sủng ái, đã kết oán với Lữ mỹ nhân Lữ Viên Thiên là người bị Minh Thành Tổ dùng bàn ủi nóng đốt chết hôm trước. Hai ngươi vốn đã sản sinh cừu oán từ trước, nên Lữ Hoàn Cơ muốn mượn cơ hội Hiền phi chết để báo thù. 

Hiền phi bị bệnh chết, trong khi đó thị nữ hầu hạ Hiền phi lại là người đã từng hầu hạ Lữ Viên Thiện mỹ nhân. Cho nên, Lữ Hoàn Cơ mỹ nhân liền nghĩ ra độc kế hãm hại Lữ Viên Thiện, để tranh phần sủng ái của hoàng thượng về mình. 

Nàng ta thiết kế quyến dụ Cẩu Giản là đội trưởng thị vệ canh giữ băng khố chứa di thể của Hiền phi. Lữ Hoàn Cơ này trời sinh cho cái đẹp, vô cùng kiều mị, dùng bản lĩnh của nữ nhân khiến cho Cẩu Giản mê đến thần hồn điên đảo, rơi vào lưới tình không thể thoát ra, cam tâm tình nguyện làm mọi thứ theo ý của nàng!

Trong thời bấy giờ, quyển sách "Tẩy oan lục" chuyên về pháp y của thời Tống đã quen thuộc với mọi nhà, được ngỗ tác và những quan sứ dùng làm sách gối đầu, là lề lối cho công tác nghiệm thây. Lữ Hoàn Cơ đương nhiên biết các nhân viên nghiệm thây của Trung Quốc thời đó khi khám nghiệm thi thể sẽ kiểm tra xem coi có trúng độc hay không, và chiêu "Ngân châm tham hầu" là thứ hoàn toàn có khả năng sử dụng, thậm chí tỷ lệ chiếm trong mười trường hợp. 

Do đó, trước khi hoàn công lăng mộ của Hiền phi, Lữ Hoàn Cơ bảo Cẩu Giản lợi dụng cơ hội canh chừng di thể của hiền phi trong băng khố, dùng tì sương chứa trong một ly trà nhỏ đổ vào ống trúc thọc sâu vào cổ họng của thi thể hiền phi. Thi thể bị đổ độc dược ấy sau đó bị chôn vào trong lăng mộ. 

Tiếp theo đó, Lữ Hoàn Cơ cho bè đảng của mình là hai thị nữ người Triều Tiên đi khắp nơi lan truyền tin tức, nói là Hiền phi chất không minh không bạch, nói không chừng là bị hại chết. Lời này cuối cùng truyền đến tai của hoàng thượng Minh Thành Tổ, khiến cho ông ta nảy lên sự nghi ngờ, cuối cùng quyết định điều Dương Thu Trì về điều tra phá án này. 

Và không ngờ điều tấu xảo chính là: khi Dương Thu Trì khám nghiệm thi thể của phi tử sủng ái nhất của hoàng thượng Minh Thành Tổ, đã không dám sử dụng những biện pháp khám nghiệm thi thể thông thường của pháp y hiện đại, thậm chí không dám cởi y phục trên thi thể của hiền phi để tiến hành khám nghiệm dáng vẻ bên ngoài, mà dùng phương pháp thử độc có ghi trong "Tẩy oan lục", tức Ngân châm tham hầu, và do sau khi người chết không hề có động tác nuốt, nên chút tì sương trong trà này cứ dừng lại ở cổ của Hiền phi, và khi cắm ngân châm vào thử đã khiến ngân châm biến thành màu đen, đưa ra kết quả sơ bộ trùng khớp với kế mưu của Lữ Hoàn Cơ. 

Kế quả nghiệm độc không chính xác này lại bị Kỷ Cương do gấp gáp lập công đã tống trình lên Minh Thành Tổ, và Minh Thành Tổ trong cơn thịnh nộ, lập tức phải Kỷ Cương tiến hành điều tra những người liên quan thông qua hình tấn bức cung. Và những người bị tra khảo đương nhiên không biết sự chân giả thế nào, dưới tác dụng của những biện pháp tra tấn khủng khiếp, đã buộc phải khai nhận bừa, và khẩu cung nếu so ra thì chẳng hề trùng khớp nhau. 

Nhưng khi Lữ Hoàn Cơ nhìn thấy thời cơ chín mùi, liền cho hai thị nữ người Triều Tiên phát tán lời đồn, nói là Lữ Viên Thiện mỹ nhân đã từng cãi vả với hiền phi, còn trào phúng Từ hoàng hậu đã chết và Hiền phi nương nương. Bản thân Lữ Hoàn Cơ lại còn thản nhiên nhắc khéo Minh Thành Tổ, nói thị nữ thiếp thân của Hiền Phi là Liên nhi đã từng là thị nữ hầu hạ cho Lữ Viên Thiện mỹ nhân. 

Minh Thành Tổ quả nhiên rơi vào kế của Lữ Hoàn Cơ, lập tức cho bắt hết những thị nữ và thái giám bên cạnh Lữ Viên Thiện tiến hành tra khảo xét hỏi. Dưới khốc hình, những kẻ này đều thuật theo lời mớm cung mà khai, thừa nhận đã từng nghe Lữ Viên Thiện mỹ nhân đã từng trào phúng Hiền phi nương nương và Từ hoàng hậu đã mất. 

Tiếp theo đó, Kỷ Cương lại dùng khốc hình bức cung đối với thị nữ Liên nhi. Liên nhi chịu không nổi sự tra tấn, khai loạn lên là mình đã chịu sự sai khiến của Lữ Viên Thiện mỹ nhân, đêm đó đã bỏ tì sương vào trong trà của Hiền phi nương nương. Và tì sương này là do chưởng ấn thái giám Kim Lương và Tùy đường thái giám Kim Đắc hai người chịu sự chỉ sử của Lữ Viên Thiện mỹ nhân đi tìm người thợ bạc tên là Hứa Tứ để mua. Tiếp đó, Kỷ Cương lại dùng khốc hình bức cung đối với Kim Lương và Kim Đắc. Khốc hình của cẩm y vệ tàn nhẫn và khủng khiếp đến nỗi không có ai có thể chịu được, đương nhiên hai người này cũng thuận theo lời mớm mà khai. 

Minh Thành Tổ được Kỷ Cương hồi báo, tức thời nổi giận đùng đùng, đại khai sát giới, cho chém cung nữ thái giám liên can mấy trăm người, còn tự thân dùng bàn ủi sắt nung nóng đốt Lữ Viên Thiện mỹ nhân, hành hạ nàng ta hơn mười ngày cho đến khi chết hẳn. 

Lần này gian tình của Cẩu Giản và Lữ Hoàn Cơ lộ ra, Kỷ Cương hiểu rằng mình vì tham công mà kết tội Lữ Viện Thiện mỹ nhân hạ độc giết chết Hiền phi nương nương, đó hoàn toàn là một án oan từ đầu tới cuối! 

Kỷ Cương quả thật tức thở khì khì, sai người đưa Lữ Hoàn Cơ mỹ nhân lên. 

Lữ Hoàn Cơ bị đưa đến, Kỷ Cương cho đọc lại lời khai của Cẩu Giản và hai thị nữ người Triều Tiên, Lữ Hoàn Cơ nghe xong biết đại thế đã mất, sắc mặt tái nhợt, ngồi phịch xuống đất. 

Kỷ Cương lạnh lùng nói: "Lữ Hoàn Cơ, ngươi khinh khi lừa dối thánh thượng, hãm hại Lữ Viên Thiện mỹ nhân, tội không thể tha, ngươi muốn khai hay là muốn chịu cái khổ thịt da?" 

Lữ Hoàn Cơ lắc đầu thảm não: "Ta không hại ả, ả cũng sẽ hại ta! Nữ nhân đó âm hiểm giảo trá. Phụ thân của ả là hộ quân Lữ Quý Chân, trước đây đã từng hãm hại phụ thân ta. Tuy lần này cùng nhập cung, nhưng ả nhất mực toan tính hại ta. Chỉ có điều ả đã bị ta ra tay thành công trước thế thôi. Nếu không, người bị bàn ủi thiêu đến chết chỉ sợ chính là ta. Sự tình này là do ta làm, ta không có gì để nói, các người cứ giao ta cho hoàng thượng xử trí đi...." 

Dương Thu Trì nhìn đôi mắt to đầy sóng nước như biết nói của nàng, lòng chùn xuống, thì ra, hai vị Lữ mỹ nhân này chẳng những là tranh giành sự sủng ái, mà khi ở Triều Tiên hai nhà còn có thù oán nữa. Oán thù này đã tiếp tục kéo dài sang thế hệ của họ. 

Bốn người đều đã khai nhận tội lỗi, tiếp theo chỉ có việc vào cung bẩm báo. 

Dương Thu Trì chạy trở về phòng khách, lấy từ tay Phùng Tiểu Tuyết cái bao có chứa kim thư thiết khoán, giao cho Liễu Nhược Băng cầm, rồi nhỏ giọng dặn dò Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi mục đích của chuyến đi này. Sau đó hắn mang theo hai nàng cùng Kỷ Cương và Lý công công ba người dẫn đầu các cẩm y vệ áp giải Lữ Hoàn Cơ cùng ba phạm nhận còn lại tiến vào hoàng cung. 

Sau khi hỏi, họ biết Minh Thành Tổ đang ở thư phòng trong Càn Thanh cung. 

Đến ngoài cung, Dương Thu Trì len lén tiếp lấy cái bao chứa miễn tử kim bài từ tay Liễu Nhược Băng đút vào người, cho Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi ở ngoài chờ, sau đó cùng Kỷ Cương, Lý công công áp giải Lữ Hoàn Cơ và phạm nhân tiến vào Càn Thanh cung. 

Minh Thành Tổ nghe Kỷ Cương báo cáo, mặt sầm lại như đêm tối trước cơn mưa gió bảo tuyết, tự thân tra hỏi bốn người, xác định là thật. 

Thần là hoàng thượng, thế mà ông ta lại bị phi tần của mình bày kế, hơn nữa còn bị thuộc hạ của mình cắm sừng. Điều này khiến Minh Thành Tổ đột nhiên bừng lửa giận, lạnh lùng hỏi Lữ Hoàn Cơ: "Ngươi vì sao lại tư thông với thị vệ?" 

Lữ Hoàn Cơ biết đại hạn đã đến, không có cách gì tránh được, cười thê thảm: "Ngài tuổi già suy nhược, thế mà lại muốn có nhiều nữ tử như vậy, sao không khỏi khiến cho bao người con gái phải chịu cảnh lỡ làng ôm gối chiếc uổng cả đời xuân? Ngài có biết có bao nhiêu cung tần mỹ nữ buộc phải cùng bọn hoạn quan 'Đối thực' (Chú: Hành vi tình dục của cung nữ thái giám trong cung, làm trò nam nữ nhưng do thiếu khả năng tính dục của nam, nên thường "ăn nhau", dùng miệng để thỏa mãn nhau.ND). không? Làm những chuyện điên loan đảo phượng, giả gà giả vịt đó chẳng phải là vì tịch mịch hay sao? Cái đó có gì mà tội?" 

"Vô sỉ!" Minh Thành Tổ tức muốn điên lên, ra lệnh lập tức mang Lữ Hoàn Cơ, hai thị nữ người Triều Tiên cùng thị vệ Cẩu Giản ngoại tình với Lữ Hoàn Cơ ra ngoài lăng trì xử tử. Rồi đưa toàn bộ cung nữ và thái giám trong cung có liên quan đến Lữ Hoàn Cơ chém chết ngay, lên đến mấy trăm người. 

Lại một trường chém giết đầy máu tanh. Dương Thu Trì bấy giờ đã thực sự cảm thụ được sự tàn nhẫn, hiếu sát, và lãnh khốc vô tình của Minh Thành Tổ. 

Đương nhiên, Minh Thành Tổ còn ra lệnh cho sửa lại án sai, xóa bỏ mọi tội lỗi của Lữ Viên Thiện mỹ nhân cùng những người liên quan, đưa xác của Lữ Viên Thiện dùng lễ chôn cất của phi tần chôn cho nàng thật trang trọng, và cấp tiền phủ tuất cho những người nhà có người chịu tội liên can bị giết ở đại Minh và ở Triều Tiên. 

Sau khi hoàn thành mọi chuyện, Minh Thành Tổ lạnh lùng nhìn Dương Thu Trì, một lúc lâu mới hỏi: "Dương ái khanh, trẫm cho ngươi tra án Hiền phi bị hại, đây là kết quả ngươi cấp cho ta hay sao?" 

Dương Thu Trì biết, đối với một bạo quân như Minh Thành Tổ, thì cầu xin chẳng khác nào mời gọi cái họa sát thân, chi bằng đem lý ra nói với ông ta. Minh Thành Tổ tuy tàn bạo, nhưng là người thưởng phạt phân minh, biết sai có thể sửa, xem ra không phải là người không biết giảng lý. 

Dương Thu Trì khom người thưa: "Vi thần dùng ngâm châm tham hầu, xác định là Hiền phi có khả năng bị đánh độc mà chết, nhưng chưa hề quyết đoán, vi thần vốn muốn trở về tiếp tục điều tra, nhưng... nhưng mà thị nữ Liên nhi, chưởng ấn thái giám Kim Lương, tùy đường thái giám Kim Đắc, tên thợ bạc, hai vị thái y cùng những người khác đều đã bị xử tử hết rồi. Vi thần... vi thần không có cách nào tra tiếp." 

Minh Thành Tổ hơi ngẩn người, nhớ lại lúc trước Dương Thu Trì đích xác là có đề cập đến chuyện này, nói rằng án này có rất nhiều chỗ hở, không thể từ chuyện cổ họng Hiền phi có độc mà đoán định là nàng bị đánh thuốc độc chết, có khả năng là chết rồi mới bị người ta đổ thuốc độc. Nhưng do ông ta lúc đó tin vào khẩu cung do hình tấn mà có được, không chờ Dương Thu Trì trở về đã loạn khai sát giới, giết sạch những người có thể làm chứng. Và lúc đó ông ta cũng cho rằng án này đã tỏ rõ đành rành, không cần Dương Thu Trì tra tiếp nữa, nói cho cùng thì không thể nào trách Dương Thu Trì. 

Lời nói của Minh Thành Tổ bắt đầu có chút hòa hoãn hơn: "Được, án đó tuy liên hệ đến án Lữ Hoàn Cơ hãm hại Lữ Viên Thiện, nhưng Hiền phi của trẫm rốt cuộc vì sao mà chết vẫn chưa có đáp án làm trẫm vừa ý. Dương ái khanh, trẫm muốn ngươi tiếp tục tra án đó, chỉ cần những việc cần cho tra án, ngươi có thể xét tình hình cụ thể mà quyết đoán, cho đến khi rõ ràng trắng đen mới thôi!" 

Dương Thu Trì quỳ xuống dập đầu: "Vi thần lĩnh chỉ." Có câu nói này của hoàng thượng, lá gan của hắn lớn hơn nhiều. Lần này hắn quyết tâm tra cho rõ rồi mới hồi báo với Minh Thành Tổ, tuyệt không thể để tên đầu heo Kỷ Cương này nhúng tay vào, để tránh khỏi những người vô tội bị liên can. 

Minh Thành Tổ cho Dương Thu Trì bình thân xong, thở dài một tiếng bảo: "Không ngờ trẫm cấp cho ngươi mỹ nhân lại chính là một nữ tử độc như rắn rết, ủy khuất cho ngươi, rất may là còn chưa chính thức nạp vào phòng. Như vầy đi, trẫm chọn cho ngươi một vị Triều tiên nữ tử khác. Để trẫm nghĩ coi, lần trước các tú nữ Triều Tiên tiếncung ai là người thích hợp hơn đây cà...." 

Dương Thu Trì cả kinh, một Triều Tiên mỹ cơ đưa đến cho hắn cũng là nhờ phúc tinh soi sáng mới âm soa dương thác rũ bỏ được, bây giờ thêm một cô nữa ắt không thể nào gặp may như vậy nữa đầu. Chuyện này cần phải ngăn chặn ngay từ đầu, để lỡ khi hoàng thượng mở miệng vàng, có câu quân vô hí ngôn, vua chẳng bao giờ nói xạo, thì nồi gạo là hắn đây chẳng phải bị nấu thành cơm rồi hay sao? Hắn vội vã khom người thưa: "Hoàng thượng, vi thần... vi thần không thể nạp thiếp nữa, thỉnh hoàng thượng thứ tội!" 

Minh Thành Tổ ngẩn người ra, hỏi: "Không thể nạp thiếp? Vì sao không thể?" 

"Vi thần đã từng nói với các thiếp thất trong nhà, rằng nếu như trong số họ sinh con trai cho vi thần, thì vi thần không nạp thiếp nữa. Thần không thể nói mà nuốt lời a, hoàng thượng!" 

"Như vầy thì đúng rồi, nạp thiếp dĩ nhiên là để sinh con cái, nhưng nạp thiếp không chỉ vì sinh con sinh cái không đâu nghe. Ví như.... ví như...." Minh Thành Tổ ra ví dụ cả nửa ngày mà không nói được thành lời, vì cứ cảm thấy nói những lời đó sẽ làm ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm, đành hàm hồ bảo: "Ví như thêm vài nữ nhân thì tăng thêm lạc thú ấy mà." 

Dương Thu Trì làm mặt khổ thưa: "Đối với người khác thì có thể là lạc thú, chứ còn đối với vi thần thì... chỉ sợ đó chính là sự khổ nạn khó chịu mà thôi." 

"Khó chịu? Mỹ thiếp hầu hạ mà khó chịu? Ha ha ha." 

"Không phải.... là mỹ thiếp vào nhà rồi, thì những thê thiếp vào trước đó có sắc mặt không hay chút nào. Hơn nữa, nếu có một hai ả có tính tình cương liệt thẳng thắn, nói không chừng sẽ bỏ nhà mà đi hoang cũng không chừng!" 

"Vậy à? Mấy con ác phụ như vậy giữ mà làm quái gì, viết một giấy hưu thư bỏ quách!" 

Dương Thu Trì lắc đầu: "Không thể bỏ a, bọn họ cùng thần chia sẻ hoạn nạn, thuộc vào hàng 'Tam bất khứ' rồi. Hơn nữa, lại còn sinh con trai cho vi thần nữa." 

Mắt hoàng thượng nheo lại: "Ngươi có phải nói đến tứ thiếp Liễu thị đó phải không?" 

"Dạ phải, hơn nữa, vi thần đã có sáu bảy mỹ thiếp rồi..." 

"Đúng đúng, Liễu thị của ngươi đích xác là dáng đẹp như hoa, cho dù để trẫm đem hết ba ngàn giai lệ ở hậu cung đây đổi một mình nàng ấy, trẫm cũng chịu ngay..." Minh Thành Tổ nói có phần hí hửng đắc ý, chợt thấy Dương Thu Trì biến sắc, liền hơi bối rối bổ sung: "Trẫm... trẫm chỉ là đang lấy ví dụ thôi.... hắc hắc, ái khanh bất tất để ý, có câu quân tử không giành cái sự thích của người khác a! Trẫm không chia rẽ một nhà các ngươi đâu. Khà khà khà." 

"Đa tạ hoàng thượng!" Dương Thu Trì khom người thưa. 

Minh Thành Tổ cười bảo: "Hồng Lăng cô nương với tứ thiếp Liễu thị của ngươi đều là quốc sắc thiên hương. Ngươi đem Hồng Lăng tiến cống cho trẫm, trẫm đã vừa ý lắm rồi. Hắc hắc, nếu như ái khanh ngươi không thể nạp thiếp nữa, trẫm cũng không miễn cưỡng. Nhung mà, ngươi đem Hồng Lăng đẹp như thiên tiên ấy hiến cấp cho trẫm, trẫm phải tìm cái gì đó bổ thường chứ a...."

Lúc Dương Thu Trì tiến cung thì đã nghĩ kỹ rồi, phải nói chuyện này cho rõ ràng mới được. Hắn thưa: "Hoàng thượng, vi thần trở về nhà, đem chuyện này nói cho Hồng Lăng nha đầu. Nàng ta.... ả thà tự cắt nát mặt chứ không chịu tiến cung, nếu không kịp thời ngăn chặn, thì mặt Hồng Lăng đã bị đao rạch nát rồi! Dù là thế, một bên tai của cô ấy vẫn bị mũi đao cắt thủng một lổ...." 

Mặt Minh Thành Tổ trầm hẳng: "Rốt cuộc là sao?" 

"Vi thần đem chuyện này báo cho Hồng Lăng xong, Hồng Lăng nói cô ta "gái ngoan không lấy hai chồng": Nếu như đã nói rõ sau này sẽ lấy vi thần, vậy đời này nàng sống là người của vi thần, chết làm quỷ của vi thần...." 

"Gái ngoan không lấy hai chồng? Nàng ta đã lấy ngươi chưa?" 

"Chưa..." 

"Hừ! Nói cho thẳng ra, nàng ấy lúc xưa chẳng phải là tiểu thiếp của người ta hay sao? Sau đó Mễ viên ngoại âm mưu phản loạn, bị phát hiện và bị trị tội, bấy giờ mới thưởng cho ngươi. Chỉ có điều lúc đó trẫm còn chưa biết... như vậy thì nói thế nào đây?" 

Dương Thu Trì cả kinh, xem ra hoàng thượng đã điều tra tình hình của Hồng Lăng rõ ràng hết rồi. Hắn lập tức thưa: "Cái đó là do Hồng Lăng thân bất do kỷ, từ khi nàng ấy theo vi thần, đã quyết tâm sống chết suốt đời cùng với vi thần." 

"Như vậy xem ra ái khanh ngươi không muốn đem Hồng Lăng dâng hiến cho trẫm rồi?" Âm thanh của Minh Thành Tổ đã lạnh đến cực điểm. 

Chuyện đến nước này đã không còn đường lui. Dương Thu Trì cố lấy hết tinh thần bình tĩnh đáp: "Dạ, vi thần và Hồng Lăng quyết cùng sống chết, hai người chúng thần đã tuy hai mà một, sống chết có nhau, thần không nỡ li khai Hồng Lăng, thỉnh hoàng thượng thứ tội." 

Lý công công và Kỷ Cương đều cả kinh. Trong cái nhìn của họ, vị Dương hầu gia này quả thật là uống phải thuốc lú rồi. 

Minh Thành Tổ mặt mày xám xịt, lâu sau đó mới lạnh lùng nói: "Nói như vậy là ngươi định kháng chỉ rồi?" 

Dương Thu Trì từ từ tháo mở túi vải trắng trên lưng xuống, đặt lên đất, mở lộ ra kim thư thiết khoán trong đó. Hắn dập đầu thưa: "Thỉnh hoàng thượng thứ tội, vi thần nguyện ý.... vi thần nguyện ý dùng kim thứ thiết khoán mà hoàng thượng ngự tứ đổi lại Hồng Lăng..." 

Lý công công kêu lên: "Dương hầu gia, chuyện này ngàn vạn lần không thể...!" 

Minh Thành Tổ phất tay, nhìn cái kim thư thiết khoán đen xì xì nằm trên mặt đất, tức quá hóa cười: "Ha ha ha, trẫm cho ngươi kim thư thiết khoán là để ngươi dùng để đối phó với thánh mệnh của trẫm hay sao?" 

Kỷ Cương ở bên cạnh lạnh lùng nói: "Dương đại nhân, kim thư thiết khoán này miễn tử, nhưng không bao quát tội kháng chỉ bất tuân a?" 

Dương Thu Trì ngẩng đầu: "Trên Kim thư thiết khoán có nói 'Trừ mưu nghịch không xét, nếu phạm những tử tội khác đều có thể miễn chết một lần.' Cái gọi là mưu nghịch là mưu phản làm hại cho xã tắc, phản bội tổ quốc, phá hủy tông miếu, sơng lăng, cộng đại nghịch trong cung cấm là ba đại tội mà thôi. Nội dung kháng chỉ của thần chỉ là không chịu đưa nha hoàng Hồng Lăng phụng hiến cho hoàng thượng, và một nữ tử đối với hoàng thượng mà nói thì chỉ thêm hay bớt một trong ba ngàn gai lệ trong cung mà thôi, không nguy đến xã tắc, không thuộc tội phản quốc, cũng không mưu hủy tông miếu, càng không thể kể đến tội bại hoại gì. Cho nên nó nằm trong phạm trù được miễn chết!" 

Ba người Minh Thành Tổ ngẩn ra. Dương Thu Trì dựa trên việc lý giải chỗ hở trên văn tự của Kim Thư Thiết Khoán, từ những ý nghĩa dựa trên văn tự mà xét, thì sự lý giải đó chẳng sai chỗ nào. Và ba người họ đối với dũng khí dám kháng chỉ bất tuân của hắn cảm thấy có mấy phần bội phục. 

Nhưng mà, bội phục thì bội phục, Minh Thành Tổ lúc này bị Dương Thu Trì chọc tức đến bốc khói. Ông ta chụp hộp mực trên long án, đập mạnh vào bình sứ cao bằng đầu kế bên. Bình hoa bị đập vang lên một tiếng xoảng lớn, vỡ vụng, từng mãnh vỡ rời rào rào. 

Minh Thành Tổ đưa tay chỉ Dương Thu Trì: "Ngươi... ngươi.... dám giởn mặt với trẫm!" 

Dương Thu Trì ưỡn ngục, đanh giọng: "Kim thư thiết khoán là hoàng thượng niệm tình vi thần giải cứu mấy vạn dân đói mà thưởng cho vi thần. Thần nhớ lời Lý công công nói, hoàng thượng bảo nếu như thần đã giải cứu tính mệnh của mấy vạn dân chúng, đập tan âm mưu phản loạn của Kiến Văn, tránh một tràng hạo kiếp, hoàng thượng mới thưởng cho thần miễn tử kim bài. Hôm nay thần dùng kim thư thiết khoán này đổi về Hồng Lăng, thỉnh hoàng thượng ân chuẩn!" 

Minh Thành Tổ đã tức khí đến hồ đồ, rống lên: "Nếu mà trẫm không chuẩn thì sao!" Lời vừa nói đến đây, cuối cùng cảm thấy có phần vô lại, nên nói tiếp: "Ngươi nên biết, cho dù ngươi dùng Kim thư thiết khoán miễn trừ tội chết do kháng chỉ bất tuân, án chiếu quy củ thì phải tước đoạt tước vị của ngươi, cách mọi chức vụ, biếm ngươi thành thứ dân!" 

Dương Thu Trì dập đầu, thưa: "Thần không oán không hối. Cảm tạ hoàng thượng coi trọng đối với thần, xin thứ thần không thể tiếp tục vì nước tận trung được nữa." Hắn lại dập đầu tiếp ba cái, đứng dậy, từ từ lùi ra cửa, chuyển thân định đi. 

Minh Thành Tổ quát: "Trở lại!" 

Dương Thu Trì chấn động tâm thần, chẳng lẽ Minh Thành Tổ này định hủy lời hứa của mình, trở mặt chẳng nhận miễn tử kim bài? Làm sao đây? 

Lúc đến đây hắn đã cùng Liễu Nhược Băng, Tống Vân Nhi thương lượng kỹ, vạn nhất không còn cách nào nữa, thì chỉ còn biết liều mình phản kích. Liễu Nhược Băng ở ngoài, khi nghe có tiếng súng lập tức xuông vào cung Càn Thanh tiếp ứng cho Dương Thu Trì. 

Nhưng hiện giờ làm sao đây? Dương Thu Trì chuyển biến tâm niệm như điện xẹt, rút súng hay sao? Hay là vẫn chờ, chờ nghe ý của lão nói thế nào, nếu như không ổn mới tìm cơ hội rút súng? Dù gì bọn họ hiện giờ không hề biết hắn có vũ khí bí mật này, không hề phòng bị. Đến lúc đó bắn chết Lý công công và Kỷ Cương trước, sau đó bắt giữ Minh Thành Tổ làm con tin, chờ Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi đến cứu viện. 

Nói thì nhanh, nhưng mọi ý tưởng chuyển qua đầu Dương Thu Trì rất nhanh. Hắn từ từ chuyển thân, quay trở lại, quỳ xuống, tay đặt lên cẳng chân phía ngoài, loại tư thế này rất dễ rút súng, hơn nữa càng ẩn mật hơn. 

Minh Thành Tổ nhìn Dương Thu Trì chằm chằm, thật lâu sau đó mới hậm hực nói: "Được được, trẫm chuẩn cho ngươi dùng Kim thư thiết khoán đổi Hồng Lang, trẫm sau này không yếu cầu ngươi tiến cống Hồng Lăng nữa! Tước vị và quan chức của ngươi trẫm cũng không miễn, để cho ngươi có cơ hội vì nước tận trung." 

Dương Thu Trì mừng rỡ, dập đầu mấy cái, hô vạn tuế ba lần. Mấy câu này hắn thực sự phát từ nội tâm. Tuy vừa rồi hắn có quyết tâm liều cho cá chết lưới rách, nhưng rốt cuộc hậu quả chỉ cần vỗ tay một cái là hết sạch mọi thứ đó thì có thể miễn được thì nên miễn. Lúc này Minh Thành Tổ không những cho phép hắn dùng Kim thư thiết khoán đổi về Hồng Lăng, mà còn không triệt chức quan của hắn, như vậy đó là kết quả không còn gì hay hơn nữa. Hắn vừa hưng phấn vừa cảm kích, vừa không hiểu vì sao Minh Thành Tổ lại như vậy. 

Minh Thành Tổ vừa rồi từ những lời Dương Thu Trì nói, nào là Hồng Lăng quyết sinh tử cùng Dương Thu Trì, thà rạch mặt chứ không chịu tiến cung, ông ta đã hiểu bản thân không thể nào có được cái tâm của Hồng Lăng nữa rồi. Sau đó, Dương Thu Trì lại dùng Kim Thư Thiết Khoán đổi Hồng Lăng, đã mất luôn hy vọng cuối cùng để có được Hồng Lăng từ chuyện gây sức ép với Dương Thu Trì. 

Ông ta dù sao cũng là một bậc đại kiêu hùng, chứ không phải là tình thánh. Ông ta giỏi nhất trong đời này về việc xét đoán quyền hành và lợi hại, nếu như giữa giang sơn và mỹ nhân phát sinh xung đột, thì ông ta đương nhiên chẳng do dự gì, tuyển chọn giang sơn! 

Năng lực phá án của Dương Thu Trì khiến cho ông ta vô cùng bội phục, đối với lòng trung thành như nhất của hắn cũng đã kinh qua nhiều nghiệm chứng thực tiễn. Cho nên, Minh Thành Tổ không những cần Dương Thu Trì để phá những án hình sự phổ thông, bảo đảm sự bình yên trong kinh thành, mà điều trọng yếu hơn chính là ông ta muốn Dương Thu Trì phát huy tác dụng trong cẩm y vệ, đem những kẻ dám có ý đồ mưu phản, nguy hại giang sơn xả tắc, loạn thần tặc tử có ý đồ không phải với ông ta moi từng tên từng tên ra hết, đảm bảo cho giang sơn của ông ta vững chắc, xã hội an bình. Đó chính là lợi ích tối cao dành cho ông ta và triều đại của ông ta, và Dương Thu Trì đang chính là một trong những kẻ bảo vệ trọng yếu cho lợi ích tối cao đó. 

Vì lợi ích tối cao này mà bỏ đi một Hồng Lăng có lợi ích nho nhỏ cũng đáng lắm chứ! Huống chi cái tâm của Hồng Lăng hiện không thuộc về ông ta. Nếu như dùng chuyện này để lấy được lòng trung của Dương Thu Trì vì ông ta mà cố sức làm việc hơn, thì đó mới là việc làm hợp với lợi ích tối cao của Minh Thành Tổ. 

Vì thế, Minh Thành Tổ gọi Dương Thu Trì lại, bắt đầu thực hiện chính sách mềm mỏng. 

Minh Thành Tổ nói: "Dương ái khanh, trẫm nhắc ngươi: Ngươi đã không còn Kim thư thiết khoán nữa, lần sao trước khi dám kháng chỉ bất tuân, hãy tự sờ cái đầu của mình trước đã." 

"Vi thần không dám, vi thần cảm kích hoàng thượng khoan thứ cho tử tội của vi thần, cho dù có máu chảy đầu rơi cũng không đủ báo đáp thánh ân của hoàng thượng." Dương Thu Trì nghĩ, chỉ cần ngươi không động tới nữ nhân của ta, chuyện gì khác cũng đều có thể thương lượng. Dù gì ta đã giết bao nhiêu là Kiến Văn dư đảng như thế, không một lòng hiệu trung với ngươi thì còn dựa vào ai?" 

"Được. Được vậy tốt lắm. Án của Hiền phi ngươi phải dụng tâm điều tra. Cũng là câu nói cũ, vô luận là tra đến ai đều phải tra cho đáo để, có sự tình gì có thể trực tiếp bẩm báo với trẫm." 

"Vi thần lĩnh chỉ." Dương Thu Trì dập đầu, Minh Thành Tổ lần này có thể nói là phán bảo ngay trước mặt Kỷ Cương, như vậy là dễ làm rồi, vì hắn có thể không cần báo cáo lên y nữa, để tránh cho y mang giày con nít gay khó khăn cho hắn. 

Rời khỏi cung Càn Thanh, Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi đều đang lo là Kim thư thiết khoán không thể giữ được Hồng Lăng, thấy hắn ra đều ào tới nghênh đón, đồng thanh hỏi: "Thế nào rồi?" 

Dương Thu Trì thở dài, lắc đầu, thấy hai người mặt mày đầy thất vọng, bấy giờ mới cười ha hả lớn tiếng bảo: "Được rồi! Hoàng thượng ân chuẩn cho ta dùng kim thư thiết khoán đổi Hồng Lăng rồi!" 

"Quá tốt rồi!" Hai người đồng thanh hoan hô. Hai nàng họ đều nhất mực hảo cảm với Hồng Lăng, đối với lòng trung trinh như nhất của Hồng Lăng vô cùng kính trọng, giờ phút này nghe tin tức này đều hoan hô reo hò. 

Liễu Nhược Băng nói: "Thu Trì, Hồng Lăng nha đầu khó kiếm lắm nghe, lần này về mau mau nạp em nó vào phòng đi, để cắt đứt hết lòng tơ tưởng của người khác, tránh để Hồng Lăng nha đầu cảm thấy ủy khuất." 

Tống Vân Nhi gật đầu nói: "Đúng vậy, ca, Hồng Lăng theo huynh vào sanh ra tử, lần trước vì để không liên lụy chúng ta mà muốn tự sát súyt chết, lần này vì để tránh cho huynh rơi vào thế khó, đã không tiếc rạch gương mặt đẹp như hoa của mình, thật khiến người ta kính trọng. Một cô gái tốt như vậy tìm được ở đâu ra chứ? Huynh không nạp người ta làm thiếp, muội cảm thấy huynh quá không phải với Hồng Lăng người ta rồi." 

Dương Thu Trì cười đến mặt sắp méo tới nơi: "Ta nạp thiếp hai người không ghen à?" 

Liễu Nhược Băng đáp: "Đã sớm nói rõ là nạp Hồng Lăng nha đầu rồi. Nhưng mà, đây là một nàng cuối cùng đó nghe, không có người nào nữa đâu, chàng mà dám nạp tiểu thiếp khác đó hả..." 

Dương Thu Trì cố ý chọc nàng: "Thì sẽ sao?" 

Liễu Nhược Băng cười điềm đạm: "Băng nhi chẳng làm sao cả, Băng nhi chỉ hi vọng phu quân chàng nói là biết giữ lời..." 

Dương Thu Trì thè lưỡi, kéo hai người vào lòng cười nói: "Biết rồi hai bà cô của ta ạ, ta có bảy người các nàng cảm thấy quá đủ rồi, thiên hạ nhiều nữ nhân như vậy, dù sao cũng để dành cho người khác một hai người chứ, có phải không?" 

Tống Vân Nhi chề môi: "Còn mặt dày dám nói, nếu không xảy ra chuyện vừa rồi, huynh không phải đem con hồ li tinh đến từ Triều Tiên đó cưới về nhà hay sao?" 

Dương Thu Trì cười khổ: "Vân Nhi tốt à, ta thật không có lòng đó a! Đó là do hoàng thượng tứ hôn, ta làm gì còn cách nào khác. Hơn nữa, ta chẳng phải là đề xuất chúng ta bỏ lại mọi thứ đào tẩu hay sao?" 

Tống Vân Nhi định chọc ghẹo hắn thêm vài câu, bị Liễu Nhược Băng cản: "Được rồi, đừng chọc lão gia của chúng ta nữa a! Chúng ta mau về thôi, để tránh cho Hồng Lăng và mọi người lo lắng."

Ba người vui vẻ trở về Dương phủ. Sau khi xảy ra án tình của Lữ Hoàn Cơ, những người đến chúc mừng đã tản đi sạch hết. 

Vừa vào cửa, người gác cổng đã thông báo: "Lão gia, nhị phu nhân sắp sanh rồi! Đã rước ổn bà (bà đỡ đẻ) tới rồi, lão gia mau đến xem đi!" 

Dương Thu Trì và hai tiểu thiếp mừng rỡ, vội vã đi đến khu nhà vườn của Tần Chỉ Tuệ. Trong nhà đã đầy người, bao gồm cả Vân Lộ và Hàm Ninh công chúa cũng đều có mặt. Chúng nữ thấy Dương Thu Trì trở về, đều khẩn trương nghênh đón, hỏi tình huống thế nào. 

Dương Thu Trì hỏi tình hình của Tần Chỉ Tuệ trước, biết ổn bà đang tiếp sinh cho Tần Chỉ Tuệ ở trong phòng. Các ổn bà này đều là người của thái y viện, đều là ổn bà nổi danh trong kinh thành, có kinh nghiệm tiếp sinh cho các thê thiếp của vương công đại thần, không cần phải lo lắm. 

Dương Thu Trì hơi yên tâm, tiếp đó kể lại những chuyện đã kinh qua trong quá trình tiến vào hoàng cung. Tuy hắn chỉ kể sơ sài, nhưng mọi người đều biết có thể dùng Kim thư thiết khoán khiến cho hoàng thượng buông bỏ nữ nhân mà ông ta chỉ thẳng tên đòi lấy thì phải là người có lòng gan dạ thế nào, và phải trải qua quá trình kinh hải và hung hiểm thế nào... 

Hồng Lăng nghe thế cao hứng nhào vào lòng Dương Thu Trì, ôm hắn nhảy nhót, hoan hỉ đến nổi tuôn trào lệ nóng. 

Dương Thu Trì ôm eo Hồng Lăng: "Lăng Lăng, báo cho em một tin vui nữa, đêm nay ta sẽ nạp em vào phòng làm nàng sáu của ta, có chịu không?" 

Hồng Lăng vừa kinh vừa mừng, ửng hồng hai má, gật gật đầu ôm chặt Dương Thu Trì, hôn lên mặt hắn lia lịa. 

Hồng Lăng rất hay cả thẹn, có thể ở trước mặt mọi người hôn Dương Thu Trì như vậy chứng tỏ lòng nàng đã hạnh phúc và khoái lạc cho đến nỗi nàng không biết dùng phương thức nào khác để biểu đạt. 

Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết cùng mọi người đều cao hứng, bắt đầu thương lượng chuẩn bị hôn lễ thế nào. Để tránh đả kích hoàng thượng, tránh lời ra tiếng vào, cộng thêm sắc trời đã tối, nên họ quyết định bày biện đơn giản, chỉ ký văn khế, thỉnh Mã Độ, Ngưu bá hộ, Cố học sĩ (Nguyên là Cố phủ doãn) cùng các bằng hữu thân cận làm nhân chứng, rồi hợp lại chia vui một chút mà thôi. 

Những thiếp thất khác của Dương Thu Trì khi được cưới về đều tổ chức linh đình náo nhiệt, đến phiên của Hồng Lăng thì cắt cho gọn hết mọi thứ, nên mọi người cảm thấy rất ủy khuất cho Hồng Lăng. 

Chúng nữ đang thương lượng, thì nghe trong phòng truyền ra tiếng khóc của trẻ con. Thiếp thân nha hoàn Nguyệt Thiền của Tần Chỉ Tuệt vén rèm cửa, thò đầu ra thưa: "Thái phu nhân, lão gia, phu nhân, nhị phu nhân sinh rồi, là một tiểu thư." 

Dương mẫu hơi thất vọng, nhưng Dương Thu Trì thì lại cao hứng, vỗ tay reo: "Hay! Ta thích con gái lắm. Con gái biết thương cha thương mẹ, hạy! Một trai một gái một cánh hoa, hay hay!" 

Nguyệt Thiền nghe thế cảm kích cười, quay trở lại nói với Tần Chỉ Tuệ. Tần Chỉ Tuệ đang vì sinh ra con gái mà cảm thấy ủ rũ, nghe kể Dương Thu Trì nói thế, cảm kích hắn biết yêu thương hiểu biết, tâm tình cao hứng hẳn lên. 

Chúng nữ nghe lời Dương Thu Trì bảo, cũng đua nhau chúc mừng hắn và Phùng Tiểu Tuyết. 

Dương Thu Trì nói: "Hôm nay chúng ta song hỉ lâm môn, nhất định phải chúc mừng!" 

Tuy mọi thứ đều cố làm cho đơn giản, nhưng tin Dương hầu gia nạp thiếp nhanh chóng truyền đi, chẳng mấy chốc người chúc mừng đến đầy cả vườn. Các quan phó của nha môn Ứng Thiên Phủ và các thuộc hạ cẩm y vệ đều bội phục Dương Thu Trì, đến chúc mừng và biểu hiện kính ý rất đông. 

Khách đến quá nhiều, tửu yến nhất mực bày đến đường ngoài cửa chính, đương nhiên khi Dương Thu Trì gặp được nhiều bằng hữu sảng khoái như vậy, uống càng thêm sướng khoái. 

Kết quả, rượu vui uống quá nhiều, Dương Thu Trì cảm thấy choáng váng đứng không vững. 

Khi chuẩn bị đưa Dương Thu Trì tiến vào động phòng, chợt nghe ngoài Dương phủ có thanh la trống đánh dồn dập, pháo nổ pháo băng bay đầy, chiếu sáng cả kinh thành giống như rang lạc nổ giòn vọng tận tầng mây. Dương Thu Trì hơi ngạc nhiên, lắc lư đứng dậy nhìn. 

Người gác cổng chạy như bay vào, quỳ xuống bẩm báo: "Hầu gia, hoàng thượng phái người vận chuyển đến hơn mười xe lễ vật trùm kín vải đỏ, đặc biệt đến chúc mừng. 

Dương Thu Trì thập phần kinh ngạc, hắn cố gắng khiêm tốn, không ngờ hoàng thượng lại đưa lễ vật đến mừng, xem ra mọi chuyện hắn làm không thể nào vượt được đôi mắt của Minh Thành Tổ. 

Dương Thu Trì vội vàng ra đến cửa nghênh đón, người đến quả nhiên là Lý công công. Ông ta cười ha ha nói: "Dương hầu gia, hoàng thượng phái ta đến chúc mừng ngài, cung chúc hầu gia và Hồng Lăng cô nương bách niên hòa hảo, cộng hưởng bạch đầu!" 

Dương Thu Trì cười toét miệng, luôn miệng cảm tạ, mời Lý công công vào trong phủ. Tiếp đó, cẩm y vệ chỉ huy sứ Kỷ Cương cũng mang theo các quan nhỏ của cẩm y vệ đến. Dương Thu Trì hiểu rõ, một khi hoàng thượng không mở lời, hai người này không thể nào tới. Xem ra, chí ít hoàng thượng đã chấp nhận lời của hắn lúc ban ngày, và dùng hành động này để xác định rõ: ta chấp nhận ngươi dùng kim thư thiết khoán đổi Hồng Lăng, từ đây có thể triệt để yên tâm đi! 

Và tửu yến kế tiếp đó uống càng cao hứng hơn, và kéo dài cho đến khi say mèm thì Dương Thu Trì mới được đưa trở về động phòng. 

Dương Thu Trì lần này say thật sự, trong vòng một ngày mà kinh qua nhiều chuyện vui buồn cùng cực, biến chuyển phong vân, cuối cùng cũng có kết cục trọn vẹn. Sự hoan hỉ trong lòng hắn thậm chí còn khiến hắn say sưa hơn là mỹ tửu nồng mạnh nhất. 

Dương Thu Trì chếnh choáng ngồi xuống bên bàn, nhìn Hồng Lăng trùm khăn hồng, ớ, sao mà thành ba cô dâu thế này? Dương Thu Trì lắc lắc đầu nói: "Lăng Lăng...., Lăng Lăng....! Nàng vui thiệt đó, sao lại có tới ba cái đầu vậy cà?" 

Hắn lập tức nghe tiếng Hồng Lăng vọng ra từ trong khăn trùm đầu: "Lão gia, coi lão gia say đến thế kia kìa...! Mau tháo khăn hồng cho Hồng Lăng đi, để người ta còn lo cho chàng nữa a!" 

Dương Thu Trì cười hắc hắc: "Lăng Lăng là bảo bối tốt của ta, ta hun bảo bối cái coi nào.....! Hắn ráng nhịn cơn quay cuồng, đứng dậy, chếnh choáng bước đến trưuớc mặt Hồng Lăng, nhưng hôm nay uống rượu nhiều hơn mọi ngày, vì dù gì thì cũng là ngày xảy ra nhiều chuyện kinh tâm động phách sinh sinh tử tử hơn hết thảy mọi lần, cho nên hắn choáng váng, đi được mấy bước thấy sắp đến trước mặt Hồng Lăng, chịu không nỗi đã chân nam đá chân chiêu ự một cái té phịch xuống dưới chân nàng. 

Hồng Lăng vội kêu lên một tiếng cả kinh, mò mẫm ngồi xuống đỡ Dương Thu Trì dậy, khẽ gọi: "Lão gia! " 

Cú ngã này khiến Dương Thu Trì hơi tỉnh lại, mượn thế nâng tay Hồng Lăng, quỳ xuống, cười hi hi bảo: "Lăng Lăng...., ta không sao? Ơ! Sao nàng còn trùm khăn trên đầu làm gì vậy? Ta vừa rồi chẳng phải là.... chẳng phải là...." Nói luôn hai lượt, cuối cùng hắn cũng nhớ là vừa rồi mình ngã, nên chưa kịp tháo khăn cho Hồng Lăng. 

Kỳ thật, thâm tâm của Dương Thu Trì đối với Hồng Lăng tràn đầy sự yêu thương. Từ lần đầu gặp nhau ở Vũ Xương, Hồng Lăng đã biến thành một bộ phận không thể tách rời đối với sinh mệnh của hắn. 

Nhớ lại những gì đã diễn ra trong dĩ vãng, lòng Dương Thu Trì dậy lên nhu tình vô hạn. Hắn lấy sức lắc mạnh đầu, cầm tay Hồng Lăng từ từ đứng dậy. 

Khăn hồng vẫn còn che trên đầu Hồng Lăng. Hai tay nàng cật lực đỡ Dương Thu Trì, dùng giọng nói ngọt như đường phèn hỏi: "Lão gia, người... người không sao chứ?" 

Dương Thu Trì yêu thương Hồng Lăng vô hạn, hôn vào má nàng cách một làn vải, rồi sau đó mới cởi khăn đỏ trùm đầu nàng một cách từ từ, lộ ra dung nhan kiều mỹ tuyệt luân. Dưới đèn ngắm mỹ nhân thì càng thêm vũ mị, cho nên hắn nhìn đến ngẩn ra. 

Hồng Lăng hơi ngước mắt, nhìn ánh mắt ngây ngây si si của Dương Thu Trì, phì cười lườm hắn một cái, bảo: "Lão gia, người đã nhìn Hồng Lăng lâu như vậy rồi, còn chưa nhìn đủ hay sao a?" 

Dương Thu Trì đưa hai tay ra, khẽ nâng mặt nàng, vẫn si si ngây ngây như cũ nhìn nàng nói:'Lăng Lăng, ta một lần nữa nghiêm trọng cảnh cáo nàng, trong chốn riêng tư không được phép gọi ta là lão gia nữa...., nếu không, ta sẽ gọi nàng là lão phu nhân đấy!" 

Hồng Lăng cười khành khạch, mắt ánh lên sự dịu êm vô cùng, gật đầu: "Dạ..., được mà, Thu Trì lão gia, không, Thu Trì hảo ca ca!" 

Dương Thu Trì kéo nàng dậy, ôm eo nàng, hôn sâu vào môi nàng, thật lâu sau đó mới rời ra, bảo: "Lăng Lăng, từ giờ trở đi, nàng đã là nữ nhân của ta rồi, hiểu không?" 

"Dạ!" Hồng Lăng sung sướng gật đầu, nhón chân, tặng cho Dương Thu Trì một nụ hôn thật sâu, đôi mắt phượng ướt nhòe: "Thu Trì ca, Lăng Lăng là nữ nhân của chàng, cả đời này đều thế!" 

Dương Thu Trì bảo: "Đừng có quên, hai chúng ta còn có một nhiệm vụ vô cùng nặng nề!" 

"Lăng Lăng biết mà...." Hồng Lăng cúi đầu, thẹn thùng đáp. 

"Biết rồi sao? Hắc hắc, vậy nàng nói coi nhiệm vụ nặng nề gì nào?" Dương Thu Trì cố ý chọc nàng. 

Hồng Lăng hơi lưỡng lự, hai má càng thêm hôn, nói lí nhí như muỗi kêu: "Lăng Lăng... phải sinh cho.... Thu Trì ca... một tiểu thiếu gia..." 

Dương Thu Trì cao hứng ôm nàng reo lên: "Giỏi! Nhớ cho kỹ đó! Lên giường, chúng ta bắt đầu vận động sinh sản!" Nói xong, hắn ôm Hồng Lăng quẳng vào trong giường, rú lên một tiếng lớn rồi nhảy phốc lên theo. Hai người cười hăng hắc cùng lăn lộn, vầy vò.... 

.... 

Sáng hôm sau, Dương Thu Trì mang theo Tống Vân Nhi, Hồng Lăng, Nam Cung Hùng cùng các hộ vệ xuất phát lần nữa đi Sơn Đông để khai quan nghiệm thi lần nữa. Do đó biết vị trí của mộ đạo, cho nên lần này hắn không cho gọi quan viên của Công bộ. 

Mười ngày sau, đám người họ đến nơi, tìm đến nha môn của Vương tri huyện, bảo ông ta mang dân tráng theo hắn đến khai quan nghiệm thi lần nữa. Vương tri huyện nghe nói Dương hầu gia còn định khai quan nghiệm thi lần nữa, hơn nữa còn chuẩn bị vịt, hơi có ý bất ngờ, nhưng không dám hỏi nhiều, bảo nha dịch bắt một con vịt mập rồi dẫn theo một đội dân tráng theo Dương Thu Trì đến lăng của Hiền phi bên ngoài thành. 

Lần trước mộ đạo mới khai quật chưa lâu, dân tráng đều có ấn tượng, cho nên lần này đào bới với tốc độ rất nhanh, chỉ cần không quá một canh giờ đã đào tới cửa mộ. 

Chờ uế khí trong mộ tan hết, Dương Thu Trì cùng mọi người mới xách rương pháp y vật chứng tiến vào mộ đạo. 

Dân tráng sau khi mở cửa quan tài đá, treo đèn lên tường xong thì lui ra ngoài. Nam Cung Hùng cùng các hộ vệ cảnh giới ở cửa. 

Lần này, ngoại trừ cho giữ lại con vịt, Dương Thu Trì buộc mọi người phải ra ngoài, cho Tống Vân Nhi đến cảnh giới ở cửa mộ. Hắn muốn một mình nghiệm thây. 

Tống Vân Nhi dẫu môi không chịu, nhưng Dương Thu Trì năn nỉ dụ dỗ, cuối cùng nàng cũng đi. Hắn buộc phải làm thế, vì thủ đoạn nghiệm thây mà hắn sắp sử dụng đây ngay cả Tống Vân Nhi cũng không nên nhìn, nếu không chỉ là sẽ vô cùng kinh thế hãi tục.

Lần trước kiểm nghiệm không kỹ, lại bị Kỷ Cương tham công nhảy vào làm loạn, kết quả tạo thành cái chết thảm cho mấy trăm người vô tội. Điều này dạy cho Dương Thu Trì một bài học rất lớn, cho nên, lần này hắn muốn nghĩ cách tra cho rõ nguyên nhân tử vong chân chánh của Hiền phi. 

Kiểm nghiệm như thế nào thì hắn nghĩ kỹ rồi. Hắn muốn trong tình hình không cần giải phẩu, tra rõ nguyên nhân tử vong chân chính. Điều này không những cần kỹ thuật, mà còn cần có chút vận khí, hi vọng cái chết của Hiền phi thuộc về nguyên nhân mà không cần giải phẩu cũng có thể chứng minh, nếu không, mọi chuyện sẽ vô cùng khó khăn. 

Dương Thu Trì leo lên thang của một bên quan quách, tháo lớp vỉa bọc ở trên, lộ ra di thể của hiền phi nương nương. Do trời đang mùa lạnh, lại chôn ở dưới đất, nên đã qua hơn tháng mà thi thể vẫn giống như lần trước, chỉ hơi thối rửa nhẹ. 

Hắn trước hết lấy những vật thể bồi táng tinh mỹ và có giá trị liên thành bên cạnh thân thể của Hiền phi nương nương ra, để lộ óa hoa gối gấm ở dưới, rồi túm giữ hai bên sàn, dùng lực nhấc thi thể lên, từ từ lùi xuống thang gỗ, đặt thi thể lên sàn đá xanh. 

Sau khi tháo mở túi mền, lộ ra di thể của Hiền phi. Lần này Dương Thu Trì không khách khí nữa, nhoáng cái lột sạch quần áo trên người Hiền phi, bắt đầu kiểm tra bề mặt da từng chút một. 

Thi ban nằm ở phần lưng dưới, căn cứ lời khai của Liên nhi và những người khác, tuy Hiền phi chết nằm nghiêng một bên, nhưng thi ban chưa kịp xuất hiện hay vừa xuất hiện thì đã bị phát hiện ra rồi, cho nên sau đó bị đặt nằm ngữa, nên có hiện tượng này. 

Dương Thu Trì tử tế kiểm tra tình huống của thi ban, giật mình cả kinh, vì thi ban có màu đỏ tươi chứ không phải đỏ bầm như bình thường. Điều này là có hai loại khả năng: một là có thể vì thi thể đặt trong băng khố quá lạnh, không khí thấm vào da hình thành hồng huyết cầu mang dưỡng khí, cho nên thi ban màu đỏ hồng; loại khả năng thứ hai là trong nội thể của Hiền phi hình thành máu nhiễm khí than, do đó thi ban mới có màu hồng tươi. Nếu như đúng với trường hợp thứ hai, thì cho thấy Hiền phi chết là do trúng khí độc từ khói than. 

Điều này khiến Dương Thu Trì nhớ tới triệu chứng tử vong của Hiền phi mà thái y có nói đến, đó là một câu: "Quan sát thấy môi miệng đỏ hồng." Đây là một trong những triệu chứng trúng độc từ khí than, nhưng mà lúc đó tiết trời đang vào tháng bảy, nóng nực vô cùng, không có khả năng dùng than lửa gì ở trong này, cho nên hắn căn bản không nghĩ tới trường hợp trúng độc do khí than. Hiện giờ kết hợp với thi ban, sự hoài nghi về khả năng này càng lúc càng lớn. 

Nhưng mà, không có chứng cứ chứng minh thêm một bước nữa, Dương Thu Trì không thể kết luận như vậy được. Trước khi làm chuyện này, hắn quyết định tra rõ rốt cuộc Hiền phi có chết vì trúng tì sương hay là không. 

Dương Thu Trì mở rương pháp y vật chứng ra, lấy một cái ống tiêm, hút một ít muối sinh lý, bơm vào trong bộ vị bao tử của thi thể Hiền phi. 

Chờ thêm một chút, hắn đổi ống tiêm thành ống hút từ từ hút nước muối sinh lý bơm vào lúc nãy, bỏ đầu hút đi, bơm xi lanh vật hút ra được vào cổ con vịt. 

Chờ cả nửa ngày, con vịt đó vẫn chạy tới chạy lui kêu cáp cáp lia lịa, chẳng có vấn đề gì cả. Điều này chứng minh, trong bao tử của Hiền phi căn bản không có độc! Đương nhiên, nó cũng minh chứng rằng sau khi Hiền phi chết, người ta đã đổ độc vào! 

Hiện giờ đã bài trừ trúng độc do tì sương, sự hoài nghi về khả năng trúng độc do hơi than oxít các bon (Khí CO) càng lớn hơn. 

Muốn kiểm nghiệm trúng độc oxít các bon, phải lấy mẫu máu trong tim và động mạch chủ. Nếu như kiểm tra ra được thành phần CO trong máu, có thể xác nhận nghi vấn này. 

Người trúng độc oxít các bon sẽ có máu màu đỏ hồng, có tính lưu động cao, không dễ hư rửa, nhân vì thế sẽ khiến quá trình thối rữa của thi thể người chết bị chậm đi. 

Do thời gian tồn tại của máu chứa CO trong thi thể rất bền, cho dù thi thể đã thối rữa vẫn có thể kiểm tra ra. Do đó, Dương Thu Trì không sợ sẽ không tìm ra được. 

Hắn lấy một ống chít, cắm sâu vào tim của ngừơi chết, rút ra một ống huyết ở tim của nạn nhân, sau đó dùng phản ứng với xút NAOH tiến hành kiểm nghiệm. Khi huyết dịch vừa chạm vào thuốc thử, chỉ thoáng chốc nó đã biến thành màu vàng nhạt. Điều này chứng minh trong tim của người chết có nồng độ CO rất cao, và Hiền phi chết là do trúng độc khí than! 

Dương Thu Trì còn không an tâm, lại rút một ống huyết dịch lớn trong động mạch chủ của người chết, sử dụng một phương pháp khác - phương pháp lưu hóa - để tiến hành kiểm nghiệm. Kết quả, huyết dịch vẫn có màu đỏ hồng, trong khi huyết dịch bình thường phải biến thành màu xanh nâu. Điều này lần nữa chứng minh, Hiền phi chết là do trúng độc khí than (CO)! 

Tháng bảy trời nóng như vậy ở đâu ra có khí than? Nghĩ không thông, xem ra cần phải đến dịch trạm kiểm tra hiện trường trở lại lần nữa. 

Dương Thu Trì tiếp tục kiểm nghiệm thi thể, không phát hiện có dị thường gì khác, liền mặc quần áo cho thi thể, thu thập các dụng cụ kiểm nghiệm, rồi gọi Tống Vân Nhi trở vào. 

Tống Vân Nhi hiếu kỳ: "Thế nào? Có phát hiện gì không?" 

Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, bấy giờ mới nói: "Hiền phi không phải trúng độc tì sương, mà là trúng độc khí than, còn rốt cuộc là bất ngờ hay là có người dụng ý mưu sát, cần phải tiến hành điều tra thêm một bước nữa." 

Ở thời cổ đại đã có nhận thức về trúng độc khí CO, trong Tẩy Oan Tập Lục có ghi: "Trúng phải khí độc từ than đá, khí từ lò sưởi hoặc hầm xí tỏa ra, thì người bị phủ mà không biết tự chết, thi thể mềm nhũn mà không thương tích gì, hoàn toàn tương tự ngủ mê mệt mãi không thức dậy nữa." 

Thời đó, người ta đã nhận thức đốt than đá sẽ sản sinh ra khí độc làm người chết. Nhưng mà họ chưa hề biết khí độc này chính là khí CO mà thôi. 

Tống Vân Nhi rất hiếu kỳ, hỏi: "Không đúng a, hiền phi nương nương chết vào tháng bảy, chính là lúc trời vô cùng nóng bức, ở đâu ra than đá chứ?" 

"Do đó chúng ta mới phải quay về dịch trạm nơi xảy ra án mạng để kiểm tra lại lần nữa." 

Dương Thu Trì nhờ nàng giúp đưa thi thể và các vật bồi táng trở vào quan tài, sau đó bảo Vương tri huyện mang dân tráng đóng nắp lại, lấp đường vào mộ. 

Tiếp theo đó, Dương Thu Trì mang theo Tống Vân Nhi, Hồng Lăng và đội hộ vệ kéo đến Lâm thành. Hai ngày sau thì đến nơi. 

Lâm thành dịch trạm nhân vì có vạn tuế gia và nương nương ở qua, hơn nữa nương nương ở trong dịch trạm này mà bệnh qua đời, nên tri huyện của Lâm thành cảm thấy nơi này rất có ý nghĩa kỹ niệm, nên báo cáo lên trên, thân thỉnh một khoản tiền chuyên môn dựng lên dịch trạm khác, còn dịch trạm cũ thì bảo tồn nguyên trạng làm kỷ niệm, những vật phẩm đã dùng qua nơi đó đều để vậy, không cho phép người khác vào ở hay đổi dời. Chủ ý này đương nhiên không ai phản đối, và vì thế bảo lưu hiện trường thập phần hoàn chỉnh, có giá trị khám tra hiện trường. 

Được sự bồi đồng của tri huyện và sứ quan của dịch trạm, hắn bắt đầu khám nghiệm lại hiện trường.

Lâm thành là một thành trấn nhỏ, dịch trạm này bày trí rất đơn giản. Dương Thu Trì mang theo Tống Vân Nhi đến phòng của Hiền phi nương nương quan sát tứ phía, kiểm tra cẩn thật từng vật phẩm, nhưng chẳng phát hiện được vật gì dị thường. 

Hắn hơi trầm ngâm, nếu như Hiền phi nương nương bị trúng độc oxit cac bon trong than đá mà chết, và do thời cổ đại không có ống khói hay là ống thoát hơi, cho nên có thể sản sinh hiện tượng trúng độc khí CO, chủ yếu đến từ khí than đá và khí than củi. 

Than đá không được khai thác đại quy mô ở Minh triều, nhưng cũng đã bắt đầu sử dụng, chủ yếu là dùng trong luyện kim, trong sinh hoạt gần như không dùng. Sau khi hỏi kỹ, Dương Thu Trì biết được trong dịch trạm không có sử dụng than đá, do đó, khả năng lớn nhất có thể dẫn đến trúng độc khí CO là do lửa than. 

Hoàng đế mang theo nương nương ngụ ở dịch trạm. Dịch trạm giới bị sâm nghiêm, người ngoài cơ bản không có cách gì đến gần. Nếu như muốn tiến vào, sẽ phải bị tiến hành kiểm tra an toàn giống như tiến vào hoàng cung vậy. Nếu như người đến đó mang theo lò than, khẳng định sẽ bị người tra xét hoài nghi. Cho nên, lò than củi này dường như không thể nào được mang từ ngoài vào. Và như vậy chỉ còn một khả năng - than củi dẫn đến hiện tượng trúng động của hiền phi nương nương chính là ở trong dịch trạm này. 

Dương Thu Trì hỏi dịch sứ quan: "Trong dịch trạm của các ngươi vào mùa đông có dùng lò than sưởi ấm không?" 

"Dạ có." Dịch sứ quan khom người đáp. 

"Các ngươi đặt than củi ở đâu?" 

Dịch sứ quan chỉ vào hai gian phòng nhỏ ở một góc dịch trạm: "Dạ ở đó." 

Dương Thu Trì bước tới trước gian phòng nhỏ, cửa không đóng, hắn đẩy nhẹ vào. Gian phòng này là một gian gác xép, bên ngoài đặt mấy bồn lửa để đốt than chỉnh tề, ngoài ra còn có những lò lửa dùng để nấu nước. 

Trong phòng còn sắp vài đống than nhỏ. Dịch sứ quan giải thích: "Những thứ này mùa đông năm trước chưa dùng hết. Hoàng thượng đi rồi, căn cứ vào chỉ kỳ của tri huyện đại nhân, dịch trạm này bị phong tỏa, vẫn bảo lưu nguyên dạng." 

Dương Thu Trì bước tới gian ngoài có hỏa lò và bồn lửa, cúi người xuống quan sát cẩn thận, ngẫm nghĩ một hồi, đứng dậy nhanh chân bước vào gian phòng của hoàng thượng ở, cho mọi người chờ ở ngoài, mở hết cửa và cửa sổ ra, sau đó một mìn tiến vào phòng, mọp sát xuống một song cửa sổ cuối cùng, dường như là áp mặt sát đất, trước hết quan sát ngang, sau đó quan sát kỹ từng điểm. 

Cử sổ và cửa lớn đều được mở, căn phòng này trở nên rất sáng, Dương Thu Trì giương đôi mắt khẩn trương quan sát từng chút một trên mặt đất. Đột niên, mắt hắn sáng rực lên. Hắn vội ra lệnh cho Nam Cung Hùng mang rương pháp y vật chứng của mình vào, mở ra lấy một cái nhiếp, cẩn thận dùng nhiếp gấp một chút vật gì đó từ dưới đất lên, bỏ vào trong ống nghiệm, sau đó bỏ trở lại vào rương pháp y. 

Tống Vân Nhi nhất mực khẩn trương đứng ở cửa nhìn. Trong quá trình Dương Thu Trì khám tra hiện trượng, nàng không hề lên tiếng. Nàng biết, đây chính là lúc Dương Thu Trì cần yên tĩnh nhất để suy nghĩ. 

Dương Thu Trì đứng dậy, đến tất cả các phòng của cung nữ, thái giám nghỉ lại đêm đó phục sát đất kiểm tra từng phòng. Cuối cùng, khi kiểm tra đến một gian ở giữa, mắt hắn sáng lên. Hắn cho mang rương pháp y vật chứng, lấy một cái nhiếp bò sát đất gấp một miếng nhỏ lên bỏ vào trong ống pha ly. 

Tiếp đó, Dương Thu Trì đi quanh quẩn trong phòng một lúc, ánh mắt cuối cùng dừng lại ở một cái ấm sắt đun nước, bước lại cầm lên nhìn, như nghĩ ra cái gì đó gật gật đầu rồi để xuống. 

Hắn ra khỏi phòng, trở lại phòng chứa than, dùng nhiếp gấp một ít mảnh than vụn lên, bỏ vào trong một ống nghiệm. 

Dương Thu Trì trở lại phòng vừa ra khỏi, bảo bọn Tống Vân Nhi ở ngoài chờ, sau đó đóng cửa lại, lấy kính hiển vi vi hình ra tiến hành quan sát đối với ba mẫu vật nhỏ mà hắn thu được. Khi ánh mắt của hắn rời khỏi kính hiển vi, vẻ hưng phấn và đắc ý tràn đầy. 

Dương Thu Trì kiểm tra hoàn tất ra ngoài. Tống Vân Nhi thấy hắn mặt mày hưng phấn, nhịn không được hỏi: "Ca, thế nào rồi? Có phát hiện gì không?" 

Đối với Tống Vân Nhi, Dương Thu Trì không cần che giấu tình hình tiến triển điều tra của mình. Ngược lại, hắn cần phải cho nàng biết, để nàng học được những kỹ thuật trinh tra thực dụng, đặc biệt là những thường thức pháp y thường dùng không cần đến những thiết bị hiện đại. Đương nhiên, trừ những gì quá hiện đại khiến nàng nhìn là sẽ khiến thiên hạ đại loạn, ví dụ như mấy tính sách tay, kính hiển vi, máy chụp kỹ thuật số vâng vâng, những thứ khác hắn cũng cố bằng cách này hay cách khác để nàng hiểu. Hắn hivọng nàng sau này sẽ trở thành trợ thủ đắc lực của mình. 

Dương Thu Trì cho Chương tri huyện, dịch sứ quan cùng Nam Cung Hùng và những người khác ra ngoài chờ, sau đó hắn kéo Tống Vân Nhi đến phòng ngủ của hoàng thượng và hiền phi nương nương, chỉ vào chỗ quan sát lúc nãy, hỏi: "Vân nhi, muội nhìn kỹ coi, xem có phát hiện ra cái gì hay không?" 

Tống Vân Nhi cũng học theo cách của Dương Thu Trì, chổng mông bò dưới đất, mũi suýt dí sát mặt đất, nhìn cả nửa ngày rồi ủ rủ nói: "Trừ bụi và mấy mụt đất nhỏ, đâu có cái quỷ gì đâu." 

"Rất tốt, chính là mấy cái mụt đất nhỏ đó, nhìn kỹ coi đó là cái gì?" Dương Thu Trì vừa rồi chỉ lấy đi mấy vụn nhỏ, trên mặt đất còn lại một số. 

Tống Vân Nhi dùng ngón tay bóp một chút đất bằng đầu tăm đó, đưa lên ánh sáng nhìn một chút, hơi đắn đo nói: "Dường như là.... dường như là vụn than." 

"Không sai, mắt của muội rất tốt!" Dương Thu Trì khen, lòng nghĩ ta phải dùng đến kính hiển vi mới nhận ra được, nàng chỉ nhìn thế là nhận ra liền, thiệt là mất mặt quá đi! Tiếp đó hắn nói: "Muội có nghĩ ra chưa, Hiền phi nương nương ngụ ở đây, thời tiết vào mùa hạ, nếu như muốn dụng than đốt để sưởi thì phải đang ở mùa động, còn nếu dùng than để nấu cơm nấu nước gì đó thì không thể đem tới phòng ngủ của hoàng thượng nương nương để nấu, tạo ra khói đen chướng khí thì sao? Cho nên, muội cảm thấy trên mặt đất có than như thế này có kỳ quái hay không?" 

Nghe Dương Thu Trì phân tích, Tống Vân Nhi gật đầu: "Đúng a, trong mùa hè nóng bức trong phòng đốt than để làm gì? Hiền phi nương nương sẽ bị thán độc làm cho chết ngay, chẳng lẽ là có người đem lò than vào mưu hại Hiền phi nương nương sao?" 

Dương Thu Trì cười vỗ vô vai nàng: "Khả năng này lớn vô cùng! Ta cũng phán đoán như vậy, cho nên ta đã kiểm tra mỗi phòng của những người ngụ tại đây lúc ấy." 

Tống Vân Nhi nghi hoặc hỏi: "Kiểm tra phòng người khác làm....?" Vừa hỏi đến nửa chừng, nàng lập tức nghĩ ra nguyên nhân, hưng phấn nói: "Muội biết rồi, hung thủ muốn đem lò than vào phòng của Hiền phi nương nương, dùng cách thần không biết quỷ không hay để làm độc chết nương nương, thì phải tự ở phòng mình đốt cho than cháy lên trước, sau đó mang đến phòng của nương nương, len lén bỏ vào. Nhưng mà, trong phòng có nhiều cửa sổ như vậy, huynh làm sao biết hung thủ mở khung cửa nào bỏ lò than vào chứ?" 

"Rất đơn giản, thị nữ Liên nhi nói cô ta nhất mực ở cửa chờ lệnh Hiền phi nương nương, do đó, hung thủ chỉ có thể tận khả năng tránh xa thị nữ Liên nhi ra. Đây chính là song cửa sổ cuối cùng, đương nhiên sẽ chọn nơi đây. Hơn nữa, vị trí này vừa khéo đối với đầu giường, người ngủ ở trên giường là Hiền phi nương nương sẽ không nhìn thấy động tĩnh ở phía trên đầu mình, đó chính là cách để đảm bảo tính ẩn mật tối đa." 

Tống Vân Nhi gật đầu, tiếp theo đó lại nghi hoặc nói: "Muội nhớ Liên nhi đã từng nói qua, rằng thái y nói Hiền phi nương nương bị âm hư, cần phải tránh gió lạnh, do đó trong mùa hè cũng không thể mở cửa sổ ngủ. Cửa sổ nếu như đã đóng, hung thủ làm sao có thể từ bên ngoài mở ra đưa lò than vào?" 

"Điều này nói rõ hung thủ trước đó đã từng tiến vào phòng của nương nương!" Dương Thu Trì khẳng định, "Và nhân lúc người ta không đề phòng, len lén gạt đi chốt của cửa sổ này." 

Tống Vân Nhi ngẫm nghĩ, lắc đầu nói: "Vẫn không đúng, cho dù lò than đặt ở trên đầu của nương nương, nương nương không thể phát hiện hung thủ mở cửa sổ thòng lò than vào, nhưng ánh sáng của lò than sẽ hấp dẫn sự chú ý của nương nương. Muội từng nghe nói, khi nương nương ngủ thường rất sợ ánh sáng! Do đó đối với ánh sáng nhất định sẽ có độ mẫn cảm nhất định." 

Dương Thu Trì đáp: "Không sai, nhưng mà hung thủ có thể tiến vào phòng của nương nương, cho thấy nhất định là người nào đó thường gần gủi bên cạnh nương nương. Và vì thế, hung thủ hoàn toàn có thể biết rõ điểm này, nhất định sẽ nghĩ biện pháp che ánh sáng đi. Như vậy nương nương sẽ không phát hiện được." Dương Thu Trì mỉm cười. 

"Che lại? Dùng cái gì để che?" 

"Trước hết muội hãy nhìn cái này sẽ biết ngay được đáp án." Dương Thu Trì kéo tay Tống Vân Nhi đến phòng mà hắn kiểm tra vừa rồi, chỉ vào cái ấm sắt nấu nước để trên bàn: "Muội nhìn coi có phát hiện gì không?" 

Tống Vân Nhi trước hết giở hổng ấm, lắc lắc, thấy nó trống không, nhìn kỹ không phát hiện được gì, đang nghi hoặc, chợt ơ lên một tiếng, nhìn vào cái vòng tròn màu vàng in dấu trên bàn: "Đó là cái gì?" 

Nàng từ từ đặt ấm sắt trở về dấu vết đó, thấy hoàn toàn vừa khít! Tống Vân Nhi cao hứng reo lên: "Muội biết rồi, đây chính là dấu ấn của cái ấm tạo ra trên bàn! Cho thấy, lúc đó hung thủ đã dùng cái ấm này trùm lên trên lò lửa, che ánh lửa phát ra, tránh bị nương nương phát hiện. Do ấm sắt này có thể bị lửa đốt nóng, do đó sau khi mang về để lại trên này, nó đã tạo ra dấu ấn cháy nám trên bàn!"

"Rất đúng!" Dương Thu Trì khen ngợi gật đầu, bước tới chỗ vừa lấy mấy mụn than dưới đất, nói: "Nơi này cũng có ít than vụn, sau khi ta kiểm nghiệm, thấy hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của mấy mẫu phát hiện được dưới cửa sổ trong phòng nương nương, cho thấy đây là cùng một loại than!" 

Tống Vân Nhi vỗ tay nói: "Như vầy thì rõ rồi, hung thủ khi vào phòng nương nương đã lén mở chốt cửa sổ cuối cùng trong phòng nương nương, sau đó lẻn vào phòng để than lấy lò than và than trở về phòng mình nhóm lửa lên, trùm cái vò sắt đun nước lên, khi đoán là nương nương đã ngủ bèn mang đến sau cửa sổ phòng nương nương, bỏ vào trong, đóng cửa sổ lại, lợi dụng hơi độc từ than giết chết nương nương. Do lò than lấy từ phòng để than ra, trên đất có vụn than, cho nên lò than cũng dính vụn than, cho nên mói lưu lại những vụn than rơi rớt ở trong phòng hung thủ khi nhóm lửa và ở chỗ đặt lò trong phòng nương nương!" 

"Phân tích rất tuyệt!" Dương Thu Trì khen, "Do dịch trạm này đơn giản vô cùng, phòng hoàng thượng và nương nương ngủ rất nhỏ, thán độc nhanh chóng lan ra cả phòng. Thứ độc này không có màu không có vị, người trúng độc chỉ cảm thấy nhức đầu buồn nôn ói mữa, nhưng đến khi cảm nhân được điều này thì cơ thể của người trúng độc đã thiếu dưỡng khí nghiêm trọng nên không có chút sức lực nào, không có cách gì kêu cứu hay bỏ chạy, cuối cùng chỉ còn chờ chết." 

"Nếu như trong phòng có thán độc, người đến sau sao lại không có ai bị độc hết?" 

"Nếu bị trúng độc ngả xuống, như vậy chẳng phải là lộ ra âm mưu sao?" Dương Thu Trì mỉm cười, "Hung thủ dùng thán độc giết người, chính là muốn người khác tra không ra. Nói thật, trong mùa hè mà dùng phương pháp này để giết người, những thái y ấy e rằng sẽ mãi chẳng chẳng ý đến. Bọn họ hành nghề khám bệnh, cho nên khi tra người chết đều nghĩ đến bệnh trước, chỉ theo tập quán mà nghĩ đến bệnh gì đó mà thôi. do đó, sau khi hung thủ len lén lấy đi lò than, khẳng định sẽ mở cánh cửa sở phía sau đó ra, để hơi độc bên trong tan đi hết. Và khi đoán là hơi độc tan hết rồi, y sẽ trở lại đóng cửa sổ. Thời gian trong vòng một đêm đủ để hung thủ lợi dụng làm được những chuyện này." 

Tống Vân Nhi ngẫm nghĩ, mỉm cười tìm chỗ hổng của hắn: "Ca, huynh chỉ bằng mấy vụn than ở dưới đất mà tra ra kết luận thế này, chẳng phải nói ra nghe mà sởn cả tóc gáy hay sao?" 

Dương Thu Trì cười, kéo nàng đến căn phòng để tha, chỉ vào cái lò than ở gian ngoài nói: "Chỗ này sau khi hoàng thượng đi rồi thì bị phong tỏa, vẫn còn bảo lưu dáng vẻ lúc trước. Muội nhìn kỹ coi, xem có phát hiện được gì hay không?" 

Tống Vân Nhi cúi người xuống, kiểm tra từng lò đốt một, lắc đầu đáp: "Chẳng có gì đặc biệt a!" 

Dương Thu Trì hơi thở dài: "Ta chẳng nói là bất kỳ phạm tội gì cũng để lại dấu vết hay sao, chỉ là xem xem muội có thể phát hiện được nó không thôi. Những dấu vết này hiện rõ trước mặt, muội không phát hiện được thì không phá nổi án." 

Tống Vân Nhi không phục, cúi người xuống quan sát kỹ lần nữa, chợt ơ lên một tiếng, xách một cái lò lên, nhìn kỹ vào trong lò, lại đưa tay vào trong quẹt một nhúm bụi than đen xì: "Đây là cái gì? Kỳ quái à." 

Trong mắt Dương Thu Trì đã có ý cười: "Muội phát hiện có gì đó kỳ quái thì hãy nghĩ kỹ coi, rốt cuộc là kỳ quái ở chỗ nào?" 

Tống Vân Nhi tử tế quan sát một hồi, đột nhiên mắt sáng lên, bỏ lò xuống tiến vào trong phòng, quan sát kỹ một hồi, chạy ra cao hứng nói: "Muội biết rồi!" 

"Biết cái gì?" Dương Thu Trì đối với phản ứng nhanh nhẹn của Tống Vân Nhi vô cùng vừa ý, quả thật là nhân tài có thể dạy dỗ a! 

Tống Vân Nhi chỉ vào lò than trên đất nói: "Đây chính là lò than mà hung thủ dùng để đốt than làm độc chết Hiền phi. Hung thủ tính toán sau khi Hiền phi nương nương bị độc chết rồi, trở lại cửa sổ đó lấy lò đi, trở về phòng của mình dùng nước trong vò diệt lửa trong lò, sau đó tùy tay bỏ ấm nấu lên bàn, xách lò than trở về phòng để than, đổ than đã cháy lên mặt đất, đặt lò trở lại vào gian ngoài. Vừa rồi muội nhìn trong đó phát hiện than bị lửa đốt một nữa rồi bị diệt, và còn lấy lên chút tro tàn bị nước đổ diệt lửa! 

Bốp bốp bốp! Dương Thu Trì vỗ tay cười nói: "Tinh túy! Diễn tả lại án thập phần chính xác! Tìm được chứng cứ này cộng với chứng cứ vụn than và bình sắt nấu nước lúc nãy sẽ hình thành một sợi dây liên kết hoàn chỉnh, và sự suy đoán này có thể thành lập được rồi!" 

Tống Vân Nhi cũng cười, ngẫm nghĩ hỏi: "Hung thủ rốt cuộc là ai?" 

"Từ tình huống điều tra rõ ràng là người hại Hiền phi nương nương là kẻ ở gần bên nàng ta. Phạm vi này rất nhỏ, không khó để tìm ra hung thủ thật sự. Muội thử nghĩ kỹ xem, ắt sẽ phát hiện chân hung là ai." 

Tống Vân Nhi nhíu mày suy nghĩ, nói: "Người bên cạnh nương nương! Hung thủ muốn đem lửa than đốt lên, thời gian không thể ngắn, sau đó đem lửa đi diệt, sản sinh khói sẽ dễ dẫn tới sự chú ý của người khác, do đó cần phải thực hiện ở nơi ẩn bí. Do đó, có khả năng nhất là làm ở phòng của mình. Trong dịch trạm này phòng ốc không nhiều, có thể ở một mình một phòng không thể là cung nữ hay thái giám thường, chẳng lẽ là...."

Dương Thu Trì gật đầu khen ngợi: "Không sai, chính là Vương Tư Thái. Muội nếu như nhớ lại cẩn thận một chút, thì sẽ nghĩ ra ngay. Căn cứ vào lần khám nghiệm hiện trường trước, cùng lời của tư lễ thái giam Kim Lương, thì phòng chúng ta vừa phát hiện cái ấm sắt nấu nước đó chính là phòng của Vương Tư Thái." 

"Muội.... muội lúc đó không để ý ai ở trong phòng nào a, hi hi..." Tống Vân Nhi hơi ngượng, "Như vậy xem ra Vương Tư Thái dùng thán độc độc chết Hiền phi nương nương rồi. Do thái y chẩn đoán nương nương bị bạo bệnh mà vong, cho nên không ai hoài nghi Hiền phi nương nương bị người sát hại. Lữ Hoàn Cơ mỹ nhân cũng không biết chân tướng này, cũng cho nương nương là bệnh chết, cho nên mới gây vụ vu cáo hãm hại, quyến rũ Cẩu Giản, đổ trà có độc vào cổ của thi thể của nương nương, khiến cho chúng ta bị lầm." 

"Đúng, Vương Tư Thái cũng không nghĩ được kết quả này, ả ta xem ra đang vui mừng vì có được quan hệ tốt với Hiền phi nương nương, không có liên hệ gì tới Lữ Hoàn Cơ và Lữ Viên Thiện hai vị mỹ nhân, cho nên trong lần theo xuất chinh lần đó, Kim Lương, Liên Nhi cùng các cung nữ thái giám khác đều bị giết sạch, chỉ có mình ả là may mắn thoát chết. Điều này xem ra là điều mà ả không thể nghĩ ra khi gây án." 

Tống Vân Nhi nói: "Vương Tư Thái này không phải là có quan hệ rất tốt với nương nương hay sao? Thậm chí hoàng thượng còn để ả đồng hành với Hiền phi nương nương, vì sao ả lại giết hiền phi chứ?" 

Dương Thu Trì dùng đôi mắt khen ngợi nhìn Tống Vân Nhi: "Rất tốt, hiện giờ muội đã biết đến lý lẽ lập mưu trước rồi hành động sau rồi, nếu là đổi lại lúc trước, muội sẽ nhảy cẫng lên đòi đi bắt người rồi. Hà hà." 

Tống Vân Nhi cũng cười hi hi: "Muội cũng nghĩ Vương Tư Thái này khẳng định là có mục đích xuất phát không phải là giết chết Hiền phi nương nương, nhân vì bằng địa vị và tướng mạo của ả, còn chưa đến lượt ả tranh sủng. Do đó, rất có khả năng là ả chịu sự chỉ sử của phi tần nào đó, mượn thời cơ này trừ Hiền phi nương nương. Nhưng mà, Vương Tư Thái vì sao lại chọn dịch trạm ở Lâm thành này để hạ thủ chứ?" 

"Xét về sự tương đối, thì cảnh giới trên đường đi so với hoàng cung có nhiều chỗ hở hơn nhiều, khả năng đác thủ nhất định sẽ cao hơn. Căn cứ lời của Kim Lương, dịch trạm có sự phòng thủ giống như hoàn cung, giới bị ở ngoài khẩn những ở trong lỏng. Hoàng thượng và nương nương vào ngụ trong dịch trạm rồi, đại nội thị vệ đều ở xung quanh vườn cảnh giới. Trong vườn thì đầy thái giám và cung nữ tùy hành. Vương Tư Thái là thân tín của nương nương, có thể tùy ý đi lại. Xem ra ả sau khi phát hiện căn phòng có chứa than đó, nghĩ ra phương pháp giết người mà người khác không hề nghĩ tới. Kết quả chứng minh là phương pháp này rất hữu hiệu, dường như là lừa được mọi người." 

"Nhưng vẫn không thể nào thoát khỏi đôi mắt tinh tường của ca ca của muội!" Tống Vân Nhi cười hi hi, ngẫm nghĩ rồi tự lẩm bẩm: "Vương Tư Thái rốt cuộc là do ai sai bảo tiến hành độc sát Hiền phi nương nương?" 

"Đáp án này chỉ sợ chỉ có Vương Tư Thái mới nói cho chúng ta biết được." 

"Ý tứ của huynh là bắt ả tra hỏi?" 

Dương Thu Trì lắc đầu: "Không, lần này cần phải tìm ra nguyên hung phía sau, khiến y chường mặt ra mới thu lưới. Nếu không, một khi Kỷ Cương nhúng tay vào, dưới khốc hình, chỉ sợ Vương Tư Thái lại khai bậy khai bạ, cuối cùng gây ra thêm một tràng đồ sát đầy máu tanh nữa. Chúng ta cần phải tra rõ cả án, sau đó bẩm báo với hoàng thượng, để tránh liên lụy đến những người vô tội." 

Lời thì nói thế, nhưng từ những trận đại đồ sát trước đây, Dương Thu Trì biết với cá tính của Minh Thành Tổ, cho dù đã tra ra rõ người đứng sau lưng chỉ sử rồi, thì hắn không còn gì để khống chế nữa. Chuyện hiện giờ của hắn là tìm ra chân hung. 

Tống Vân Nhi nói: "Bước tiếp theo chúng ta làm gì?" 

"Vương Tư Thái khẳng định là chịu người chỉ sử, nếu như ả phát hiện mình nguy hiểm, nhất định sẽ đi tìm người sai bảo, nhờ cho người đó nghĩ biện pháp an bài cho ả chạy trốn. Do đó, chúng ta vẫn dùng biện pháp cũ - đả thảo kinh xà! Khiến tiểu xà dẫn chúng ta đến tìm ra động rắn của nó, biết rắn trong động là ai!" 

Đám người của Dương Thu Trì lập tức khởi trình trở về kinh thành. 

Do lần này đã tra ra chân hung, để tránh khỏi đêm dài lắm mộng, hắn đi suốt ngày đêm, vài ngày sau đó đã trở về kinh thành. 

Trở về đến Dương phủ, hắn báo cho Phùng Tiểu Tuyết và mọi người sơ qua mọi chuyện, lưu lại Hồng Lăng và đội hộ vệ, rồi mang theo Tống Vân Nhi, Nam Cung Hùng cùng sáu thiếp thân hộ vệ tiến vào hoàng cung, thuận lợi tìm đến được Vương Tư Thái. 

Vương Tư Thái thấy cẩm y vệ đồng tri Dương Thu Trì cùng mọi người lần thứ hai đến tìm mình, hơn nữa là sau khi rất nhiều cung nữ và thái giám bị giết, không khỏi vô cùng khẩn trương. 

Sau khi Dương Thu Trì ngồi xuống, không để ý gì đến trà thơm do Vương Tư Thái cho cung nữ dâng lên, lệnh cho Vương Tư Thái ngồi xuống, sau đó dùng ánh mắt lạnh lùng nhìn ả, cả buổi không nói tiếng nào. 

Vương Tư Thái cảm thấy chẳng có chỗ nào để đặt chân tay, sắc mặt tái nhợt, nhãn thần hoảng loạn, cúi đầu chờ Dương Thu Trì hỏi. 

Dương Thu Trì lạnh lùng nói: "Vương Tư Thái, bổn quan đã tiến hành khai quan nghiệm thây trở lại, phát hiện một chút manh mối. hiền phi nương nương không phải là bạo bệnh chết, và cũng không bị người ta dùng tì sương hạ độc chết, mà là bị người ta dùng thán độc chết!" 

Vương Tư Thái hơi chấn động thân người, cúi đầu y như cũ, hai tay giao nhau xắn chặt, hơi run run.

Dương Thu Trì cười hăng hắc: "Vương Tư Thái, ngươi dường như rất khẩn trương a, làm sao vậy?" 

"Không... không có gì..." Vương Tư Thái miễn cưỡng cười, bỏ hai tay ra, trong lòng bàn tay toàn mồ hôi. 

Dương Thu Trì nói: "Bổn quan nhận thấy rằng hung thủ này có thể dùng lò sưỡi sản sinh thán độc, độc chết nương nương, nhất định là người thân thuộc bên cạnh nương nương! Hơn nữa, kẻ đó còn tự có phòng của mình, có thể tùy ý đi lại trong dịch trạm, người như vậy không nhiều." 

Vương Tư Thái đặt hai tay lên đùi, không tự chủ nắm chặt váy, thần tình càng hoảng loạn. 

Dương Thu Trì từ từ chồm người tới, ghé sát đầu nhìn Vương Tư Thái trừng trừng: "Ngươi sao vậy? Sinh bệnh rồi sao?" 

Vương Tư Thái cười lắc đầu: "Dương hầu gia, hung.... hung thủ này thật là độc a, không ngờ có thể nghĩ ra được việc dùng than trong dịch trạm đốt tạo thành thán độc giết nương nương, xem ra là quá giảo hoạt rồi!" 

Dương Thu Trì khẽ mỉm cười: "Ta vừa rồi không có nói là hung thủ dùng than trong dịch trạm để đốt tạo ra thán độc, ngươi làm sao mà biết vậy?" 

Vương Tư Thái cả kinh, mặt không còn hạt máu, run rẫy nói: "Tôi... tôi.... tôi đoán vậy...." 

"Hắc hắc hắc, Vương Tư Thái thật là tuyệt đỉnh thông minh nghe!" Dương Thu Trì mỉm cười từ từ ngồi xuống, "Bổn quan lần này tìm ngươi, là muốn hỏi thử rốt cuộc ngươi có biết rốt cuộc là ai làm không? Hay là nói có ai đáng phải hoài nghi hay không?" 

Vương Tư Thái hơi thở phào: "Lần trước... lần trước có rất nhiều cung nữ, thái giám tùy hành đều đã bị chém đầu rồi, tôi thật không nghĩ ra... là ai nữa..." 

Dương Thu Trì đứng dậy, lạnh lùng nói: "Vương Tư Thái, có cái gọi là lưới trời lồng lộng mà một sợi lông cũng không thoát. Cho dù rất nhiều người theo cùng đều đã chét, những cũng có lúc người chết cũng biết nói chuyện. Cứ thử coi ta có thể làm sao khiến họ nói thôi. Bổn quan đã tra ra một bước, ngày án này được tra ra rõ ràng không còn bao lâu nữa. Hung thủ sát hại hiền phi nương nương nhất định sẽ chết thảm hơn hiền phi gấp trăm nghìn lần!" 

Phất ống tay áo, Dương Thu Trì dẫn theo Tống Vân Nhi, sáu hộ vệ cùng Nam Cung Hùng chuyển thân rời khỏi phòng, chỉ còn lại Vương Tư Thái tái nhợt ủ rũ như con gà chết. 

Ra khỏi cổng, Dương Thu Trì nháy mắt ra hiệu cho Tống Vân Nhi, Tống Vân Nhi gật đầu. Sau đó, hắn cùng Nam Cung Hùng và các hộ vệ ra khỏi hoàng cung, chỉ còn lưu lại một mình Tống Vân Nhi chuyển người biến mất sau phòng. 

Dương Thu Trì cùng mọi người trở về Dương phủ, vừa rồi tiến vào nhà thoắt cái đã đi, còn chưa kịp nói chuyện, lúc này Dương Thu Trì trở về, chúng nữ đều vây lấy. 

Thấy bộ dạng cười ha ha của hắn như vậy, Phùng Tiểu Tuyết hỏi: "Thế nào? Sự tình thuận lợi không?" 

"Rất thuận lợi," Dương Thu Trì gật đầu, "Từ khi đến kinh thành, cứ ãi cả thấy bị đè nặng, áp ức, còn chưa được sảng khoái lần nào, ha ha." 

Tống Tình hiếu kỳ nhìn ra sau lưng Dương Thu Trì, hỏi: "Ơ? Cái đuôi nhỏ của chàng đâu?" 

"Vân Nhi có trọng nhậm khác!" Dương Thu Trì đưa mắt nhìn Tần Chỉ Tuyệ ẵm hài tử, cười ha ha bước tới. Tần Chỉ Tuệ sinh con gái vào ngày thứ hai, thì Dương Thu Trì đã vội vàng đến Sơn đông tra án, còn chưa nhìn kỹ con. 

Dương Thu Trì ẵm con gái lên, cười hi hi nhìn nói: "Ừ, mắt to, sóng mũi cao, môi trái tim, không tệ a, tương lai nhất định là một tiểu mỹ nhân!" 

Tần Chỉ Tuệ phì cười: "Còn nhỏ thế mà nhìn ra được à?" 

Dương Thu Trì trừng mắt: "Sao mà không nhìn ra được, đường đường là thiên kim của Dương hầu gia ta không phải là nguyện thẹn hoa nhường thì cũng trầm ngư lạc nhạn!" Hắn cúi đầu, dùng mũi cụng cụng vào cái mặt nhỏ xíu của con gái, hỏi lại: "Có phải không nè, tiểu lạc nhạn!" 

"Cái gì mà tiểu lạc nhạn? Khó nghe quá trời!" Tống Tình ở bên cạnh giãy nãy. 

Phùng Tiểu Tuyết ở bên cạnh nói: "Đúng a, phu quân, đoạn thời gian này chàng bận nhiều chuyện tra án quá, chưa đặt tên cho hai con!" 

Liễu Nhược Băng đang ẵm con cho bú, nghe lời này cũng cười nói: "Đúng đó, thiếp cũng không biết gọi làm sao, chỉ có thể gọi là bảo bối trước, đã đến lúc đặt tên rồi." 

Dương Thu Trì nhớ lại cách đặt tên của Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh Ký, liền cười ha hả nói: "Được, con trai lớn thì gọi là Đồng Chuy (chùy đồng), con gái thứ hai gọi là Bản Đắng (ghế đẩu)! Rồi cúi đầu nhìn con gái trong lòng hỏi: "Có đẹp không con, tiểu bản đắng!" 

Chợt nghe nói con trai gọi là Đồng Chuy, tuy tên có hơi quê một chút những cũng miễn cưỡng qua được, chứ tên của con gái lại là Bản Đắng, thì chúng nữ đều ngẩn ra, sau đó ai nấy đều bật cười ha hả. 

Tần Chỉ Tuệ đỏ mặt, luôn miệng giãy nảy: ".... không chịu..." 

Hồng Lăng mỉm cười đỡ tay Tần Chỉ Tuệ: "Chỉ Tuệ tỷ tỷ, tỷ đừng lo, lão gia là chọc tỷ thôi, chàng ấy sao nỡ cấp cho con gái tên như vậy chứ." 

Dương Thu Trì hôn lên mặt con, cười ha ha bảo: "Ta sao lại không nỡ, tiểu bản đắng nghe hay quá trời, có phải không bảo bối tiểu bản đắng?" 

Dương mẫu cười nói: "Được rồi được rồi, đừng có ghế đẩu này ghế bành nọ nữa, quen rồi khó nghe thấy mồ." 

Tống Tình lên tiếng: "Đúng rồi đó lão gia, lão gia còn không mau ban cho các con những cái tên đẹp và có ý nghĩa đi!"

Dương Thu Trì cười ha ha ôm con gái đến cạnh Liễu Nhược Băng, ngồi ngang với nàng, ngẫm nghĩ một hồi rồi nói: "Con trai là ta cùng Băng nhi có với nhau ở trên tuyệt đỉnh vạn sơn, ừ... Mão lão nhân gia có một câu thơ gọi là 'Đạp biến thanh sơn nhân vị lão, phong cảnh giá biên độc hảo' Vậy con trai cứ đặt là Dương Đạp Sơn đi!" 

Hai má Liễu Nhược Băng ửng hồng, vui sướng gật đầu: "Đẹp lắm, vậy sẽ gọi là Dương Đạp Sơn!" 

Chúng nữ đua nhau vỗ tay khen hay: "Tên đẹp quá, vừa có lai lịch vừa có khí phách!" 

Tống Tình thì cứ thích chọc vào sườn non: "Lão gia, Mao lão nhân gia đó là ai vậy a?" 

"Là một vị thánh hiền, rất lợi hại, dùng thi từ của lão nhân gia người đặt tên là đảm bảo đoàn chuẩn!" 

"Đoàn chuẩn là chuẩn làm sao lão gia?" 

"Ài...." 

Tần Chỉ Tuệ thì lo cho tên của con gái mình, hỏi: "Vậy... con gái tên gọi là gì?" 

Dương Thu Trì ngẫm nghĩ: "Tên của con gái ấy à...., ta nghĩ không ra a, Tiểu Tuyết, nàng là mẹ, nàng đặt tên cho con đi." 

Phùng Tiểu Tuyết chưa hề đọc qua sách, nghe nói thế liền xua tay loạn: "Không không.... thiếp càng không thể.... hay là chàng cứ đạt đi." 

Dương Thu Trì cũng không miễn cưỡng, cúi đầu nhìn con gái, hồi ức lại thời còn học đại học ở kiếp trước, để cua cho được bạn gái đã phải vào trong thư viện lục tung học thuộc một số thi từ ngợi khen con gái, nên cố nhớ lại bảo: "Ta nhớ trong Thi kinh có một câu gọi là 'Hưu mỹ nhất nhân, Thanh Dương Uyển Hề' (Có một nữ nhân tên là Dương Uyển Hề), ta hiện giờ có con gái vừa đẹp vừa xinh, sau này nhất định sẽ thành một Dương Uyển Hề thôi, vậy đặt tên cho con là 'Dương Uyển Hề' nhé!" 

Tống Tình vỗ tay khen: "Tên hay! Trước đó còn nói văn của lão gia không thông, sao bây giờ lại trơn tru thông thạo thế a?" 

Chúng nữ đều đua nhau khen phải, Tần Chỉ Tuệ càng sung sướng hơn. 

Tống Tình nói: "lão gia, khó có dịp lão gia cao hứng như hôm nay, trí tuệ như suối nguồn, hay là nếu sau này thiếp sinh con gái, lão gia đặt tên cho con trước luôn đi! Dù gì còn có mấy ngày nữa là sinh rồi." 

Dương Thu Trì đến bên cạnh Tống Tình, khe khẽ ôm vai nàng: "Mỗi lần ta nhớ lại chuyện cũ, đều nghĩ đến nàng vì sự an nguy của mẹ, bị Kiến Văn dư đảng hiếp bách mà hòa hảo với ta. Nàng đối với mẹ một lòng hiếu thảo như vậy khiến ta vô cùng cảm động. Ta nghĩ đến một câu trong Thi Kinh rằng: "Duy tang dữ tử, tất cung kính chỉ", nói cho dù là cây dâu hay cây đinh tán gì cũng sống vì cha mẹ, con cháu thấy cây tử (đinh tán) là nghĩ đến mẹ cha, tất cung tất kính. Cho nên nếu nàng sinh ra con là gái, ta sẽ đặt tên là 'Dương Nhược Tử', để kỷ niệm câu chuyện đã trải qua này, có được không?" 

Tống Tình nghe Dương Thu Trì nói cảm động như vậy, không khỏi ướt rượt đôi mắt, cảm kích ứa lệ nhìn hắn gật đầu. 

Ăn cơm tối xong, Tống Vân Nhi vẫn không trở về, Dương Thu Trì hơi lo. Nhưng mà người trong cung đều biết Tống Vân Nhi là thiếp thất của Dương hầu gia, xem ra chẳng có chuyện gì. 

Cho dù là thế, Dương Thu Trì vẫn không khỏi lo lắng. Cổ đại không có điện thoại, nếu không chỉ cần gọi điện thoại hay nhắn tin báo bình an là quá tốt rồi. Đến lúc này hắn bắt đầu phiền muộn chán chường cho cái xã hội cổ đại lạc hậu không có điện thoại không có máy tính không có trò chơi và không có mạng này! 

Vừa lúc ấy, người gác cổng chạy bay vào báo: "Lão gia, thánh chỉ đến!" 

Dương Thu Trì cả kinh, vội vã bước ra cửa phòng, chúng nữ lánh vào hậu đường. 

Công công ấy mang theo hai tiểu thái giám và một số đại nội thị vệ tay không mà đến, đứng ở giữa nhà cất giọng the thé: "Dương đại nhân, thỉnh quỳ xuống tiếp chỉ." 

Dương Thu Trì vén y bào quỳ xuống. 

Công công lớn giọng tuyên: "Hoàng thượng khẩu dụ cho vời Trấn Viễn hầu, Ứng Thiên phủ phũ doãn kiêm cẩm y vệ đồng tri Dương Thu Trì lập tức tấn kiến! Khâm thử." 

Dương Thu Trì dập đầu: "Thần lĩnh chỉ." 

Tuyên xong khẩu dụ, vị công công ấy mang người bỏ đi. 

Chúng nữ đều chạy ra, bọn họ ở sau nghe được thánh chỉ, hiện giờ đều là những con chim sợ ná, cá sợ nôm, nên khi nghe hoàng thượng triệu kiến đều lo là sẽ xảy ra chuyện gì đó. 

Dương Thu Trì an ủi: "Không hề gì, hoàng thượng có khả năng là gọi ta vào cung hỏi về chuyện đi Sơn Đông tra án. Đừng lo lắng." Hồng Lăng đã đem quan bào của bậc hầu gia ra mặc cho Dương Thu Trì. 

Dương Thu Trì ngồi kiệu, mang Nam Cung Hùng cùng sáu thiếp thân hộ vệ tiến thẳng vào hoàng cung. 

Hỏi chỗ hoàng thượng đang ở, hắn đến thư phòng cung Càn Thanh. 

Minh Thành Tổ đang ngồi nghiêm sau thư án rồng cầm một tờ giấy, mặt mũi âm trầm nhíu mày xị mạt, bên cạnh có Lý công công và Kỷ Cương đang đứng, ngoài ra còn có một người mập mạp, thở phì phì xem ra rất khổ sở. 

Dương Thu Trì quỳ xuống dập đầu, Minh Thành Tổ không nói tiếng nào, hắn chỉ đành quỳ y như vậy. Kỷ Cương ở bên cạnh nhìn xéo Dương Thu Trì, khóe miệng lộ một nụ cười lạnh đắc ý. 

Dương Thu Trì cúi đầu quỳ mọp, không biết mình đã làm chuyện gì sai chọc giận hoàng thượng. Một lúc sau đó, Minh Thành Tổ mới từ từ bỏ tờ giấy đó xuống, nhìn hắn chầm chầm, hỏi: "Ngươi có biết tội chưa?" 

Trong đầu Dương Thu Trì như có tiếng sét đánh sầm, kinh khủng thưa: "Vi thần không biết." 

"Hừ! Ngươi nếu như đã tra ra Vương Tư Thái chính là chân hung dùng thán độc giết chết hiền phi, vì sao không bẩm báo với trẫm, trẫm không phải là bảo ngươi trực tiếp bẩm báo với trẫm hay sao?" 

Dương Thu Trì ngẩn người, chuyện này chỉ có mình Tống Vân Nhi và hắn biết, hoàng thượng sao lại biết được chứ? Hơn nữa còn biết rõ là Vương Tư Thái dùng thán độc giết chết Hiền phi, tin tức chuẩn xác như vậy từ đâu mà có? 

Tuyệt không thể là do Tống Vân Nhi nói, vậy thì ai? Dương Thu Trì xoay chuyển đầu óc, lập tức minh bạch: nếu như không phải Vương Tư Thái bị bắt rồi khai ra, thì là do trong số sáu thiếp thân hộ vệ và Nam Cung Hùng đây có vấn đề, nhất định là trong số đó có tai mắt của Kỷ Cương. 

Không chờ Dương Thu Trì suy nghĩ thêm, Minh Thành Tổ đã khẽ hừ lạnh, hỏi: "Trẫm đang hỏi ngươi! Vì sao không đáp?" 

Dương Thu Trì vội nói: "Hoàng thượng, thần tuy nhiên đã tra ra Vương Tư Thái là chân hung hạ độc hại chết Hiền phi, nhưng kẻ đứng đằng sau lưng chỉ huy ả là ai còn chưa tra ra được. Vi thần muốn tra án này ra cho thật rõ, sau đó mới bẩm cáo với hoàng thượng...." 

"Không phải vậy chứ? Ngươi thật sự nghĩ như vậy sao?" Minh Thành Tổ lạnh lùng nói. 

Dương Thu Trì ngẩn người, cái này còn phải nói láo nữa sao? Hắn thầm nghĩ, cho dù hắn có báo chậm vài canh giờ, cũng đâu có phải là tội gì lớn lắm đâu, là hoàng thượng ông bảo ta tra cho rõ rồi mới hồi báo. Ta chỉ vì nhận thấy còn tra chưa rõ, đương nhiên có thể chậm hồi báo, cái đó đâu có quan hệ gì đâu a? 

Dương Thu Trì vừa định phân bua, Minh Thành Tổ đã hừ lạnh thêm tiếng nữa, quẳng sấp giấy trên long án ra trước mặt Dương Thu Trì: "Ngươi tự xem đi!" 

Là cái gì thế? Dương Thu Trì ẩn ước cảm giác có gì không ổn, cầm mấy tờ giấy đó lên xem, chỉ đọc một chút đã toát mồ hôi lạnh, cố xem lướt qua cho hết, hắn lập tức lớn tiếng thưa: "Vạn tuế! Vi thần oan uổng a!" 

Thì ra đó chính là lời cung khai của Vương Tư Thái, Cố nội các học sĩ và Thuận phi. Tất cả đều nói dưới sự chỉ bảo của Thuận phi Nhâm thị là một nữ tữ Triều Tiên cùng tiến cống với Hiền phi, họ đã bày mưu tính kế độc sát Hiền phi, mục đích là để tranh đua sùng ái. Và Dương Thu Trì và Ứng thiên phủ phủ doãn Cố đại nhân (hiện giờ là Cố nội các học sĩ) chính là những người chỉ huy tiến hành những bước cụ thể mưu sát Hiền phi! 

Cái này... cái này rõ ràng là tự nhiên mà có, đặt điều phỉ báng a! Dương Thu Trì tức đến run cả người. 

Minh Thành Tổ lạnh lùng nói: "Ngươi nói nghe xem oan uổng ngươi ở chỗ nào?" 

"Tháng bảy năm rồi thần còn ở Trấn Viễn châu Thanh Khê huyện tập nã Kiến Văn dư đảng, đang huyết chiến với chúng, làm sao có thể phân thân chỉ huy Vương Tư Thái?" 

Minh Thành Tổ nói với Kỷ Cương: "Kỷ ái khanh, ngươi vạch trần âm mưu cho hắn xem, cho hắn chết một cách minh bạch!" 

Dương Thu Trì nghe thế lập tức lạnh lòng, hèn gì, đây chắc chắn là do tên Kỷ Cương làm trò quỷ rồi!

Kỷ Cương khom người đáp ứng, đanh giọng nói: "Dương Thu Trì, bổn quan đã tra rõ, Thuận phi để tranh sủng ái đã lén cùng các ngươi bày kế mưu sát Hiền phi nương nương vào đầu năm rồi trước khi hoàng thượng xuất chinh kìa!" 

"Đầu năm rồi?" Dương Thu Trì đột nhiên gặp phải sự tình này trong lúc khẩn trương đầu óc còn vô cùng mông lung, nghĩ một hồi mới phản ứng được, thì ra đầu năm rồi chính là lúc hắn đậu trúng vị tiến sĩ hứ 250, bị ủy nhiệm đến trấn ở huyện Thanh Khê trấn Viễn Châu, làm tri huyện, và đã có đến kinh thành tới Lại bộ lãnh lệnh phái khiển đi làm quan, đồng thời đi cùng và bảo hộ hai mẹ con Bạch Tố Mai tới Vân Nam. Lúc đó, hắn đích xác đã có ở kinh thành vài ngày. 

"Nghĩ ra được rồi phải không?" Kỷ Cương đắc ý cười lạnh vài tiếng, "Thuận phi đố kỵ hoàng thượng chỉ sủng ái có mình Hiền phi nương nương, nên đã nghĩ cách trừ khử đi nương nương, trước hết tìm đến Cố phủ doãn, lấy lễ hậu mà dâng. Cố phủ doãn sau khi đáp ứng, lập tức do thấy ngươi giúp lão phá được án người đi thi ở Cống viên bị người ta dùng độc hại chết, nên rất thưởng thức ngươi. Cố phủ doãn nhận thấy rằng ngươi giỏi về phá án, đương nhiên cũng giỏi về cách làm sao giết người mà không bị người phát giác. Nếu như được ngươi bày kế hãm hại Hiền phi nương nương thì là điều quá lý tưởng rồi. Do đó, lão dùng cách an bài cứu vợ con Bạch thiên tổng chiếm cảm tình của người, đã kéo ngươi vào nhập bọn..." 

"Đánh rấm! Thật đúng là đặt điều xằng bậy!" Dương Thu Trì phừng giận, trong lòng ngập tràn ý muốn rút súng bắn nát đầu cái con rùa đen Kỷ Cương này. Nhưng mà, súng trong tay hắn bây giờ chỉ còn có bốn viên đạn, hơn nữa hiện giờ thân hắn bị hãm trong cung, Tống Vân Nhi không biết hạ lạc nơi nào, tình huống hiện tại rõ ràng là vô cùng bất lợi với hắn, cần phải bình tĩnh ứng đối, không đến lúc vạn bất đắc dĩ tuyệt không động thủ. 

Kỷ Cương không hề tức giận, vẫn đắc ý như cũ, nói tiếp: "Ngươi giỏi nhất là phá án, đương nhiên cũng biết làm cách nào giết người mà không bị người phát hiện. Và thế là, ngươi dò hỏi có hay không có người nào thân tín bên cạnh Hiền phi nương nương, biết được hoàng thượng vào tháng hai xuất chinh ở Mạc bắc (phía bắc trường thành), lại quyết định cho Vương Tư Thái vốn được nương nương tin dùng đồng hành, và Vương Tư Thái thật ra là được Cố phũ doãn đưa vào cung đề cử làm nữ quan, là người thân tín của Cố phủ doãn...." 

Dương Thu Trì cảm thấy xương sống ởn lạnh: tên Kỷ Cương này quả thật là chuyên gia trong nghề vu cáo hãm hại: Y trình bày ra trước mắt hoàng thượng một trường cảnh vô cùng đáng sợ và cũng thập phần đáng tin. Nếu như hắn không phải là người bị hại, là kẻ trong cuộc, chỉ sợ giờ phút này cũng bị lời bịa đặc này của y làm cho mê hoạc, huống chi lời bịa đặt này còn có khẩu cung cấn chứng của Vương Tư Thái, Thuận phi và Cố phủ doãn. 

Tên Kỷ Cương này rõ ràng là dựa vào hại người mà làm nên sự nghiệp. Y đương nhiên biết muốn hại đổ một người thì cần phải có chứng cứ gì. Và chứng cứ mà y thu thập chỉ sợ không phải bấy nhiêu đó mà thôi. 

Dương Thu Trì cưỡng bách cho bản thân bình tĩnh trở lại. Vào lúc này chỉ có lấy tĩnh chế động, trước hết nhìn rõ âm mưu của y xong rồi tính sau. Trong đầu hắn bắt đầu tính toán xem tên Kỷ Cương này còn thu thập những chứng cứ gì có thể gây bất lợi cho hắn. 

Nhưng mà, xem ra thì hoàng thượng Minh Thành Tổ đã bị lời đặt điều vu cáo của Kỷ Cương làm cho mê hoặc rồi. Tính tình của ông ta vô cùng lạnh lùng và tàn nhẫn, từ những chuyện chưa cần hỏi cho ra lẽ phải trái trắng đen, không cần biết chứng cứ có đủ đầy đáng tin hay không, ông ta đã ngược sát mấy trăm cung nữ và thái giám... cho thấy chỉ sợ lần này ông ta chẳng cần quan tâm chứng cứ đó là cái gì, chỉ quan tâm đến cảm giác của chính ông ta. Và cái cảm giác đó chẳng mấy tốt đẹp gì sau khi để vuột Hồng Lăng về tay hắn! 

Nghĩ đến đây, mồ hôi lạnh ứa đầy trên trán Dương Thu Trì.

Kỷ Cương càng nói càng cao hứng: "Ngươi bày ra chiêu sử dụng hơi than độc này thật lợi hại. Trong mùa hè không một ai có thể ngờ rằng có thể dùng thán độc để giết người, nhưng dưới sự chỉ đạo của cao thủ mưu sát nhà ngươi, âm mưu của các ngươi quả nhiên đã được thực hiện thành công. Hơn nữa, do mưu sát được tiến hành trong lúc hoàng thượng đang trên đường đánh trận, lúc đó các ngươi không có mặt, còn Vương Tư Thái là thân tín của Hiền phi nương nương, nên cho dù có nghi ngờ về cái chết của nương nương, cũng không nghi đến các ngươi được. Chiêu này quả thật là cao, thật cao! Hắc hắc...." 

Dương Thu Trì không ngờ lại lộ nụ cười mỉm, giương mắt nhìn Kỷ Cương. 

Kỷ Cương nhìn đã quen cảnh những người bị y vu cáo đưa vào tuyệt lộ để rồi luôn hiện ra thần sắc tuyệt vọng, đối với dáng vẻ không coi ra gì của Dương Thu Trì hơi cảm thấy bất ngờ. 

Y không thể biết rằng Dương Thu Trì mỉm cười là đang nghĩ lúc vạn bất đắc dĩ liều một trận cá chết lưới rách thì bốn viên đạn còn lại trên súng của hắn cũng vừa hay: mỗi người một viên, một cái mạng của hắn đổi lại mạng của Vĩnh Lạc đại đế Minh Thành Tổ, lại còn có cả mạng của cẩm y vệ chỉ huy sứ Kỷ Cương, còn Lý công công và tên mập này xem ra không đáng. Hắn không rành lịch sử sẽ đi như thế nào, thầm nghĩ không chừng mình sẽ là một nhân vật "thí quân" (giết vua) nào đó trong sử sách cũng không chừng. 

Kỷ Cương nói tiếp: "Ngươi trước đó cố ý nói Hiền phi chết do tì sương, khi man hoàng thượng, muốn vờ vịt mà quá quan. Sau khi hoàng thượng minh xét làm rõ, âm mưu của ngươi không đạt, thế là ngươi lợi dụng lúc hoàng thượng cho ngươi cơ hội tiếp tục phá án của Hiền phi, giả vờ đến Sơn Đông Lâm thành tra án, chứ mục đích chân chính chính là đi hủy thi diệt tích." 

"Hủy thi diệt tích? Ha ha, thật nễ chuyện vậy ngươi cũng nghĩ ra được!" Dương Thu Trì cười nói, "Ta làm sao hủy thi diệt tích rồi? Nếu như ta đi hủy thi diệt tích, sao di thể của Hiền phi nương nương còn hoàn hảo như vậy?" 

"Hoàn hảo? Hừ, bổn quan hỏi ngươi, lúc đó ngươi chẳng phải là cho mọi người ra ngoài hết sao, thậm chí bao quát cả thiếp thất của ngươi là Tống vân Nhi cũng ra ngoài, chỉ còn lại mình ngươi ở lại mộ thất của nương nương?" 

Nhất cử nhất động của hắn đều bị Kỷ Cương giám thị, và chuyện này không có gì kỳ quái nữa, Dương Thu Trì lạnh lùng nói: "Không sai. Ta muốn đơn độc kiểm nghiệm." 

"Giỏi cho câu đơn độc kiểm nghiệm!" Kỷ Cương cười lạnh, "Kiểm nghiệm thi thể mà dùng đến hai canh giờ lâu như vậy sao? Lần trước kiểm nghiệm chẳng phải mất chừng thời gian uống cạn chung trà, lần này vì sao mà lâu như vậy? Hơn nữa, nếu như là kiểm nghiệm thật, cần gì phải đuổi thiếp thất nhất mực theo sát ngươi ra ngoài?" 

Dương Thu Trì đã nhớ ra. Hai lần kiểm nghiệm khí than CO đã mất khá nhiều thời gian, cộng thêm những kiểm nghiệm thông thường và thời gian chờ xem phản ứng của con vịt uống nước muối trong bụng Hiền phi... cộng lại quả thật là khoảng hai canh giờ. Trong khi đó, kiểm nghiệm thời cổ đại chỉ giới hạn ở kiểm nghiệm ngoài da, và đơn giản hơn rất nhiều, cho nên chỉ chừng thời gian tàn một nén nhang là xong xuôi hết. Hắn phải tốn thời gian gấp nhiều lần, dưới miệng lưỡi người ngoài rõ ràng là rất khó giải thích. 

Kỷ Cương thấy Dương Thu Trì cứng họng, đắc ý cười bảo: "Ngươi kiểm nghiệm ở chỗ nào đâu, rõ ràng là ở trong đó hủy diệt di thể của Hiền phi nương nương, hủy diệt tội chứng các ngươi dùng hơi than giết nương nương!" 

"Ngươi nói bậy! Ta đối với di thể của nương nương một mực kính trọng, sao có thể hủy tổn di thể của nương nương chứ?" 

"Hừ hừ, mắt thấy mới chứng minh đó là sự thật!" Kỷ Cương quay sang nói với Minh Thành Tổ: "Hoàng thượng, mấy ngày trước thần đã tiếp được phi cáp truyền thư từ tai mắt an bài trong đội hậu vệ, biết được tình huống này cảm thấy rất hoài nghi. Thần đạ lập tức phái cẩm y vệ đến lăng mộ của Hiền phi nương nương, khai quan kiểm nghiệm, bấy giờ mới phát hiện di thể của Hiền phi nương nương... đã bị... đã bị tên này.... đốt cháy không còn mặt mũi, rồi còn dùng đao kiếm chém cho nát bấy.... hu hu hu...." 

Nói xong, Kỷ Cương khoa trương khóc rống lên. 

Sắc mặt Minh Thành Tổ xám xịt, vỗ mạnh một cái lên bàn: "Dương Thu Trì, nhân chứng vật chứng đều rõ, ngươi còn lời gì để nói?" 

Dương Thu Trì đáp: "Hoàng thượng, đây rõ ràng là Kỷ Cương phái cẩm y vệ hủy diệt di thể của nương nương, sau đó tiến hành vu oán hãm hại đối với vi thần!" 

"Im miệng!" Minh Thành Tổ quát. "Kỷ ái khanh với ngươi vô oán vô cừu, vì sao lại muốn hãm hại ngươi?" 

Xem ra Kỷ Cương đích xác là đại hồng nhân (người cực kỳ tin cậy, thân tín) của Minh Thành Tổ, vô luận là Kỷ Cương nói cái gì, chỉ cần lời có chút lý thì đối với Minh Thành Tổ đều là chân lý, tội chứng thành lập, đại sự của hắn coi như đã đến nước không còn cứu vãng được nữa. 

Dương Thu Trì tựa hồ quỳ đã mỏi mệt, đưa tay chống đầu gối, từ từ kéo y bào lần đến bán súng, sờ sờ lên súng, tâm lý có phần trấn an. Hắn đã quyết chủ ý, chỉ cần Minh Thành Tổ quát gọi người vào, thì hắn lập tức động thủ. Bọn họ cách hắn mấy mét, đặc biệt là cách Lý công công tới gần chục mét, họ hoàn toàn không thể đến can thiệp kịp. 

Minh Thành Tổ nhìn trừng Dương Thu Trì, thấy hắn không cãi lại, hơi có phần bất ngờ, trầm giọng hỏi: "Ngươi còn có lời gì để nói?" 

Dương Thu Trì khẽ mỉm cười: "Tôi muốn nghe tiếp lời tên Kỷ cương này vu khống tôi thế nào, câu chuyện này thật đáng nghe." Hắn đã quyết định liều mạng, nên lười xưng luôn hai tiếng "vi thần". 

Kỷ Cương ngược lại hoàn toàn không chú ý đến điểm này, đang cao hứng vì sự vu cáo hãm hại sắp sửa thành công của mình, nói tiếp: "Được, vậy cho ngươi chết một cách minh bạch. Ngươi sau khi hủy thi diệt tích của nương nương rồi, trở về kinh thành vội vã đi tìm Vương Tư Thái. Do Vương Tư Thái ngụ ở hoàng cung, ngươi không tiện giết người diệt khẩu, nên nghĩ cách thông tri cho ả đào tẩu..." 

"Ha ha ha," Dương Thu Trì cười lớn, "Ngươi quả thật là có lực tưởng tượng! Thông tri cho ả? Ta mang sáu hộ vệ đi thông tri cho ả đào tẩu? Thông tri bằng cách nào vậy?" 

"Ngươi đương nhiên không nói thẳng ra, ngươi cố ý đem chuyện các ngươi dùng thán độc giết chết Hiền phi nương nương báo cho ả biết, dẫn đến sự cảnh giác của ả, và cũng là báo cho ả biết sự tình đã bại lộ, bảo ả nhanh chóng bỏ chạy! Do đó, sau khi các ngươi đi rồi, Vương Tư Thái lập tức mạng mấy vóc lụa, giả vờ mang lụa lẻn đến cung của Thuận phi. Ngươic còn không an tâm, nên bảo tiểu thiếp Tống Vân Nhi của ngươi bám theo đến Thuận phi cung, thông tri cho Thuận phi sớm chuẩn bị, nhưng bị ta mai phục cẩm y vệ bắt đem về." 

Dương Thu Trì lạc giọng quát hỏi: "Kỷ Cương! Các ngươi đem Vân nhi làm gì rồi? Ngươi dám động đến cọng lông nào của nàng ấy, ta sẽ giết ngươi!" 

Kỷ Cương cười lạnh: "Ngươi tự thân còn khó sống, còn lo gì cho người khác?" Y chuyển thân khom người thưa với Minh Thành Tổ: "Thần đã đem tội hạnh của Dương Thu Trì phô bày ra hết, thỉnh hoàng thượng định đoạt." 

Minh Thành Tổ nhìn xoáy vào Dương Thu Trì: "Ngươi còn có lời gì để nói?" 

Dương Thu Trì kêu lên: "Đây đều là lời một phía của hắn, hơn nữa chỉ thuần là đặt điều thêu dệt, vu cáo hãm hại, để đạt được mục đích không thể nói rõ của hắn!" 

Sắc mặt của Kỷ Cương hơi biến: "Ta thì có mục đích gì không thể nói cho người hay? Mọi chuyện ta làm đây đều là thực hiện chức trách mà hoàng thượng bảo ban cho ta, vạch trần tên bại loại nguy hại cho giang sơn xã tắc nhà ngươi!" 

"Phì!" Dương Thu Trì phun qua một bãi nước bọt, Kỷ Cương đang đắc ý trong lúc không kịp phòng đã dính một bãi trên mặt, không khỏi cuồng giận, xoắn tay áo bước lên định động thủ. Minh Thành Tổ quát: "Kỷ ái khanh!" 

Kỷ Cương vội vã dừng bước, lui về sau, dùng tay áo lau đi bãi nước bọt trên mặt, nhưng trên đầu vẫn còn dính một đốm, trong lúc tức giận khôn cùng đã không chú ý đến, nên vẫn còn dính ở đó. 

Minh Thành Tổ lạnh lùng hỏi Dương Thu Trì: "Ngươi nói coi, hắn có mục đích không thể nói với người gì?" 

"Cái lòng của Tư Mã Chiêu người đi đường cũng biết! Tôi phá án vô số, đặc biệt là bát được rất nhiều đầu mục trọng yếu của Kiến Văn dư đảng, thậm chí bắt sống luôn con trai Chu Văn Khuê của Kiến Văn. Thủ đoạn như thế Kỷ Cương hắn làm sao mà sánh? Hắn biết cái gì? Hắn chỉ biết dùng nhục hình bức cung, vu oan hãm hại! Nếu cần phá án thật, thì hắn có bản lĩnh cứt gì, ngay cả ăn trộm vặt cũng không bắt được một tên! Hoàng thượng nhậm mệnh cho tôi làm cẩm y vệ đồng tri, chỉ dưới một mình hắn, lại còn phong cho tôi làm siêu phẩm Trấn Viễn hầu, khiến cho hắn cảm nhận được nguy cơ cực lớn, nhân vì bằng vào bản lãnh phá án của tôi, sớm muộn gì cũng thế hắn làm cẩm y vệ chỉ huy sứ! Vì thế, hắn mới hạ thủ đối với tôi, tiến hành hãm hại chuyện không thành có! Đấy chính là mục đích không thể nói cho người hay của hắn!" 

Kỷ Cương tức giận cùng cực: "Ngươi nói bậy! Bổn quan luôn mạng trong lòng cái tâm báo quốc, có thể sánh cùng nhật nguyệt! Ngươi là đồ mưu sát Hiền phi nương nương, đã bị tử tội tru diệt cửu tộc, còn dám phỉ báng bổn quan, xem ra phải tăng thêm một bậc!" 

"Ha ha, tăng thêm một bậc tội? Muốn diệt mười tộc của ta? Được a, Kỷ Cương ngươi đã từng xưng huynh gọi đệ với ta, ngươi cũng nằm trong hàng ngũ mười tộc này, trước hết phải diệt ngươi!" 

"Ngươi...." Mặt Kỷ Cương hơi biến, quay đầu nói với hoàng thượng: "Thần lúc đó... lúc đó tùy tiện nói thôi...., thần trước giờ chưa hề coi hắn là huynh đệ thật." 

Minh Thành Tổ phất tay: "Được rồi, trước hết không nói tới mấy thứ ấy, Dương Thu Trì, trẫm hỏi ngươi, ngươi có nhận tội hay không?" 

Dương Thu Trì ưỡn ngực: "Tôi không có tội gì cả, những thứ này đều là do một mình lão tặc Kỷ Cương này biên tạo ra. Nếu như muốn định tội của tôi, thì hãy đem bằng chứng thật ra, chứ không phải nghe mồm miệng chẳng đáng tin của một mình hắn!" 

Kỷ Cương đưa tay chỉ Dương Thu Trì: "Ngươi... ngươi...., giỏi, bổn quan đem bằng chứng thật ra cho ngươi xem, để ngươi nín miệng không còn lời gì để nói!" Vừa chuyển thân, hắn đã hô to với bên ngoài: "Đưa mấy tên chúng vào!" 

Cẩm y vệ ngoài cửa đáp ứng, chẳng mấy chốc sau đưa ba người tiến vào đè quỳ xuống. Dương Thu Trì quay đầu nhìn, thì ra là Cố nội các học sĩ, Vương Tư Thái, và một nữ nhân mà hắn không quen. Ba người đều sắc mặt tiều tụy, trên người máu thịt mơ hồ, rõ ràng đã từng trải qua khốc hình bức cung. 

Phía sau có ba người tiến vào nữa, thì ra là ba trong sáu thiếp thân hộ vệ của hắn, người đi đầu có tên là Bồ Phàm Cốc. 

Dương Thu Trì tức thời minh bạch, thì ra là tai mắt ẩn tàng bên thân hắn chính là ba tên cẩm y vệ hộ vệ Bồ Phàm Cốc này! Hiện giờ hắn đạ bị Kỷ Cương đánh đổ, đương nhiên không cần giấu giếm gì nữa, lập tức bước ra với tư cách chứng nhân. 

Ba người Bồ Phàm Cốc này cùng với Nam Cung Hùng, Từ Thạch Lăng, Thạch Thu Giản cùng hắn tiến cung. Nam CUng Hùng và ba người khác chẳng lẽ đã bị bắt rồi? Dương Thu Trì hỏi: "Ngoại trừ ba tên phản đồ này, những hộ vệ khác của ta đâu?" 

Kỷ Cương cười lạnh: "Ngươi yên tâm, chờ ngươi bị lăng trì xử tử, Nam Cung Hùng cùng mấy tên hắn sẽ cùng đi chung đường với ngươi. Người đông đi xuống suối vàng sẽ không thấy tịch mịch đâu, ha ha ha." 

"Vân nhi của ta đâu?" 

"Nàng ấy.... hắc hắc, sẽ cùng với những thê thiếp của ngươi thưởng cấp cho công thần làm gia nô. Ha ha ha...." Kỷ Cương đắc ý cười lộ ra vẻ cực kỳ dâm đảng. 

Dương Thu Trì tức thời hiểu rõ là Kỷ Cương hãm hại mình một phần là sợ năng lực của hắn quá giỏi có thể thế y, một mục đích khác là tơ tưởng đến hai mỹ thiếp Hồng Lăng và Liễu Nhược Băng của hắn. Hắn cười lạnh khinh bỉ nói: "Ngươi đừng có nằm mộng!" Vừa nói vừa sờ súng, lòng nghĩ dù lão tử có chết thì ngươi cũng sống không nổi mà hưởng phước đó đâu! 

Nụ cười của Kỷ Cương chợt tắt, chuyển thân qua hỏi ba người Cố nội các học sĩ: "Ba ngươi nói coi có phải là các ngươi thông đồng với nhau dùng thán độc mưu sát Hiền phi nương nương hay không?" 

Cẩm y vệ sau lưng ba người lập tức túm đầu họ đè xuống đất, dường như là dập mạnh hẳn xuống, lại còn quát lớn: "Nói mau!" 

Ba người đều phát ra tiếng rên rĩ thống khổ, trước sau đều hồi đáp: "Đúng!" 

Dương Thu Trì nghe qua, đoán nữ tử đó chính là Triều Tiên cống nữ Thuận phi. 

Kỷ Cương đắc ý nhìn nhìn Dương Thu Trì, xong quay sang hỏi Bồ Phàm Cốc và hai hộ vệ đang quỳ phía bên kia: "Các ngươi đem tình hình nhìn thấy được như thật bẩm báo cho hoàng thượng nghe." 

Ba người bọn Bồ Phàm Cốc vâng dạ dập đầu, Bồ Phàm Cốc thưa: "Ba người bọn chúc hạ là thiếp thân thị vệ của Dương hầu gia, không, Dương Thu Trì. Lần thứ hai đến lăng mộ của Hiền phi nương nương khai quan nghiệm thị, một mình y tiến vào, đuổi tất cả chúng tôi ra ngoài. Sau khi chờ gần hai canh giờ mới ra nói được rồi. Tôi lúc đó vô cùng hoài nghi, khai quan nghiệm thi gì mà lâu dữ vậy, nên đem chuyện này mật báo cho chỉ huy sứ đại nhân." 

Dương Thu Trì lạnh lùng nhìn hắn, không hề lên tiếng. 

Bồ Phàm Cốc nói tiếp: "Sau khi trở về kinh thành, y dẫn chúng tôi đi tìm Vương Tư Thái, cố ý ba lần bốn lượt đem án tình nói ra, nói rất thẳng, rõ ràng là báo cho ả biết sự tình đã bại lộ. Vương Tư Thái lúc đó biến hẳn sắc mặt. Sau khi ra ngoài, y thì thầm gì đó với tiểu thiếp Tống Vân Nhi của y vài câu, Tống Vân Nhi sau đó bỏ đi. Tôi càng hoài nghi hơn, cho nên nghĩ cách thông tri cho chỉ huy sứ đại nhân." 

Kỷ Cương các đắc ý hơn, cười lạnh nói: "Dương Thu Trì, đồng đảng của ngươi đã khai nhận, lại có ba nhân chứng ở đây, ngươi còn cho rằng không có bằng chứng thực tế hay sao?" 

Dương Thu Trì đã tuyệt vọng đến cực điểm, chỉ bằng chứng cứ, không cần sử dụng hình tấn bức cung, thì vẫn có thể nói là vô cùng đầy đủ, có thể định án được rồi. 

Thì ra, Kỷ Cương quả nhiên đã sớm có lòng e dè về khả năng phá án của Dương Thu Trì có thể uy hiếp địa vị chỉ huy sứ của y, nên đã có ý nghĩ và thực hiện các biện pháp chuẩn bị trừ khử Dương Thu Trì. Khi Dương Thu Trì bắt được con trai Chu Văn Khuê của Kiến Văn đế, Kỷ Cương đã bắt đầu mở rộng công tác thu thập tin tức và tu liệu liên quan đến hành động của Dương Thu Trì. Chờ đến khi Minh Thành Tổ bổ nhiệm Dương Thu Trì làm cẩm y vệ đồng tri, sự e dè này càng mạnh mẽ hơn. Và vào lúc này, Kỷ Cương cũng đã hoàn toàn nắm rõ những tư liệu liên quan đến Dương Thu Trì, và tiến thêm một bước sắp bày kế hoạch tiến hành vu oán giá họa hãm hại hắn. 

Tiếp theo đó, Kỷ Cương tham công gây ra chuyện Minh Thành Tổ xét án sai, giết lầm Lữ Viên Thiện mỹ nhân cùng một số người khác, dẫn tới sự không vui của Minh Thành Tố, ngay trước mặt Kỷ Cương đã chỉ định Dương Thu Trì chuyên môn phụ trách phá án của Hiền phi, cho phép Dương Thu Trì trực tiếp vượt qua khỏi Kỷ Cương báo cáo thẳng với Minh Thành Tổ. Điều này khiến Kỷ Cương hạ quyết tâm động thủ với Dương Thu Trì, trừ đi mối uy hiếp này. 

Khi Dương Thu Trì cùng mọi người xuất phát đi lăng mộ của Hiền phi tiến hành khai quan nghiệm thi lần thứ hai, Kỷ Cương đã phái cẩm y vệ mật thám thân tín len lén đi theo vào lăng mộ, bố trí mọi chuyện thích hợp để vu khống hãm hại Dương Thu Trì. 

Bồ Phàm Cố đem tin tức Dương Thu Trì một mình nghiệm thi báo về, bọn mật thám sau khi chờ cho bọn Dương Thu Trì đi rồi, liền tiến hành đào bới vào mộ của Hiền phi nương nương tiến hành hủy hoại thi thể, từ đó mới khép Dương Thu Trì vào tội đại bất kính với di thể của Hiền phi nương nương. 

Tiếp theo đó, Dương Thu Trì vừa sử dụng kế đả thảo kinh xà để khua rắn con tìm về ổ, vốn là muốn tìm người đứng phía sau chỉ huy Vương Tư Thái, không ngờ tin tức bị tai mắt của Kỷ Cương là Bồ Phàm Cốc cùng 2 hộ vệ còn lại báo về, Kỷ Cương hiểu rõ một khi Dương Thu Trì phá được án của Hiền phi, địa vị của hắn trong tầm mắt của Minh Thành Tổ sẽ tăng thêm một bậc, ngày tháng thay thế Kỷ Cương y không còn xa nữa, cho nên càng tăng gia quyết tâm trừ diệt Dương Thu Trì. 

Kỷ Cương lập tức cho bộ hạ theo sát Vương Tư Thái, vừa khéo Thuận phi nương nương cho Vương Tư Thái mang vài cuộn vải đến cung. Cẩm y vệ đem tin này báo cáo Kỷ Cương, Kỷ Cương lập tức tìm được lý do thích hợp nhất, quyết định bắt vị Thuận phi nương nương đến từ Triều Tiên không có chỗ dựa gì lớn này đổ hết tội lên đầu. Y căn cứ vào tư liệu đã nắm được trước đó của Dương Thu Trì, căn cứ vào tình huống mới nhất trong âm mưu dùng thán độc mưu sát Hiền phi nương nương, kết hợp với các sắp bày trước đây của y, hình thành một kế hoạch hãm hại từ trên trời rơi xuống nhưng vô cùng hoàn chỉnh, lập tức thực thi như sấm nổ ngang tai. 

Kỷ Cương lập tức tiến cung đem sự tình mà y đã bày vẽ ra bẩm báo cho Minh Thành Tổ. Minh Thành Tổ nghe nói Dương Thu Trì hủy thi diệt tích, phá hủy di thể của Hiền phi nương nương, đùng đùng nổi giận, lại nghe nói Dương Thu Trì vốn đã sớm cùng Thuận phi, Cố nội các học sĩ câu kết, dùng thán độc mưu sát hiền phi nương nương, càng tức điên cả đầu, trong cơn thịnh nộ lập tức ra lệnh cho Kỷ Cương tiến hành điều tra triệt để. 

Kỷ Cương được lệnh tối cao của Minh Thành Tổ, lập tức phái cẩm y vệ dùng lưới cá tiến hành đánh lén Tống Vân Nhi, bắt sống nàng trong lúc đang theo dấu Vương Tư Thái. Sau đó, y cho bắt Vương Tư Thái, Cố nội các học sĩ và Hiền phi rồi tiến hành nghiêm hình khảo tra. Ba người này chịu tra tấn không nổi, đều căn cứ vào lời mớm cung mà Kỷ Cương đã an bày mà khai theo hết. 

Nếu như ba người đã khai nhận, khẩu cung của nhân phạm ở thời cổ đại là vua của mọi chứng cứ, chỉ bằng vào cái đó đã có thể định người ta vào tử tội. Minh Thành Tổ nhớ đến cái chết thảm của Hiền phi, trong cơn lửa giận đã vỗ bàn, ra lệnh cho đem Hiền phi, Vương Tư Thái và Cố nội các học sĩ áp giải đến thiên lao ở Hình bộ tra hỏi rồi giam lại chờ lăng trì xử tử, và tru diệt luôn cửu tộc. 

Thuận phi sau khi khai nhận, đã khai loạn oan cho người khác, hầu như đem toàn bộ những cống phi đến từ Triều Tiên đều khai thành đồng đảng của mình. 

Trong cơn tức giận, Minh Thành Tổ không cần điều tra cho tử tế gì cả, ra lệnh cho bắt trói hết các Triều Tiên cống nữ này đem lăng trì xử tử hết. Lần ngược sát này đã liên lụy đến hai nghìn tám trăm người, hầu như nữ tử tiến cống từ Triều Tiên đến cho Minh triều đều bị giết chết một cách thảm thiết. 

Thuận phi cùng hai người được cho là chủ mưu bị áp giải xuống thiên lao chờ lăng trì xử tử. Kỷ Cương thấy âm mưu sắp sửa thành công tròn vẹn, lòng thập phần đắc ý, tiếp theo đó chỉ còn chờ Minh Thành Tổ hạ chỉ tru diệt cửu tộc của Dương Thu Trì là xong. 

Dương Thu Trì nghe Minh Thành Tổ hạ lệnh đẹp những phi tần và cống nữ Triều Tiên cùng những người liên quan đem đi lăng trì xử tử mà lòng lạnh từng cơn. Hắn cảm thấy lão Minh Thành Tổ này quả thật là hiếu sát thành tính, không biết là bản thân có thoát được kiếp này hay không. Hắn sờ sờ cây súng 77 ở cẳng chân, chuẩn bị sẳn sàng liều mạng. 

Minh Thành Tổ xử trí xong những người khác, lạnh lùng nhìn Dương Thu Trì. Nhân vì Dương Thu Trì nhất mực không nhận tội, nên còn chưa tiện xuống tay, nên hỏi tiếp: "Ngươi còn gì để nói nữa?" 

Dương Thu Trì đáp: "Hoàng thượng, tôi không hề giết Hiền phi nương nương, mọi điều này đều do Kỷ Cương...." 

"Rầm....!" Minh Thành Tổ vỗ mạnh vào bàn, rống lên: "Im miệng! Chứng cứ xác thật ngươi còn dám chối nữa sao, còn dám vu khống người khác nữa sao?" 

Khóe miệng Kỷ Cương lộ một nụ cười đắc ý. 

Dương Thu Trì hoàn toàn tuyệt vọng, cười thảm một tiếng, lạnh giọng nói: "Tôi còn có một lời muốn nói." 

"Ngươi nói đi!" Minh Thành Tổ sầm mặt nhìn Dương Thu Trì trừng trừng. 

Dương Thu Trì nói: "Tôi hiện giờ rốt cuộc đã hiểu rõ cái câu 'Thỏ Chết Giết Chó' có hàm nghĩa chân chính là gì. Đó không phải là thỏ vừa chết là đem giết chó săn đi ăn thịt ngay, vì như vậy người khác sẽ nói chủ nhân là bất nhân bất nghĩa. Cho nên, nhất định phỉa tìm hiểu và chỉ rõ đặc điểm hay tật xấu gì đó của chó săn, ví dụ như ban đêm sủa loạn, rồi tùy tiện ỉa đái khắp nhà, ăn vụn này ăn hớt cái kia gì đó... sau đó mới giết chó săn. Như vậy thì chủ nhân của chó săn có thể nói: Các ngươi coi đó, ta không có 'Thỏ chết giết chó' nghe, ta giết nó nhân vì nó phạm phải những sai lầm như thế này! Có sai lầm thì dĩ nhiên là phải giết nó rồi!" 

"Đúng vậy!" Dương Thu Trì đã toàn thân đầm đìa mồ hôi, hùng hồn nói tiếp: "Tôi từ khi xuất đạo đến giờ, giết chết đại nội tổng quản của Kiến Văn là Hồng Ưng, bắt sống thái giám thân tín của Kiến Văn là Vương Chấn, phá án mưu phản của Hạ gia và Hác gia, thông báo tin tức giải cứu Hiền phi nương nương, bẻ gãy án mưu phản của Ngụy Quốc công Từ Khâm và Mễ viên ngoại ở Vũ Xương, miễn trừ cái khổ binh đao của hàng vạn bá tánh vô tội, đại phá sào huyệt của Kiến Văn, bắt sống thân tín của Kiến Văn là Trình Tể và con trai của y là Chu Văn Khuê, giết phản tặc Đế Lạc Pháp Vương, bắt thân tín Dương Ứng Năng của Kiến Văn, dẹp tan âm mưu phản loạn của cha con Đô chỉ huy sứ Lý Trì Nghiệp ở Tứ Xuyên, tự hỏi lòng cảm thấy vì nước tận trung, lòng trung như nhất. Không ngờ vẫn không chạy thoát mệnh vận thỏ chết giết chó! Chẳng lẽ đây cũng tính là nhân nghĩa hay sao?" 

Minh Thành Tổ cười lạnh: "Ngươi đang kể công với trẫm ấy à?" 

"Không sai! Tôi vào sanh ra tử là vì hoàng thượng, mấy lần chết đi sống lại, không có công lao cũng có khổ lao, không có khổ lao cũng có bì lao (mệt mỏi rõ rời do nhọc sức). Hoàng thượng chỉ bằng mấy chứng cứ hở đủ trăm cái lỗ do Kỷ Cương dùng khốc hình bức cung mà có để trị tôi tử tội, tôi chết cũng không phục!" 

"Hở trăm cái lổ?" Minh Thành Tổ cười lạnh, "Được, trẫm thử nghe xem ngươi nói coi cái gì là trăm lổ hổng, để tránh khỏi bị ngươi nói trẫm đối với ngươi bất nhân bất nghĩa!" 

"Được!" Dương Thu Trì gật gù, quay sang hỏi Kỷ cương: "Ta hỏi ngươi, ta vì sao lại nghe lời chỉ sử của Thuận phi mà mưu sát Hiền phi nương nương? Điều đó có gì tốt cho ta?" 

"Hiền phi cấp cho ngươi nhiều tưởng thưởng a!" Kỷ Cương cảm thấy lý do này rất đầy đủ và chắc chắn. 

"Ha ha ha! Tưởng thưởng? Ba ta là một tần phi thì có thể tưởng thưởng gì cho ta? Có thể thăng quan phát tài cho ta không?" 

"Thăng quan...." Kỷ Cương nghĩ lại, nhớ rằng Thuận phi không có quyền lực này, liền nói chữa: "Không... cấp cho ngươi kim ngân châu báo!" 

"Ta phá án Hạ viên ngoại trợ giúp Kiến Văn dư đảng, phá án mưu phản của Hác gia, hoàng thượng đã đem toàn bộ tiền tài của hai nhà thưởng cho ta. Ngươi có biết số tiền tài đó nhiều bao nhiêu không? Tuy chúng không bằng số mà ngươi bòn rút cướp bóc của dân chúng, nhưng cũng đủ nhiều lắm rồi. Chỉ bằng tiền tài kiếm được của các tiệm buôn của Hác gia ở Ninh Quốc phủ trong một năm cũng đủ chất đầy căn phòng này! Còn Thuận phi là một cống phi của Triều Tiên, tiền lương mỗi tháng đều theo định chế, nàng ta có bao nhiêu tiền mà đi mua chuộc lấy lòng ta? Ta lúc đó đã giàu khắp một phương, còn tham gì chút tiền tài của ả hay sao?" 

"Hắc hắc, lòng người lúc nào cũng không đủ hết!" 

"Ngươi cho rằng người khác ai ai cũng tham đến nổi đáng khinh nhờn như ngươi à?" Dương Thu Trì cười lạnh, "Được, ta hỏi ngươi thêm một vấn đề nữa, ngươi nếu có thể đáp cho tròn vẹn thì ta dù có chết cũng không nói hai lời!" 

"Lời này là thật?" 

"Ngươi tưởng lời lão tử nói giống như lời đánh rấm của ngươi hay sao?" 

"Ngươi..." Kỷ Cương trừng mắt, lập tức cố dằn cơn nóng giận: "Được, lão tử muốn để ngươi chết tâm phục khẩu phục. Ngươi hỏi đi!"

Vấn đề rất đơn giản, Dương Thu Trì cười hắc hắc hỏi: "Ngươi nói Thuận phi triệu kiến Cố phủ doãn để thương lượng chuyện mưu sát Hiền phi nương nương, vậy địa phương nào dùng làm chỗ hội kiến?" 

Khẩu cung thời cổ đại ghi nhận rất đơn giản, chỉ cần phạm nhân nhận tội là được. Do đó, Kỷ Cương không đặc biệt chú ý những chi tiết này, ngẫm nghĩ một hồi, đáp: "Cái đó.... cái đó khẳng định là ở cung của Thuận phi rồi." 

"Ngươi nhận thấy một đại thần của triều đình có thể tùy tiện tiến nhập vào nội cung đơn độc hội kiến với phi tần của hoàng thượng hay sao? Cho dù là có, Cố phủ doãn tiến vào nội cung khẳng định là sẽ có người trực trong nội cung đăng ký ghi chép lại chứ, thử mang đến xem thử?" 

Đoạn thời gian này do thường xuất nhập hoàng cung, Dương Thu Trì đã biết trong hoàng cung của hoàng thượng giới bị sâm nghiêm, ngoại trừ hắn, Kỷ Cương, Vân Lộ công chúa và những người được đặc biệt cho phép tùy ý tiến cung, những người khác không được hoàng thượng cho vời, căn bản không thể nào tiến vào được. Hơn nữa, cho dù bọn hắn có được phép đặc biệt tiến cung, trong hoàng cung cũng có người chịu trách nhiệm ghi chép đăng ký lại đầy đủ. 

Trán của Kỷ Cương đã bắt đầu rịn mồ hôi, nhưng chi tiết này y đích xác không chú ý, ngẫm nghĩ một lúc nói: "Không đúng, dường như là Thuận phi xuất cung đi gặp Cố phủ doãn..." Lời này vừa nói xong, y lại cảm thấy không ổn. 

Dương Thu Trì đã cười hỏi ngay: "Ngươi nhận thấy rằng một vị phi tần có thể tùy ý xuất cung hay sao? Huống chi là đi gặp một ngoại thần của triều đình?" 

Điều này đương nhiên thuộc vào cấm điều trong quy củ sâm nghiêm của nội cung, cho nên mới có câu hoàng cung sâu như biển là ý này, người ngoài căn bản không thể tùy ý xuất nhập, người vào trong rồi chưa chắc còn có ngày ra. 

Kỷ Cương hàm hồ nói: "Cũng có thể là lẻn ra ngoài cung! Dù gì... dù gì thì hai tên chúng nó cũng đã khai nhận rồi! Điều này dù sao cũng là đúng thôi!" 

"Có lẽ có đúng hả (*)? Ha ha, ngươi ngoại trừ có thể dùng những thứ "có lẽ có" này để vu khống hãm hại người ta, còn biết làm được gì?" Dương Thu Trì cười lạnh, "Vấn đề này ngươi đáp không tròn vẹn, vậy ta hỏi ngươi một vấn đề khác, ta dạy cho Vương Tư Thái dùng thán độc mưu sát nương nương ở đâu?" 

"Ba người các ngươi gặp nhau trong nội nha của Cố phủ doãn để thương lượng!" Kỷ Cương khôi phục lại tự tin, địa điểm thương lượng này y có nghĩ tới, và cũng đã đặc biệt đề ra trong lời dụ cung, cho nên có thể trả lời lưu loát. 

"Vương Tư Thái là nữ quan trong cung, theo quy định cũng không thể tự do xuất nhập hoàng cung như thế, huống chi là đi tìm một quan tam phẩm của triều đình đi thương lượng việc mưu sát nương nương, ả không sợ dẫn đến sự hoài nghi của người khác hay sao?" 

Kỷ Cương nhất thời cứng họng, ấp úng nói: "Cũng có thể... có thể là Vương Tư Thái cần ngươi tự thân chỉ dẫn phương pháp giết người, cho nên len lén rời khỏi cung...." 

"Len lén rồi khỏi cung dễ dàng như vậy sao a? Ha ha, dùng thán độc giết người không phải là phương pháp giết người phức tạp gì, cần gì ta tự thân dạy cho Vương Tư Thái chứ> Trong cung mùa đông thường phải sưởi ấm, chẳng phải đều dùng đến than củi hay sao? Vương Tư Thái không phải là kẻ ngốc gì, còn cần tới người khác trực tiếp dạy hay sao? Cho dù là muốn dạy, ta chỉ cần nói cho Cố phủ doãn, để ông ta trực tiếp đem phương pháp này cho Vương Tư Thái biết chẳng phải là ổn quá hay sao? Còn cần chi phải dùng tới ba người tập trung hội họp? Mưu sát nương nương là sự tình đại nghịch bất đạo, đương nhiên càng ít người biết càng thêm một phần an toàn, có thể sử dụng phương pháp an toàn tại sao không dùng, lại đi dùng phương pháp tập trung hội họp dễ dàng bị bại lộ như thế?" 

"Cái này... ta làm sao biết được các ngươi nghĩ gì chứ!" Kỷ Cương đỏ bừng mặt gân cổ cãi. 

"Ta nghĩ làm sao à? Ta đang kỳ quái là tên Kỷ Cương ngươi ngu như heo vậy sao mà làm tới chức cẩm y vệ chỉ huy sứ chứ!" 

"Ngươi...!" Kỷ Cương tức giận đến tím cả mặt. 

"Ha ha, gọi ngươi một tiếng heo là nâng cao tầm mức của ngươi lắm rồi, nhân vì heo còn thông minh hơn ngươi! Cho ngươi bíết, nếu như thật sự ta bày kế dùng thán độc giết ngừơi, ta nhất định sẽ không sắp bày tiến hành trong mùa hè nóng bức, vì như thế là vô cùng ngu xuẩn." 

"Vì sao?" Minh Thành Tổ nhất mực im lìm lắng nghe, đến lúc này nhịn không được nhíu mày hỏi. Ông ta hiện giờ cũng cảm thấy án này vẫn còn nhiều chổ sơ hở cần phải tra cho rõ. Kỷ Cương càng mê hoặc hơn, trong mùa hè nóng bức mà dùng thán độc giết người rõ ràng là có điểm rất cao minh, sao Dương Thu Trì lại nói là phương pháp ngu xuẩn. 

Dương Thu Trì nói: "Nếu như không phải thái y quá cổ hủ quá ngốc, thì người bị giết bằng thán độc rất dễ dàng được nhận ra." 

"Dùng phương pháp nào?" Minh Thành Tổ bắt đầu hiếu kỳ. 

"Hơi độc của than thông qua hô hấp tiến nhập vào nội thể của con người, sẽ kết hợp với hồng huyết cầu hình thành hồng cầu chứa oxít các bon khiến cho máu biến thành màu đỏ tươi. Do đó, da thịt của con người, thi ban lúc đó đều biến thành màu hồng thắm, đặc biệt là ở môi sẽ đỏ như hồng đào vậy. Chỉ cần nhìn sơ qua là nhận thấy có điều không ổn ngay. Thái y lúc đã đã chú ý đến điểm này, nhưng mà bọn họ không nghĩ sâu hơn!" 

Minh Thành Tổ nghe không hiểu mấy thuật ngữ chuyên nghiệp của Dương Thu Trì, nhưng khi nghe Dương Thu Trì đề cập đến tình trạng cơ thể lúc chết, suy nghĩ kỹ lại, nhớ lúc đó môi của Hiền phi rõ ràng là đỏ đẹp phi thường, không khỏi hơi gật đầu, hỏi: "Như vậy thì làm sao?" 

"Nếu đổi thành một thái y cẩn thận hơn một chút sẽ phát hiện được Hiền phi chết là vì khí than. Do đó, tuyển chọn dùng khí than để giết người trong mùa hè nghe qua dường như là một chiêu vô cùng cao, kỳ thực ngu xuẩn cùng cực, chỉ sợ chỉ có Vương Tư Thái và Kỷ Cương đồ thứ ngu xi như thế mới cho là phép này thông minh!" 

"Ngươi...!" Kỷ Cương tức giận điên người, còn định nói nữa thì Minh Thành Tổ đã phất tay cản lại, hỏi Dương Thu Trì: "Nếu như là ngươi, thì ngươi sẽ chọn chừng nào ra tay?" 

Dương Thu Trì đáp: "Nếu như muốn dùng thán độc, cách dùng thông minh nhất đương nhiên sẽ chọn mùa đông, chọn lúc nương nương sử dụng lò than để sưởi, xảo diệu chế tạo hiện trường, ngụy tạo thành tử vong ngoài ý muốn. Như vậy cho dù là toàn bộ người của thái y viện đến kiểm tra cũng chỉ nhận ra rằng nương nương chết bất ngờ vì thán độc, chứ không phải mưu sát, nhân vì thái y không phải là người chuyên phá án, bọn họ không hiểu phá án như thế nào, nên không phát hiện được chỗ mờ tối ở đây, cho nên mới không lộ ra dấu vết." 

Minh Thành Tổ lại gật gật đầu, cảm thấy Dương Thu Trì nói cũng có lý. 

Kỷ Cương cười lạnh hỏi: "Ngụy tạo tử vong ngoài ý muốn? Làm sao ngụy tạo?" 

"Ta nói cho ngươi biết để ngươi tiếp tục hãm hại người khác à? Đi nằm mộng đi!" Dương Thu Trì nhìn xéo Kỷ Cương: "Thứ người bất học vô thuật như ngươi tự cho là đúng, rồi coi Dương Thu Trì ta cũng ngu xuẩn giống như ngươi hả? Ngươi muốn hãm hại ta, những lĩnh vực khác thì còn được, chứ đừng chọn phương diện mà ta giỏi nhất để hãm hại, ha ha, ngươi nếu không ngu thì không còn ai ngu hơn ngươi nữa!" 

Lời này khiến Kỷ Cương tức đến thất khiếu bốc khói, nhưng hoàng thượng ở bên cạnh y không dám phát tác bậy, chỉ trừng mắt nhìn Dương Thu Trì thở khì khì. 

Kỳ thật, cách hãm hại Dương Thu Trì của Kỷ Cương là rất cao minh, nhưng chẳng qua là Dương Thu Trì biết lần này mình khó thoát tai kiếp, cho nên liều trước khi dùng phương pháp cá chết lưới rách, thì nói móc chế giễu mắng Kỷ Cương cho đã một phen để hả cơn tức giận trong lòng. 

Dương Thu Trì lại nói: "Nếu như mà ta chỉ sử giết ngươi, ta sẽ không dạy một phương pháp giết người dễ dàng nhận tra ra như thế. Ta tùy tiện có thể tìm tới bảy tám phương pháp khác nhau, giết người xong rồi trên thế giới này không một ai có thể tra ra người đó vì sao mà chết. Nếu như muốn giết người có quan hệ thâm mật giống như Vương Tư Thái và Hiền phi nương nương vậy, ta thậm chí không cần dùng bất cứ công cụ nào, giết người xong rồi thì cho dù là thái y hay bộ khoái cao minh giỏi giang đến thế nào đi nữa cũng chỉ nhận thấy rằng kẻ đó đã sống hết đời rồi xuống âm phủ, chứ không thể hoài nghi có người mưu sát." 

Minh Thành Tổ nghe Dương Thu Trì nói thần kỳ như vậy, hiếu kỳ hỏi: "Phương pháp gì?" 

"Ví dụ như có thể dùng phương pháp dẫn tới cái chết vì ức chế mà giết người." Dương Thu Trì chỉ vào cổ của mình: "Động mạch cảnh của con người trong thành mạch máu có thần kinh phế vị (thần kinh mê tẩu - đôi thần kinh thứ 10 trong hệ thần kinh. Xem thêm chú thích **) nhẹ tạo thành một chòm, có thể cảm nhận kích thích do đè ép từ bên ngoài, từ đó gây phản xạ ức chế nhịp đập của tim. Chỉ cần tìm đúng vị trí, dùng một lực độ nhất định đè liên tục vào, thì một chút sau sẽ khiến cho nhịp đập tim của con ngươi dừng lại, nếu tiếp tục nữa sẽ gây tử vong. Do loại tử vong này có tính chất công năng chứ không phải có tính khí chất, và loại bệnh biến mang tính công năng này sẽ không làm biến cải bất kỳ điều gì về hình thái học trong cơ thể con người. Đừng nói là kiểm tra ngoài da, ngay cả mổ xẻ con người ra để kiểm tra cũng không tìm ra nguyên nhân tử vong. Thứ tử vong như thế gọi là ức chế tử (chết vì ức chế), chỉ có thể dựa vào những hành vi tồn tại bên ngoài để phán đoán." 

Minh Thành Tổ nghe mà ngẩn cả ra. Dương Thu Trì sổ ra một lô một lốc các thuật ngữ y học, tuy khiến ông ta như đi trong mây mù, nhưng cũng nghe ra được trên đời này quả thật có phương pháp giết người khiến người ta không ngờ đến như thế. Nếu thật sự dùng phương pháp đó mà giết người, chỉ sợ toàn bộ vương triều Đại Minh này còn chưa có người nào phát hiện ra người bị hại có phải chết vì mưu sát hay không. Minh Thành Tổ không khỏi có cảm giác đại khai nhãn giới. 

Kỷ Cương thì nghe hắn nói mà giống như chẳng thể với tay sờ được đầu hòa thượng cao một trượng hai (Xem chú thích ***), vốn muốn trào phúng vài câu, nhưng sợ Dương Thu Trì mắng tiếp. Y biết Dương Thu Trì đã chết đến nơi chẳng còn sợ gì nữa, cho nên cố nín nhịn. 

Dương Thu Trì vừa rồi mắng Kỷ Cương thật thống khoái, cơn tức trong lòng đã dịu đi, hiện giờ đã đến lúc chiến đấu rồi. Hắn ngước đầu: "Hoàng thượng, rốt cuộc chỉ là một câu nói, mọi chuyện này đều là tên đầu heo Kỷ Cương này tạo ra lời nói dối sơ hở cả trăm chiều. Tôi không hề giết Hiền phi nương nương. Thứ phương pháp giết người ngu xuẩn ấy không thể nào là tôi dạy ra được. Được rồi, tôi đã nói hết, nên xử trí thế nào hoàng thượng cứ làm đi!" 

Nói xong, Dương Thu Trì sờ súng, nhìn thẳng Minh Thành Tổ, chỉ cần ông ta mắt lộ sát cơ là lập tức rút súng thí mạng. 

Kỷ Cương cũng giương mắt nhìn Minh Thành Tổ đau đáu, chờ ông ta hạ lệnh đem chém hết cả nhà Dương Thu Trì, tru diệt cửu tộc. 

Không ngờ, Minh Thành Tổ vẫn y như cũ nhíu mày cúi đầu trầm tư, một lúc sau quay sang hỏi người mập nãy giờ không lên tiếng câu nào: "Cao Sí, con cảm thấy nên xử trí hắn thế nào?" 

Cao Sí? Thái tử Chu Cao Sí? Dương Thu Trì bấy giờ mới biết người mập không ngừng thổ hỗn hễn đứng cạnh Minh Thành Tổ đây thì ra là thái tử Chu Cao Sí. 

Chu Cao Sí khom người nói: "Phụ hoàng, thần nhi cảm thấy lời của Dương hầu gia không phải là không có đạo lý. Hơn nữa, Dương hầu gia vì nước tận trung, tập nã Kiến Văn dư đảng, công huân trác tuyệt, án liên quan đến Dương hầu gia này rõ ràng là còn rất nhiều chỗ hở, không nên xử trí khinh suất. Hay là trước hết giam lỏng cả nhà của hầu gia, tiếp tục điều tra cho rõ, sau đó căn cứ tình huống rồi sẽ quyết định xử trí sau." 

Dương Thu Trì chấn động tâm thần, cảm kích nhìn vị thái tử mập này. Hắn không ngờ bản thân và thái tử chẳng có giao tình gì, thế mà thái tử có thể công bình nói giúp cho hắn, lòng không khỏi dâng lên một chút gì đó ấm áp. Đây là thứ cảm thụ song trùng: vừa là ân tri ngộ, vừa là ân cứu mạng. 

Kỷ Cương vội chen lời: "Hoàng thượng, vạn lần không thể, tên Dương Thu Trì này thập phần giảo hoạt, nhất định sẽ nghĩ biện pháp hỗn hào cho qua, thậm chí điên đảo trắng để cố gắng thoát tội. Án này đã có chứng cứ đành rành, không cần thẩm tra nữa." 

Dương Thu Trì cười nói: "Kỷ Cương, thật thì không thể giả, giả thể chẳng thể là thật nữa. Ngươi trong lòng không có quỷ, vì sao lại sợ hoàng thượng tra xét chứ?" 

Minh Thành Tổ ngẫm nghĩ, nói với thái tử: "Được! Cao sí, phụ hoàng đem vụ của Dương Thu Trì giao cho con tự thân xử lý, tra cho rõ rồi bẩm báo với phụ hoàng." 

Thái tử Chu Cao Sí khom người lĩnh mệnh. 

Minh Thành Tổ lại nói với Dương Thu Trì: "Khi chân tướng chưa tra ra rõ ràng, cả nhà ngươi không được rời khỏi hầu tước phủ. Hầu tước phủ do Vũ Lâm tiền vệ của Cao Sí giám quản. Nếu như án của ngươi tra ra chứng minh ngươi oan uổng, trẫm tự nhiên sẽ cấp cho ngươi một cái công đạo, nếu tra ra là thật, trẫm sẽ diệt cửu tộc của ngươi! Nghe rõ chưa?" 

Dương Thu Trì nhen nhóm tia hi vọng trong lòng, dập đầu cảm kích: "Hoàng thượng có thể cấp cho thần một cơ hội tẩy rữa oan khuất, thần cảm kích vô cùng, khấu tạ long ân!" 

Nói thật ra thì trong tình trạng chứng cứ rõ ràng, đồng đảng đều bị lăng trừ xử tử, hoàng thượng lại đơn thuần mở một góc lưới, cho phép điều tra lại, quả thật là hoàng ân rộng lớn rồi, Dương Thu Trì cảm kích đây là tận đáy lòng. 

Minh Thành tổ sở dĩ đưa ra quyết định này, chủ yếu là đắn đo suy nghĩ từ những phương diện sau: 

- Một, Dương Thu Trì nói án này rõ ràng là có nhiều sơ hở khiến Minh Thành Tổ sinh tâm nghi ngờ; Trong khi đó Dương Thu Trì bắt Kiến Văn dư đảng lao khổ công cao, chỉ vì sai lầm nhỏ mà xử lý rõ ràng là không thỏa. Án còn tồn tại nghi vấn mà giết mất công thần, dễ dàng gây cho người ta tung lời đồn "thỏ chết giết chó"; 

- Hai, Dương Thu Trì rõ ràng là một nhân tài hiếm có. Minh Thành Tổ hiện giờ cần người như thể để giúp ông ta nghiêm tra phát hiện phản tặc, củng cố chính quyền, không muốn vì chuyện tắc trách thế này mà giết hắn. Đây chính là nguyên nhân Minh Thành Tổ không trực tiếp giao hắn cho Kỷ Cương xử lý, mà tự thân thẩm vấn hắn; 

- Ba, đương nhiên chính là lời nói hợp tình của thái tử Chu Cao Sí. Minh Thành Tử tuy không đặc biệt thích thái tử này, nhưng lại muốn giữ truyền thống trưởng tử kế vị của phong kiến, muốn bảo vệ địa vị thái tử, cũng cấp cho thái tử một cơ hội lập công. 

Do đó, Minh Thành Tổ cho phép thái tử điều tra lại án này. Quân vô hí ngôn, vua không nói dối, kim khẩu của hoàng thượng đã phát, thì không có cách gì cải biến. Kỷ Cương đối với Dương Thu Trì hận đến nổi buốt cả răng, nhưng không còn biện pháp nào khác, chỉ ngầm tự sắp bày thêm một bước làm sao để hãm hại Dương Thu Trì. 

Dương Thu Trì tạm thời thoát kiếp nạn, hơi thở phào, nói: "Hoàng thượng, nếu như cho phép cả nhà vi thần được giam lõng trong phủ, chờ đợi tra án, vi thần thỉnh mong hoàng thuợng cho Kỷ Cương giao trả tiểu thiếp Tống Vân Nhi và ba hộ vệ còn lại cho vi thần." 

Minh Thành Tổ gật đầu, nhìn Kỷ Cương một cái. Kỷ Cương bất đắc dĩ, ra cửa nhỏ giọng lệnh cho cẩm y vệ mang Tống Vân Nhi và ba hộ vệ lại. 

Chu Cao Sí khom người thưa với Minh Thành Tổ: "Phụ hoàng, thần nhi đi an bài cho Vũ Lâm tiền vệ đi giám quản hầu tước phủ, sau đó bắt đầu điều tra." 

Minh Thành Tổ gật đầu. Chu Cao Sí rời khỏi ngự thư phòng của Càn Thành cung. 

Chẳng mấy chốc, Tống Vân Nhi và Nam Cung Hùng, Từ Thạch Lăng, Thạch Thu Giản bị trói bằng dây thừng bện bằng gân trâu đưa vào áp quỳ xuống. Nam Cung Hùng và hai hộ vệ rõ ràng đã bị khổ hình đánh đập, toàn thân đầy máu. 

Tống Vân Nhi không hề bị dùng hình, thì ra Kỷ Cương nhận thấy chứng cứ đã đủ, hơn nữa sau này Tống Vân Nhi sẽ bị ban thưởng cho công thần làm gia na. Và công thần này hiển nhiên là Kỷ Cương y rồi. Y không muốn đánh cho vị nô tì xinh đẹp Tống Vân Nhi này tàn bại xấu xí mất giá trị... mua vui. 

Kỷ Cương tuy nhiên nắm tư liệu của Tống Vân Nhi, nhưng lại không hiểu cá tính của nàng, nếu không sẽ không nghĩ như vậy, nhân vì ngày nào Tống Vân Nhi trở thành nô tì của y, thì ngày ấy cũng chính là ngày y xuống suối vàng. 

Tống Vân Nhi thấy Dương Thu Trì, vui mừng gọi: "Ca....!" Nước mắt chan hòa. 

Dương Thu Trì quỳ bò tới, ôm chặt Tống Vân Nhi, lòng đau như cắt, dịu dàng hỏi: "Bọn chúng có đánh muội không?" 

"Không! Bọn chúng dùng lưới cá đánh lén muội, trói muội mãi trong một phòng. Ca, huynh ổn cả chứ?" Tống Vân Nhi vẫn còn bị trói hai tay, dựa vào lòng Dương Thu Trì, khóc lóc hỏi hắn. 

"Ta không sao. Đừng lo lắng, chúng ta về nhà thôi." Nói xong mở dây trói cho Tống vân Nhi. 

Tiếp đó, Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi phân biệt cởi trói cho Nam Cung Hùng và hai người còn lại.

Vừa rồi hoàng thượng đã đáp ứng cho Tống Vân Nhi, Nam Cung Hùng và những người còn lại cùng Dương Thu Trì trở về, do đó Kỷ Cương không có cách gì ngăn trở. 

Nam Cung Hùng và mọi người thấy Dương Thu Trì an nhiên vô dạng, còn mở dây trói cho mình mà hoàng thượng và Kỷ Cương không ngăn cả, cho rằng chuyện của Dương Thu Trì đã lo liệu xong, vui mừng khôn xiết. 

Nam Cung Hùng nói: "Hầu gia, bọn Bồ Phàm Cốc ...." 

Dương Thu Trì xua tay: "Ta đã biết rồi." Rồi hắn vỗ vai Nam Cung Hùng, "Ba người ngươi thà chết không chịu bán đứng ta, rất tốt, sau này chúng ta đều là hảo huynh đệ!" 

Kỷ Cương lạnh lùng chen lời: "Sau này? Hà ha, sau này cùng làm quỷ để có bạn cho vui." 

Bọn ba người Nam Cung Hùng bị cẩm y vệ của Kỷ Cương dùng khốc hình đánh đập, toan tính cho ba người họ tố cáo Dương Thu Trì, không ngờ bị ba người thẳng thừng cự tuyệt. Ba người họ đã từng vào sinh ra tử với Dương Thu Trì, đã quyết ý cùng sống chết, tuy chịu hết mọi khốc hình mà vẫn không phản. 

Dương Thu Trì nhìn Kỷ Cương, cũng lạnh lùng cười: "Được, chúng ta đánh cuộc thử coi rốt cuộc ai làm quỷ trước!" Rồi không thèm để ý đến y, chuyên thân dập đầu cáo từ Dương Thành Tổ: "Bọn hạ thần xin cáo thối!" 

Minh Thành Tổ mặt không biểu tình xua tay lia lịa. 

Dương Thu Trì đứng dậy, mạng theo bốn người rời khỏi phòng. 

Mấy chục Vũ lâm tiền vệ đã chờ ở ngoài cửa, áp giải họ ra ngoài hoàng cung. 

Tống Vân Nhi nhìn khí thế này, lo lắng hỏi: "Ca, rốt cuộc là thế nào?" 

Dương Thu Trì trầm giọng nói: "Kỷ Cương cẩu tặc này hãm hại ta, suýt chút nữa hại chết ta. Hiện giờ hoàng thượng hạ lệnh giảm lỏng chúng ta trong phủ, do thái tử Chu Cao Sí tự thân phụ trách điều tra Kỷ Cương hãm hại ta. Tra rõ rồi xử lý sau." 

Tống Vân Nhi khẩn trương hỏi: "Vậy làm sao đây?" 

"Đừng lo, ta thấy thái tử thập phần công chính, xem ra sẽ tra rõ ràng án tình sơ hở cả trăm chiều do Kỷ Cương hãm hại ta, trả lại sự trong sạch cho ta. Chúng ta trở về trước rồi thương lượng sau." 

Dưới sự áp giải của Vũ lâm tiền vệ, Dương Thu Trì cùng mọi người trở về Dương hầu phủ. 

Lúc này, Dương hầu phủ đã bị cẩm y vệ bao vậy toàn bộ. Hộ vệ đội nguyên bổn của Dương Thu Trì đã bị Kỷ Cương chiêu hồi tuyệt đại bộ phận, chỉ còn hơn chục nam nữ hộ vệ do Hạ Bình dẫn đầu thề chết theo phò tá Dương Thu Trì, không nguyện trong lúc Dương gia nguy cấp mà rời bỏ, cho nên kháng mệnh ở lại, muốn cùng sống chết với Dương gia. 

Thái tử mang Vũ lâm tiền vệ đến, thế đổi cẩm y vệ, tiến hành giám khống nghiêm mật Dương hầu phủ, nghiêm cấm bất kỳ người nào ra vào. 

Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết cùng mọi người đã như con kiến chạy trong nồi nóng, đứng ngồi không yên, khi thấy Dương Thu Trì trở về vội vã chạy ra đón. 

Phùng Tiểu Tuyết cùng mọi người đều khóc: "Phu quân, chàng đã trở về rồi, chàng đi không lâu, nhà chúng ta bị mấy trăm cẩm y vệ bao vây đoàn đoàn, ai cũng không được ra ngoài. Rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì?" 

Dương Thu Trì đưa mắt nhìn hết mọi người, đem sự tình phát sinh đơn giản kể lại hết một lượt, chúng nữ nghe mà vừa lo lắng vừa mừng vì may. 

Liễu Nhược Băng tức giận nói: "Thiếp nghĩ biện pháp lẻn ra đi giết tên cẩu tặc Kỷ Cương này!" 

Dương Thu Trì xua tay: "Hiện giờ còn chưa thể giết hắn." 

Chúng nữ kỳ quái hỏi: "Vì sao?" 

"Nếu như chúng ta hiện giờ giết hắn, hoàng thượng nhất định sẽ biết do chúng ta làm, còn cho rằng chúng ta làm tặc mới tự lo sợ, rồi giết người diệt khẩu, khi đó chúng ta có nhảy xuống sông Hoàng Hà cũng không tẩy sạch tiếng nhơ nữa." 

Tống Vân Nhi hỏi: "Vì thì làm sao bây giờ? Chẳng lẽ để mặc tình cho hắn đắc ý?" 

"Đương nhiên là không!" Dương Thu Trì nghiến răng nghiến lợi nói, "Ta cùng tên cẩu tặc Kỷ Cương này thề không đội chung trời! Hiện giờ không phải hắn chết thì ta chết, thù này nhất định phải báo, xử không chết hắn, thì chúng ta không còn đường sống nữa! Nhưng mà, chúng ta cần phải chờ án này tra rõ, trả lại cho chúng ta sự thanh bạch, sau đó mới hạ thủ với hắn. Hơn nữa, không đến lúc vạn bất đắc dĩ, không cần phải dùng chiêu ám sát, bỡi vì hiện giờ hắn khẳng định là đề phòng chúng ta đến ám sát hắn, không dễ gì hạ thủ đâu. Hơn nữa, ta cũng không muốn để hắn chết quá dễ dàng. Ta muốn đường đường chính chính chu toàn với hắn, chỉnh trị cho hắn chết một cách thân bại danh liệt! Ta xin thề, Dương Thu Trì ta quyết khiến cho hắn chết thảm không thể tả!" 

Đây là lần đầu tiên Dương Thu Trì bị người ta vu khống hãm hại, suýt chút nữa bị chém toàn gia, tru diệt cửu tộc, không khỏi khiến hắn nổi giận thật sự, quyết ý chu toàn đối chọi với Kỷ Cương cho đến kỳ cùng. 

Tiếp theo đó, Dương Thu Trì cùng mọi người thương lượng tiếp theo nên làm thế nào, chuẩn bị phương án xấu nhất, đem kim ngân tế nhuyễn thu thập xong xuôi, toan tính một khi hình thế không xong, làm cách nào để ứng đối... 

Sau đó, họ chỉ còn biết chờ kết quả tra án của thái tử Chu Cao Sí mà thôi. 

Nam Cung Hùng, Từ Thạch Lăng, Thạch Thu Giản và Hạ Bình dẫn đầu hơn chục hộ vệ còn lại cảnh giới trong phủ, đề phòng Kỷ Cương phái người đến ám sát. 

Dương Thu Trì và chúng nữ đang ngồi trong phòng khách nói chuyện, thì gác cổng vào báo là có thái tử Chu Cao Sí đến thăm. 

Dương Thu Trì mừng rỡ, bản thân hắn lần này chín phần chết chỉ có một phần sống, cuối cùng thoát được phần lớn là nhờ Chu Cao Sí nói lời hợp tình lý, cho nên vội vã ra cửa đón. 

Nhìn thấy thân hình mập mạp to phệ của Chu Cao Sí, Dương Thu Trì cảm thấy người này thân thiết vô cùng, khom người chào: "Hạ quan tham kiến thái tử điện hạ. Cái ân cứu mệnh của thái tử điện hạ, Thu Trì cả đời không dám quên!" 

Chu Cao Sí cười ha ha, trả lễ bảo: "Dương hầu gia quá lời rồi, chúng ta vào nhà nói chuyện." 

Dương Thu Trì nghênh đón Chu Cao Sí đến phòng khách. Chu Cao Sí cho hộ vệ chờ bên ngoài, cùng hắn bước vào trong. 

Nữ quyến đã tránh hết vào nội đường, Dương Thu Trì cùng Chu Cao Sí ngồi xuống xong, Chu Cao Sí nói: "Hầu gia, ngươi có biết mục đích đến đây của bổn thái tử không?" 

Dương Thu Trì hơi ngẩn người, hỏi: "Thái tử phụng thánh chỉ tra án, có vấn đề gì cần hỏi hạ quan chăng?" 

Chu Cao Sí lắc đầu: "Lúc hầu gia còn chưa tiến kinh, ta đã nghe nhiều chuyện liên quan đến hầu gia. Năng lực phá án của hầu gia gây cho ta một ấn tượng rất sâu sắc. Kỷ chi huy sứ nói ngươi cùng Thuận phi và mọi ngươi mưu sát Hiền phi nương nương, còn hủy tổn di thể của nương nương, ta thủy chung không tin lời này." 

Dương Thu Trì cảm thấy sự ám áp dâng trào khắp toàn thân, đứng dậy vái dài, lời nói đã có phần nghẹn ngào: "Đa tạ thái tử...! Ân đức của thái tử đối với Thu Trì... Thu Trì dù cho thịt nát xương ta cũng không thể báo!" 

Chu Cao Sí tủm tỉm cười, bảo Dương Thu Trì ngồi xuống, nói: "Tuy ta tin ngươi bị oan, nhưng ta đối với chuyện phá án một khiếu không thông, không biết nên làm thế nào để tra rõ án này, để trao cho phụ hoàng một đáp án vừa ý, cho nên đặc biệt đến đây thương lượng với ngươi."

Dương Thu Trì càng cảm kích hơn, lòng nhen nhóm lên hi vọng vô hạn. Thái tử Chu Cao Sí về mặt chủ quan đã nhận định hắn là bị oan uổng, nên định giúp hắn tra rõ án, tìm ra chứng cứ vô tội của hắn, từ đó kế hoạch vu khống hãm hại của Kỷ Cương không cần đánh mà tan. 

Trong sự kích động về tâm tình, Dương Thu Trì đứng dậy làm lễ thật sâu: "Đa tạ thái tử điện hạ...., hạ quan..." Nhất thời hắn không tìm được lời gì thích hợp để biểu đạt sự cảm kích của mình. 

Thái tử Chu Cao Sí gật đầu cho hắn ngồi: "Hầu gia không cần khách khí, tẩy rữa oan khuất của ngươi là nguyện vọng của ta, và cũng là chức trách của ta. Ngươi là lương đống của quốc gia, sao có thể chịu cái oan khuất không rõ ràng thế này. Được rồi, những lời khác đừng nói nữa, ngươi cho ta biết, án này ta nên bắt đầu tra từ đâu?" 

Dương Thu Trì nỗ lực khiến bản thân bình tĩnh lại, hơi trầm ngâm một chút, đáp: "Chuyện Kỷ Cương vu hảm tôi bắt nguồn từ án Hiền phi nương nương bị giết. Nếu như tra rõ chân tướng Hiền phi nương nương bị giết là do đâu, tìm được người chân chính đứng sau lưng chỉ sử Vương Tư Thái mưu sát Hiền phi, thì sự vu hãm của Kỷ Cương không đánh mà tự phá!" 

Chu Cao Sí vỗ đùi: 'Chủ ý hay!" Tiếp theo đó y nhíu mày, "Nhưng mà, Vương Tư Thái này đã bị phụ hoàng hạ lệnh lăng trì xử tử, hiện giờ đã bị áp ra hình trường ở ngoài thiên lao để hành hình rồi." 

Dương Thu Trì vội hỏi: "Vậy ả lúc này còn sống không?" 

"Lăng trì hình cần phải hành hình ba ngày, xem ra vẫn còn sống." Chu Cao Sí nói, "Ta lập tức đến ngay hình trường." 

Y đứng dậy, ngẫm nghĩ, rồi ngồi xuống hỏi: "Ta đến nơi đó, nên hỏi ả thế nào?" 

Quả thật là khác nghề như cách núi (không ở trong nghề không rõ nghề), yếu lĩnh và sách lược thẩm tấn này nhất thời bán khắc không thể học được. Hơn nữa, Chu Cao Sí tính tình thiện lương, không thích hợp thẩm tấn nhân phạm, đặc biệt là rất nhiều vấn đề cần phải tùy cơ ứng biến, căn bản không thể nào dự tính trước hết được. 

Dương Thu Trì hơi đắn đo, một lúc sau thưa: "Có thể để cho thiếp thất Tống Vân Nhi của tôi cùng thái tử điện hạ đi thẩm vấn không. Nàng ấy đi theo tôi lâu năm, về phương diện nãy xem ra có phần thông thạo." 

Thái tử mừng rỡ: 'Được a!" 

Dương Thu Trì nói: "Chỉ sợ Kỷ Cương phái người dò xét, một khi biết được người của tôi giúp tra án, đem chuyện ấy đi tâu hoàng thượng, thì chỉ sợ lực thuyết phục không mạnh. Có rồi, hay là để Vân Nhi hóa trang tra án, chỉ cần tra chân tướng cho rõ, sau này cho dù có biết cũng không ngại gì." 

Thái tử cũng mừng nói: "Được! Mau gọi nàng ta đi, lập tức xuất phát." 

Dương Thu Trì vào hậu đường, đem chuyện này nói ra, chúng nữ đều hưng phấn, Tống Vân Nhi dĩ nhiên cao hứng vô cùng. Dương Thu Trì đem những điều chủ yếu cần tra rõ báo cho Tống Vân Nhi, chỉ điểm cho nàng những việc cần chú ý, sau đó dẫn Tống Vân Nhi ra tham kiến thái tử, rồi cho Liễu Nhược Băng giúp Tống Vân Nhi mang mặt nạ da người đồng thời hóa trang khác đi. 

Hóa trang xong, Tống Vân Nhi trở thành một hán tử trung niên ấm yếu, Liễu Nhược Băng có kỹ xảo hóa trang thật cao, nhìn không thấy sơ hở gì. 

Thái tử gọi hộ vệ mang tới một bộ y phục cho Tống Vân Nhi mặc, giả trang thành thiếp thân hộ vệ của thái tử, đi lẫn vào trong đội hộ vị hơn mấy chục người, căn bản không thể nhận ra. 

Thái tử mang theo Tống Vân Nhi và các hộ vệ rời khỏi Dương phủ, đến thẳng hình trường của thiên lao hình bộ. Lúc này trời đã hoàn toàn tối hẳn, trên đường căn bản không nhìn rõ tướng mạo của người. Tống Vân Nhi cảm thấy lòng đại định, không cần sợ có người nhận ra nữa. 

Lúc này, trên hình trường đã đốt đèn đuốc sáng trưng, người đứng xem đông nghẹt, náo nhiệt vô cùng. Tuy hình phạt lăng trì cho ngày hôm nay đã xong, nhưng những người vây xem đều không chịu tán, đều hưng phấn nghị luận, sự kích thích từ một trường ngược sát đầy máu me rõ ràng là vô cùng dữ dội. 

Hình phạt Lăng trì chia thành ba ngày, ngày thứ nhất dùng đao cắt đủ số nhát xong, sẽ áp giải người bị hành hình vào trong lao phòng nghỉ ngơi cầm máu, để tránh khỏi bị mất máu chết không thể tiếp tục hành hình những ngày sau. Nếu như kẻ bị hành hình chưa chịu đủ số đao cần phải cắt xẻo mà đã chết đi, thì người hành hình sẽ bị xử phạt rất nghiêm khắc. 

Khi bọn họ đến hình trường, thì thời gian đã vào canh một, lúc đó toàn bộ số đao cần phải cắt xẻo trong ngày đã thực hiện xong, phạm nhân đã bị đưa trở lại phòng giam coi sóc. 

Quan giám hình đã được biết thái tử Chu Cao Sí phụng chỉ tra án, nên tự thân cùng thái tử và mọi người đến phòng giam của Vương Tư Thái. 

Tình thần của Vương Tư Thái hiện giờ vô cùng ủ rũ, tay chân đều bị cố định trên giá gỗ, rên rĩ không ngừng, dưới một có một cái ghế để thị ngồi, toàn thân máu thịt bầy nhầy, nhủ phòng, tay chân, sau lưng, mông và thịt ở những vị trí không làm ảnh hưởng đến tính mạng đều đã bị cắt hết. Lúc này chúng đều được đắp thuốc kim sang, đề phòng mất máu quá nhiều gây tử vong. 

Quản giam của thiên lao tự thân khiêng tới một cái bàn, và mang trà thơm điểm tâm dâng tới. Thái tử ngồi xuống, cho giám trảm quan, quản giam và cấm tốt ra ngoài, cho hộ vệ canh gác các cửa, có người còn lên trên đỉnh phòng cảnh giới. Trong phòng giam chỉ còn lại vài hộ vệ thân tính, một hình danh sư gia chịu trách nhiệm ghi lời khai và Tống Vân Nhi. 

Tống Vân Nhi tháo mặt nạ da người xuống, bước tới trước mặt Vương Tư Thái, nhỏ giọng hỏi: "Vương Tứ Thái, ngươi còn nhận ra ta không?" 

Vương Tư Thái từ từ cố gắng ngẩng đầu, hơi hé mắt nhìn, cả kinh, dùng giọng nói yếu ớt hỏi: "Cô... cô là... cô là cân ban của Dương hầu gia? Dương hầu gia không phải là bị..." 

Tống Vân Nhi án chiếu theo chỉ dẫn của Dương Thu Trì, lạnh lùng hỏi: "Ngươi cho rằng lời vu cáo của ngươi có thể hại được hầu gia sao?" 

Có câu người sắp chết lời nói đều là thiện, Vương Tư Thái hơi nở một nụ cừơi khổ: "Ta... sắp sửa chết rồi...., ta... ta không phải... ta không phải là có ý muốn... muốn hãm hại hầu gia đâu.... bọn chúng đánh ta thảm quá... ta mới khai loạn... đau lắm..." 

Tống Vân Nhi nói: "Hầu gia biết người chân chánh chỉ sử ngươi mưu sát Hiền phi nương nương không phải là Thuận phi và Cố nội các học sĩ, mà là người khác, hi vọng ngươi có thể nói ra." 

Vương Tư Thái thống khổ lắc đầu, cười thê thảm nói: "Ha ha... ta... ta đã bị... bị giết cả nhà rồi.... tru di cả cửu tộc... ha ha ha...., ta còn... ta còn nói ra y để làm gì nữa...." 

Tống Vân Nhi sắc mặt trầm hẳn: "Ngươi được Cố nội các học sĩ cất nhắc vào nội cung, ngươi không ngờ lại hãm hại ông ta, để cả nhà già trẻ lớn bé của ông ta, còn có những người trong tộc vô tội đều bị chém đầu. Ông ta còn phải theo ngươi chịu cái khổ sở bị cắt xẻo ngàn đao vạn mảnh, ngươi cho là đối phải với ông ấy hay sao?" 

Trên mặt Vương Tư Thái xuất hiện thần tình đành chịu, cười khổ nói: "Ta... ta..." 

"Còn nữa!" Tống Vân Nhi nói, "Thuận phi nương nương với ngươi vô oán vô cừu. Nàng ta là một nữ nhân, rời khỏi mẹ cha anh chị, một mình một bóng rời khỏi Triều Tiên từ ngoài vạn dặm đến đây, nhưng chỉ vì một câu nói của ngươi mà cùng chịu chung số phận xẻo thịt cắt từng lóng xương, ngươi nhẫn tâm vậy sao?" 

Vương Tư Thái thảm não nói: "Ta.... ta đối không phải.... không phải với họ... hãy để họ đến... đến âm gian tìm ta... tìm ta báo thù đi..." 

Tống Vân Nhi tức giận quát: "Ngươi giết hiền phi, chết không hết tội, nhưng vì sao ngươi phải kéo qua nhiều người vô tội cùng chết với ngươi? Làm như vậy có ích gì cho ngươi không?" 

Vương Tư Thái cúi đầu, nhìn hàng nghìn vết thương trên người: "Cho dù ta có nói đi nữa... thì có gì tốt đâu chứ....?" 

Tống Vân Nhi quay người chỉ Chu Cao Sí: "Đây là thái tử đương triều, là hoàng thượng tương lai, đang phụng thánh chỉ tra lại án này. Nếu như ngươi nói ra chân hung, có thể giữ được sinh mệnh của Cố nội các học sĩ và Thuận phi, ngươi cứu được nhiều người như vậy, đến âm tào địa phủ thì Diêm vương gia sẽ niệm tình công đức của ngươi, cho ngươi chuyển thế đầu thai vào nhà tốt. Nếu không, ngươi cố ý hại nhiều người vô tội cùng chết với ngươi như vậy, ngươi sẽ bị đánh xuống 18 tầng địa ngục, lên đao sơn xuống biến lửa vào chảo dầu cắt lưỡi xẻo tai đấy!" 

Thân thể yếu ớt của Vương Tư Thái khẽ run lên, người cổ đại đều tin là người có sinh tử luân hồi, có kiếp này kiếp sau. Thị chết đến nợi, sợ nhất chính là điều này, cho nên mặt hiện thần sắc do dự. 

Tống Vân Nhi mượn lửa nóng rèn thêm sắt: "Thái tử điện hạ nói rồi, nếu như ngươi có thể nói rõ chân hung, để bắt kẻ chỉ sử sau lưng ngươi giết Hiền phi nương nương để quy án, và trả lại cho Thuận phi cùng mọi người sự thanh bạch, thì thái tử sẽ bẩm báo cho hoàng thượng, cho phép ngươi chết một cách thống khoái, cho ngươi toàn thây, cho phép ngươi có thể chuyển thế đầu thai, thế nào?" 

Thái tử ngẩn người, lòng nghĩ, ta có nói như vậy bao giờ đâu? Tống Vân Nhi quay lại nhìn y nháy nháy mắt, thái tử ngẫm nghĩ một chút, trầm giọng nói: "Được, chỉ cần ngươi nói ra chân hung, ta sẽ bẩm báo phụ hoàng, cho ngươi chết thống khoái, được phép toàn thây." 

Lăng trì xong cuối cùng phải chém đầu, không thể toàn thây. Trong khi đó, người thời cổ cho rằng, chém đầu rồi thì không thể đầu thai kiếp sau không thể làm người, mà chỉ làm súc sinh mặc tình cho người ta chặt mổ. Do đó những người bị xử chém đầu đều có người nhà đem vàng bạc đút lót cho quái tử thủ (người phụ trách chém đầu), để y không hoàn toàn chém đứt cổ, mà lưu lại ít da thịt, coi như toàn thây, sau này có thể đầu thai chuyển thế làm người. 

Nghe được lời này, mắt Vương Tư Thái lóe lên chút vui mừng. Cả ngày này, hình phạt lăng trì đã khiến thị chịu sự thống khổ cầu sống không được cầu chết không xong, cho nên nếu sớm giải trừ sự thống khổ này, chết sớm một chút, cho dù kiếp sau có làm trâu làm ngựa cũng không sau. Hiện giờ, thị thậm chí còn có cơ hội được toàn thây, kiếp sau có thể làm người, lại còn có thể cứu nhiều người vô tội, lòng không do dự gì nữa, nhỏ giọng nói: "Được... ta nói... là... tam hoàng tử sai khiến ta..." 

Tống Vân Nhi và thái tử Chu Cao Sí đều cả kinh. Thái tử Chu Cao Sí trầm giọng nói: "Ngươi không được khai bậy bạ!" 

"Ta lần này là nói... là nói thật đấy... đích xác là... tam hoàng tử... chỉ sử ta... y viết cho ta bức thư... còn ở... còn ở tại dịch trạm Lâm thành... chỗ phòng ta ngụ... dưới khe ngói trên đỉnh phòng,.... giấu trong đó..." 

Thái tử nhíu mày: "Hoàng đệ Chu Cao Toại của ta vì sao lại muốn giết Hiền phi nương nương? Giết Hiền phi nương nương với hắn có lợi ích gì?" 

Vương Tư Thái yếu ớt trả lời: "Tam hoàng tử y ... y không phải muốn giết... Hiền phi nương nương... y muốn giết.... muốn giết hoàng thượng...!" 

Đến lúc này thì Chu Cao Sí và Tống Vân Nhi đều cả kinh ngẩn người. 

Thái tử Chu Cao Sí biết, hai vị em ruột Chu Cao Hú và Chu Cao Toại của y nhất mực mơ ước được ngồi lên bảo tọa thái tử của y, đã nhiều lần âm mưu soán đoạt ngôi vị nhưng không được, điểm này Chu Cao Sí rõ hơn ai hết. Y cũng biết rằng, tháng tám năm rồi, Tam hoàng tử Chu Cao Toại đích xác là có phát động một trường chính biến, kết quả cuối cùng bị Vân Lộ công chúa hay tin báo hoàng thượng, bị Minh Thành Tổ dẹp tan. 

Thì ra, trước khi tam hoàng tử phát động trường chính biến không thành đó, còn đã từng âm mưu hành thích ở dịch trạm của Lâm thành, toan tính giết chết hoàng thượng. 

Chu Cao Sí vội hỏi: "Rốt cuộc là thế nào? Ngươi nói rõ ra coi!"

Vương Tư Thái chép chép miệng: "Nước..." 

Tống Vân Nhi rót một ly trà cho Vương Tư Thái uống. Uống xong, còn khát, Tống Vân Nhi đưa luôn cả bình trà ấm kề sát miệng Vương Tư Thái, cho ả uống ừng ực. 

Uống nước xong, tinh thần của Vương Tư Thái đỡ hơn một chút, thở phì phì mấy hơi rồi từ từ nói: "Tôi tiến cung, bề mặ thì là... là nhờ Cố phủ doãn tiến cữ..., kỳ thật... tôi nhất mực là người của tam hoàng tử..., thật tế là hắn an bài cho tôi tiến vào cung..., lợi dụng tài biết làm thơ của tôi... an bài tôi tiếp cận với... với Hiền phi nương nương..." 

Tống Vân Nhi hỏi: "Tam hoàng tử an bài ngươi tiếp cận Hiền phi nương nương có mục đích gì?" 

"Lúc đó... chính là vì... thông quan nương nương tiếp cận hoàng thượng.... để thám thính những tin tức hữu dụng...., ngày đó sau khi đến Lâm Thành...., đại nội thị vệ tùy hành xuất chinh... Mễ Hiền... đưa cho tôi một phong... mật thư...." 

"Mễ Hiền này là người của tam hoàng tử hả?" Tống Vân Nhi hỏi. 

Vương Tư Thái gật đầu: "Hắn trước đó là người phụ trách... đưa tin tức tôi thám thính được ra ngoài.... bức thư đó yêu cầu tôi... dùng thán độc trong dịch trạm giết hoàng thượng..." 

Tống Vân Nhi ồ lên hiểu ra: "Thì ra cách này là do tam hoàng tử cho ngươi biết sao?" 

"Đúng vậy..., nhưng tôi không còn cách nào khác,... nếu tôi không nghe mệnh lệnh... tính mệnh của người nhà tôi đều nằm trong tay tam hoàng tử...., tam hoàng tử còn hứa với tôi... chờ hắn lên làm hoàng thượng... sẽ phong tôi làm quý phi..." 

Quả thật là bị cái lợi che tâm, không biết sống chết là gì! Tống Vân Nhi thầm nghĩ. 

Vương Tư Thái thở hỗn hễn một lúc rồi nói tiếp: "Nhưng tôi lo tôi làm chuyện đó xong... tam hoàng tử sẽ giết tôi diệt khẩu...., hay là không giữ lời hứa...., cho nên tôi đã đem... đem phong thư đó dùng giấy dầu bao lại... giấu ở trong phòng tôi ngụ ở dịch trạm tại Lâm thành... giấu nó dưới kẻ ngói trên mái phòng. 

Tống Vân Nhi kỳ quái hỏi: "Ngươi giấu ở đó làm gì? Không sợ người khác phát hiện sao?" 

Vương Tư Thái cười thảm: "Những người thường sẽ không chạm tới ngói trên phòng đó đâu... nếu như tôi không có gì... sau này làm quý phi, sẽ trở lại lấy nó tiêu hủy... nếu như tôi chết rồi... sau này dịch trạm sửa chữa mái nhà.. sẽ phát hiện phong mật thư này..., tam hoàng tử cũng... không thể chạy thoát!" 

Tống Vân Nhi rét lạnh trong lòng, Vương Tư Thái này quả là thâm. Thì ra là ả đã sớm chuẩn bị. Nhưng mà, thân đã rơi vào vòng tránh đấu quyền lực cực đình này, thường phải có tâm có ý đề phòng hơn người, để tránh khỏi có ngày bị chết uổng. Vương Tư Thái lưu lại điều này, chính là muốn cho mình chết không minh không bạch. 

Thái tử Chu Cao Sí không hiểu rõ tình huống Vương Tư Thái dùng thán độc giết chết Hiền phi nương nương, hỏi: "Nếu như tam hoàng tử chỉ sử ngươi hành thích hoàng thượng, vì sao ngươi chỉ giết hiền phi?" 

"Đêm đó tôi rời khỏi xong..., hoàng thượng và nương nương cũng ngủ rồi..., lúc tôi phóng thán độc, hoàng thượng và nương nương đều ở trong phòng... Sau đó mới biết là có quân báo khẩn cấp..., hoàng thượng ra ngoài phê duyệt tấu chương khẩn cấp... Do đó chỉ độc có mình nương nương..., không độc được hoàng thượng..." 

Tống Vân Nhi thầm nghĩ, hoàng thượng Minh Thành Tẩu quả là gặp vận may, tránh được cái chết chắc ăn bắp. Nàng tiếp tục hỏi kỹ vị trí giấu bức mật thư đó. 

Sau đó Thái tử Chu Cao Sí và Tống Vân Nhi lại thẩm tra Cố phủ doãn và Thuận phi. Không phí bao nhiêu công tác tư tưởng, hai người đã nói thật. Toàn bộ cái gọi là mưu sát này kỳ thật là Kỷ Cương dùng khốc hình bức cung, buộc phải nhận tội, chứ thật ra hai người đều là oan ức. 

Sau khi ghi lại khẩu cung cho ấn dấu tay cẩn thận, thái tử Chu Cao Sí quyết định lập tức hồi cung bẩm báo với hoàng thượng, yêu cầu đình chỉ hành hình đối với Cố nội các học sĩ và Thuận phi. 

Rời khỏi thiên lao ở Hình bộ, tiến thẳng đến hoàng cung, Tống Vân Nhi đã hóa trang cùng mọi người chờ ở ngoài. Thái tử tiến vào hoàng cung, cả canh giờ sau mới trở ra. 

Tống Vân Nhi vội hỏi: "Thế nào rồi?" 

Thái tử đáp: "Phụ hoàng hạ lệnh cho ta bắt thái giám Mễ Hiền, không chờ đại hình tra hỏi thì Mễ Hiền đã thừa nhận đã thừa lệnh tam hoàng tử truyền mật thư cho Vương Tư Thái. Phụ hoàng đã hạ chỉ đem chém cả nhà Mễ Hiền, tru di cửu tộc." 

Tống Vân Nhi mùng hỏi: "Quá tốt rồi! Như vậy thì ca ca ta không sao rồi?" 

"Vẫn chưa được, phụ hoàng bảo ta ngay trong đêm phải đến dịch trạm Lâm thành lấy phong mật thư đó dâng cho người." 

Tống Vân Nhi giờ đã trở lại cách nói hào sảng chẳng kể lớn bé gì: "Được! Ta đi theo ngươi!" 

Thái tử gật đầu: "Ừ, nhưng mà ta muốn đến Dương phủ trước, tìm Dương hầu gia một chút, nghe ý kiến của hắn." 

"Đúng!" Tống Vân Nhi lại hỏi: "Thuận phi nương nương và Cố nội các học sĩ xem ra không còn vấn đề gì nữa a? Còn có Vương Tư Thái nữa, tình hình thế nào?" 

Nói đến đây, thần tình của thái tử ỉu xìu: "Phụ hoàng nói rồi, hành hình vẫn tiếp tục, bỡi vì đây là lời nói một phía của Vương Tư Thái..." 

"Sao mà lời một phía chứ!" Tống Vân Nhi gấp lên, ngắt lời thái tử, "Thái giám truyền thư Mễ Hiền chẳng phải là khai nhận rồi sao? Hơn nữa còn có phong mật thư a." 

"Phụ hoàng nói, thánh mệnh không thể thay đổi xoành xoạch, hành hình vẫn tiến hành y cũ, nếu như sau này tìm đủ chứng cứ chứng minh bọn họ bị oan uổng, khi đó sẽ cấp cho họ cải án gột sạch nỗi oan..." 

"Người đều chết rồi, cải án thì còn ích gì nữa chứ!" Tống Vân Nhi gấp đến nỗi dậm chân, "Ngươi sao không chịu nói cho rõ với hoàng thượng!?" 

Tống Vân Nhi trong lúc nóng lòng, thậm chí quên cả đối phương là thái tử. Rất may thái tử sinh tính hiền hòa, chẳng để ý gì, thậm chí còn áy náy nói: "Ta nói rồi..., phụ hoàng không đáp ứng..." 

"Vậy...., vậy chuyện của Vương Tư Thái thì sao?" 

"Chuyện này thì người đồng ý rồi. Phụ hoàng nói nếu như ta đã đáp ứng, thì sẽ nễ mặt ta miễn tội lăng trì cho Vương Tư Thái, thắt cổ cho ả chết... Nhưng mà phụ hoàng vì chuyện này đã nổi giận, giáo huấn ta một hồi, nói ta quá lương thiện, làm sao sau này trị lý quốc gia..." 

Tống Vân Nhi nhìn dáng vẻ ủ rũ của thái tử như vậy, vô cùng đồng tình, nhẹ giọng khuyên nhủ: "Điện hạ, tương lại ngài sẽ là một vị quân chủ nhân từ yêu thương trăm họ, trăm họ sẽ càng ủng hộ ngài hơn." 

Thái tử cười ha ha, gật đầu nói: "Được rồi, chúng ta mau trở về Dương phủ, còn phải đi ngay trong đêm đến Lâm thành ở Sơn Đông nữa." 

Thái tử mang theo hộ vệ đội cùng Tống Vân Nhi quay trở lại Dương phủ. 

Dương Thu Trì nghe Tống Vân Nhi nói lại những sự tình đã kinh qua, vừa kinh ngạc vừa cao hứng, khen Tống Vân Nhi nhanh nhẹn linh mẫn. Tiếp theo đó, hắn báo cho thái tử và Tống Vân Nhi biết, lần này đến dịch trạm ở Lâm thành lấy phong mật thư xong, lập tức đến mộ Hiền phi ở Dịch huyện xem thử, tra khám xem di thể của Hiền phi có bị hủy không, và tiến hành kiểm nghiệm thi thể cẩn thận, tìm ra hung thủ thực sự gây ra chuyện này. 

Tiếp đó, Dương Thu Trì chỉ điểm Tống Vân Nhi kỹ những điều cần chú ý trong lần kiểm nghiệm này, các phương pháp và cách thức cụ thể, và đưa cho nàng những thiết bị cần thiết, dạy lại hết cách dụng và phán đoán. 

Đêm đó, Tống Vân Nhi vẫn hóa trang như cũ, lẫn vào trong đám hộ vệ của thái tử mà đi. Thái tử điều một phần vũ lâm tiền vệ cùng mình đi Sơn đông Lâm thành ngay trong đêm. 

Đi gấp suốt ngày đêm, mấy ngày sao họ cuối cùng cũng đến dịch trạm ở Lâm thành. 

Do hoàng thượng đã từng ngụ ở dịch trạm này, và Hiền phi mà hoàng thượng sủng ái nhất cũng băng ở đây, rất có ý nghĩa kỹ niệm, cho nên Lâm thành dịch trạm đạ được triều đình quy định trở thành địa điểm văn vật trọng yếu cần phải bảo hộ. Tống Vân Nhi căn cứ lời kể của Vương Tư Thái, nhanh chóng tìm ra mật thư được dùng giấy dầu gói kỹ cất dưới phiến ngói, giao cho thái tử Chu Cao Sí. 

Chu Cao Sí mở ra xem, quả nhiên không sai. Tuy mật thư không có ký tên, nhưng bút tích của tam hoàng tử Chu Cao Toại thì y nhận được rất rõ, đích xác là thủ bút của Chu Cao Toại. Nội dung của mật tín quả nhiên là ra lệnh cho Vương Tư Thái hành thích hoàng thượng. 

Có phong mật thư này, án hạ độc chết Hiền phi cuối cùng đã phơi bày ra ánh sáng. Lòng Chu Cao Sí đại định, Tống Vân Nhi càng cười như hoa nỡ, nhưng còn có chuyện di thể của Hiền phi nương nương bị hủy còn chưa tra ra. Điều này chính là một khía cạnh trọng yếu để Kỷ Cương dùng vu khống hãm hại Dương Thu Trì, cần phải tiếp tục tra, không thể lơ là. 

Thái tử vội vã lên đường đến huyện Dịch. 

Căn cứ chỉ dẫn của Dương Thu Trì, thái tử và Tống Vân Nhi cùng mọi người đi tìm tri huyện của Dịch huyện trước, điều tra tìm hiểu những dân tráng khai quan nghiệm thi cùng với Dương Thu Trì trong lần thứ hai, sau đó thẳng tiến lăng của Hiền phi. 

Kỷ Cương vu hãm Dương Thu Trì một mình trong lăng mộ, giả cớ nghiệm thây, bỏ ra hai canh giờ hủy tổn di thể của hiền phi. Y phái cẩm y vệ đào lặng mộ phát hiện ra vấn đề này, dùng nó làm chứng cứ, rồi bảo lưu hiện trường, quan bế cửa vào lăng mộ, không đắp đất lại mà cho vài cẩm y vệ tiến hành canh gác chờ mọi sự xong xuôi mới tính những bước tiếp. 

Thái tử Chu Cao Sí trước hết tiến hành điều tra đối với các cẩm y vệ canh gác lăng mộ, trong đó có một cẩm y vệ tên là Hồng Thiết Tháp, thân hình cao lớn khôi ngô, bàn tay như cái quạt mo. Sau khi điều tra, biết được lúc đó có bảy tám người tiến vào mộ thất, mở quan quách ra phát hiện di thể của Hiền phi nương nương đã bị người dùng đao chém nát. Họ cả kinh mới chạy ra, sau đó dùng phi cáp truyền thư báo cáo Kỷ Cương chỉ huy sứ đại nhân, sau đó phong bế mộ đạo. 

Sau khi hiểu rõ quá trình, thái tử mệnh lệnh tướng sĩ của vũ lâm tiền vệ mở cửa mộ, dẫn Tống Vân Nhi và một vị Hình danh sư gia làm nhiệm vụ ký lục vào trong mộ đạo. 

Ba người tiến vào mộ thất, thấy nắp quan tài bị hất nằm một bên, tình cảnh khiến người ta nhìn mà hoảng hồn khiếp vía. 

Nâng thang gỗ bắc lên xem, Tống Vân Nhi cả kinh khi nhìn thấy di thể của Hiền phi trong quan tài đã bị người ta dùng đao bén chém nát, hơn nữa vật bồi táng cũng bị hất đổ khuấy động loạn hết lên cả. 

Tống Vân Nhi run giọng nói: "Không đúng! Di thể của Hiền phi nương nương là do tôi giúp đặt vào trong quan quách, tôi thề là lúc đó di thể vẫn còn hoàn hảo!" 

Thái tử gật đầu: "Ngươi khám xét cẩn thận coi có manh mối gì không." 

Tống Vân Nhi cầm đèn lồng, tử tế quan sát khắp quan tài, lấy từ trong lòng ra giấy lấy dấu tay từ tình mà Dương Thu Trì cấp cho nàng, cẩn thận quét hết khắp quan quách. Trong vách quan tài lộ ra vài dấu tay và vân tay. 

Thái tử ồ lên kinh ngạc hỏi: "Cái này... cái này là gì thế?" 

"Đây chính là một phương pháp dùng để hiện lên dấu tay vô hình của người mà ca ca dạy cho ta. Chúng ta có thể so sánh đặc điểm lớn nhỏ của dấu tay này, sẽ biết kẻ đó là ai, từ đó có thể tìm ra rốt cuộc là người nào hủy hoại di thể của Hiền phi nương nương." 

Dương Thu Trì đương nhiên không cho nàng biết làm cách nào để giám định tính duy nhất của dấu vân tay, nhưng dấu tay lớn nhỏ và các đặc điểm đặc trưng của chúng rất dễ dàng lý giải, cho nên mới cho nàng biết. Trong phạm vi điều tra tương đối nhỏ, chỉ bằng điểm này cũng đủ điều tra ra thủ phạm rồi.

Thái tử mừng rỡ gật đầu: "Phương pháp này chẳng khác gì phép tiên, thật là thần kỳ! Hèn gì hầu gia phá án như thần!" 

Tống Vân Nhi cười hi hi, cúi người xuống tra xét phần vách trong của quan tài, tiếp theo đó móc từ trong người ra một miếng vải trắng, lấy một bình hồ nhỏ ra bôi một tầng lên vải, thổi thổi một hồi thấy nó hơi khô liền đặt áp lên dấu tay, cứ thể lấy hết mọi dấu tay trong đó. 

Tiếp theo đó, Tống Vân Nhi cẩn thận tra xét vết chặt chém trên di thể của Hiền phi nương nương, đặc biệt là những vết cắt hình thành trên xương. Những vết cắt này không giống nhau, Tống Vân Nhi căn cứ vào lời chỉ dẫn của Dương Thu Trì, phân tích những vết cắt không giống nhau đó, vừa so sánh vừa giảng giải cho thái tử hiểu, khiến thái tử nghe mà gật đầu lia lịa, mặt lộ đầy vẻ hưng phấn. Hình danh sư gia ở bên cạnh không ngừng ghi lại hết mọi thứ. 

Khám tra xong, ba người rời khỏi mộ đạo, ra lệnh cho Vũ lâm vệ phong bế cửa mộ. Tiếp theo đó, thái tử cho bắt hết Hồng Thiết Tháp và các vị cẩm y vệ lưu giữ ở đó, tiến hành điều tra thẩm vấn. 

Sau khi thẩm vấn xong, thái tử cử ra một đội Vũ lâm tiền vệ thay thế cẩm y vệ đảm nhiệm canh giữ lăng của Hiền phi, rồi khởi hành trở về kinh. 

Trở về kinh thành, thái tử và Tống Vân Nhi trực tiếp trở về Dương phủ, đem tình huống khám sát kể hết cho Dương Thu Trì nghe, Dương Thu Trì lập tức sắp đặt những việc cần tiến hành thêm một bước. 

Trong phòng khách của Bắc trấn ti nha môn của Cẩm y vệ. 

Kỷ Cương mặt mày xám xịt ngồi ở giữa phòng khách, nhìn chằm chằm mấy cao quan của cẩm y vệ đứng hai bên, nghe bọn họ hồi báo. 

Một quan viên ở trán toát đầy mồ hôi lạnh nói: "Vũ lâm tiền vệ của thái tử tiếp quản Dương hầu tước phủ xong, bố trí ở trong cùng toàn là hộ vệ đội cùng người thân tính, người của chúng ta không thể nào tiếp cận được với người của Vũ Lâm tiền vệ. Do đó.... do đó không biết thái tử có động tác gì..." 

Một quan viên khác của cẩm y vệ nói: "Đúng a, thái tử lần này giảo hoạt phi thường. Lúc y đến hình trường của thiên lao đề thẩm Vương Tư Thái cùng mọi người, chỉ lưu lại người thân tín ở bên cạnh, ngay quản giam và giám trảm quan cũng không thể đến gần, đừng nói gì đến tai mắt chúng ta bố trí trong thiên lao.... Do đó, cũng không biết y hỏi được những gì, sau đó Vương Tư Thái này được hoàng thượng xá miễn tội lăng trì, đổi lại thành giảo lập quyết (treo cổ ngay). Từ điểm này mà xét, Vương Tư Thái khẳng định là đã nói gì đó, nhưng nội dung thì không thể biết." 

Kỷ Cương hừ lạnh một tiếng to, mặt càng khó coi hơn. 

Thấy mô dạng của Kỷ Cương như vậy, các quan viên biết Kỷ Cương đã giận đến cực điểm rồi, nhưng việc báo cáo vẫn còn phải tiếp tục. Một quan viên khác thưa: "RỜi khỏi thiên lao, thái tử lại trở về Dương phủ, bố trí cảnh giới, sau đó mang theo Vũ lâm tiền vệ và đội hộ vệ đi ngay trong đêm đến Sơn đông. Y trước hết đến dịch trạm Lâm thành, chúng tôi không thể vào, do đó không biết bọn họ làm gì trong đó. Tiếp đó họ lại đến lăng của Hiền phi, tiến hành khám tra, rồi dùng một tiểu đội Vũ Lâm tiền vệ thế người của chúng ta đóng trú ở lăng Hiền phi, còn bắt một số huynh đệ của chúng ta nữa, nói là liên quan đến việc cần điều tra án này..." 

Kỷ Cương lạnh giọng hỏi: "Hắn để lại đó bao nhiêu người?" 

Quan viên ấy nói danh tự của những người bị bắt và những người được ở lại, Kỷ Cương lập tức nhíu tít mày, lẩm bẩm: "Trừ phi ... thái tử đã phát giác được gì đó..? 

Quan viên ấy gật đầu: 'Rất có khả năng, những người bị bắt đều là.... những người tham dự... lúc đó...." 

Kỷ Cương hỏi: "Thái tử còn có động tác gì nữa không?" 

Những quan viên khác đều đưa mắt nhìn nhau, một người thưa: "Thái tử mới sáng sớm hôm nay đã vào hoàng cung, đến cung Càn Thanh của hoàng thượng, đến giờ còn chưa ra." 

"Dương gia thì sao? Có động tĩnh gì không?" 

Quan viên ấy cười trừ bối rối: "Người của chúng ta đã rút lui hết, do đó tin tức bên trong không rõ cho lắm." 

Kỳ thật đây là sai lầm của Kỷ Cương, lúc đó y tự cho là những điều mà y bày ra đã đánh Dương Thu Trì vào hoàn cảnh vạn kiếp không thể ngoi đầu, không còn khả năng lật ngược tình thế nữa, cho nên đề phòng Dương Thu Trì lợi dụng đội hộ vệ tiến hành đề kháng, y đã hạ lệnh triệt hồi hơn hai trăm hộ vệ bên cạnh Dương Thu Trì. Do đó, ngoại trừ Nam CUng Hùng, Hạ Bình và hơn chục người tự nguyện cùng sống chết với Dương Thu Trì ra, những hộ vệ khác đều đã rút lui hết khỏi Dương phủ. 

Chờ cho Minh Thành Tổ quyết định nhậm mệnh thái tử phụ trách điều tra lại vụ án, Kỷ Cương mới phát hiện mình thất sách. Ở Dương phủ hiện giờ đã không còn tai mắt nào của y. 

Nhưng mà, Kỷ Cương tuy tức giận, nhưng không gấp. Vương Tư Thái, Thuận Phi và Cố phủ doãn đều đã bị xử tử hết rồi, chết không đối chứng, những lời nói dối do y bày vẽ ra đã trở thành chuyện chắc như đinh đóng cột rồi. 

Kỷ Cương ngẫm nghĩ một lúc, bảo: "Bảo mấy huynh đệ tham gia hành động ở Hiền phi lăng lúc đó hiện giờ đang ở trong nha môn ra ngoài tránh đi, chờ chuyện này qua rồi hãy trở về, cứ nói là ta phái ra ngoài tỉnh chấp hành công vụ." 

Quan viên ấy đáp ứng, đứng dậy ra cửa, nhưng vừa tới cửa đã nghe trong Bắc Trấn phủ ty nha môn loạn cả lên, hàng loạt Vũ lâm tiền vệ quân xông vào, bịt chặt các cửa. 

Quan viên ấy sợ cứng cả người, không biết đã phát sinh chuyện gì. 

Kỷ Cương vội vã bước ra cửa lớn nha môn, lớn tiến hỏi: "Ê! Các ngươi làm gì đó?" 

Các Vũ lâm tiền vệ không người nào lý đến y, một lúc sau đã nhanh chóng và quả đoán khống chế cả nha môn, tập trung hết cẩm y vệ trong nha môn đến dưới giếng trời trong tiền sảnh. 

Kỷ Cương và các quan viên đưa mắt nhìn nhau, không biết là đã phát sinh sự tình gì. 

Lúc này, từng đội đại nội thị vệ lại kéo vào, nhanh chóng khống chế cả phòng khách nha môn, khiến cho Kỷ Cương cùng mọi người vô cùng kinh hãi. 

Tiếp đó, Lý công công mang theo một đám thái giám và cung nữ tiến vào, phân thành hai bên đứng hầu. Ngay sau đó, Lý công công lớn tiếng hô: "Thành giá của hoàng thượng quang lâm, quỳ xuống nghênh tiếp....!" 

Kỷ Cương cùng mọi người nghe nói có hoàng thượng đến, càng kinh hãi ứa hồ hôi lạnh khắp người, vội vã quỳ xuống. 

Chốc sau, Minh Thành Tổ khoan thai bước vào, giơ tay ra hiểu cho Kỷ Cương cùng các cao quan của cẩm y vệ bình thân, tiếp theo chậm bước đi vào phòng khách. 

Kỷ Cương đứng dậy, bấy giờ mới phát hiện đi theo Minh Thành Tổ ngoài Lý công công ra còn có hai người khác: một là thái tử mập Chu Cao Sí, người thứ hai không ngờ lại chính là Dương Thu Trì. 

Kỷ Cương toát mồ hôi lạnh, cùng bước vào trong, đứng hầu một bên. 

Minh Thành Tổ ngồi xuống ghế giữa phòng, nói: "Kỷ ái khanh, hơn chục ngày nay thái tử đã tiến hành điều tra gần xong án Dương Thu Trì đồng lõa cùng Thuận phi và những kẻ khác mưu sát hiền phi, có sự tình cần đến cẩm y vệ nha môn của các ngươi tiếp tục điều tra. Án này trước đây do ngươi phụ trách, do đó, trẫm quyết định đến Bắc Trấn phỉ ti của ngươi để thẩm tra án này." Ông ta chuyển đầu nhìn Chu Cao Sí: 'Cao Sí, con đem tình huống đã tra rõ kể hết đi." 

Chu Cao Sí khom người đáp ứng, hắng giọng một cái thưa: "Thần nhi phụng chỉ điều tra lại án này, trước sau đã hỏi qua nhân phạm Vương Tư Thái, Cố nội các học sĩ và Thuận phi. Ba người chúng đều khai do cẩm y vệ dùng hình tấn bức cung, đã theo lời dụ cung của cẩm y vệ mà khai nhận tội lội, rằng đã cùng Dương Thu Trì âm mưu giết chết Hiền phi nương nương, căn bản chuyện này hoàn toàn là bịa đặt...." 

Kỷ Cương gấp lên, nói: "Cái này... là do nhân phạm chịu không nổi đòn mới khai ra, sau đó còn khai rộng hơn nữa, bức cung âu cũng là chuyện thường mà, có đâu lại phản cung như vậy được..." 

Minh Thành Tổ nhìn Kỷ Cương: "Kỷ ái khanh không cần gấp, chờ thái tử đem tình huống nói hết xong,rồi ngươi và Dương Thu Trì mới cùng nói lên cách nhìn của mình." 

Kỷ Cương vội vã khôm người đáp ứng, không dám nhiều chuyện nữa. 

Thái tử Chu Cao Sí nói tiếp với Minh Thành Tổ: "Thần nhi ban đầu cũng không dám tin, nhưng chờ đến khi Vương Tư Thái nói ra người chỉ sử chân chính đằng sau vụ này, thần nhi mới phát giác quả thật án này có một vấn đề kỳ quặc khác. Căn cứ vào khẩu cung của Vương Tư Thái, thần nhi bắt thái giám Mễ Hiền, chưa dùng hình tấn thì Mễ Hiền đã khai ngay, hoàn toàn phù hợp với khẩu cung của Vương Tư Thái. 

Kỷ Cương hơi có chút hiếu kỳ. Y lúc đó một lòng muốn dùng chuyện này để xử Dương Thu Trì, không hề thực sự tra hỏi Vương Tư Thái. Lúc mới thẩm vấn Vương Tư Thái, ả không hề khai nhận, Kỷ Cương cũng cho rằng Vương Tư Thái là vì một phi tần khác chỉ sử mà mưu sát Hiền phi, và do Vương Tư Thái bị bắt trong cung của Thuận phi, tuy hai người đều khai là do Thuận phi sau Vương Tư Thái mang lụa tới để dùng, nhưng do Thuận phi không hề có chỗ dựa, cho nên y quyết định dùng hình tấn bức cung và dụ cung thuận tiện kéo Dương Thu Trì vào, từ đó định án. Do đó, Vương Tư Thái chưa hề khai ra người sai bảo chân chính thì đã bị Kỷ Cương dụ cung tiến hành đổ oan cho người rồi. 

Nghe Vương Tư Thái dùng thán độc giết Hiền phi còn có nguyên nhân ẩn bí khác, Kỷ Cương hơi ngẩn người, chỉ tự trách là lúc đó y quá gấp phá án, một lòng muốn hại và tiêu diệt Dương Thu Trì nên không để ý. Hiện giờ thì rõ rồi, bất quản người chỉ sử chân chính là ai, một khi tra thật thì có thể chứng minh là trong án này y đã cố tình làm sai, và đó là một án oan! 

Thái tử Chu Cao Sí nói tiếp: "Căn cứ vào lời khai của hai người, kẻ thực sự chỉ sử Vương Tư Thái mưu sát không phải là Thuận phi, Dương Thu Trì và Cố nội các học sĩ, mà là tam hoàng đệ Chu Cao Toại." 

Kỷ Cương giật mình cả kinh, nghe danh tự này, y lập tức nghĩ thông mọi thứ. Y đối với chính trị mẫn cảm dị thường, nhớ tới nam ngoái vào tháng tám hoàng đệ Chu Cao Toại đã tiến hành chính biến không thành. Hiển nhiên là so với tràng chính biến này, chuyện mưu sát nằm trong một hệ liệt soán vị mà Chu Cao Toại phát động. Y rất hối hận là lúc đó không hề thẩm vấn Vương Tư Thái kỹ lưỡng, nếu không bản thân có thể tra ra âm mưu này, có thể coi là một đại công. 

Thái tử Chu Cao Sí thưa tiếp với Minh Thành Tổ: "Mục đích chân chánh của chúng không phải là giết Hiền phi nương nương, mà là phụ hoàng người, phụ hoàng có thần minh bảo hộ, lúc đó phải đi phê duyệt tấu chương khẩn cấp, không trở về phòng, cho nên lúc đó thán độc chỉ độc chết một mình Hiền phi nương nương." 

Minh Thành Tổ vỗ mạnh tay xuống bàn: "Tên nghịch tử Cao Toại này! Trẫm lần trước định chém đầu nó, đều là ngươi lấy cái lòng dạ của đàn bà cầu tình với trẫm. Nghịch tử này không giết, sau này sẽ gây khổ cho ngươi!" 

Chu Cao Sí mỉm cười hồn hậu, không đáp lời này, mà kể tiếp: "Thần nhi hồi báo phụ hoàng xong, đi ngày đêm không nghỉ đến Lâm thành của Sơn Đông, căn cứ vào khẩu cung của Vương Tư Thái lấy được mật thư của tam hoàng đệ Cao Toại viết cho ả được ả lén giữ lại giấu dưới mái ngói. Từ đó, án do phụ hoàng giao coi như được phá thành công." 

Nói xong, Chu Cao Sí móc từ trong người ra một tờ giấy viết đầy chữ, khom người trình lên Minh Thành Tổ: "Đây chính là lời khai của Thuận phi, Cố nội các học sĩ, Vương Tư Thái và thái giám Mễ Hiền. Còn đây là thư của tam hoàng đệ Cao Toại viết cho Vương Tư Thái. Do tam hoàng đệ lần trước bị Vân Lộ công chúa đám vào đầu bị thương xong nhất mực mơ mơ hồ hồ, nên không biện pháp thẩm vấn, do đó thần nhi không hề đề thẩm tam hoàng đệ." 

Minh Thành Tổ tiếp lấy, xem kỹ từng tờ, sau đó đưa sắp giấy về phía Kỷ Cương: "Kỷ ái khanh, ngươi lấy xem đi, coi có đúng hay không."

Kỷ Cương vội vã khom người tiếp lấy, xem từng tờ cho đến hết. Chữ của tam hoàng tử Chu Cao Toại y nhận được, mật thư đã lấy được rồi thì không còn gì có thể nói được nữa. Hơn nữa, đây là án kiện do đích thân thái tử điều tra. Thái tử là hoàng thượng tương lai, Kỷ Cương y không dám chọc loạn vào. 

Sau khi xem xong, Kỷ Cương cười cầu tài trả lại sấp giấy cho thái tử, nói: "Là... là vi thần sơ hốt rồi..., không hề nhận rõ âm mưu hạm hại Thuận phi và Cố đại nhân của Vương Tư Thái, hà hà..." 

Kỷ Cương chỉ đơn giản vài câu đã đem trách nhiệm đổ lên đầu Vương Tư Thái, nói thành ra là Vương Tư Thái hồ loạn khai rộng ra dẫn tới án oan. Do ở Minh triều hình tấn bức cung là hợp pháp, đặc biệt là đối với cẩm y vệ, nó là thủ đoạn trọng yếu để lấy được khẩu cung. Y đem trách nhiệm đổ lên đầu Vương Tư Thái đã chết, dù sao cũng có thể nói và cho qua được. 

Cho nên Minh Thành Tổ gật đầu: "Nếu như chuyện này không phải là Dương ái khanh làm, vậy..." 

Kỷ Cương vừa nghe Minh Thành Tổ xưng hô với Dương Thu Trì thành "Dương ái khanh" rồi, thầm kêu không xong, vội vã cướp lời nói: "Hoàng thượng, tuy chuyện mưu sát Hiền phi nương nương với hắn chẳng liên quan, nhưng mà, hắn khi khai quan nghiệm thi Hiền phi nương nương đã tùy tiện hủy tổn di thể của người, đó cũng là tội đại bất kính một trong mười trọng tội, cũng nên bị chém hết toàn gia, tru di cửu tộc!" 

Dương Thu Trì nhất mực im lặng ở một bên lắng nghe, lúc này thấy Kỷ Cương nói lời độc ác như vậy, ngược lại bật cười. Hắn lúc này đã ăn chắc trong lòng, không lý gì y cả. 

Thái tử Chu Cao Sí lắc đầu: "Đích xác là có chuyện tổn hủy di thể của Hiền phi nương nương, nhưng mà chuyện này không phải là do Dương hầu gia làm." 

Kỷ Cương cả kinh, cười gượng hỏi lại thái tử: "Không phải vậy chứ? Hắn đi rồi, thần phái cẩm y vệ theo dõi lập tức khai quật lăng mộ tiến hành kiểm tra, khai quan nghiệm thi, phát hiện..." 

Thái tử Chu Cao Sí cười lạnh: "Kỷ đại nhân, Dương hầu gia vào lăng mộ của Hiền phi nương nương khai quan nghiệm thi là do được phụ hoàng cho phép, nhưng không biết cẩm y vệ của ngươi khai quật lăng mộ của Hiền phi nương nương tiến hành khai quan nghiệm thây cái gì đó, khiến cho thánh thể của nương nương bạo lộ trong mắt của bọn thô tục kia là phụng chỉ lệnh của ai vậy?" 

Kỷ Cương cả kinh, căn cứ "Đại Minh luật" quy định, hủy hoại hoàng lăng là tội đại nghịch, là một trong mười đại tội không thể tha, sẽ bị tru diệt cửu tộc. Tuy Hiền phi không phải là hoàng hậu, lăng mộ của nàng ta không thể coi là hoàng lăng, nhưng Hiền phi trong tâm mắt của Minh Thành Tổ có địa vị không kém hoàng hậu, có coi là hoàng lăng hay không chẳng phải chỉ dựa vào một câu nói của Minh Thành Tổ hay sao? 

Kỷ Cương đã toát mồ hôi lạnh đầm đìa. Y đường thời chỉ một lòng muốn chỉnh trị Dương Thu Trì, do đó cho quyền bọn cẩm y vệ nghĩ biện pháp hủy tổn di thể của Hiền phi nương nương tiến hành vu khống hãm hại, nhưng lại bỏ qua chi tiết này. Hiện giờ nghĩ kỹ lại, đây không phải là chuyện nhỏ, làm không xong không chỉnh được Dương Thu Trì mà ngược lại y đổ trước. Đầu óc y xoay chuyển rất nhanh, nháy mát cái đã có chủ ý, vội quỳ xuống dập đầu: "Hoàng thượng, là vi thần sơ xuất trong giám sát, vi thần chỉ chú ý tìm hung thủ hủy tổn di thể của nương nương, bỏ qua chuyện thuộc hạ có thể tự ý khai quật lăng mộ. Quả thật là tội đáng muôn chết, thỉnh hoàng thượng thứ tội!" 

Minh Thành Tổ trừng mắt nhìn Kỷ Cương, xong nhíu mày, xua xua tay, nói với Chu Cao Sí: "Con nói tiếp xem, tổn hủy di thể của Hiền phi nương nương rốt cuộc là ai?" 

"Thần nhi tiến vào lăng mộ, nhìn thấy nắp quan tài đã bị kéo qua một bên, và di thể của Hiền phi nương nương đã bị đao chém vụn nát tan tành." 

Hung quang trong mắt Minh Thành Tổ lập lòe, một cổ sát khí lan tràn khắp đại sảnh. Kỷ Cương cảm giác được sát khí dày đặc, không khỏi lộ ra nụ cười lạnh ở khóe môi. 

Chu Cao Sí nói tiếp: "Thần nhi tiến hành kiểm tra tử tế, phát hiện được một chút manh mối chứng minh người hủy tổn di thể của Hiền phi nương nương không phải là Dương hầu gia." 

Nụ cười mỉm đắc ý của Kỷ Cương lập tức ngưng phắt lại, ngẩn ngơ nhìn thái tử. 

Minh Thành Tổ hỏi: "Vì sao?" 

"Nhân vì trên di thể tan nát của Hiền phi nương nương, thần nhi đã phát hiện được dấu vết của ít nhất là ba loại đao thương gây ra!" 

Minh Thành Tổ ngẩn người, ngước nhìn Chu Cao Sí: "Dấu vết của ba loại đao thương bất đồng?" 

"Đúng vậy," Thái tử thưa: "trên di hài của Hiền phi nương nương có nhiều vết thương, miệng vết thương đều là do bị chém gây ra, chỉ có điều do độ rộng và sâu của đao khác nhau, cho nên có cái không chặt đứt xương cốt của nương nương, mà chỉ lưu lại vết chém khác nhau. Sau khi so sánh cẩn thận, tổng cộng có ba loại vết chém khác nhau!" 

Đương nhiên, những lời này là do Tống Vân Nhi kiểm tra phân tích vết thương trên di thể của Hiền phi nói cho thái tử biết. 

Kỷ Cương rùn mình: "Ba loại vết chém khác nhau? Cái... cái này cũng nhìn ra được?" 

Thái tử Chu Cao Sí nói tiếp: "Lúc hung thủ chém, nếu như không thể một đao chém đứt xương, khẳng định sẽ để lại vết chém trên xương. Do đó, bổn thái tử chỉ cần tra xét những đoạn xương lộ ra khỏi di thể của Hiền phi nương nương, là có thể xác định rốt cuộc có phải từ một thanh đao chém hay không. Phụ hoàng nếu không tin, thần nhi còn phái người canh giữ mộ phần của nương nương, chỉ cần đến xem là biết." 

Minh Thành Tổ gật đầu: "Cao Sí thường rất cẩn thận, sự tình ngươi tra phụ hoàng đương nhiên tin, không cần xem nữa. Lát khi về ra lẹnh cho bọn chúng trọng chỉnh lại lăng mộ, an táng cho tốt, sai huyện lệnh phái dân tráng coi lăng, không cho phép bất kỳ ai quấy nhiễu nữa, để cho hiền phi an tĩnh yên nghỉ đi." 

Thái tử khom người đáp ứng. 

Kỷ Cương thấy hình thế đối với y càng lúc càng bất lợi, cố làm gan hỏi: "Chỉ bằng ba loại vết chém bất đồng, là có thể xác định không phải Dương Thu Trì chém sao?" 

Thái tử đáp: "Nếu quả là Dương hầu gia làm, thì có cần dùng ba loại đao khác nhau mà chém không? Hơn nữa, bổn thái tử đã tra hỏi Phong Huyền Phong tri huyện và các dân tráng cùng tham dự khai quan nghiệm thi lúc đó, cho biến rằng khi Dương hầu gia bước vào trong lăng thì đi tay không, trên người căn bản không hề mang đao!" 

"Vậy... vậy ai biết được hắn giấu đao ở đâu đó?" Kỷ Cương thấy cơ hội cuối cùng để xử Dương Thu Trì sắp sửa qua, nên dù lời nói có không được lễ mạo với thái tử, nhưng y vẫn cố níu kéo, bổ sung thêm: "Hơn nữa, chỉ bằng những thứ đó, đương nhiên không thể khẳng định rằng hắn không làm a."

"Cũng có thể là không thể khẳng định," Thái tử bắt đầu tức giận, cười lạnh tiếp, "Nhưng mà, cộng thểm thủ ấn của cẩm y vệ trên quan quách của Hiền phi nương nương, xem ra đã có thể đủ chứng minh mọi chuyện rồi." 

Kỷ Cương cả kinh: "Thủ ấn? Thủ ấn cái gì? Cẩm y vệ làm sao?" 

Thái tử Chu Cao Sí không hề để ý đến y, thưa với Minh Thành Tổ: "Phụ hoàng, thần nhi trước đầy không lâu đã học được một trò rất hay, để lộ ra cho người xem thử. Thỉnh người đặt tay lên bàn, thần nhi có thể khiến thủ ấn trên bàn của người hiện ra." 

Minh Thành Tổ hơi kinh ngạc, y lời đưa tay ra áp lên bàn bên cạnh, sau đó rất hứng trí nhìn Chu Cao Sí. 

Chu Cao Sí không nhanh không chậm, móc từ trong người ra cái bàn chải từ tính lấy dấu tay, nhẹ quét lên nơi Minh Thành Tổ vừa đặt tay lên. Phi thường thần kỳ! Ở trên bàng lập tức xuất hiện một dấu tay hoàn chỉnh. 

Đương nhiên, cái bàn chải lấy dấu tay này chính là do Tống Vâ Nhi cho thái tử mượn. 

Minh Thành Tổ cảm thấy rất mới lạ, cúi đầu nhìn một hồi: "À? Cái này làm sao hiện ra được?" Ngẫm nghĩ một chút, ông ta dùng tay ấn lên bên cạnh, ra ý cho Chu Cao Sí cho dấu tay hiện ra thử. Đương nhiên, chốc lát sau, bên cạnh đó hiện ra một dấu tay rõ ràng. 

Minh Thành Tổ càng kinh ngạc hơn, nhìn nhìn cái bàn chải lấy dấu tay của Chu Cao Sí: "Đó là cái gì? Quả là thần kỳ a!" 

Thái tử nói: "Đây chính là Dương hầu gia cho mượn để con tra án, có thể hiện dấu tay." 

Kỷ Cương cười lạnh: "Dương Thu Trì đưa món gì đó chẳng phải là muốn toan tính giảo trá làm trò mong thoát tội hay sao?" 

Thái tử cười lạnh nói: "Kỷ chỉ huy sứ, lời này của ngươi sai rồi, như vầy đi, cái này ta nói cũng không rõ, chúng ta có thể thử xem là biết liền. Ngươi trước hết án vào bàn một dấu tay, sau đó dùng mực đen tạo ra một dấu tay khác trên vải, so sánh với nhau một chút, xem cói có phải là giống nhau hay không thì biết cái này là trò lừa hay không lừa chứ gì." 

Nghe thái tử sử dụng ngôn ngữ lãnh đạm không thiện, Kỷ Cương rúng động trong lòng. Thái tử dù sao cũng là người không thể chọc vào, vì đó là hoàng thượng tương lại, trừ khi Kỷ Cương y chuẩn bị tuẫn táng theo Minh Thành Tổ, sau này coi như không thể hầu hoàng thượng mới nữa rồi. Do đó, y cười bối rối: "Cái này... hà hà, vậy cũng không cần thiết nữa,... thái tử nói thì nhất định không sai!" 

Thái tử Chu Cao Sí tuy bản tính hiền hòa, nhưng không phải là người để cho kẻ làm thần tử cười nhạo. Y sầm mặt bước tới, chụm tay Kỷ Cương, kéo lại đè lên bàn. 

Kỷ Cương là con nhà võ, thật nếu muốn động thủ thì thái tử chẳng thể làm gì được y. Nhưng mà, giờ phút này cho dù y có bản lĩnh to bằng trời cũng không dám hiển lộ chút nào. 

Án tay lên bàn xong, thái tử dùng bàn chải lấy dấu tay quét lên, sau đó sai thái giam lấy một nghiên mực và một vuông lụa trắng, bôi mực vào tay Kỷ Cương cho y ấn lên tạo dấu bàn tay, sau đó đem so với dấu tay hiện ra ở trên bàn, cho kết quả không khác biệt chút nào. 

Thái tử Chu Cao Sí nhìn Kỷ Cương chầm chầm: "Kỷ chỉ huy sứ, hiện giờ ngươi còn lời gì để nói nữa không?" 

Kỷ Cương vô cùng bối rối, cười gượng đáp: "Là.... hà hà, thứ quỷ này... hà hà thật là chẳng sai chút nào... hà hà...., có lý chứ..." 

Thái tử không thèm để ý Kỷ Cương nữa, quay sang thưa với Minh Thành Tổ: "Phụ hoàng, thần nhi thám tra lăng mộ của Hiền phi nương nương, không những phát hiện trên xương cốt của nương nương chí ít có ba dấu đao bất đồng chặt chém, mà mé trong quan quách còn có đầy dấu tay. Thần nhi dùng phương pháp này lấy dấu tay đó, phát hiện trong vách trong quan tài của Hiền phi nương nương có mấy dấu tay có đặc điểm rất lạ, đó là dấu tay rất to, ở giữa còn có một vết rạn." 

Nghe đến đây, Kỷ Cương rùng mình ớn lạnh. 

Minh Thành Tổ ồ lên một tiếng, hỏi: "Dấu tay có vết rạn cắt này có điều gì không ổn sao?" 

"Đúng là không ổn," Thái tử đáp, móc từ trong người ra một mảnh vải trắng, trên có lớp phấn trắng hiển rõ một dấu tay to. Thái tử chỉ vào dấu tay nói: "Bàn tay của Dương hầu gia không to thế này, thỉnh phụ hoàng xem, thủ ấn này ở giữa có một vết rách, thấy rõ chủ nhân của nó xem ra đã từng thụ thương ở tay!" 

Kỷ Cương càng kinh khủng hơn, lén nhìn vị cẩm y vệ cao quan phụ trách tiến vào lăng mộ ngụy tạo hiện trường lúc trước, không ngờ vị quan đó cũng đang lạc thần đờ mắt nhìn về phía Kỷ Cương. Kỷ Cương nhìn hắn một cái là biết, hai người đều không biết nên phải làm sao.

Thái tử nói đến đây, đứng dậy chuyển thân quay ra ngoài, nhìn các tướng lĩnh thủ hạ thuộc Vũ lâm tiền vệ của mình, vỗ tay hai cái. Tướng lĩnh ấy cung thân thi lễ, quay đi ra ngoài, một lát sau, mấy vũ lâm tiền vệ tướng sĩ áp giải một nam nhân thân hình khôi ngô vào phòng khách, án quỳ xuống. 

Người này so với người thường cao vượt quá một cái đầu, thân hình không ngô, vai to éo tròn, quỳ ở đó mà giống như một hòn núi nhỏ. Chỉ có điều, đấy chính là một hòn núi nhỏ đang run rẫy. 

Kỷ Cương vừa nhìn thấy người này, sắc mặt tức thời tái ngắt. 

Thái tử Chu Cao Sí nói với Minh Thành Tổ: "Phụ hoàng, đây chính là một vị tướng của cẩm y vệ được Kỷ chỉ huy sứ phái đến trú đóng ở lăng của Hiền phi, tên gọi là Hồng Thiết Tháp." 

Thái tử ra dấu tay, mấy vũ lâm tiền vệ đang giữ Hồng Thiết Tháp quả nhiên không phải là kẻ tầm thường, bẻ quặt cánh tay to bè bè như một thân cây của Hồng Thiết Tháp, xòe ra bàn tay phải của hắn. Thái tử nói với Minh Thành Tổ: "Phụ hoàng, tên này chính là tên lưu lại dấu tay trên quan quách của Hiền phi nương nương! Phụ hoàng hãy nhìn tay của hắn." 

Minh Thành Tổ chồm người tới trước nhìn, quả nhiên tên hán tử như thiết tháp này có bàn tay to bè bè, trên tay có một vết thương hở miệng. 

Thái tử nói: "Áp giải hắn lại, án lấy dấu tay." 

Mấy vũ lâm tiền vệ lập tức túm lấy đại hán to lớn đó, khiến y không thể động đậy, rồi cưỡng ép y ấn tay lên bàn, sau đó kéo y trở lại bắt quỳ xuống như cũ. 

Thái tử móc từ trong người ra một mảnh giấy, nhìn nhìn vào đó, xong thưa: "Phụ hoàng, đây là thủ ấn thần nhi thu được bên trong quan quách của Hiền phi nương nương. Bây giờ so sánh ngay tại đây là biết được rốt cuộc có phải của tên này không!" 

Thái tử dùng chổi quét từ tính quét lên chỗ đặt bàn tay ở trên bàn, tức thì hiện ra. Sau đó, thái tử dùng một tờ giấy đã phết keo, chờ nó hơi khô, áp lên chỗ đó lấy dấu tay. Quả nhiên, khi so sánh hai bên chẳng khác nhau chút nào, đặt biệt là dấu hở do vết thương trong lòng bàn tay rất rõ và giống như như đúc, những chỗ to nhỏ không hề sai lệch! 

Đầu Kỷ Cương không ngừng xoay chuyển, cố gắng nghĩ suy xem nên xử trí như thế nào. 

Minh Thành Tổ lạnh lùng nhìn Kỷ Cương: "Kỷ ái khanh, đây là chuyện thế nào?" 

"Cái... cái này... có khả năng là bọn chúng khi kiểm tra quan quách đã vô tình lưu lại..." 

"Vậy sao?" Thân hình mập phì phì của thái tử không ngờ giờ phút này lại sung mãn uy nghiêm, "Thủ ấn này lấy từ bên trong quan quách, trong khi căn cứ lời khai của các cẩm y vệ ở lại canh giữ ở đó, bọn chúng chỉ mở nắp quan tài, phát hiện di thể hiền phi nương nương bị hủy lập tức lui ra khỏi mộ thất. Như vậy, thủ ấn bên trong quan quách này vì sao mà có?" 

Kỷ Cương ấp úng: "Cái đó..." rồi không biết đáp như thế nào nữa, mồ hôi lạnh ứa đầy. 

Thái tử móc từ trong người ra một sấp giấy, đặt lên trên bàn: "Đây là những dấu tay phát hiện trong vách quan tài của Hiền phi nương nương. Kinh qua so sánh, một bộ phận trong đó tương đồng với mấy tên cẩm y vệ canh giữ lăng mộ!" 

Kỷ Cương càng khủng hoảng hơn. Y không hề ngờ thái tử có biện pháp lấy được những dấu tay căn bản không thể nhìn bằng mắt thường, trong khi đó đám thuộc hạ thối của y không ngờ lại để lại nhiều sơ hở chết người như vậy. 

Thái tử nói với Minh Thành Tổ: "Còn nữa, thần nhi còn thu yêu đao của Hồng Thiết Tháp và các cẩm y vệ, kinh qua kiểm nghiệm, không những phát hiện trên lưỡi đao có dấu màu vàng nhạt, lưỡi đao còn có vài vết mẻ, ở những chỗ mẻ hở đó còn phát hiện một số mảnh xương nhỏ vỡ dính vào. Thần nhi còn tiến hành lục xoát bọn cẩm y vệ coi giữ lang này, phát hiện trong số áo quần của chúng có cái còn có dấu máu. Hơn nữa, trên người và chỗ ở của chúng còn có những kim ngân châu báu và vật phẩm bồi táng cùng với Hiền phi nương nương. 

Nói xong, thái tử vỗ tay hai cái, bên ngoài có hai binh sĩ thuộc Vũ lâm tiền vệ tiến vào, mang theo một bao y phục, mấy thanh đơn đao và một hộp nhỏ, quỳ xuống đất, xong mở y phục, đơn đao và cái hộp đó bày ra đất. Chỉ nhìn sơ qua là biết đấy là những y phục phi ngư và tú xuân đao đặc trưng của cẩm y vệ. 

Thái tử cúi người xuống, cầm một tay áo phi ngư phục lên, mở ra trình cho Minh Thành Tổ xem: "Phụ hoàng, mời người xem!" 

Minh Thành Tổ cúi đầu nhìn, quả nhiên phía trong tay áo của những y bào cánh chuồn kia còn có những dấu máu màu vàng vàng dù đã được giặt, mấy chiếc đều thế cả. 

Thái tử lại lấy mấy thanh đơn đao trình lên cho Minh Thành Tổ xem. Quả nhiên, ở lưỡi đao có thể thấy mấy dấu máu vàng nhạt, ở đầu mũi đao có mấy chấm nhỏ trắng li ti, xem ra nhất định là khi thi thể bị chặt chém bị bắn dính vào, lau chùi không hết. 

Minh Thành Tổ cầm tú xuân đao đưa lên mũi ngửi, ẩn ẩn cảm thấy mùi máu tanh thối nhè nhẹ. Ông ta cả đời chinh chiến, thứ dấu vết máu thịt bị băm vằm và mùi thum thủm này đã quá quen rồi, cho nên nhìn ngửi qua là biết ngay rốt cuộc là vì sao mà có. Sau khi kiểm tra hết các thanh đao, đều có mùi vị này, trong khi đó hiện giờ không phải là thời chiến, tất cả mấy lưỡi đao đều có thứ mùi vị này, dĩ nhiên không thể dùng cách giải thích ngẫu nhiên giết chó giết mèo gà vịt gì đó để nghe thông được. 

Thái tử tiếp đỏ mở hộp ra, thưa: "Phụ hoàng, đây chính là những thứ tìm được từ trên người bọn cẩm y vệ canh giữ lăng mộ. Thần nhi đã kiểm tra, xác thực là vật phẩm bồi táng cùng Hiền phi nương nương." 

Minh Thành Tổ quét mắt nhìn, mặt mày xám xịt, trầm mặt nhìn Kỷ Cương trừng trừng: "Kỷ ái khanh, ngươi giải thích thế nào đây?" 

Thân hình của Kỷ Cương đã bắt đầu phát run, thưa: "Đây... đây khẳng định là đám thủ vệ này len lén vào trong mộ thất, trộm.... trộm mà ra...." Nói đến đây, y lập tức cao giọng, "Những tên đó đều đáng lăng trì xử tử!" 

Tên Hồng Thiết Tháp đó sợ run bắn người, kêu lên: "Đại nhân...., đây đầy là ngài lệnh cho chúng tôi làm..." 

"Rấm thối!" Kỷ Cương bước tới vung chân đá cho Hồng Thiết Tháp một cước khiến y ngã đổ ra đất, rồi rút đao từ hộ vệ ở bên cạnh định chém đầu hắn. 

Minh Thành Tổ vỗ bàn, trừng mắt quát: "Được rồi!" Kỷ Cương sợ quá giật mình, vội vã quẳng đao xuống đất, cúi đầu trở về chỗ cũ. 

Dương Thu Trì thấy Kỷ Cương hoảng loạn định giết người diệt khẩu ở đương trường, vô cùng tức cười. Và hắn cũng thầm khen cho lời phân tích chi li rõ ràng của thái tử, vì thực ra hắn chỉ chỉ điểm cho thái tử những chỗ quan trọng, nhưng thái tử Chu Cao Sí lại có sức lĩnh ngộ cao, xử trí lạnh lùng, có phong phạm của bậc vương giả. 

Kỷ Cương tuy đã trở về nguyên vị, cúi đầu đứng đó, nhưng vẫn không nhịn được còn cãi một câu: "Đây rõ ràng là những tên giữ lăng này tự ý làm..." 

Thái tử đã nghe thấy, cười lạnh một tiếng, nói: "Kỷ chỉ huy sứ, sư tình chẳng phải như ngươi nói vậy đâu. Căn cứ vào khẩu cung của bọn chúng, kinh qua điều tra hai ngày, bổn thái tử đã tra ra những kẻ tham dự tổn hủy di thể của Hiền phi nương nương lúc đó. Hôm nay ta đến nha môn Bắc trấn phủ của ngươi, chính là muốn bắt hết nhân chứng vật chứng!" 

Nói đến đây, thái tử bước ra cửa phòng khách, quát bảo các tướng sĩ vũ lâm tiền vệ đang vây chặt khống chế bọn cẩm y vệ dưới giếng trời, lệnh cho họ kéo năm sáu cẩm y vệ từ trong đó ra, đè xuống trói nghiến lại. 

Tiếp đó, thái tử trở vào, chỉ thẳng mặt một cẩm y vệ cao quan đang đứng cạnh Kỷ Cương, cười lạnh nói: "Tôn chi huy Thiêm sự đại nhân, sự tình tổn hủy di thể của Hiền phi nương nương cũng có phần của ngươi phải không? Bắt lại cho ta!" 

Vũ lâm tiền vệ xông lên lột mũ cánh chuồn của vị cẩm y vệ chỉ huy thiêm sự này, đè xuống trói lại. Tên thiêm sự đó nằm phục dưới đất, khóc lóc không ngừng kêu oan. 

Thái tử không lý gì y, quay sang nói với Lý công công: "Để tỏ rõ công chính, thỉnh công công đi cùng thuộc hạ của ta đến chỗ ở của bọn này lục soát xem coi có tìm được thứ gì hay không." 

Lý công công khom người đáp ứng, đi theo người do thái tử phái đi tiến hành lục soát chỗ ở của những cẩm y vệ này. 

Phòng khách trở lại vẻ im lặng nặng nề, Kỷ Cương đã mặt không còn hạt máu, thân hình hơi run run. Dương Thu Trì thì mặt nở nụ cười mình, trong lòng tràn đầy nỗi cảm kích đối với sự công minh của thái tử Chu Cao Sí đã rữa sạch oan khuất cho hắn. 

Minh Thành Tổ vẫn giữ vẻ mặt âm trầm không lên tiếng. Ông ta không nói, trong sảnh đường này không ai dám lên tiếng. 

Một lúc sau, Lý công công cùng những người phụ trách tra xét quay trở lại, còn mang theo một bao gì đó đưa trình tới trước mặt Minh Thành Tổ. Lý công công thưa: "Hoàng thượng, đây chính là những vật phẩm tìm được ở chỗ của vị chi huy thiêm sự và những cẩm y vệ khác này, dường như đều là vật phẩm chôn cùng với Hìên phi nương nương." 

Minh Thành Tổ cúi người, lấy một vật từ trong bao đó ra xem, rồi quét mắt nhìn những vật phẩm còn lại trong bao, ánh mắt ngập tràn lửa giận. 

Những vật phẩm bồi táng với Hiền phi nương nương đều là những thứ do Minh Thành Tổ đích thân tuyển chọn, cho nên ông ta chỉ cần nhìn một cái là khẳng định chúng xuất phát từ đâu. Ông ta không khỏi đột nhiên bốc bừng cơn giận, không cần thẩm tấn, ra lệnh kéo cẩm y vệ chỉ huy thiêm sự, Hồng Thiết Tháp cùng các vị cẩm y vệ đó ra lăng trì xử tử lập tức, còn tru diệt cả chín họ. 

Xử lý hoàn tất, Minh Thành Tổ chưa hết cơn giận, nhìn trừng Kỷ Cương, lạnh lùng hỏi: "Kỷ ái khanh, ngươi đáng bị tội gì?" 

Kỷ Cương trước kia đích xác đã từng bố trí thủ hạ theo dõi Dương Thu Trì đến Hiền phi lăng, sau đó cho chúng thủy thi vu khống hãm hại hắn. Thật không ngờ những tên này sau đó nổi ý tham, không ngờ trộm hết những châu báu trong lăng mộ, hiện giờ còn bị bắt cả người lẫn vật chứng. 

Kỷ Cương kinh khủng vạn phần, quỳ sụp xuống đất dập đầu lia lịa: "Những tên súc sanh này không ngờ lại gây ra chuyện đại nghịch bất đạo như vậy, đều là do vi thần quản thuộc hạ không nghiêm, không ngờ bị đám súc sanh này lừa dối, thật là tội đáng muôn chết, thỉnh hoàng thượng thứ tội!" 

Minh Thành Tổ lạnh lùng nói: "Ngươi chỉ có tội quản thuộc hạ không nghiêm thôi sao?" 

Kỷ Cương dập đầu thưa: "Vi thần đối với sự làm càn làm bậy của chúng quả tình là không biết a, hoang thượng, vi thần chỉ yêu cầu chúng theo dõi quan sát Dương Thu..., không, Dương đại nhân, không ngờ chúng lại gây ra chuyện tổn hủy di thể của nương nương, trộm cắp châu báo cùng vật bồi táng, tạo nên tội đại nghịch bất đạo này. Vi thần đối với chuyện này đích xác là không biết chút gì, hoàng thượng..." 

Thái tử Chu Cao Sí nói: "Bọn chúng đều khai rằng mọi chuyện này là do ngươi chỉ sử..." 

Minh Thành Tổ nhìn thái tử một cái, xua tay, xong quay sang trừng mắt hỏi Kỷ Cương: "Ngươi không phải là chuyện hủy tổn di thể của Hiền phi là do Dương ái khanh làm sao?" 

Kỷ Cương nghe thế, đã đoán được ý của Minh Thành Tổ. Thái tử tra chứng cứ đã ra sự thật rõ ràng, y còn lý nào dám cãi bướng, dập đầu lia lịa: "Là... là do vi thần kiểm tra không thận trọng, trách lầm Dương đại nhân, vi thần đáng chết, cầu hoàng thượng thứ tội!" 

Minh Thành Tổ đập bàn quát: "Hay cho câu kiểm tra không kỹ, không những khiến cho trẫm giết lầm Thuận phi, Cố nội các học sĩ cùng những người khác, còn suýt giết lầm Dương ái khanh là thần tử có công chẳng tội lỗi gì này, càng khiến cho di thể của Hiền phi tủi nhục hơn! Người đâu, kéo hắn ra ngoài..." 

Vừa nghe lời này, Kỷ Cương sợ đến hồn bay ngoài ngàn dặm, cứt đái són ra quần, ngay cầu xin tha tội cũng không nói nỗi. 

Minh Thành Tổ dừng lại một chút, rồi mới ra lệnh tiếp: "Kéo hắn ra ngoài, dùng trọng hình đánh 120 trượng!" 

Dương Thu Trì suýt chút nữa tức ngất đi, lòng nghĩ sao thể này? Đánh đít là coi như xong hay sao? Tên Kỷ Cương này rõ ràng là cố gắng hãm hại hắn, hoàng thượng lại chỉ vì một câu ngắn ngủi nhận tội đơn giản vậy là xong hay sao? Cái này là chuyện vặt đây sao? Cho dù ông không trị tội hắn vu khống hãm hại lão tử, nhưng Kỷ Cương hắn vì hãm hại lão tử, ngay cả phi tử mà ông sủng ái nhất cũng dám băm vằm thành thịt vụn, thế mà ông không thèm quản hay sao? 

Kỳ thật, đây chính là lựa chọn sau khi suy tính quyền hành thiệt hơn của Minh Thành Tổ. Minh Thành Tổ đương nhiên biết những cẩm y vệ đó nếu không có Kỷ Cương ra lệnh thì dù cho cấp cho chúng một trăm lá gan chúng cũng không dám khai quật lăng mộ hủy diệt thi thể rồi thuận tiện đánh cắp luôn đồ châu báu bồi táng theo Hiền phi. Nhưng mà, Kỷ Cương có thể trèo lên chiếc ghế cẩm y vệ chỉ huy sứ này, chẳng phải là dựa vào bản lãnh hiểu ý nịnh hót Minh Thành Tổ, mà còn có bản lãnh thực sự của chính y. 

Kỷ Cương có bản lĩnh thực sự chính là chỉnh trị và hại người. Minh Thành Tổ đương nhiên cần chuyên gia phá án như Dương Thu Trì để điều tra ra những người có lòng mưu phản chân chính. Nhưng mà, vẫn còn có những người mà Minh Thành Tổ biết bọn họ căn bản không có lòng phản, nhưng hình thế cần hoặc là sự đòi hỏi trong đấu tranh quyền lực cần phải diệt trừ họ, cho nên mới cần tiến hành vu khống hãm hại rồi dùng biện pháp tra tấn bức nhận tội. Và những sự tình tán tận lương tâm đen như phân chó này hiển nhiên Dương Thu Trì không thể làm hoặc không chịu làm. Ngược lại, tên thuộc hạ ác nhân thất đất âm tổn thiên địa Kỷ Cương của ông ta lại làm rất được việc.

Vì thế, Minh Thành Tổ cần người có thể làm việc chân chánh như Dương Thu Trì, cũng cần người không thèm để ý đến nguyên tắc và còn hoàn toàn tuân theo ý ông ta để làm chuyện thất đức như Kỷ Cương. Hai loại người này đều cần cho chính quyền của Minh Thành Tổ. Huống chi, trong chiến dịch Tĩnh Nạn, Kỷ Cương đã nhất mực theo hầu ông ta, chinh chiến sa trường, tác chiến dũng mạnh... Kỷ Cương đã nhận được sự tín nhiệm sâu sắc của Minh Thành Tổ, được hoàng thượng thưởng thức. Loại hữu nghị quân thần tạo lập từ trong chiến đấu này là thứ khiến người ta khó quên và khó chối bỏ. Hơn nữa, sau này Kỷ Cương do rất giỏi vuốt ve tâng bốc, nên càng gây sự vui vẻ cho Minh Thành Tổ. Do đó, từ những điểm này mà khiến cho Minh Thành Tổ không quyết tâm chém đầu Kỷ Cương. 

Kỷ Cương hủy tổn di thể của Hiền phi nương nương đó là sự thật, nếu như vì thế mà đem chém đầu y thì cũng chẳng cứu vớt được gì, chi bằng đem đánh 120 hèo trên pháp đình để cảnh cáo, chẳng những lập uy đối với y, mà còn làm nguội cái tức cho Dương Thu Trì, từ đó giữ được cả hai người tài hữu dụng này. 

Hình phạt đánh roi thời nhà Minh bắt đầu từ Minh Thái tổ, đến thời Vĩnh Lạc của Minh Thành Tổ cơ bản không dùng nữa, sau đó đến thời Minh Anh Tông mới chính thức khôi phục. 

Minh Thành Tổ hạ lệnh đánh phạt Kỷ Cương ở pháp đình, chẳng qua là chuyện bất đắc dĩ mà thôi. Kỷ Cương vu khống hãm hại Dương Thu Trì suýt nhà phá thân vong, nếu như không cấp cho Kỷ Cương này chút hình phạt, nhìn dáng vẻ hai mắt đổ hào quang của Dương Thu Trì như thế, khẳng định khó có thể bình ổn nộ khí trong lòng hắn (Minh Thành Tổ không hề biết lúc này Dương Thu Trì đã coi Kỷ Cương là kẻ thù bất cộng đái thiên rồi), cũng khó có thể phục chúng. Như vậy, không thể không cấp cho Kỷ Cương một bài học, cho nên ông ta quyết định tiến hành đình trượng (đánh roi ở pháp đình) Kỷ Cương ngay tức thì. 

Chấp hành đình trượng là giáo úy chuyên môn của cẩm y vệ. Bọn chúng đã thông qua huấn luyện nghiêm cách, kỹ nghệ thuần thục, có thể chuẩn xác căn cứ vào ám hiệu của cẩm y vệ chỉ huy sứ Kỷ Cương mà dùng hình phạt quyết định sinh tử của người chịu phạt. Chỉ không ngờ lần này bất đồng, người chịu hình phạt không ngờ chính là chỉ huy sứ Kỷ Cương của chúng. 

Những giáo úy này hơi có chút khẩn trương, nhưng dù sao thì hoàng thượng hạ lệnh, bọn chúng không dám sơ xuất chút nào. Giáo úy giám quản đình trượng quát to một tiếng, mấy đại hán to lớn đã kéo Kỷ Cương ra bên ngoài, lột sạch quan bào quần áo cho trần truồng như nhộng, rồi án xuống đất. Giáo úy giám quản bước đến phòng khách, quỳ trước mặt Minh Thành Tổ hô: "Vạn tuế, đình trượng đối với Kỷ Cương đã chuẩn bị hoàn tất!" 

Y cúi đầu nhìn hai chân của hoàng thượng. Theo quy củ, nếu như hai chân trương ra theo hình chữ bát (八), thì biểu kỳ có thể lưu cho người dưới trượng còn một mạng; ngược lại, nếu hai mũi chân hướng vào nhau, thì phải đánh chết kẻ chịu hình. 

Minh Thành Tổ hơi do dự, mũi chân hướng ra ngoài, nhưng lại vỗ bàn quát: "Đánh thật mạnh vào!" 

Như vầy thì mâu thuẫn rồi, mũi chân hướng ra ngoài, có nghĩa là lưu lại mạng sống cho người chịu phạt, nhưng lại bảo "đánh như thật" thì ý tứ là đánh cho chết. Vị giáo úy này có sự linh mẫn và nhanh nhẹn về chính trị vô cùng, ánh mắt xoay tròn, lập tức hiểu ý muốn chân thực của Minh Thành Tổ, dập đầu đáp ứng, đứng dậy lùi ra cửa, bấy giờ mới chuyển thân đi ra, quát: "Hoàng thượng thánh dụ, đình trượng đánh thật!" 

Kỷ Cương nằm ở ngoài, không nhìn thấy được chân của Minh Thành Tổ, nghe lời này lập tức hồn phi phách tán, luôn miệng xin tha. 

Giáo úy hành hình nghe nói "đánh thật", nhìn chân của giáo úy giám quản, thấy hai đầu bàn chân hướng ra ngoài thành hình chữ bát - "tha cho một mạng", đó là quyết định cuối cùng, liền hiểu ngay, lớn tiếng hò hét: "Tuân chỉ! Đánh thật mạnh...!" 

Tiếng lốp bốp tức thời vang lên, Kỷ Cương bị đánh máu văng tứ tán chỉ sau hơn mười côn, khóc cha khóc mẹ ỏm tỏi. 

Thủ hạ của vị giáo úy hành hình này quả thật là có công phu, nghệ thuật dùng lực đã đến mức tuyệt đỉnh, tuy đánh cho Kỷ Cương máu huyết bầy nhầy, đau đớn cùng cực, nhưng không thương đến gân cốt. 

Mặc dù như thế, khi đánh đến bảy tám chục côn, Kỷ Cương đã đau đớn ngất đi tỉnh lại mấy lần. Đau ngất đi, rồi tỉnh lại vì đau, mông và đùi đều máu huyết bầy nhầy, đã chẳng còn chỗ nào lành lặn, đau đến nỗi y cắn toạt cả môi, ngay cả sức để khóc cha gọi mẹ cũng không còn nữa. 

Nghe tiếng lốp bốp của trượng đánh vào thân người, Minh Thành Tổ cười ha ha quay đầu nhìn Dương Thu Trì, thấy hắn chỉ hừ lạnh một tiếng ngước mắt nhìn trời, hiển nhiên không hề động lòng.

Thần tình của Minh Thành Tổ tựa hồ hơi bối rối, cảm thấy bị người ta hại đến nỗi suýt nhà phá thân vong, khẩu khí này chẳng thể như thế mà thuận ngay. Ông ta hơi trầm ngâm, vỗ bàn một cái, nói với bên ngoài: "Các ngươi chưa ăn cơm hả? Trẫm bảo các ngươi đánh mạnh vào!" 

Giáo úy quản giám đình trượng giật mình sợ hãi, quỳ xuống dập đầu, nhìn lên hai chân của Minh Thành Tổ, thấy mũi chân vẫn hướng ra ngoài, tức thời minh bạch, đứng dậy ra ngoài quát: "Hoàng thượng thánh dụ, tăng thêm sức, đánh thật mạnh hết sức vào...!" 

Giáo úy hành hình nghe thế, giơ côn thật cao, tiếng gió vùn vụt, lần này thì đánh thật, chứ không phải đánh chơi chơi, đương nhiên là vẫn nhìn chân lưu mạng. Ba bốn chục côn cuối cùng đánh rất mạnh, Kỷ Cương đã như con heo chết nằm ở đó, hai mắt trợn ngược, ngay cả ư cũng không ư được tiếng nào, ngất hẳn đi. 

Một trăm hai chục trượng chấp hành hoàn tất, bốn vị đình trượng giáo úy túm bốn góc tấm bố nhấc lên, nhìn lên trời hất mạnh, khiến y bay lên rớt mạnh xuống. Cú động chạm mạnh này khiến cho Kỷ Cương hôn mê tỉnh lại rên hừ hừ, mũi ứa máu, rồi lại hôn mê tiếp. 

Bọn giáo úy khiêng Kỷ Cương vào phòng khách, cho nằm xuống nền gạch xanh trở lại. 

Dương Thu Trì cúi đầu nhìn, thấy bốn chục trượng sau này là đánh thật, cái mạng Kỷ Cương đã bị lấy đi chín phần, lửa giận trong người từ từ giảm bớt. Nhưng mà, Dương Thu Trì biết nếu như hoàng thượng còn lưu lại mạng cho Kỷ Cương, thì chỉ cần Kỷ Cương còn sống, thù bất cộng đái thiên của hai người đã kết, không phải người chết thì là ta chết! 

Minh Thành Tổ nhìn Kỷ Cương, rồi quay sang nhìn Lý công công. 

Lý công công hiểu ý, ra lệnh cho bọn thái y sớm đã chờ sẵn sau cửa nhanh chóng trị liệu thương thế cho Kỷ Cương. 

Mấy thái y nhanh nhẹn đấp thuốc bó thương cho Kỷ Cương. Minh Thành Tổ hỏi: "Thương thế của Kỷ ái khanh thế nào?" 

Thái y dẫn đầu bẩm báo: "Tính mệnh không ngại gì, chỉ thương đến gân cốt, chỉ sợ trời lạnh hay mưa gió sẽ chịu chút khổ sở." 

Đây chính là lời thật, sau loạt đình trượng này, gân ở hai chân của Kỷ Cương bị tổn hại, nên mỗi khi trời âm lãnh hay có mưa, đều đau đớn cùng cực, ăn không biết ngon, đêm không ngủ được, vì điều này mà khiến Kỷ Cương càng cừu hận Dương Thu Trì hơn. Mối thù giữa hai người từ đó càng kết càng sâu. 

Trị liệu xong, Kỷ Cương tỉnh dậy, Minh Thành Tổ thở dài, nói với y: "Kỷ ái khanh, người làm sai án này, khiến cho Dương ái khanh chịu ủy khuất, tuy chịu chút khổ sở, nhưng chẳng qua là cái đau ngoài da mà thôi ha?" 

Kỷ Cương cố gượng ngồi dậy, run rẫy nói: "Dương... đại nhân..., không, Dương... huynh đệ...., đây.... đều là.... lão ca .... sai, thỉnh... tha cho..., lão ca .... ở đây... xin bồi tội... với đệ!" Y định thi lễ, nhưng không còn lực khí nữa. 

Dương Thu Trì khoanh hai tay, lạnh lùng nói: "Không dám nhận, Kỷ đại nhân. Ngài cũng không nên cùng ta xưng huynh gọi đệ nữa, để khỏi sau này bị tên cẩu tặc nào đó vu cáo hãm hại, khi bị diệt mười tộc thì liên lụy đến ngài." 

Kỷ Cương lộ ra nụ cười nhếch mép, miệng thì lại bảo: 'Dương... huynh đệ.... lão ca... không phải với... đệ..." 

Minh Thành Tổ cười ha ha nói với Dương Thu Trì: "Dương ái khanh, thái tử đã tra án này rõ ràng, ngươi, Thuận phi và Cố nội các học sĩ đều bị oan uổng. Từ hôm nay trở đi, ngươi khôi phục nguyên chức, còn hai người chúng... trẫm sẽ hạ chỉ cấp cho chúng rửa sạch án oan, an táng trọng hậu." 

Dương Thu Trì dù hận Kỷ Cương, nhưng hoàng thượng tuy đánh y bán sống bán chết, vẫn còn lưu lại cho y một mạng, Dương Thu Trì không còn cách nào, hiện giờ cũng không tiện biểu lộ ra, cái thù này sau này hẳn báo. Hắn quỳ xuống tạ ơn Minh Thành Tổ xong, đứng dậy vái một lạy thật sâu với thái tử Chu Cao Sí: "Thái tử điện hạ có ân cứu mạng với Thu Trì, Thu Trì vĩnh thế không quên!" 

Thái tử mỉm cười trả lễ. 

Minh Thành Tổ nói: "Kỷ ái khanh, Dương ái khanh, hai ngươi đều là công thần của trẫm. Kỷ ái khanh năm xưa cùng trẫm chinh chiến sa trường, chiến công hiển hách, sau đó chấp chưởng cẩm y vệ, cũng lập được nhiều kỳ công. Dương ái khanh tập nã Kiến Văn dư đảng, công huân trác tuyệt. Hiện giờ hai ngươi không những là thần tử cùng điện, mà còn cùng quản lý cẩm y vệ, chia cái lo cùng trẫm. Sau này hãy vì trẫm mà tề tâm hợp lức, lập thêm nhiều công mới." 

Kỷ Cương nằm dưới đất, thều thào thưa: "Vi thần... kính cẩn tuân lời.... hoàng thượng... giáo huấn..." 

Minh Thành Tổ gật đầu, nhìn về phía Dương Thu Trì. 

Dương Thu Trì liếc nhìn Kỷ Cương, thầm nghĩ người lời lẽ ngon ngọt giả dối quen rồi, lão tử với người có thù không đội trời chung! Đừng mong lão tử làm thủ hạ của ngươi nữa, chúng ta cứ cười lừa mà coi hát bội, cứ chờ đó mà xem! 

Dương Thu Trì khom người thưa với Minh Thành Tổ: "Hoàng thượng, vi thần không thể đảm nhiệm chức trách cẩm y vệ, trong khi đó trị an của kinh thành không cho phép lạc quan. Thần nghĩ cần một lần một dạ lo trọn chức vụ phũ doãn, quản lý kinh thành cho tốt. Chức đồng tri cẩm y vệ này, khẩn thỉnh hoàng thượng miễn trừ." 

Minh Thành Tổ đưa mắt nhìn Dương Thu Trì. Ông ta làm sao không biết được ý nghĩ trong lòng của hắn chứ, hơi trầm ngâm một lúc rồi nói: "Như vậy đi, Dương ái khanh, trẫm nhậm mệnh cho ngươi làm cẩm y vệ chỉ huy sứ phó sứ, chánh tam phẩm, chấp chưởng Nam trấn phủ ti, phụ trách pháp kỷ và quân kỷ của cẩm y vệ. Đồng thời, ngươi còn kiêm chức trách kiểm tra bá quan, có chuyện gì trực tiếp báo cáo với trẫm." 

Dương Thu Trì nghe lời mừng rỡ, tuy chỉ đeo cái chức chỉ huy phó sứ, nghe có vẻ thấp hợp Kỷ Cương, nhưng phẩm trật bằng với chỉ huy sứ, huống chi hắn lại còn là siêu phẩm hầu tước. Sau này trước khi xử cho Kỷ Cương chết, đi trước mặt hắn có nghênh ngang đi chăng nữa cũng không thành vấn đề. 

Nam Trấn phủ ti vốn có chức trách về pháp kỷ nội bộ của cẩm y vệ, tương đương với ủy viên thanh sát trung ương phái trú ở cẩm y vệ, chuyên môn điều tra những hành vi loạn kỷ cương phép nước của cẩm y vệ. Quyền lực này có thể nói là có thể to có thể nhỏ, nếu nói to thì những chuyện gì mà y muốn quản dù là Kỷ Cương chỉ huy sứ cũng không thể mó tay vào. Hà hà, cực kỳ thú vị...! 

Hiện giờ Minh Thành Tổ thậm chí còn tăng gia quyền hạn chức vụ cho Nam Trấn phủ ti, đó là củ sát bá quan, là quyền lực trọng yếu phi thường. Minh Thành Tổ thực ra là muốn Dương Thu Trì phát huy tài năng trinh tra của hắn trong chuyện này, tìm ra những loạn thần tặc tử chân chính, duy trì sự ổn định của giang sơn xã tắc. 

Minh Thành Tổ còn cho Dương Thu Trì tránh khỏi Kỷ Cương, có chuyện gì trực tiếp báo cáo với ông ta. Như vậy có nghĩa là, Dương Thu Trì tuy là phó sứ của Kỷ Cương chỉ huy sứ, nhưng chức quyền so với vị cẩm y vệ chỉ huy sứ Kỷ Cương này còn lớn hơn, thậm chí có thể trực tiếp giám sát Kỷ Cương. 

Dương Thu Trì mừng rỡ vô cùng, quỳ xuống dập đầu tâu: "Vi thần tạ chủ long ân! Thần nhất định sẽ tận tâm kiệt lực để báo hoàng ân!" Hắn liếc mắt nhìn Kỷ Cương, thấy y nhắm mắt, tựa hồ như đau đớn quá ngất đi. Dương Thu Trì hiểu rõ, Kỷ Cương có lẽ là tức quá mà hôn mê đi đó thôi. Ha ha ha.. 

Dương Thu Trì hết sức phấn khởi trở về Dương phủ, đem sự tình kể hết, chúng nữ tức thời hoan hô vang dội, thật sự có cảm giác giống như chết đi sống lại. Chờ đến khi nghe nói Kỷ Cương bị đánh đến 120 đình trượng, cái mạng mất đi đến chín phần, cảm thấy thỏa cơn tức thập phần, nhưng cũng vô cùng bất bình đối với việc Minh Thành Tổ không xử tử Kỷ Cương. 

Liễu Nhược Băng đề xuất ám sát Kỷ Cương, Dương Thu Trì không đồng ý. Nếu như hiện giờ Kỷ Cương chết, ai cũng đoán được là do Dương Thu Trì hắn làm, như vậy sẽ tự rước thêm phiền phức. Hơn nữa, hắn không muốn để Kỷ Cương chết sướng như vậy, hắn muốn đường đường chính chính khiến cho Kỷ Cương thân bại danh liệt. 

Đêm đó, Dương Thu Trì cho bày yến tiệc, thỉnh ân nhân cứu mạng của mình là thái tử Chu Cao Sí tới, ngoài ra còn có Mã Độ, Ngưu Đại Hải và một số cẩm y vệ khác, hoan hỉ tụ tập, ăn uống ca hát sướng khoái. 

Dương Thu Trì phục hồi nguyên chức, còn được thăng làm cẩm y vệ phó chỉ huy sứ chấp chưởng Nam trấn phủ tri. Tin tức này nhanh chóng truyền khắp kinh thành, quan viên lớn nhỏ trong cẩm y vệ đương nhiên không ngừng đến Dương phủ chúc mừng, yến tiệc càng bày càng đông, chẳng khác gì đêm nạp Hồng Lăng làm thiếp. Họ bày trò đánh cuộc uống rượu, vui vầy đến nửa đêm. 

Ngày hôm sau, Dương Thu Trì đến cẩm y vệ Nam trấn phủ ti nhậm chức xong, tiến vào hoàng cung bẩm báo với hoàng thượng Minh Thành Tổ rằng Kỷ Cương bị thương năng, hiện giờ ở kinh thành khí hậu lạnh lẽo, nên đưa Kỷ Cương về phương nam để dưỡng thương. 

Minh Thành Tổ đương nhiên biết ý nghĩ chân thật của Dương Thu Trì. Ông ta cũng hi vọng Dương Thu Trì có thể nhanh chóng đứng vững ở trong hàng ngũ cẩm y vệ, tạo lập thế lực cho riêng mình, có thể đạt tới tác dụng khống chế và bình hành với thế lực của Kỷ Cương. Thứ kềm chế về quyền lực lẫn nhau giữa các bộ hạ chính là điều phù hợp với lợi ích tối cao của Minh Thành Tổ, cho nên ông ta lập tức chuẩn tấu, phái người đưa Kỷ Cương về Quảng Châu dưỡng thương. 

Kỷ Cương bị bức rời khỏi kinh thành, người bị thương nặng vì 120 trượng, lại thêm dọc đường dằn xóc mệt mỏi, cho nên khi đến Quảng Châu phải nằm liệt giường suốt ba tháng trời mới có thể bước xuống giường. 

Kỷ Cương đi rồi, trong ba tháng này, cẩm y vệ ở kinh thành đương nhiên là thiên hạ của Dương Thu Trì. 

Hắn muốn lợi dụng đoạn thời gian này nhanh chóng bồi dưỡng xây dựng thế lực cho mình, để có thể chống lại với Kỷ Cương, chuẩn bị tiếp quản cẩm y vệ trong tương lai. 

Thứ điều chỉnh nhân sự này hắn thân là phó chỉ huy sứ đương nhiên làm chủ được. Tuy Bắc trấn phủ ti là do Kỷ Cương trực tiếp thông lĩnh, Dương Thu Trì không thể điều động nhân sự, nhưng trong phần Nam trấn phủ ti của mình, hắn hoàn toàn có thể xoắn tay mặc tình điều động. 

Ngày đầu thượng nhiệm, Dương Thu Trì đã đem vị trí thủ lĩnh các bộ môn trọng yếu thay bằng người của mình, điều Mã Độ và Ngưu Đại Hải đến Nam Trấn phủ ti, từ phó thiên hộ thăng lên tứ phẩm thiên hộ. Trong đó Mã Độ đảm nhiệm cẩm y vệ tả sở thiên hộ, Ngưu Đại Hải đảm nhiệm cẩm y vệ hữu sở thiên hộ. Sau đó, hắn còn điều Vân Lăng từ phủ Bảo Ninh ở Tứ Xuyên về thăng làm trấn phủ của Nam trấn phủ ti, chánh ngũ phẩm, chuyên môn phụ trách kiểm soát và điều tra hành vi loạn pháp trong cẩm y vệ. 

Ngoài ra, hắn còn kéo Chiêm Chánh Chiêm bộ đầu và các bộ khoái đã từng sinh tử với hắn khi đấu tránh với Thuyền bang ở Ba châu - Tứ Xuyên về, cho làm bộ đầu và bộ khoái ở Ứng Thiên phủ. 

Đồng thời với việc cải cách Nam Trấn phủ ti, Dương Thu Trì còn tiến hành đàn áp Bắc trấn phủ ti của Kỷ Cương. 

Đối tượng đánh đổ trước hết đương nhiên là những kẻ đã phản bội hắn - những bộ hạ hộ vệ đã thừa cơ giậu đổ bìm leo hại hắn khi hắn sa cơ - chính là bọn Bồ Phàm Cốc ba người. 

Cẩm y vệ không có ai là sạch sẽ cả, ít nhiều đều có vấn đề, chỉ có điều là ngươi có tra hay không mà thôi. Nếu như Dương Thu Trì quyết định động đến họ, sự thật và chứng cứ để khép tội chẳng phải là tìm ra một cách dễ dàng hay sao? 

Dưới sự điều tra của Mã Độ và Ngưu bá hộ, bọn Bồ Phàm Cốc nhanh chóng bị phát hiện dọa dẫm chèn ép bức tử nhân mạng cùng các sự thật khác. Dương Thu Trì hạ lệnh bí mật bắt bọn Bồ Phàm Cốc ba người, cho Nam Cung Hùng cùng bọn thân vệ còn lại tiến hành khốc hình bức cung. Nam Cung Hùng hận thấu xương ba tên phản bội này, nên đã dùng hết 18 khốc hình của cẩm y vệ, chẳng những lấy được khẩu cung cần, mà còn khiến cho ba tên phản bội chết đi sống lại, khiến cho chúng biết thế nào là mùi vị bị người ta chỉnh trị. 

Ba người này chẳng qua là tiểu lâu la của cẩm y vệ, án của chúng chỉ là án nội bộ của cẩm y vệ, cẩm y vệ có quyền tự khai đường thẩm tấn, định tội rồi xử phạt, tam pháp ty không thể nào quản được. Loại án của bọn tiểu lâu la này cũng không cần báo lên thỉnh hoàng thượng ngự phê, Dương Thu Trì có thể trực tiếp xử lý. 

Thế là, ba người đều bị định thành tội, xử trảm lập quyết, đưa ngay đến hình trường ngoài thiên lao Hình bộ chém đầu, hả cái giận trong tâm Dương Thu Trì. 

Tiếp đó, Dương Thu Trì tiến hành kiểm tra giám sát hết bè đảng của Kỷ Cương ở Bắc Trấn phủ, đương nhiên tra cái nào trúng cái đó, đều là ăn hối lộ làm trái pháp luật vu cáo hãm hại bức tử nhân mạng, đều là tử tội chém đầu. 

Nhưng mà, muốn xử tử cao quan của cẩm y vệ, cần phải báo thỉnh hoàng thượng chuẩn y. Dương Thu Trì đem tài liệu đưa đến báo cho Minh Thành Tổ, còn tự thân đến tiến hành trình bày giải thích.

Minh Thành Tổ hơi bối rối, Dương Thu Trì điều tra những án này, trong đó có không ít chuyện do Minh Thành Tổ tự thân giao làm, cũng có thể nói người chân chính vu cáo hãm hại chính là Minh Thành Tổ. Kỷ Cương và các cao quan của cẩm y vệ Bắc Trấn phủ ti chẳng qua là căn cứ vào ý Minh Thành Tổ mà làm, chẳng qua là những con chó chạy việc mà thôi. Minh Thành Tổ có lòng bao che, nhưng những án này bị Dương Thu Trì điều tra chứng cứ rõ ràng, không thể nào che đậy, cho nên liền phê xử tử hai người có tội ác lớn nhất, còn những kẻ khác thì tha mạng, triệt quan đày đi ba nghìn dặm. 

Tuy không thể khiến bọn chúng bị chém đầu, nhưng cũng đã bị triệt chức đi đày, đạt được mục đích của Dương Thu Trì. 

Kinh qua ba tháng kiểm tra đánh dẹp của Dương Thu Trì, nguyên khí của Bắc trấn phủ ti đại thương, còn Kỷ Cương thì xa tít ở Quảng Châu, tin tức không thể lưu thông dễ dàng, hơn nữa hoàng thượng lại có ý nâng đỡ gầy dựng cho Dương Thu Trì, cho nên ba tháng sau khi Kỷ Cương chống gậy trở về kinh thành, thế lực của y đã bị yếu đi rất nhiều, trong khi đó Dương Thu Trì đã cải tạo Nam trấn phủ ti hoàn tất, đã kiến lập được quyền uy khá lớn ở cẩm y vệ trong kinh thành. 

Kỷ Cương trở về kinh thành, đã buộc phải chống quài trượng mà thượng triều. 

Buổi triều sớm ngày ấy, chúng quan viên đã đến sớm chờ ở phòng dành cho cửu khanh. Dương Thu Trì mặc quan bào cẩm y vệ chỉ huy phó sứ đang cùng mọi người nói chuyện, thì Kỷ Cương dựa vào hai cây nạng với nét mặt âm trầm từ ngoài cửa cà nhắc đi vào. 

Ba tháng không thấy, thân hình vốn khôi ngô của Kỷ Cương trước kia đã ốm o lòi cả xương, chỉ có đôi mắt là vẫn âm hiểm và ngoan độc như mắt ưng. 

Chúng quan bất quản là to hay nhỏ đều đua nhau nhường đường, cũng có một bộ phận bước tới ra mắt Kỷ Cương, hỏi này hỏi nọ. 

Chỉ có Dương Thu Trì là coi như không thấy, vẫn nói cười với các quan khác y như cũ. 

Dương Thu Trì và Kỷ Cương có quan hệ như thế nước và lửa đã được các quan viên trong kinh thành biết cả, hiện giờ thấy hai lão hổ gặp nhau, đều biết sắp có trò vui để xem. Còn về chuyện họ đặt đít ngồi qua bên nào, thì cần phải xem hướng gió xong rồi quyết định. Để lỡ khi ngồi sai vị trí, mất chức quan là chuyện nhỏ, mất mạng mất luôn cả chính họ mới là chuyện lớn. 

Các quan viên đang chuyện phiếm với Dương Thu Trì thấy Kỷ Cương tiến vào, cảm thấy vô cùng bối rối, họ không dám đắc tội với Kỷ Cương, cũng không dám đắc tội với Dương Thu Trì. 

Dương Thu Trì không muốn làm khó họ, nên cũng không nói nữa, chuyển thân lại đưa mắt nhìn trời, dường như là nhìn thấy chuyện gì đó vô cùng ly kỳ vậy. 

Kỷ Cương chống quài trượng từ từ đến trước mặt Dương Thu Trì, cười khan hỏi: "Dương đại nhân, ngài đang nhìn gì đó?" 

Kỷ Cương hận Dương Thu Trì thấu xương, nhưng ngoài mặt thì vẫn cố tỏ ra hiền hòa thân thiện, bản lĩnh ấy khiến cho Dương Thu Trì vô cùng bội phục. Hắn cười nhẹ đáp: "Bổn quan đang nhìn một con nhện con trên nóc nhà, con oắt này bình thường đi nghênh ngang, không ngờ giờ bị què một chân, chỉ có thể đi cà nhắc lặt lẹo mà tiến." 

Dương Thu Trì là cẩm y vệ chỉ huy sứ phó sứ, từ góc độ này mà giảng thì là người phó của Kỷ Cương, nhưng hiện giờ hắn căn bản chẳng nễ mặt gì Kỷ Cương, trước mặt y tự xưng bổn quan, điều này đã đủ khiến cho chúng quan viên kinh ngạc. Hơn nữa câu vừa rồi hắn lại cười nhào trào phúng Kỷ Cương, các quan viên cạnh đó càng cảm thấy tức cười hơn, chỉ có điều muốn cười mà không dám cười, cố nhịn khổ sở vô cùng. 

Kỷ Cương quét mắt nhìn các quan, từ từ nói: "Con nhện này thật lý thú, tuy chân đi cà nhắc, vẫn có thể bắt côn trùng để ăn, đặc biệt là những con côn trùng tự cho là vỏ của mình cứng." 

"A, vậy sao? Ta ngược lại cảm thấy chưa chắc, nếu như bát được giáp xác nhỏ thì cũng có khả năng, nhưng mà rơi vào lưới nhện lại là một con chim vàng anh, thì kẻ xui xẻo chỉ sợ chính là con nhện này." 

Hai ngươi tranh hơi với nhau, các quan ngầm bội phục Dương Thu Trì vô cùng, bỡi vì hắn chính là người đầu tiên dám trực tiếp trào phúng Kỷ Cương như vậy. Biết tính của Kỷ Cương, họ tuy bội phục Dương Thu Trì, nhưng cũng ngầm lo cho hắn. 

Thời khắc thượng triều đã đến, từng lớp người từ từ ra khỏi phòng Cửu Khanh, bước lên dãy bậc thang dài bằng ngọc thạch, đi lên Cẩn thân điện.

Kỷ Cương và Dương Thu Trì đi ngang hàng ở phía trước, khi sắp đến nơi, Dương Thu Trì nói: "Kỷ đại nhân, bậc thầm ngọc thạch này hơi trơn, ngài đi cẩn thận chút nghe, một khi bị té coi chừng gãy luôn một chân nữa đó, như vậy thì ăn không được côn trùng, mà chỉ hưởng được gió bắc mà thôi, ha ha ha." 

Kỷ Cương có bao giờ chịu quá cái tức như vậy, khóe miệng thoáng nụ cười độc ác, hướng nhìn lên trên, kinh ngạc kêu lên: "Ơ! Thái tử điện hạ!" 

Dương Thu Trì có phần kinh ngạc, thái tử không cần thượng triều, sao hôm nay lại đến? Hắn ngước đầu nhìn, trên đó ngoài chấp đình cẩm y vệ, nào có bóng dáng thái tử gì? 

Chính vào lúc này, hắn chợt nghe một cổ kình phong đánh đến sau gáy, thầm kêu không xong, vội xoạc chân cúi đầu, cổ kình phong đó đi trượt sát da đầu, thì ra là quài trượng do Kỷ Cương đánh lén! 

Quài trượng này mang theo kình phong cực mạnh, nếu đánh trúng hậu não không chết cũng trọng thương. Dương Thu Trì tức giận, nhưng không chờ cho hắn có động tác gì, quài trượng thứ hai của Kỷ Cương đã đánh tới. 

Dương Thu Trì chẳng nghĩ ngợi gì, bước tránh sáng bên, đồng thời lắc người tới sau lưng Kỷ Cương, đánh một chưởng vào sau lưng y, móc chân ngáng đường. Kỷ Cương loạng choạng, quài trượng vuột khỏi tay, đầu dưới chân trên té lộn nhào xuống xuống bậc thềm thật cao bằng ngọc thạch giống như một cái hồ lô. Một cái răng của y bị va vào đá gãy vụn, mũi cũng bị dập, máu tươi chảy đầy. 

Kỷ Cương xuất thân từ nhà võ, lực khỏe vô cùng, mười tám ban võ nghệ đều tinh thông. Nhưng mà, y giỏi về cưỡi ngựa bắn cung khi hai quân đối địch, còn loại võ công đánh nhau đơn độc này không bằng, trong khi đó lại không tính toán được Dương Thu Trì dám phản kích, cũng như kỹ xảo phản kích khá cao, cho nên đã bị một vố trời giáng. 

Trong ba tháng này, Dương Thu Trì không hề ở không, từ khi bị Kỷ Cương vu khốn hãm hại, bị giam lỏng ở nhà gần cả chục ngày, để chuẩn bị chạy trốn, Liễu Nhược Băng đã bắt đầu chỉ điểm võ công cho hắn. Do trước đó Dương Thu Trì đã luyện tập nội công gần một năm với Tống Vân Nhi, đạt được một số thành công nhất định, hiện giờ lại có đệ nhất cao thủ đương thể chỉ điểm võ công, trong khi đó hắn bị giam lỏng ở nhà không có chuyện gì làm, nên suốt ngày khổ luyện, tiến bộ thần tốc. 

Sau đó, Dương Thu Trì phục nguyên quan chức, mỗi ngày đều nghĩ tới Kỷ Cương lúc trước vỗ một chưởng lên vai mình, suýt chút nữa là vỗ cho hắn tan xương, nên lòng vô cùng hổ thẹn, trong khi đó Liễu Nhược Băng không thể lúc nào cũng ở bên cạnh hắn, còn súng ngắn thì quá bá đạo, không thích hợp phòng thân, và chỉ còn bốn phát đạn... Cho nên vì bảo mệnh phòng thân, hắn chỉ còn cách cố gắng cắn răng khắc khổ tập luyện võ công. 

Tập luyện mấy tháng nay, tuy hắn bắt đầu muộn, căn cơ không ổn, chẳng thể thành cao thủ nhất lưu. Nhưng để đối phó vũ sư tầm thường, thậm chí đối phó với võ tướng giỏi tài cưỡi ngựa bắn cung cầm quân đánh trận này có thể coi là đủ dùng. Vì thế, Dương Thu Trì mới thành công tránh được cú đánh lén của Kỷ Cương, thậm chí phản kích thành công, đánh cho Kỷ Cương lăng xuống thềm như cái hồ lô, mặt mũi trầy sứt thê thảm. 

Các quan viên hầu hết đều bị Kỷ Cương chèn ép, có người còn bị Kỷ Cương hại qua, hiện giờ thấy Dương Thu Trì dạy cho y bài học như vậy, đều cảm thấy thống khoái. Có người to gan còn len lén cười, đại bộ phận coi như không thấy, len lén xoay đi cười thầm rồi tiếp tục leo lên bậc thềm nhập triều. 

Băng đảng của Kỷ Cương tranh nhau đỡ dìu y lên, có kẻ còn giương mắt trừng nhìn Dương Thu Trì, nhưng khi gặp ánh mắt băng lạnh đáp trả của hắn, đều vội vã cúi đầu. 

Kỷ Cương được đỡ dậy, lau máu ở mũi, đưa tay chỉ Dương Thu Trì: "Họ Dương kia! Giỏi! Giỏi lắm! Ngươi chờ đó mà xem!" 

Dương Thu Trì khoanh tay, mỉm cười đáp: "Ta không biết chờ, ta sẽ ra tay trước, Kỷ Cương, ngươi hãy rửa sạch cổ mà chờ chết đi! Ha ha ha." Trong tiếng cười lớn, hắn chuyển thân nhập triều. 

Trong buổi triều sớm, Kỷ Cương miệng mũi sưng vều, máu mũi còn chưa cầm được, dùng giấy lau loạn, răng bị gãy nên nói lọt hơi gió phều phào. Minh Thành Tổ thấy bộ dạng lang bái của Kỷ Cương như vậy, rất tức cười, hỏi nguyên do, Kỷ Cương chỉ nói vừa rồi mình tự bị té xuống thềm, giấu bén nguyên nhân chính đi. Dương Thu Trì hiểu rõ, y không muốn giống như con nít đánh thua rồi đi méc hoàng thượng, để rước thêm tiếng xấu. Điều này cũng cho thấy bản lãnh kềm chế của Kỷ Cương vô cùng cao thâm, không khỏi khiến Dương Thu Trì cảnh giác hơn. 

Bãi triều trở về Dương phủ, Dương Thu Trì đem chuyện này kể ra, chúng nữ đều cảm thấy thống khoái. 

Đang nói chuyện, có gác cổng vào báo là có người nhà của Đô đốc Tiết lộc đến thỉnh Dương Thu Trì đến đô đốc phủ. 

Dương Thu Trì hơi ngẩn người, vị đô đốc Tiết lộc này tuy hắn biết, nhưng không thân quen gì. Tiết lộc thèo Minh Thành Tổ lập chiến công hiển hách trong chiến dịch tĩnh Nạn, được phong làm chánh nhất phẩm hữu quân đô đốc, kiêm tả quân đô đốc phủ sự, tước là "Phụng thiên Tĩnh nạn thôi thành tuyên lực vũ thần đặc tiến vinh lộc đại phu trụ quốc dương vũ hầu" 

Từ phẩm trật mà giảng, thì y và Dương Thu Trì đều là tước Phụng thiên Tĩnh nạn hầu tước, phẩm trật tương đồng, nhưng thực chất, phẩm trật của Tiết Lộc là chính nhất phẩm, so với Dương Thu Trì cao hơn nhiều. Hai người không hề thâm giao, hiện giờ đột nhiên viết thiếp mời hắn đến làm khách ở đô đốc phủ, khiến Dương Thu Trì hơi bất ngờ. 

Nhưng mà, Dương Thu Trì đối với những vũ tướng liều mạng đánh giết lập nên công lao thế này bội phục vô cùng. Nếu như người ta đã chủ động mời, Dương Thu Trì đương nhiên muốn làm quen với ông ta, nên vui vẻ đáp ứng. Phùng Tiểu Tuyết chuẩn bị một phần lễ vật trọng hậu, Dương Thu Trì mang theo Nam Cung Hùng cùng các hộ vệ đến hầu tước phủ của Tiết Lộc. 

Cửa lớn hầu tước phủ mở toang, Dương vũ hầu Tiếc Lộc đích thân ra cửa đón, ôm quyền thi lệ: "Dương hầu gia đại giá quang lâm, Tiết mỗ vinh hạnh vô cùng, ha ha ha ha." 

Dương Thu Trì vội vã đáp lễ, Tiết Lộc bước tới đón, cầm tay Dương Thu Trì sánh vài tiến vào hầu tước phủ. 

Hai người ngày thường đã có gặp mặt trên triều, hiện giờ Tiết lộc lại thân thiết đặc biệt như vậy, khiến Dương Thu Trì hơi cảm động và cũng có phần ngạc nhiên. 

Đến phòng khách, thấy đã bày sẵn một bàn rượu thịnh soạn, ngoại trừ hai người hầu, bên cạnh không có ai khác. 

Dương Thu Trì càng ngạc nhiên hơn, xem ra yến tiệc hôm nay chỉ có một mình hắn, chẳng lẽ vị Tiết lộc này có gì đó cần phải lén nói với hắn hay sao? 

Không ngờ vị Tiết Lộc này rất biết giữ lời, sau khi nhường Dương Thu Trì ngồi ở ghế thủ tịch xong, hai người vừa nói lời khách sáo, vừa uống rượu. Tiết Lộc còn lệnh cho vũ cơ và ban nhạc đến ca múa giúp vui. 

Khi uống rượu ngà ngà, Tiết Lộc mới cho mọi người hầu lui hết, rót một chung rượu thở dài một tiếng, thần tình buồn bả vô cùng. 

Dương Thu Trì biết y khẳng định là có lời muốn nói, vội hỏi: "Đô đốc đại nhân, xin hỏi là vì cớ gì mà bi thương?" 

Tiết Lộc lại thở dài tiếp, đáp: "Tiết mỗ thân là nhất phẩm đô đốc, Dương vũ hầu, nhưng lại bị chánh tam phẩm cẩm y vệ chỉ huy sứ khi nhục, không dám như Dương hầu gia dám minh đao minh thương đối địch với tên Kỷ Cương đó, thật là thẹn với liệt tổ liệt tông a." 

Dương Thu Trì mỉm cười, xem ra vị đô đốc này cũng là một trong những người bị Kỷ Cương hại, nên hắn chờ nghe tiếp. 

Tiết Lộc nói: "Hôm nay thượng triều, thấy Dương hầu gia làm cho tên Kỷ Cương đó té ngã xuống ngọc đài, té đến mặt sưng mũi thủng như vậy, đến răng cũng hãy mấy chiếc, thật là thống khoái trong lòng a!" Nâng chung rượu lên, y nói: "Dương hầu gia vì Tiết mỗ mà tẩy nổi bực tức trong lòng, Tiết mỗ cảm kích vô cùng, nào nào, Tiết mỗ kính hầu gia một chung!" 

Dương Thu Trì cười ha ha, nâng ly lên uống cạn, hạ giọng hỏi: "Đô đốc đại nhân xem ra là đã bị tên Kỷ Cương đó khi nhục?" 

Tiết Lộ đáp: "Lời này nói ra dài lắm, mấy tháng trước, Tiết mỗ ngẫu nhiên ở Tịnh Thủy quán ngoài kinh thành nhìn thấy một vị đạo cô, tên là Hư linh tử, sắc đẹp tuyệt mỹ. Tiết mỗ yêu tiếc vô cùng, có ý lấy làm thiếp. Hư Linh tử cũng chấp nhận, cho nên ta cưới nàng nhập phủ. Không ngờ, Kỷ Cương không biết vì sao mà biết được tin này, nhờ người tìm đến yêu cầu ta nhượng Hư Linh tử, ta đương nhiên không chịu..." 

Dương Thu Trì tức giận nói: "Tên cẩu tặc Kỷ Cương này, từ trước đến giờ cứ không chịu để cho người ta hơn. Hắn lần trước chỉnh ta, một là đố kỵ năng lực của ta, hai là muốn bá chiếm hai mỹ thiếp của ta. Lão tử sớm muốn gì cũng phải thiến hắn!" 

Tiết Lộc nghe thế quả thật là đồng bệnh tương liên, cũng hùa mắng Kỷ Cương không ngớt. Hai người mắng một hồi, lòng vô cùng thống khoái, Tiết Lộc mới nói tiếp: "Kỷ Cương đòi tiểu thiếp của ta, bị ta cự tuyệt, không nói gì cả. Ta cũng cho là chuyện này coi như qua rồi. Không ngờ mấy ngày sau khi lên triều, giống như hôm nay hắn đánh lén Dương hầu gia ngài vậy, hắn cũng dùng thiết quài đánh lén ta, đánh cho đầu ta suýt vỡ ra, nằm liệt giường suốt hơn một tháng mới khỏi được." 

Dương Thu Trì kinh ngạc, không ngờ chiêu đánh lén ấy của Kỷ Cương là bản lãnh ruột của y, trước đây đã dùng qua với Tiết lộc, sáng này định dùng lại với hắn, nên hắn tức giận hỏi: 'Đô đốc đại nhân sao không đem chuyện này báo lên hoàng thượng?" 

Tiết Lộc lắc đầu, nhỏ giọng đáp: "Không được đâu, từ án Qua Mạn sao của Cảnh Thanh trở đi, Kỷ Cương và cẩm y vệ không biết đã hại giết bao nhiêu người. Hắn trước mặt hoàng thượng như mặt trời giữa trưa, ta làm sao chọc vào được. Ta nếu đi tố cáo với hoàng thượng là hắn trọng thương ta, chẳng qua là bồi chút tiền, nhưng ngầm bên trong chỉ sợ là không dễ chịu gì, ngày nào đó không chừng lại trở thành loạn đảng Kiến Văn, bị chém cả chín họ. Do đó... ai! Ta chỉ có thể ráng nhẫn nhịn cái tức này mà thôi..." 

Cảnh Thanh vốn là ngự sử đại phu của Kiến Văn đế. Sau khi Minh Thành Tổ đánh vào Nam Kinh, hân thưởng tài năng của ông ta, nên vẫn giữ lại cho làm ngự sử đại phu. Nhưng không ngờ Cảnh Thanh nhất mực muốn báo thù cho Kiến Văn đế, lợi dụng một lần lên triều lén giấu dao bén, chuẩn bị giết Chu Lệ, bị cẩm y vệ của Kỷ Cương tra ra, bị bắt đương trường. Chu Lệ tức giận, lệnh cho người lột da tra khảo Cảnh Thanh, thi thể treo ở cổng thành kỳ chúng, diệt luôn cả tộc, ngay cả lân cư ở cùng phường cũng bị liên lụy, bị giết hết cả thôn cả đường, khiến chỗ ấy biến thành chốn hoang. Đây chính là vụ "Qua mạn sao" (chém sạch nhà hang xóm. 

Từ đó trở đi, cẩm y vệ chính thức tạo lập "truyền thống quang vinh" giết những người liên quan nhưng vô tội. Sau này rất nhiều án đều vận dụng thủ pháp Qua mạn sao, nhắc đến là trên dưới trong triều đều cảm thấy tự nguy, trước khi thượng triều đều như sinh ly tử biệt, khi bải triều về đều bày yến tiệc mừng là mình còn sống. 

Dương Thu Trì đối với trò này của Kỷ Cương hiểu rất rõ, đương nhiên lý giải cách nghĩ của Tiết Lộc, nhưng cũng thầm nhủ, nếu như ngươi đã quyết định làm con rùa rúc đầu, còn tìm đến ta để làm gì? Thỉnh ta đến chẳng phải chỉ kể khổ, rồi biểu hiện ủng hộ về mặt tinh thần hay sao? 

Tiết Lộc lại thở dài: "Chuyện đó xảy ra không lâu, thì mỹ thiếp Hư Linh tử mới nạp của ta đã bị người... ban đêm lén vào trong phủ gian sát luôn rồi...." 

Dương Thu Trì giật mình cả kinh, dám tiềm nhập vào đô đốc phủ của Dương vũ hầu, gian sát thiếp thất của đô đốc đại nhân... xem ra chỉ có người của Kỷ Cương mới dám có cái gan này. 

"Khẳng định là người của Kỷ Cương làm rồi!" Dương Thu Trì hỏi: "Ngài không báo án sao?" 

"Ai! Điểm này dù có mù cũng nhìn ra được, ta cũng đến Ứng Thiên phủ báo rồi, trong nhà xảy ra án mạng, sao không đi báo chứ. Tuy nhiên ta cũng biết, đây khẳng định là người của Kỷ Cương làm, nhưng không hề có bằng chứng xác thực, thì làm gì được hắn đây?" 

Điều này cũng phải, Dương Thu Trì hỏi: "Lúc đó phủ doãn của Ứng Thiên phủ là Cố đại nhân phải không? Kỷ Cương khi vu hãm ta, cũng vu hãm luôn ông ấy, bị lăng trì xử tử rồi. Chẳng lẽ đấy có một phần nguyên nhân từ chuyện ông ấy tra án này?" 

"Không phải đâu, Cố phủ doãn chỉ khám sát hiện trường xong rồi không có lời gì tiếp theo. Ta cũng từng hỏi riêng ông ấy, nhưng ông ấy ấp úng nói là đang tra, bảo ta kiên nhẫn chờ. Nhưng ta biết, Cố phủ doãn khẳng định là biết không chọc vào Kỷ Cương được, cho nên không thật tình điều tra. 

Dương Thu Trì gật gật đầu, mỉm cười hỏi: "Đô đốc đại nhân hôm nay thỉnh ta tới, nhất định là muốn ta tra án này, đúng không?" 

Tiểu Lộc chấp tay nói: "Trong buổi triều sớm hôm nay, ta thấy hầu gia dám trước mặt mọi người chèn ngã Kỷ Cương, quả nhiên là anh hùng. Án người thiếp Hư Linh Tử của ta bị giết đến giờ vẫn còn treo ở nha môn Ứng Thiên phủ, hầu gia phá án như thần, điểm này người trên kẻ dưới ở kinh thành không ai không biết. Cho nên, tiết mỗ to gan thỉnh cầu hầu gia đến đây, đích xác là muốn thỉnh hầu gia phá án này, báo thù cho người thiếp của ta, cũng là hả cái giận trong lòng ta." 

Dương Thu Trì nói: "Nếu như Ứng Thiên phủ thụ lập án này, bổn quan là Ứng Thiên phủ doãn, tự nhiên là thuộc phạm vi quản lý của ta. Ta với Kỷ Cương có mối thù bất cộng đái thiên, đang kiểm soát điều tra Kỷ Cương đang thực hiện những chuyện phạm pháp làm loạn kỷ cương. Hiện giờ cộng thêm án mạng xảy ra trong phủ của đô đốc đại nhân, chín phần mười là do Kỷ Cương hắn làm, cho nên lần này Dương mỗ sẽ lấy án này hạ thủ, chuyện công cũng được, chuyện tư cũng được, dù gì thì lão tử cũng nhất định khiến cho Kỷ Cương biết tay." 

Tiết Lộc mừng rỡ, đứng dậy vái dài một cái: "Dương hầu gia, ngươi và ta đồng là cừu địch. Sau này nhất định cộng mưu tiến thối. Tiết mỗ nhất định hết mình tương trợ hầu gia, thề chết chu toàn với Kỷ Cương cho tới cùng!" 

"Được!" Dương Thu Trì cao hứng, vị chánh nhất phẩm ngũ quân đốc này không phải người thường, có thêm một vị đô đốc có uy có quyền làm chiến hữu, cuộc đấu tranh với Kỷ Cương sẽ có thêm phần thắng. Hắn đứng dậy: "Chúng ta cứ định như vậy đi! Ông và ta cùng cộng mưu tiến thối, thề chu toàn với Kỷ Cương cho tới cùng!" 

Tiếp theo đó, Dương Thu Trì lệnh cho Nam Cung Hùng trở về phủ lấy rương pháp y vật chứng đến cho hắn. Thời gian chờ đợi rảnh rỗi sau đó, hắn cùng Tiết Lộc đến chỗ Hư Linh Tử tiến hành điều tra sơ bộ. 

Sự tình đã trải qua mấy tháng, thi thể đã nhập táng rồi. Tiết Lộc yêu thương vị mỹ thiếp này, cũng hy vọng một ngày nào đó có thể bắt được chân hung, báo thù rửa hận, do đó nhất mực bảo lưu tình trạng ban đầu. 

Tiết Lộc kể kỹ lại sự việc đã xảy ra. Đó là vào ngày 3 tháng chín năm rồi, ngày đó đến lượt một thiếp thất khác hầu hạ, Tiết Lộc qua đêm ở phòng của người thiếp đó. Qua ngày hôm sau, nha hoàn hoảng loạn chạy về báo, người thiếp mới Hư Linh Tử đã chết rồi. 

Tiết Lộc mặc vội y phục chạy vội đến xem, phát hiện hai thiếp thân tỳ nữ hầu hạ Hư Linh Tử bị giết ở ngoài, đều nằm gục trên giường, ở cổ bị chém một đao, máu chảy đầy cả sàn nhà. 

Thi thể của Hư Linh Tử nằm dưới đất trong phòng, trần truồng không một mảnh vải, hai mắt mở to, cằm bị bẻ trẹo, vú trái có cắm một mũi trủy thủ, đã chết nhiều giờ rồi. Ở bộ phận sinh dục và thảm ở dưới đất phát hiện chất dịch nhầy màu trắng, ắt là tinh dịch của hung thủ. 

Dương Thu Trì hỏi thanh chủy thủ đó, biết được là đã bị Cố phủ doãn khi khám sát hiện trường lấy đi làm vật chứng rồi. 

Do hiện trường đã bị bộ khoái của Ứng Thiên phủ khám sát, dấu vết bị phá gần hết, không biết là còn dấu vết có ích gì lưu lại hay không. Nghe Tiết Lộc giới thiệu, Dương Thu Trì nói: "Ta trước hết khảo sát qua hiện trường cho kỹ, sau đó sẽ tiến hành khai quan nghiệm thây thi thể của Hư Linh Tử và hai nha hoàn." 

Tiết Lộc không hề do dự gật đầu: "Chỉ cần có thể phá án, báo cừu cho ái thiếp của ta, hầu gia muốn làm gì cũng được." 

Tiết Lộ từ mười sáu tuổi đã theo yến vương Chu Lệ làm kỵ binh tuần vệ Yến sơn. Trong chiến dịch Tĩnh nạn, ông ta theo Minh Thành Tổ chinh chiến sa trường, lập nhiều chiến công, từ một tiểu binh thăng lên làm đô đốc ngũ quan, phong thành Dương vũ hầu, không chết ở tay địch nhân trên chiến trường, mà suýt chết về tay Kỷ Cương trong hoàng cung bằng một gậy vỡ đầu. Hơn nữa, tiểu thiếp của ông ta còn có khả năng là chết thảm dưới tay thủ hạ của Kỷ Cương, điều này khiến Tiết lộc vô cùng thù hận với con người này. Nhưng mà, Tiết Lộ giỏi về đánh trận, chứ sử dụng âm mưu quỷ kế chốn sa trường thì không thể. Vì tính mệnh của người nhà, cho nên ông ta không dám đắc tội hồng nhân hiện tại trước mắt hoàng thượng là Kỷ Cương, chỉ có thể chôn giấu cừu hận vào lòng. 

Hôm nay lên trêều, ông ta thấy Dương Thu Trì ở trước mặt mọi người giáo huấn Kỷ Cương một trận, không khỏi cảm thấy thống khoái, nghĩ đến có hi vọng báo thù, nên lập tức mời Dương Thu Trì đến làm khách. Hiện giờ Dương Thu Trì đã đáp ứng tra án, khiến ông ta càng mừng rỡ hơn. 

Đến lúc này, Nam Cung Hùng đã mang rương pháp y của Dương Thu Trì đến. Tống Vân Nhi nghe nói Dương Thu Trì muốn tra án, cái đuôi nhỏ này khẳng định là đến theo. 

Sau khi gặp nhau, Dương Thu Trì giới thiệu hai bên, Tiết Lộc cũng nghe nói lần trước Kỷ Cương hãm hại Dương Thu Trì, chính là tiểu thiếp này đã phối hợp với thái tử để tìm hiểu trắng đen, lật án oan và lấy lại sự công bằng cho hắn. 

Tiết Lộc đương nhiên bội phục phi thường, tán thưởng Tống Vân Nhi luôn miệng. Đường đường là một chánh nhất phẩm ngũ quân đô đốc đại nhân lại khen ngợi một cô gái nhỏ như vậy, Tống Vân Nhi đắc ý vô cùng. Chỉ có điều, hiện giờ nàng hứng thú với án này hơn, lần trước phá án làm nàng cảm thấy thống khoái, lần này rất muốn lộ thêm chút thân thủ. 

Dương Thu Trì thấy Tống Vân Nhi ra vẻ rất mong thử sức, mỉm cười bảo: "Vân nhi, án này xem ra không đơn giản, nhân vì phạm vi hiềm nghi rất rõ ràng, chính là trong phạm vi của cẩm y vệ. Muội đi dùng những gì đã học về khám sát hiện trường xem coi có kéo hung thủ ra ánh sáng được không, để rồi chúng ta sẽ tìm ra chân hung chỉ sử phía sau, coi có phải đó là tên cẩu tặc Kỷ Cương không." 

Tống Vân Nhi cao hứng phi thường, gật đầu khen phải lia lịa. 

Tiết Lộc đem tình hình kể lại cho nàng, lại đưa ra vị trí đại khái của thi thể lúc trước, sau đó bỏ đi, để lại hai người chuyên tâm làm việc. 

Tống Vân Nhi xem xét cẩn thận vị trí của thi thể, rồi tìm kiếm xung quanh phòng, sau đó nói: 'Căn cứ lời Tiết Lộ, khi bọn họ đến thì phòng bị khóa bên trong, nhưng cửa sổ sau mở, cho thấy hiển nhiên hung thủ lẻn vào đô đốc phủ, từ cửa sổ sau tiến vào phòng Hư Linh Tử hành hung giết người." 

"Vậy chúng giết ai trước? Giết Hư Linh Tử trong phòng trước, rồi ra ngoài giết hai nha hoàn?" 

Tống Vân Nhi ngẫm nghĩ, lắc đầu đáp: "Không đúng, y đáng ra phải giết hai thị nữ ở gian ngoài trước, sau đó mới trở vào phòng, kềm chế Hư Linh Tử, bóp trẹo quai hàm để không thể kêu la, sau đó tiến hành gian dâm, cuối cùng mới dùng chủy thủ giết người diệt khẩu." 

"Có đạo lý, nhưng mà chúng ta hiện giờ quan trọng nhất không phải là đoán làm sao gây án, mà căn cứ vào dấu vết xác định hung thủ là ai, sau đó bắt trị tội." 

Tống Vân Nhi sờ cằm, hơi đắn đo: "Dấu vết trong phòng này xem ra đã bị bọn bộ khoái làm loạn hết rồi, vậy còn có thể tìm được dấu vết gì nữ chứ?" 

Dương Thu Trì mỉm cười: "Làm loạn rồi thì là một chuyện, dấu vết còn tồn tại hay không là một chuyện khác. Làm loạn không có nghĩa là dấu vết không còn nữa, cẩn thận tìm kiếm vẫn có thể tìm được." 

Nghe lời này, Tống Vân Nhi gật đầu, ngẫm nghĩ một lúc, nói: "Chúng ta cần khai quan nghiệm thi, tra xét vết thương hung thủ lưu lại lên cơ thể của nạn nhân, căn cứ vào vết thương mà đoán ra hung khí hung thủ dùng để ra tay, từ đó có thể suy ra điểm đặc biệt gì đó của hung thủ." 

"Ừ. Cách làm này rất chính xác, nhưng mà đó là chuyện thuộc về khai quan nghiệm thây, còn bây giờ chúng ta đang khám tra hiện trường, phương diện này có công tác gì nên làm hay không? Hay là nói khác đi, hung thủ ở hiện trường này liệu có lưu dấu vết gì có thể khiến chúng ta tìm ra hắn được hay không?" 

Tống Vân Nhi ngẫm nghĩ, đột nhiên hai mắt sáng rực lên: "Muội nhớ lúc trước khi ca phá án gian sát đều kiểm nghiệm cái... cái ấy của hung thủ lưu lại, đây có phải là một trong những dấu vết có thể phát hiện ra gì đó hay không?" 

"Rất tốt, cách làm này rất đúng, những án gian dâm thì phạm nhân đều để lại trong âm đạo, bên trong hai đùi của người bị hại, trên đất hoặc là trên giường cái gọi là tinh... hắc hắc, cái quỷ đó đó. Chúng ta cần phải tìm thấy nó, những thông tin mà nó cung cấp cho chúng ta rất hữu dụng, có lúc thậm chí trực tiếp báo cho chúng ta biết hung thủ rốt cuộc là ai. Nó là một vật chứng chứng minh phạm tội và manh mối điều tra vô cùng trọng yếu đó." 

Tống Vân Nhi cúi đầu nhìn ngó, trong phòng này được trải bằng thảm rất dài, không khỏi mừng rỡ nói: "Vừa rồi Tiết Lộc nói người bị hại nằm trên mặt đất, cho thấy vụ gian dâm này có khả năng là tiến hành trên thảm, như vậy cái thứ đó ắt còn tồn lưu trên thảm rồi!" 

"Ừ, chúng ta tìm thử coi!" 

Tống Vân Nhi đến vị trí Hư Linh Tử nằm chết tiến hành quan sát thật kỹ, đột nhiên mắt sáng rực lên, chỉ vào một dấu vết mờ mờ màu vàng nhạt, đỏ mặt hỏi: "Có phải là cái này không?" 

Nàng ta đã lấy Dương Thu Trì đã gần nửa năm rồi, đối với những thứ lưu lại khi hành phòng của nam nhân cũng đã bắt đầu rành rẽ, nhưng nàng dù sao cũng mới mười sáu, nói đến chuyện này nhiều ít gì cũng còn e thẹn. 

Dương Thu Trì cúi người quan sát: "Đặc điểm ngoại hình thì rất giống, chờ lúc ta kiểm tra lại. Nếu là đúng, tiếp theo chúng ta nên làm thế nào?" 

Đối với vấn đề này, Tống Vân Nhi không có ý gì, bỡi vì kiểm nghiệm một vết tinh trùng liên quan đến tri thức hiện đại, Dương Thu Trì không dạy cho nàng, nàng không thể nào biết được. 

Dương Thu Trì nói: "Như vầy đi, muội ra bên ngoài chờ ta. Ta kiểm nghiệm xong, cho nàng biết mấu chốt của vấn đề, muội sẽ căn cứ vào dấu vết này mà điều tra tiếp, có được không?" 

Tống Vân Nhi gật đầu. Nàng tuy muốn học cái gì gọi là kiểm nghiệm, nhưng nếu như Dương Thu Trì không chịu dạy, thậm chí không cho nàng ở bên cạnh xem, dù sao cũng có đạo lý của hắn. Theo Dương Thu Trì đã lâu, nàng biết tính hắn, những sự tình mà Dương Thu Trì quyết định không dễ gì cải biến. Nếu như có thể nói cho nàng hay, Dương Thu Trì đương nhiên là sẽ nói. 

Tống Vân Nhi ra ngoài cửa, đóng cửa lại. 

Dương Thu Trì lấy một cái đèn chiếu tia cực tím từ trong rương pháp y ra, chiếu xạ đối với vệt tinh nghi ngờ đó. Quả nhiên, vết đốm này có màu huỳnh quang đượm ánh sáng trắng nhẹ, từ đó sơ bộ xác định nó chính là vết tinh dịch khô. 

Dương Thu Trì dùng kéo cắt miếng thảm có chứa vết hoài nghi là tinh dịch này, dùng dung môi trypsin (*) để tiến hành phân giải ly tâm, rồi lấy chất trầm lắng đưa lên nhiễm sắc đồ kiểm tra, quả nhiên là thấy được tinh trùng chết, xác định đó là vệt tinh. (Xem thêm chú thích ** về một số quy trình kiểm nghiệm các vụ hiếp dâm của pháp y). 

Điều làm cho hắn cả kinh chính là, khi kiểm tra trên kính hiển vi, hắn bất ngờ phát hiện khuẩn cầu gonorrhoea gây bệnh lậu. Điều này cho thấy, hung thủ có khả năng là nhiễm bệnh lậu này, và đây là một manh mối điều tra trọng yếu. 

Dương Thu Trì tiếp đó dùng thí nghiệm phát hiện vết tinh trùng có nhóm máu A. 

Kiểm nghiệm hoàn tất, hắn thu thập thiết bị, gọi Tống Vân Nhi vào. 

Tống Vân Nhi thấy Dương Thu Trì có vẻ hưng phấn, lập tức đoán là khẳng định có phát hiện gì đó. Dương Thu Trì nói: "Kinh qua kiểm nghiệm, xác định vết tích để lại chính là vệt tinh do khi hung thủ gian dâm Hư Linh Tử để lại. Hơn nữa, thông qua kiểm nghiệm tinh dịch, ta phát hiện hung thủ còn mắc bệnh hoa liễu, cho thấy tên này khẳng định là thường ra vào chốn phong hoa, cho nên đó là những chỗ mà chúng ta nên điều tra trọng điểm."

Tống Vân Nhi cũng rất cao hứng, nhưng tiếp theo đó lại nhíu mày: "Cẩm y vệ trong kinh thành có hơn cả vạn người, chỉ sợ là hơn phân nửa đều đã đến chốn này, chúng ta làm sao mà biết là ai chứ?" 

"Đích xác là như thế, nhưng mà, trong thời gian này người bị mắc bệnh hoa liễu không nhiều. Cẩm y vệ ở Nam, Bắc trấn phủ ti đều có lang trung trong quân trị bệnh miễn phí. Chúng ta chỉ cần tìm được sổ chữa trị lúc đó, có thể tìm tra ra được ngay." 

"Đúng a!" Tống Vân Nhi vui mừng reo lên, "Muội sao mà không nghĩ ra điểm này chứ, hi hi, ca ca thật thông minh!" 

"Ha ha, đây chỉ là một manh mối, có thể phát hiện được hung thủ hay không còn chưa chắc, hãy tra trước rồi tính." 

"Vậy khai quan nghiệm thi thì sao? Có cần phải làm không?" 

"Đương nhiên là cần, chúng ta trở về phối hợp với Mã Độ và Ngưu Đại Hải nhờ đi điều tra tình huống điều trị bệnh hoa liễu trong cẩm y vệ vào tháng chín năm rồi. Sau đó, chúng ta đến nha môn của Ứng Thiên phủ, lấy tài liệu báo án khi đó, và thanh chủy thủ ấy nữa, cuối cùng mới khai quan nghiệm thây." 

Thương lượng xong xuôi, Dương Thu Trì báo cho Tiết Lộc biết đại khái khoảng một canh giờ sau hắn sẽ quay lại khai quan nghiệm thây, nhờ ông ta phái người đi khai quật mộ phần chờ trước. Sau đó, hắn dẫn Tống Vân Nhi cáo từ rời khỏi Tiết phủ, thẳng tới Nam trấn phủ ti, dặn dò những việc cần làm cho Mã Độ và Ngưu Đại Hải xong, rồi lập tức đến nha môn của Ứng Thiên phủ. 

Dương Thu Trì tuy kiêm nghiệm phủ doãn của Ứng Thiên phủ, nhưng thời gian từ trước tới nay công tác chủ yếu đều đặt trọng tâm ở cẩm y vệ Nam trấn phủ ti, công chuyện bên này thường ngày giao cho hai vị Kim và Long sư gia cùng đồng tri và các quan phó lo liệu. 

Đến phòng thiêm áp của nha môn, đồng tri của Ứng Thiên phủ là Huân đại nhân vui mừng nghênh tiếp, "Dương đại nhân, ngài đến rồi. Trong nha môn có công việc chất chồng đang chờ ngài đến quyết định đây." Nói xong, lớn tiếng kêu gọi, các vị quan lại đều chạy tới, mỗi người ôm một đống hồ sơ văn tập đến chào mừng hắn. 

Dương Thu Trì nhíu mày lật lật, cũng không xem kỹ, đoán đây đều là những chuyện chính vụ, đầu liền đau như búa bổ: "Những chuyện này ta chẳng phải là để ngươi quyết định rồi hay sao?" 

Huân đồng tri bối rối cười: "Đại nhân, trên đây là những công văn mà cấp trên phát xuống, liên quan đến lần tuyển tú nữ tiến cung kỳ này, chọn như thế nào phải chờ đại nhân ngài đến quyết định. Còn nữa, ở dưới là những báo trình phê duyệt các án tử hình, phải trình lên Hình bộ, phải thông qua quan viên chưởng ấn mới có quyền quyết định a." 

Những án tử hình thì Dương Thu Trì biết đích xác là bản thân phải thẩm duyệt ký phát, còn cái đầu thì hắn không hiểu, hỏi: "Tuyển tú nữ? Là chuyện gì thế?" 

"Đại nhân, hoàng thượng ngự phê là các tỉnh trong toàn quốc phải tuyển tú nữ tiến cung, đều có số lượng yêu cầu, phân đến chỗ chúng ta đấy, tổng cộng đến hai trăm người. Tuyển như thế nào thì phải chờ ngài quyết định mới được a." 

Dương Thu Trì nhớ lại, thời gian trước nhân vì Hiền phi nương nương bị hại, Kỷ Cương tham công gây ra án oan và cố tình vu oan hãm hại, Minh Thành Tổ đã đại khai sát giới, tổng công giết hơn ba nghìn cung nữ và thái giám trong cung, trong đó tuyệt đại bộ phận là cung nữ, còn bao quát cả một số phi tần. Trong cung hiện giờ "nhân viên" thiếu hụt rất khẩn trương, đương nhiên cần phải tiếp tục tuyển người đẹp mới! 

Dương Thu Trì hỏi: "Cái này trước đây thường làm thế nào?" 

"Đều theo số lượng mà phân đến các hạt các huyện, do lý chánh và tri huyện án chiếu số lượng gấp ba lần thế mà tuyển đưa đến nha môn chúng ta, rồi sẽ do phủ doãn đại nhân án chiếu số lượng đó tuyển chọn lại còn phân nửa, sau đó chuyển tới chỗ của cẩm y vệ chỉ huy sứ Kỷ đại nhân, do ông ta dựa theo tiêu chuẩn và số lượng yêu cầu mà lựa chọn lại lần cuối cùng." 

"Cái gì?" Dương Thu Trì cả kinh hỏi: "Kỷ Cương quyết định? Hắn mà biết cái quái gì? Chuyện tuyển tú nữ nữ quan tiến cung có liên quan quái gì đến cẩm y vệ của hắn? Hắn muốn làm cái trò con heo gì ở đây chắc...?" 

Huân đồng tri cười hề hề cầu tài liên tục. Y biết hai vị lĩnh tụ tối cao của cẩm y vệ là Dương Thu Trì và Kỷ Cương đang ở thế như nước với lửa, nhất mực đánh đấu kềm chế nhau, do đó khiến y cùng các thuộc hạ bên dưới cũng khó xử vô cùng. Khó khăn lắm mới chờ cho Dương Thu Trì dậm chân múa tay mắng thống khoái xong, y mới hạ giọng cười nói tiếp: "Đại nhân, các vùng trên toàn quốc đều tuyển tú nữ đưa đến chỗ Kỷ chỉ huy sứ, do ông ta tuyển chọn lần cuối, cái này... cái này là do hoàng thượng hạ chỉ quyết định như vậy...." 

"Cái gì?" Dương Thu Trì lại kêu lên cả kinh, "Hoàng thượng định? Cái này..." Cái này thì hắn không dám bình loạn, ngẫm nghĩ một lúc xong nói: "Nếu như là hoàng thượng định, thì cứ thế mà làm, cứ theo quy củ đi, chờ tú nữ được tuyển xong, bổn quan sẽ tự thân tuyển chọn." 

Chuyện tuyển mỹ nữ này hắn cũng đã từng tham gia, trước khi xuyên việt đến đây cũng đã từng đi chơi đêm đến quán rượu sản nhảy hoặc karaoke này nọ. Ở những chỗ ấy, các má mi đều sẽ dẫn một đội hoa khôi đến cho bọn hắn tuyển. Thật không ngờ, đến Minh triều rồi cũng còn phải tuyển, hơn nữa lại tuyển mấy trăm mỹ nữ đưa vào cung, công tác này quả thật là có ý nghĩa a! 

Huân đồng tri vội gật đầu đáp ứng, thưa: "Đại nhân, hôm trước vừa được tin nói rằng trong kinh thành và các hạt đã tuyển gần đủ tú nữ rồi, chỉ một hai ngày nữa là đến chỗ chúng ta, ngài thấy..." 

"Đến rồi thì báo cho ta ngay, đây là chuyện của hoàng thượng, không thể để trễ nãi a!" 

"Dạ!" Huân đồng tri gật đầu đáp ứng. 

Dương Thu Trì lại lấy một xấp công văn án kiện chờ phúc xử tử hình, mở ra một bổn, chỉ xem trong vòng uống cạn chung trà đã nhướn mày, vỗ bàn quát hỏi: "Án này ai làm đây? Quả thật là bậy bạ quá mà!" 

"Là.... là phủ doãn tiền nhiệm Cố đại nhân xử đó." 

"Cái gì?" Dương Thu Trì lại kêu lên một tiếng cả kinh, hơi bối rối. Cố phủ doãn là đàn anh của hắn, lần này lại bị Kỷ Cương vu hãm mà bị lăng trì xử tử, mắng ông ta quả thật là không hay rồi. Nhưng mà, án trong tay hăn đây là án gian phu dâm phụ bỏ độc giết chồng, tình tiết vô cùng thô bậy, chỉ cần khẩu cung của hai phạm nhân mà đã phán tử hình, cực kỳ giản đơn. Đương nhiên, chứng cứ như thế trong thời cổ đại lấy "khẩu cung làm vua chứng cứ" thì hoàng toàn có thể định án. Nhưng kinh qua hơn một năm đụng chạm với thực tế tư pháp thời cổ đại, và đặc biệt là lần ngược sát trong cung đình vừa rồi, Dương Thu Trì cảm nhận sâu sắc chuyện này có tệ đoan như thế nào. 

Dương Thu Trì lại lật duyệt các quyển án phán tử hình khác, tất cả đều tồn tại vấn đề, không khỏi nhíu mày. Không được, phải cần điều tra lại, tra rõ rồi mới báo lên trên, nếu không, làm sai những án này, lỡ oan lần ra hắn xử bậy, thì sẽ náo loạn và không chừng là cớ của Kỷ Cương hại chớ không chơi. 

Nhưng mà hiện giờ hắn không có thời gian tra những án này, chỉ còn có cách kéo dài thời gian, dù gì thì chúng đã bị kéo dài quá lâu rồi. Hắn muốn tra rõ án tiểu thiếp Hư Linh Tử của Tiết đô đốc bị giết trước, dùng án này để lật hết tội đối phó với Kỷ Cương, diệt trừ tên cẩu tặc này, hắn mới an tâm tra những án khác. Nếu không, trong khi hắn đang ở phía trước xung phong diệt địch, thì Kỷ Cương ở phía sau đâm bị thóc chọc bị gạo, lấy giầy em bé cho hắn mang, vu cáo hãm hại lần nữa thì hắn nhất định không còn đủ vận may để bảo toàn mạng sống của bản thân và gia đình dòng họ đâu. 

Thực ra, trong quy trình kiểm tra pháp y liên quan đến các vụ hiếp dâm có rất nhiều bước nhỏ và phức tạp: 

I - Thăm khám về tinh thần, lấy thông tin chung (nếu nạn nhân còn sống) 

II- Thăm khám về vật lý: Mục đích của thăm khám vật lý là để phát hiện những thương tổn cần phải điều trị, cũng như ghi chép và thu lượm những chứng cớ pháp ý để truy tố kẻ hãm hiếp. Một thăm khám toàn bộ từ đầu đến chân sẽ được thực hiện dầu cho bệnh nhân có tán thành việc thăm khám để tìm chứng cớ (evidenciary examination) hay không. Bao gồm:

- Những thương tổn không thuộc bộ phận sinh dục, thường là những vết trầy da nhỏ hoặc những vết bầm, thường xảy ra nhiều hơn là những thương tổn ở bộ phận sinh dục. Các bệnh nhân nên được thăm khám cẩn thận để tìm bằng cớ về những vết xây xát (scratches), những vết bầm (bruises), những vết rách (lacerations), những dấu răng cắn (teeth marks), hoặc những dấu chứng tổn thương khác. 

- Khám phụ khoa: bao gồm việc tìm kiếm tỉ mỉ những vết bầm, vết chợt, vết rách, nơi xuất huyết, hoặc các vùng nhạy cảm đau lúc sờ. Đèn Wood sẽ phát huỳnh quang hầu hết các chất nhuộm tinh dịch, và thuốc nhuộm xanh toluidine sẽ phát hiện các vết rách nhỏ do chấn thương ở bộ phận sinh dục. Thăm khám soi âm đạo (colposcopic examination) có thể nhận diện những thương tổn ở cổ tử cung. Thăm khám cẩn thận trực tràng trong trường hợp giao hợp bằng đường trực tràng và nếu có máu, thực hiện thăm khám soi hậu môn (anoscopy) hoặc soi kết tràng xích ma (sigmoidoscopy) để nhận diện những thương tổn nội tại. Điều quan trọng là toàn bộ niêm mạc âm đạo phải được nhìn thấy để loại bỏ những vết rách sâu kín (occult laceration) (đặc biệt là khi có xuất huyết âm đạo nhưng không thể xác định nguồn xuất huyết). Túi cùng âm đạo sau (cul-de-sac vaginal postérieur) phải được kiểm tra sau khi đặt mỏ vịt để xác định sự hiện diện của các chất dịch nếu có. Các chất dịch này phải được hút và đặt trong một vật chứa vô trùng và sẽ được xét nghiệm tìm tinh dịch, phosphatase acide và các kháng nguyên của nhóm máu. 

- Các mẫu nghiệm để phát hiện tinh trùng hoặc tinh dịch có thể được sử dụng làm chứng cớ chứng tỏ việc tiếp xúc sinh dục (sexual contact) và để nhận dạng kẻ hãm hiếp bằng kiểm nghiệm DNA. Các mẫu nghiệm ở âm đạo, miệng và trực tràng nên được thu thập nếu có thể được. Các chất tinh dịch đọng trên da nên được thu thập: đèn Wood sẽ phát huỳnh quang các chất nhuộm tinh dịch. Nên thu thập các mẫu nghiệm về bất cứ vật lạ nào cũng như quần áo nạn nhân đã mặc. Các mẫu nghiệm nước miếng và tóc nên được thu thập để so sánh với các mẫu nghiệm nước miếng lấy từ da của nạn nhân và với tóc rụng được tìm thấy nơi xảy ra tội phạm hoặc trên nạn nhân. Các bản kính ướt có thể được khảo sát để tìm các tinh trùng di động. Nếu bệnh sử gợi ý một trường hợp hãm hiếp có sử dụng ma túy để làm dễ (drug-facilitated rape), có thể cần những mẩu nghiệm nước tiểu để thử nghiệm độc chất học (toxicologic testing). 

Nhìn chung, quy trình thử nghiệm tổng quát để lấy chứng cớ ghép tội phạm nhân đối với các vụ hãm hiếp bao gồm: 

a/ Trắc ngiệm thai nghén nếu nạn nhân đã có kinh 

b/ Chứng cớ của việc tiếp xúc sinh dục, gồm 2-3 mẫu nghiệm từ mỗi vùng bị chấn thương do hãm hiếp để tìm các chất sau đây: 

- Tinh trùng (di động / không di động) 

- Acid phosphatase (được tiết ra bởi tuyến tiền liệt, thành phần của tinh dịch) - P30 ( glycoproteine của tuyến tiền liệt hiện diện trong tinh dịch) 

- Các kháng nguyên của nhóm máu 

c/ Chứng cớ để chứng minh thủ phạm : 

- Vật lạ trên quần áo. 

- Tóc khả nghi không phải của bệnh nhân 

- Trắc nghiệm DNA 

Dương Thu Trì ra lệnh hoãn các án tử hình này lại, chờ hắn thu xếp thời gian xong sẽ thẩm tra cẩn thân, sau đó cho đưa hồ sơ án Hư Linh Tử bị giết lên. 

Hình phòng thư lại của nha môn nhanh chóng đem hồ sơ trình lên Dương Thu Trì. Nó được bọc bằng một bì thư lớn, nhìn là thấy bên trong chẳng có gì nhiều. Dương Thu Trì mở bì thư, đổ những thư bên trong ra bàn. 

Bên trong có một chủy thủ dính máu màu vàng nhạt, mấy giấy làm chứng, và một bản thi cách. 

Dương Thu Trì trước hết cúi đầu quan sát kỹ mũi chủy thủ, thấy nó là một con dao có hai lưỡi, ở giữa có lỗ thoát máu, dấu máu vàng nhạt nằm ở đầu phía trước chủy thủ, mũi dao nhỏ, và để đề phòng hoạt động ma sát, cán dao được quấn bằng một dãy dây thô màu hồng. 

Cái này để lại từ từ sẽ kiểm tra, Dương Thu Trì trước hết cầm lấy thi cách xem. Thi cách thời cổ đại tuy có rất nhiều điều cần ghi, nhưng yêu cầu lại không chi tiết, ghi chép vô cùng sơ sài. Chỉ đơn giản ghi lại những điều như thời gian phát án, địa điểm, thân phần người chết, tình huống tử vong, kiểm tra ngoài da và sự làm chứng của quan lại, ngỗ tác và người chứng kiến. 

Nội dung kiểm tra thể biểu được Dương Thu Trì quan tâm nhất, nhưng chỉ có một hàng: "Phía ngực trái có cắm một chủy thủ." Lời này quá đơn giản, vị trí vết thương cụ thể thế nào, hình trạng ra sao, đồ dài hay nông sâu đều không có. 

Rồi hắn xem tiếp những lời làm chứng, đều là những lời chứng của nha hoàn phát hiện thi thể, những câu hỏi trả lời cũng quá đơn giản, bao gồm sáng ngày ấy, nha hoàn hầu ngoài phòng thấy bên trong phòng nhất mực không có động tĩnh, liền gọi cửa, thấy cửa bị khóa từ bên trong, bèn đến cửa sổ sau, phát hiện bị mở ra, nhìn vào trong, thấy vị phu nhân mới đã bị giết rồi. Điều này nhất trí với những gì Tiết Lộc kể. 

Những lời làm chứng khác cũng không có giá trị gì. 

Tuy mũi chủy thủ đó có dấu tay, nhưng rất tiếc là đã bị bọn bộ khoái thu nhặt làm loạn cả. Tuy nhiên, Dương Thu Trì vẫn theo tập quán dùng khăn tay bao chủy thủ lại bỏ vào bì thư, sau đó bỏ lời làm chứng và thi cách vào luôn, giao cho Tống Vân Nhi bảo quản, chuẩn bị về nhà xong sẽ tiến hành nghiên cứu cẩn thận mũi chủy thủ này. 

Tiếp theo đó, Dương Thu Trì ra lệnh cho gọi các bộ khoái tham gia khám tra hiện trường ngày đó vào, lấy dấu tay của mỗi người. 

Làm xong hết thảy chuyện này, bước tiếp theo là khai quan nghiệm thi rồi. Tiết Lộc nhất mực phái người theo đến nha mông của Dương Thu Trì, chờ hai người bận bịu xong, dẫn đến mộ địa an táng Hư Linh Tử và hai nhà hoàn ở ngoài thành. Do Hư Linh Tử là một tiểu thiếp xủa Tiết Lộc, do đó không thể an táng ở tổ phần của Tiết gia, nên ông ta đã cho tìm một chỗ có địa thế phong thủy khá tốt mà an táng. 

Tiết Lộc cũng mang theo thân binh và người nhà, cho khai quật ba mộ phần, quan tài đã cho nhấc lên để một bên. 

Dương Thu Trì đến, cho mở nắp quan tài ra, chờ cho tiêu tán khí vị. 

Quan tài này đã chôn trong đất nửa năm, chưa hề mục nát. Ngỗ tác vừa mở nắp ra, mùi thối nồng nặc, khiến người ta muốn ói. 

Nghe được mùi này, Dương Thu Trì có thể khẳng định, thi thể trong quan tài chí ít còn chưa bị rửa nát. Thi thể chưa rửa nát rõ ràng là có thể cung cấp nhiều tin tức hơn xương trắng nhiều. 

Quá một lúc sau, mùi vị đã tan bớt, Dương Thu Trì bấy giờ mới mang bao tay chuẩn bị sẵn cho việc khám sát thi thể, trước hết đi tới quan tài của Hư Linh Tử, mở mền vải che ngoài thi thể ra. Khi cúi đầu vào nhìn lòng hắn chợt vui, vị da dẽ của thi thể còn chưa xuất hiện cảnh tượng thối rửa làm người nhìn mà sợ. Điều này cho thấy, thi thể chỉ gần với giai đoạn thối rửa, và nó sẽ cung cấp nhiều tin tức hữu dụng hơn. 

Hư Linh Tử chết vào ngày 3 tháng chín, lúc đó trời đã biến lạnh, tiếp đó là mùa đông giá rét. do là tiểu thiếp, không tồn tại những chuyện cưới hỏi ma chay phiền phức, cho nên nàng này nhất định là nhanh chóng được chôn vào trong đất, từ đó làm giảm chậm tiến độ hủ bại hơn. Cho nên, tuy đã chết đã nửa năm, thi thể mới chỉ bắt đầu thối rửa bề ngoài. 

Hư Linh Tử mặc một bộ quần áo mới, hỏi ra mới biết lúc đó người chết đã được thay quần áo đốt bỏ đồ cũ đi. Điều này khiến Dương Thu Trì rất tiếc, nhân vì có lúc quần áo của người bị hại có thể cung cấp rất nhiều tư liệu có thể dẫn đến mấu chốt truy tìm hung thủ. 

Dương Thu Trì cởi quần áo của Hư Linh Tử, quả nhiên, ở vị trị tim bên ngực trái có một vết đao, bén hai bên, đưa châm kiểm nghiệm vào thấy đã đâm tới tim, là trí mệnh thương. Kiểm tra những bộ vị ngoài da khác, thấy ngoại trừ quai hàm bị bẻ trẹo đi, không thấy có gì dị thường. 

Dò hỏi Tiết Lộc, hắn biết trước khi thi thể nhập tán, ngỗ tác và ổn bà đã tiến hành tắm rửa sạch sẽ, bao quát cả trong âm đạo. Nghe tin này, Dương Thu Trì vô cùng ủ rũ, như vậy có thể thấy, trên thi thể không thể nào lấy được tinh dịch hay là tế bào hay vết tích nào hữu dụng để điều tra. 

Dương Thu Trì để Tống Vân Nhi giúp mặc quần áo lại cho thi thể, còn hắn đến trước quan tài của hai nha hoàn, tiến hành kiểm nghiệm thi thể. 

Hai nha hoàn đều mới mười lăm mười sáu tuổi, nguyên nhân tử vong rất rõ ràng, đều là cổ bị chém một đao trí mạng, đao này dường như chặt đứt cả cổ. Hung thủ ra tay vô cùng ngoan độc. 

Thi thể của hai nha hoàn có trình độ thối rửa còn kém hơn Hư Linh Tử, điều này liên quan đến nguyên nhân tử vong của chúng. Bỡi vì sự thối rửa của cơ thể người là quá trình các vi khuẩn thối rữa phân giải các tổ chức mềm trước. Nếu như trong hoàn cảnh cơ thể người chết có lợi cho vị khuẩn thối rữa này sinh sản phát triển, thì tốc độ hủ bại sẽ nhanh hơn, nếu không sẽ giảm chậm lại. Người sau khi chết rồi, những vi khuẩn ký sinh trên vòm miệng, đường hô hấp và trực tràng của người chết sẽ tiến nhập vào huyết quản, tuyến bào lympo (bạch huyết) điên cuồng ăn uống tiêu hủy, phân giải phá hoại các tổ chức có protein trong cơ thể người. 

Nhưng mà, nếu như người chết xuất một lượng huyết lớn cấp tính khi chết, một mặt sẽ khiến cho các vi khuẩn lên men thối này bị mất đi một lượng môi trường nước lớn để sinh sản, mặt khác, đại lượng huyết dịch chảy đi rồi, sẽ cản trở đường đi và tốc độc vi khuẩn thối rữa này khoách tán toàn thân, dẫn đến quá trình thối rữa sẽ chậm đi. 

Hai nha hoàn đều vị chặt đầu, dẫn đến mất một lượng máu lớn, cho đến giờ thi thể vẫn mới chỉ thối rữa một ít, nhẹ hơn Hư Linh Tử. Điều này có lợi đối với việc quan sát tinh 2huống vết thương. Cổ nha hoàn bị cắt với vết cắt bóng loáng, cho thấy đó là vật bén. Dương Thu Trì đưa đầu vào quan tài nhìn cho rõ, cẩn thận quan sát vách vết thương từng chút một, nhằm tìm ra manh mối xác định hung khí. Quả nhiên, ông trời không phụ người có tâm, Dương Thu Trì nhanh chóng phát hiện vết cắt này có điều gì đó không ổn, nhưng lại chưa rõ là không ổn ở chỗ nào. 

Hắn trước hết bảo Tống Vân Nhi và những người khác lui ra, rồi lấy từ trong rương phám y một kính phóng đại (kính lúp), kéo đầu đã được ráp lại của thi thể qua một bên, để lộ vết cắt, sau đó dùng kính lúp quan sát cẩn thận vết cắt ở cổ. Từng chút từng chút một, cuối cùng, hắn tìm thấy trên vách vết thương gọn ngọt đó một đường hơi thô, từ trên xuống dưới, nếu không cẩn thận không thể nào nhận ra. 

Có phải là thối rữa dẫn tới điều này không? Dương Thu Trì không dám khẳng định, vội chạy sáng thi thể của nha hoàn bên kia, xem xét vết đứt nơi cỗ, thấy cũng vậy, ở vết cắt nơi cổ có một vết xước tương đồng. 

Tống Vân Nhi thấy Dương Thu Trì chạy tới chạy lui, tay cầm một vật gì đó dò dò xét xét, cảm thấy hơi kỳ quái, nhịn không được đứng ở xa xa hỏi: "Ai...! Ca ca làm cái gì vậy? Có gì không ổn sao?" 

Dương Thu Trì bỏ kính lúp vào trong rương, vẫy tay gọi Tống Vân Nhi đến, hỏi: "Chúng ta không phải là nói rõ án này do muội phụ trách hay sao?" 

Xong hắn chỉ vào vết thương trên cổ của nạn nhân, hỏi tiếp: "Muội nhìn kỹ xem, chỗ này có gì không ổn không?" 

Tống Vân Nhi cúi đầu nhìn một lúc lâu, đáp: "Từ da thịt, xương cổ và thành vết cắt này mà xét, thì đây là một vết thương do vật bén gây ra, hơn nữa chỉ chém có một cú là gần như cắt đứt cổ họng, động tác rất nhanh, lực rất mạnh." 

Tống Vân Nhi theo Dương Thu Trì đã lâu, những từ ngữ và cách nhìn chuyên nghiệp cũng đã học được, hơn nữa nàng võ công cao cường, đối với những vết thương hình thành do chặt chém này có sự hiểu biết tương đối, cho nên nói xong đã tự gật gù đắc ý. 

Dương Thu Trì gật đầu: "Nhìn kỹ chút nữa đi, còn có gì nữa?" 

Dừng một chút, thấy nét mặt của Tống Vân Nhi vẫn còn chưa nghĩ ra, bèn chỉ vào vách vết cắt: "Đặc biệt là chỗ này." 

Tống Vân Nhi cúi người, gần như đưa sát mũi vào vết thương, nhưng cũng không có phát hiện gì. 

Cũng khó trách, những vết rách này rất nhỏ, không thể dùng bằng mắt thường quan sát, một chút ghờ nhỏ thì căn bản không thể nhận ra, Dương Thu Trì cũng bằng nhiều năm tích lũy kinh nghiệm, cảm giác trong điều này có gì đó bất bình thường, nên mới dùng kính lúc quan sát mới xác định được. Còn Tống Vân Nhi dù có con mắt rất nhạy cảm, nhưng chưa từng trải qua huấn luyện chuyên nghiệp về lĩnh vực này, cũng thiếu tri thức cơ bản, tự nhiên là không nhìn ra. 

Dương Thu Trì chỉ vào vết gợn bằng hạt gạo nhỏ đó nói: "Vết cắt này có bộ vị không giống với cái kia, xem lại coi thế nào?" 

Dương Thu Trì dùng châm thăm chỉ ra vết gờ lên đó, bấy giờ Tống Vân Nhi mới chú ý., gật đầu: "Đúng rồi, không giống với chung quanh." 

"Không giống thế nào?" 

"Hình như không bóng loáng, có chút hơi thô! 

"Hoàn toàn chính xác!" Dương Thu Trì cười, khen: "Vân nhi của ta có con mắt còn tinh đời hơn cả kính phóng đại nữa." 

"Kính phóng đại? Kính phóng đại là gì?" 

"Hầy, chính là... hầy, chính là để con mắt mở to cho thật lâu, nhưng có người mở cho dù to cách mấy cũng nhìn không ra, hì hì." 

Tống Vân Nhi đắc ý: "Người tập võ con mắt phải tốt như vậy chứ, không nhìn rõ làm sao đánh chính xác. À, còn gì nữa không?" 

Dương Thu Trì bảo: "Hết rồi. Bây giờ muội kiểm tra cổ của ba thi thể, xem coi có manh mối phá án nào không." 

"Được a!" Tống Vân Nhi hứng phấn đáp ứng, tìm đến từng thi thể nhìn kỹ vết cắt ở cổ, cuối cùng, ánh mắt nàng ngập tràn hưng phấn, chạy trở lại lắc đầu chớp chớp mắt nói: "Ngoại trừ mấu chốt do cẩm y vệ của Kỷ Cương làm, muội không tìm được manh mối nào khác. Muội thật ngốc a!" 

Dương Thu Trì vỗ vai nàng, "Không thể nói như vậy được, dù sao muội cũng không phải là người có chuyện môn để chuyên làm chuyện này." 

Tống Vân Nhi dẫu môi: "Vây huynh cũng không phải a, trước đây huynh chỉ là một ngỗ tác tiểu học đồ, hơn nữa sư phụ của huynh còn không có cách gì so được với huynh, vì sao huynh lại biết nhiều chuyện như vậy chứ?" 

Dương Thu Trì mỉm cười, chỉ vào đầu mình: "Dùng cái này mà nghĩ, nghĩ nghĩ mãi rồi sẽ hiểu thôi." 

"Hừ, huynh chọc muội không hà!" 

Dương Thu Trì ôm eo nàng, bảo: "Ta gợi ý cho muội một chút nè, muội nhất định sẽ phát hiện ra ngay thôi. Sau này kiểm nghiệm nhiều hơn, từ từ sẽ hiểu."

Tống Vân Nhi cao hứng gật đầu. 

"Vết thương chém bằng vật bén rất bóng, điều này thì muội biết rồi." Dương Thu Trì buông eo thon của nàng ra, dùng châm thăm chỉ vào hơi thô trên vết cắt ở cổ của nạn nhân trong quan tài: "Nhưng vết thương do chặt chém này có chỗ lại không bóng loáng, có chút hơi xướt hơi thô, có vẻ như là hung khí chỗ này bị cùn... là vết thương do bị xé rách!" 

Tống Vân Nhi hưng phấn reo lên: "Muội biết rồi, hung thủ dùng đao chém, chỗ chém này có một vết mẻ hoặc cong quằn đi, tạo ra một vết hằn." 

Dương Thu Trì trợn mắt nhìn nàng: 'Coi muội đó, vậy mà còn nói mình ngốc, ta mới mở đầu có chút mà muội đã đoán ra rồi." 

Tống Vân Nhi có chút đắc ý: "Cái này người chết đã lâu, nếu là người mới chết thì muội đã phát hiện ra lâu rồi." 

"Ừ, vậy muội hãy can cứ vào phát hiện này, nói con đường mà muội sẽ dùng để phá án đi!" 

Tống Vân Nhi trầm ngâm một chút, nói: "Từ những phán đoán nãy giờ, hung thủ có khả năng dùng đao có vết mẻ để chém. Với đao mà nói, thì vết xướt như vậy có thể coi là từ đao có vết mẻ khá to rồi. Nếu chúng ta đem đối tượng hiềm nghi thu hẹp lại trong cẩm y vệ của Kỷ Cương, thì căn cứ vào những manh mối đã điều tra, chúng ta có hai đường để phá án. Một là án này phát sinh vào ngày 3 tháng chín năm rồi, do một cẩm y vệ bị bệnh hoa liễu thực hiện. Hai là kiểm tra cẩm y vệ sử dụng Tú Xuân đao có vết mẻ bằng hạt gạo. Đúng không?" 

Dương Thu Trì gật gật đầu: "Rất đúng, nhưng mà, đường manh mối thứ hai vẫn còn chưa thể con là phương hướng phá án chủ đạo." 

"Vì sao?" Tống Vân Nhi hiếu kỳ hỏi. 

"Cẩm y vệ trong kinh thành có hơn vạn, chúng ta chẳng lẽ đi kiểm tra hết từng thanh đao hay sao?" Dương Thu Trì mỉm cười, "Hơn nữa, hung thủ tuy hầu như là cẩm y vệ của Kỷ Cương, nhưng hung thủ tiến hành ám sát không nhất định là đương nhiên sử dụng Tú Xuân đao, nếu như dùng những loại đao khác, cho dù chúng ta kiểm tra hết cả hơn vạn thanh Tú Xuân đao trong kinh thành, cũng chưa chắc là tìm ra người này." 

"Hi hi, cái đó cũng phải. Vậy manh mối này cơ bản chẳng dùng được gì hay sao?" 

"Cái đó cũng không thể nói như vậy," Dương Thu Trì đáp, "Chí ít, đặc điểm này cũng có thể khiến sau khi chúng ta phát hiện ra hiềm nghi phạm tội rồi, sẽ tiến hành xác định sau. Cẩm y vệ vừa mắc bệnh hoa liễu vừa có vết rạn trên đao, cơ bản có thể xác định là hung thủ rồi." 

"Ừ, nhưng mà nếu trên lưỡi đao có chỗ mẻ như hạt gạo, thì đao coi như sắp không dùng được rồi, không có giá trị đánh đấu nữa, phải đi đánh làm lại." 

Dương Thu Trì động tâm: "Đúng a, Tú xuyân đao của cẩm y vệ khi phát ra, thu hồi lại để chỉnh sửa đều do quân giới khố của cẩm y vệ quản lý. Nếu như hung thủ sử dụng Tú Xuân đao, hơn nữa lưỡi của thanh đao này bị mẻ, thì không thể dùng nữa, mà đến quân giới khố đăng ký đổi hay sửa lại. Tra một chút sổ sách ghi chép vào tháng chín năm rồi, có thể còn có phát hiện gì đó!" 

Hai người tìm được manh mối này, đều vô cùng cao hứng. 

Tiếp đó, Dương Thu Trì lấy mẫu máu của người chết, kiểm tra xong, Tiết Lộc liền tới hỏi tình hình kiểm nghiệm, Dương Thu Trì không tiện nói kỹ với ông ta, chỉ đáp là đã phát hiện một số mấu chốt, cần phải tiếp tục theo dấu điều tra. 

Trở về Dương phủ, Dương Thu Trì đến thư phòng trước để tiến hành kiểm nghiệm thanh chủy thủ. 

Căn thư phòng cũ vốn dùng làm phòng tân hôn cho hắn và Lữ Hoàn Cơ do hoàng thượng tứ hôn, rồi sau đó Lữ Hoàn Cơ dùng làm chỗ ngoại tình... đã khiến Dương Thu Trì cảm thấy bức bối, nên đã ra lệnh phá hủy xây lại, hơn nữa còn án chiếu theo ý hắn mà xây. Hiện giờ, bình điện hấp thu năng lượng mặt trời đã được ẩn giấu rất tốt, và cái tủ hợp kim của hắn cũng được đặt ở vị trí khá an toàn và bí mật. 

Dương Thu Trì lấy thanh chủy thủ ra, dùng kính phóng đại nghiên cứu dây thừng quấn quanh cán đao, không phát hiện dấu tay máu, xem ra sau khi hung thủ đâm một đau, trước khi máu ứa ra tay đã buông bỏ cán dao, hoặc có thể thẳng thừng ở cự li nào đó phóng chủy thủ cắm thẳng vào tim nạn nhân. 

Như vậy có thể nói, trên chủy thủ không thể lưu lại dấu tay máu, hắn chỉ đành tìm kiếm dấu tay vô hình do mồ hôi để lại thôi. 

Dương Thu Trì dùng bàn chảy từ tính lấy dấu tay cẩn thận quét lên cán đao, lấy được mấy dấu tay nhợt nhạt và khiếm khuyết, nhưng cũng khiến hắn cao hứng phi thường. Hắn lập tức tiến hành so sánh dấu vân tay với các bộ khoái của nha môn là những người đến khám hiện trường lúc đó. 

Sau khi so sánh một hồi, Dương Thu Trì ngẩn ngơ, vì những dấu tay tàn khuyết trên cán đao đều là của bộ khoái tham gia khám tra hiện trường lưu lại. 

Chẳng lẽ hung thủ không hề lưu lại dấu tay trên đao? 

Con người ta không phải khi sờ chạm vào bất kỳ cái gì cũng lưu lại dấu tay. Để có thể lưu lại dấu tay, hay là có thể lưu lại dấu vân tay mà kỹ thuật hiện hữu có thể thu lấy được, thì phải chịu rất nhiều nhân tố ảnh hưởng, chủ yếu là do đặc tính của bản thân vật thể tiếp xúc, sau đó là tình huống mồ hôi tay của con người. Đương nhiên, còn có sự ảnh hưởng của kỹ thuật và thủ đoạn thu mẫu vân tay này. Nhân tố ảnh hưởng đến việc lấy mẫu vân tay quá nhiều, do đó lấy không được dấu vân tay cũng là chuyện rất đỗi bình thường. 

Đương nhiên, còn có một số tình huống khác, ví dụ như hung thủ sử dụng bao tay hay các công cụ che phủ bàn tay lại, ngăn trở lưu lại dấu vân tay này. Rốt cuộc là nguyên nhân gì thì chưa thể biết được, nhưng hiện giờ chưa lấy được dấu tay của hung thủ là sự thật bày ra trước mắt Dương Thu Trì. 

Dương Thu Trì lấy mẫu máu xét nghiệm nhóm máu trên dao, thấy phù hợp với người chết, đều là nhóm B, trong khi phân tích tinh dịch thu được ở hiện trường, thì hung thủ có nhóm máu A, nhưng vậy cho thấy trên đao không hề lưu lại máu của hung thủ (nếu có trường hợp ẩu đả hay chống cự xảy ra). 

Việc làm này trông có vẻ vô ích, nhưng kỳ thật không phải vậy. Nếu như trên đao phát hiện máu có nhóm khác, thì đó ắt là một manh mối trọng yếu, điều tra hình sự thường phải tận hết khả năng phát hiện manh mối, rồi căn cứ manh mói tìm kiếm người hiềm nghi. Cho nên, công tác kiểm nghiệm pháp y quy định rất rõ các hạng mục kiểm nghiệm thường quy, chính là đề phòng bỏ qua những manh mối quan trọng. Những kiểm tra xem ra vô dụng căn cứ vào án tình thế này tuyệt đối không được bỏ qua, nhân vì không ai có thể ngờ trong đám mây lại có nước mưa, manh mối trọng yếu để phá án biết đâu sẽ nằm đâu đó trong số chi tiết vô dụng này. 

Chiều tối hôm đó, Mã Độ và Ngưu Đại Hải mang theo một tập tờ ghi chép thật dày tới Dương phủ. 

Mã Độ khom người nói: "Đại nhân, ti chức và Ngưu thiên hộ mang theo người đến các lang trung của cẩm y vệ ở kinh thành tiến hành điều tra cẩn thận, tra hỏi mọi lang trung, và tra xét sổ đăng ký trị liệu tương ứng, xác định vào tháng chín năm rồi có tổng công 127 cẩm y vệ đến lang trung trị bệnh. Ti chức đã lấy những chỗ đăng ký và phương thuốc kê khai đến đây." 

Mẹ! Dương Thu Trì mắng thầm một câu, sao nhiều cẩm y vệ bị bệnh hoa liễu vậy trời! Thật là đám sắc lang quỷ đói mà! Nhân vì Minh triều việc ca xướng chơi lầu xanh là công khai và hợp pháp, mại dâm chơi hoa là hợp pháp nên loại bệnh này không húy kỵ gì như thời hiện đại, cùng không hề có chuyện thẹn thùng giấu giếm không đi khám chữa bệnh. Do đó,con số này xem ra là chuẩn xác, đối với việc tra án rõ ràng là vô cùng có ích. 

Nhưng trong hơn trăm người này, làm sao tra ra hung thủ đây? 

Dương Thu Trì thầm nghĩ, Kỷ Cương phái người đến phủ đô đốc hành thích thiếp thất của đô đốc, đó phải là cơ mật tuyệt đối, như vậy muốn đảm nhiệm nhiện vụ như thế, thì người đó khẳng định là bè đảng mà Kỷ Cương tin được, tiếp đó võ công phải cao mới có thể tránh được sự phòng bị của bọn hộ vệ ở đô đốc phủ. 

Dương Thu Trì đem hai điều này nói cho Mã Độ và Ngưu bá hộ nghe, cho gọi Nam Cung Hùng, Từ Thạch Lăng và Thạch Thu Giản lại, nhất tề tiến hành xem xét đối với một trăm hai mười bảy người này, nhận ra xem có kẻ nào đánh hiềm nghi. 

Hai điều này không cần phải điều tra, vì bè đảng của Kỷ Cương là ai Mã Độ và Ngưu bá hộ hiểu rất rõ. Còn tình huống võ công, thì bọn Nam Cung Hùng ba người cũng nắm vững, đương nhiên Mã Độ cũng có nghe qua. 

Kinh qua bài trừ từng người một, cuối cùng họ xác định được hai mươi bảy người có hiềm nghi trọng đại. 

Dương Thu Trì cho gọi Vân Lăng đến, ra lệnh mang đội kiểm sát cẩm y vệ tiến hành kiểm tra tình huống bội đao của hai mươi bảy người này, nếu có phát hiện gì thì lập tức bắt về thẩm ra. Đồng thời, phải thuận tiện lấy luôn những bội đao đã đăng ký đổi ở chỗ quân giới của cẩm y trong tháng chín năm rồi. 

Cho dù hung thủ vì đề phòng hung khí thất lạc ở hiện trường, rất có khả năng không sử dụng Tú Xuân đao mà đổi dùng một loại đơn đao đặc trưng khác, nhưng đây là một trong những mấu chốt tra án, cũng cần phải điều tra kỹ lại. 

Một chức năng của cẩm y vệ Nam trấn phủ ti là quản lý quân tượng và quân giới khố, do đó điều tra xưởng quân giới chính là sự tình nội bộ, không cần phải phí sức gì nhiều. 

Khi bắt đầu đánh canh, thì Vân Lăng mang đội khám sát cẩm y vệ trở về, báo cáo là trong hai mươi bảy người đó tổng cộng phát hiện có ba người có lưỡi đao bị mẻ, đã bắt về hai người, còn lại một tên đã đến thanh lâu của kinh thành uống rượu hoa rồi. Hắn đã phái người đi tra tìm, hiện giờ mang hai người này về trước. 

Ba người này đều là thiếp thân hộ vệ của Kỷ Cương, một tên là Cổ Đại Lực, Tú Xuân đao của y có vết mẻ, nhất mực không đổi. Người khác tên là Tăng Nhân Phàm, Tú Xuân đao của y vào giữa tháng chín năm rồi đã từng đổi vì lưỡi đao có vết mẻ. Còn người đi uống rượu hoa là Lâm Viễn, đã cho người đi tìm rồi. 

Dương Thu Trì kiểm tra bội đao của một trong hai người, đó là kẻ chưa đổi đao, phát hiện vết mẻ rất nhỏ, không cần đổi, xem ra không phải hung thủ. Tiếp theo đó hắn cho kiểm nghiệm nhóm máu của hai người, phát hiện chẳng có người nào thuộc nhóm máu A, do đó bài trừ khả năng gây án. 

Để cho hai người đó đi, Dương Thu trì hỏi Vân Lăng: "Ngươi đi bắt hộ vệ của Kỷ Cương, hắn cho ngươi bắt sao?" 

Khi đến kinh thành, Vân Lăng đã nghe Dương Thu Trì kết thù với Kỷ Cương, Dương Thu Trì cũng thường tìm hắn để xả khí. Hiện giờ nghe Dương Thu Trì hỏi, Vân Lăng ưỡn ngực: "Hắn không dám cản! Hầu gia ngài đã nói qua, Nam Trấn phủ ti của chúng ta quản luôn Bắc Trấn phủ ti của hắn, ngay cả Kỷ Cương hắn cũng chịu sự quản thúc của chúng ta, sợ cái gì!" 

Dương Thu Trì cười nói: "Rất tốt! Làm nghề cẩm y vệ như chúng ta thế này, chính là cầ khí thế như ngươi! Trừ hoàng thượng, chúng ta chẳng cần phải sợ ai cả. Nếu không, trước sợ sói sau sợ cọp, đừng mong gì làm được chuyện lớn." 

"Được! Hầu gia, Vân Lăng đều nghe theo ngài. Ngày nào hầu gia ngài quyết tâm bắt tên Kỷ Cương này, ngày đó Vân Lăng sẽ là người đầu tiên xông lên trói hắn!" 

Mọi người đều cười. 

Dương Thu Trì gật đầu: "Tên Kỷ Cương này làm nhiều điều bất nghĩa tất sẽ bị quả báo, ngày đó tin chắc sẽ không xa!" 

Nghe nói Kỷ Cương không cản trở Vân Lăng bắt hộ vệ của y, Dương Thu Trì hơi kinh ngạc, nhân vì trước đó hắn nghe Kỷ Cương là người hay bảo về người phe mình nhất, chỉ cần đụng đến thủ hạ của y, y nhất định sẽ tìm biện pháp bồi lại, thậm chí còn âm hiểm độc ác hơn, không chỉnh chết người ta không chịu ngưng. Hôm nay y rộng rãi để Vân Lăng bắt người như vậy, bên trong này chẳng biết có âm mưu gì không? 

Căn cứ bản đăng ký của xương quân giới Vân Lăng thu được, thì tên Lâm Viễn đi uống rượu hoa ở thanh lâu là người có đăng ký đổi Tú Xuân đao vào tháng chín năm rồi. Tú Xuân đao của y sử dụng do bị vết mẻ mà đến tiến hành thay đổi. 

Mọi người khác đều bài trừ, chỉ còn lại Lâm Viễn, tên này có mối hiềm nghi phạm tội trọng đại. 

Dương Thu Trì hạ lệnh Vân Lăng lập tức mang theo đội kiểm sát đến ngõ yên hoa mà cẩm y vệ trong kinh thành thường tới, tìm bắt Lâm Viễn đưa về quy án. 

Vân Lăng mang theo đội kiểm sát cẩm y vệ đến ngõ hoa trong kinh thành. Thanh lâu có tiếng nhất kinh thành đều tập trung ở đây, và cũng là chỗ mà cẩm y vệ thích nhất. 

Để tránh đả thảo kinh xà, Vân Lăng lệnh cho các thành viên đều thay đổi trang phục thường, phân tán ra các nơi tìm kiếm. Còn Vân Lăng thì mang theo miêu binh hộ vệ của mình cùng một đội viên người mặc y phục cẩm y vệ kiểm sát đội đến ngồi ở một trà lâu kín đáo ở ngõ hoa chỉ huy trận địa. 

Nửa canh giờ sau, mật thám phái đi trở về báo đã phát hiện tung tích Lâm Viễn ỡ Miên Xuân lâu. 

Vân Lăng vui mừng, mang theo đội kiểm sát của cẩm y vệ mặc áo phi ngư lập tức đến Miên Xuân lâu. 

Bình thường đến đây, bất quản là cẩm y vệ hay là Kinh Doanh binh đều phải thay đổi mặc y phục thường. Hiện giờ đột nhiên xuất hiện mấy vị cẩm y vệ mặc phi ngư phục, eo đeo Tú Xuân đao, sát khí đằng đằng kéo đến, tú bà và bọn móng rùa ở Miên Xuân lâu giật mình hoảng sợ, vội vã cười ha ha chạy ra nghênh đón, nhưng bị Miêu binh hộ vệ của Vân Lăng đẩy ra. 

Vân Lăng cùng mọi người xông vào, dưới sự dẫn đầu của mật thám, đội kiểm sát đã kéo Lâm Viễn trần truồng như nhộng từ trong khuê phòng của một kỹ nữ ra. 

Lâm Viên nguyên là người trong đội hộ vệ của Kỷ Cương, võ công không tệ, nhưng thấy người bắt mình là đội kiểm sát cẩm y vệ của Nam Trấn phủ ti, nên không dám phản kháng, cứ trần truồng như vậy bị đẩy ra đại sảnh, hai tay che chỗ kín, đỏ mặt quát: "Lão tử là Lâm Viễn, hộ vệ của Kỷ chỉ huy sứ! Các ngươi bằng cái gì mà bắt ta? Lão tử phạm điều gì sai nào?" 

Vân Lăng lạnh lùng nói: "Phạm tội gì thì trong lòng ngươi biết rõ nhất, còn nếu chưa biết, thì theo ta về nha môn, roi của lão tử sẽ khiến cho ngươi biết! Trói lại!" 

Hai thành viên đội kiểm sát phía sau vội bước tới dùng xích sắt trói Lâm Viễn, người khác lấy y bào của hắn mặc tạm cho y. 

Lâm Viễn kêu lên: "Ta muốn đến chỗ Kỷ chỉ huy sứ tố cáo các ngươi!" 

Vân Lăng phất tay, các thành viên đội kiểm sát cẩm y vệ kéo Lâm Viễn ra cửa. Nhưng vừa tới vườn, đột nhiên từ bốn phương tám hướng kéo lại hơn trăm người, mặc các sắc phục thương nhân và bình dân, tay cầm thiết côn chẳn nói chẳng rằng nhào tới đánh Vân Lăng cùng các cẩm y vệ. 

Các cẩm y vệ của Vân Lăng lập tức ngẩn cả ra, cẩm y vệ là người của hoàng thượng, dám đánh cẩm y vệ chẳng khác nào dám đánh vào mặt hoàng thượng hay sao? Nhưng những người này đều đã đánh rồi, hơn nữa còn đánh rất ngoan độc. Không chờ bọn họ hiểu ra chuyện gì, thì hơn mười thành viên của đội kiểm sát cẩm y vệ đã bị đánh đầu đầy máu nằm ngất ra đất. 

Miêu binh hộ vệ của Vân Lăng phản ứng rất nhanh, rút Tú Xuân đao ra liều mạng đề kháng. Nhưng không còn cách nào khác, bọn họ tổng cộng chỉ có hơn hai chục người, trong khi đám người không rõ thân phận này có hơn trăm, năm sáu người đánh một người, lại tập kích đột nhiên, hơn nữa rõ ràng đều là kẻ có võ công, có chuẩn bị mà tới tấn công, cho nên bọn cẩm y vệ ít không thể địch nhiều, kêu thảm liên hồi đua nhau ngã xuống đất. 

Vân Lăng múa Tú xuân đao quát: "Chúng ta là cẩm y vệ! Các ngươi..." Lời chưa dứt, trán của hắn đã bị đập một côn, choáng váng đầu óc, máu tươi chảy túa xuống mặt che hẳn mắt, tức thời gấp lên, cầm Tú Xuyên đao chém loạn như điên. Nhưng không chờ hắn múa được mấy đao, thì côn bổng đã tới tấp phang vào đầu như mưa, các chỗ khắp người đều ứa máu. 

Tiếp theo đó, những người ấy chạy tứ tán, chờ chúng đi hết, các miêu binh hộ vệ và đội viên đội kiểm sát cẩm còn tỉnh mới lồm cồm bò dậy, phát hiện Lâm Viễn đã không còn, trên đất còn chừa lại một thi thể, trên người mặc y phục thương nhân, trên thân có mấy vết đao, máu ứa đầu, ngực còn cắm một cây Tú Xuân đao. Khi đến gần quan sát, thì thấy trên đao có khắc hai chữ "Vân Lăng"! 

Vân Lăng lúc này toàn thân đầy máu, hai tay trống không, nằm phục trên đất thở dồn. Hắn còn chưa minh bạch chuyện gì, thì ngoài Miên Xuân lâu đã có vô số cẩm y vệ thân mặc phi ngư phục tiến vào, vậy lấy thi thể ấy nhìn, lớn tiếng hô: "Giết người rồi! Vân Lăng của Nam trấn phủ ti giết người rồi!" Tiếp theo đó, chúng vây quanh Vân Lăng đánh thêm một trận nữa. 

Vân Lăng làm sao có thể chịu nổi sự ẩu đả này, chốc lát sau ngất đi. Những cẩm y vệ đó trói chân tay Vân Lăng lại, lôi hắn ra khỏi Miên Xuân lầu. 

Bảy tám miêu binh còn thanh tỉnh và một số thành viên đội kiểm sát đều bị trọng thương, không còn lực để đuổi theo, trơ mắt nhìn bọn cẩm y vệ lôi Vân Lăng đi mất. 

Lúc bấy giờ, Dương Thu Trì đang ở phòng trêu đùa với con trai là Dương Đạp Sơn. 

Con trai hắn đã được hơn năm tháng tuổi, đã có thể lật bò. Dương Thu Trì cởi giày chơi trò trâu nghé với con, chọc cho cậu bé cười nắc nẻ. 

Liễu Nhược Băng mỉm cười ngồi ở bên giường, đang khâu một bộ đồ mùa hè cho con, vì thấy trời càng lúc càng nóng. 

Liễu Nhược Băng vừa khâu y phục, vừa nói: "Thu Trì, hôm nay chàng giáo huấn tên Kỷ Cương đó nhưng phải đề phòng hắn báo phục. Ta nghe nói con người đó rất hay thù dai, hôm nay hắn chịu thua thiệt như vậy, nhất định không chịu để yên đâu." 

Dương Thu Trì chọc con cười mệt rồi, ôm con vào lòng ngồi xuống cười nói: "Không sợ hắn! Chờ bắt Lâm Viên rồi, tra rõ có phải Kỷ Cương chỉ sử Lâm Viên giết tiểu thiếp của đô đốc Tiết Lộc và chém đầu hai nha hoàn xong, đây là ba cái mạng lận, lại là thiếp thất của Tiết Lộc đại nhân, ta và Tiết Lộc sẽ liên hợp tấu thỉnh hoàng thượng trị tội Kỷ Cương. Ta muốn đường đường chính chính chỉnh trị cho hắn chết!" 

Liễu Nhược Băng thở dài: "Chàng là quân tử, nhưng người ta là tiểu nhân a, chàng dùng thủ đoạn quân tử đối phó với tiểu nhân, chỉ sợ..." 

"Không cần sợ!" Dương Thu Trì ôm con trai lên hôn vào má cậu bé, "Tiểu nhân cũng là người, giết người đều phải thường mạng! CHúng ta chỉ cần nắm bằng chứng thật sự hắn bày mưu tính kế giết người, thì hắn sẽ chạy trời cũng không thoát!" 

Liễu Nhược Băng nhìn Dương Thu Trì: "Chàng làm việc cứ thích tuân theo quy củ, không muốn chơi trò tà đạo, đây thật ra là một ưu điểm rất tốt, tra án đáng phải như vậy, nhưng mà... chỉ là khi đối phó với tiểu nhân như vậy, ta sợ... ta sợ chàng sẽ chịu thiệt a..." 

Dương Thu Trì một tay ôm con, một tay vòng qua ôm Liễu Nhược Băng, nói: "Vậy nàng nói coi, chúng ta làm sao đối phó với tên tiểu nhân Kỷ Cương này?" 

"Chiếu theo ta thấy, hắn chơi trò âm ngoan, chúng ta cũng chơi lại như thế, thậm chí còn âm độc hơn hắn! Hắn chẳng phải là sắp bày mưu kế hãm hại chúng ta sao? Vậy chúng ta sẽ vu cáo hãm hại lại hắn, cho hắn ngậm bồ hòn làm ngọt, có nỗi khổ mà chẳng nói lên lời!" 

Dương Thu Trì cười: "Lấy đạo tiểu nhân đối phó với tiểu nhân? Ha ha, chủ ý này thật là không tệ, nhưng mà, nếu luận về thủ đoạn tiểu nhân, chúng ta không thể nào là đối thủ của Kỷ Cương. Tiểu nhân này không thể dễ mà làm được đâu, và cũng không phải ai làm cũng được." 

"Coi chàng kìa, dường như chàng đã làm tiểu nhân rồi không bằng? Làm tiểu nhân chẳng phải là quá đơn giản, chẳng cần biết gì đến lương tâm là xong hay sao?" 

"Hì hì, nàng nói nhẹ nhàng như cọng cỏ chỉ ấy!" Dương Thu Trì vuốt nhẹ mũi Liễu Nhược Băng, "Cứ lấy táng tận lương tâm mà nói, Kỷ Cương hắn lúc trước để hãm hại ta cho đúng bài đúng bản, đã táng tận lương tâm hại luôn cả Thuận Phi, Cố nội các học sĩ, khiến cho cả nhà người ta bị chém, liên lụy tru di cửu tộc. Cái này chúng ta làm được hay không? Ví dụ như nói, có người cung cấp cho nàng một kế mưu, kế mưu này tuyệt đối có thể khiến Kỷ Cương chết rất thảm, nhưng mà phải dùng rất nhiều cái chết thảm của người vô tội để đạt được mục đích này, chúng ta có làm được hay không?" 

Nhược Băng cười: "Như vậy cũng phải, hay là chúng ta thẳng thừng một đao giết hắn!" 

"Nàng đó! Võ công cao tuyệt, do đó cái gì cũng muốn làm cho đơn giản, không được thì dùng biện pháp cứng. Nàng ám sát hắn, một khi tra ra, chúng ta chẳng phải là chết chắc hay sao?" 

Liễu Nhược Băng cười nhẹ: "Nếu không để lộ dấu vết mà giết hắn, cũng không có gì khó lắm!" 

Dương Thu Trì ôm hôn lên mặt nàng: "Biết nàng lợi hại rồi, nhưng mà ta không cho nàng mạo hiểm! Hơn nữa, nàng ám sát hắn, hắn dù gì cũng vì nước mà hy sinh, nói không chừng còn được truy nhận liệt sĩ cái gì đó nữa, như vậy không phải tiện nghi cho hắn hay sao?" 

"Chơi trò tiểu nhân không chơi lại hắn, ám sát hắn chàng không cho, vậy làm sao bây giờ?" 

"Hắn làm nhiều chuyện xấu như vậy, dù sao cùng có một ngày lộ ra mạt chuộc, chúng ta chỉ cần nhắm bắt con chuột trong hang, đem mọi tội hạnh của hắn tra ra rõ hết, theo pháp mà trị tội, thì có thể cùng một lúc diệt hắn luôn!" 

"Chỉ sợ là hắn chưa lòi mặt chuột ra cho chúng ta bắt, thì chúng ta đã xui xẻo bị hại dưới thủ đoạn tiểu nhân của hắn rồi." 

Dương Thu Trì gật gật đầu: "Như vậy cũng phải, chúng ta nhất định phải đẩy nhanh tốc độ." 

Liễu Nhược Băng vừa định nói tiếp, đột nhiên mỉm cười: "Vân Nhi đến rồi!" 

Liễu Nhược Băng phán đoán tuyệt đối không sai, Dương Thu Trì dỏng tai nghe, chốc sau liền nghe thấy tiếng chân vội vã của nàng chạy tới, thanh âm quả nhiên là của Tống Vân Nhi. Tiếp theo đó, cửa phòng bị đẩy bật ra, Tống Vân Nhi như một luồng gió ùa vào. 

Dương Thu Trì cười hỏi: "Vân nhi, sao chạy nhanh làm gì vào? Phía sau có cọp dữ đuổi theo à?" 

"Không.... không phải cọp... mà là... là Kỷ Cương lão tặc!" Tống Vân Nhi thở phì phò đáp. 

"Cái gì? Kỷ Cương cẩu tặc đến rồi à?" Dương Thu Trì cả kinh hỏi. 

"Không phải..., là Kỷ Cương phái người... bắt... bắt Vân Lăng đi rồi!" Nàng vừa rồi giống như bay từ hầu tước phủ ra chỗ ở của Liễu Nhược Băng ở hậu viện, chạy gấp quá nên tim đập nhanh, nói chuyện có hơi vấp váp. 

A? Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng cả kinh, vừa nói Kỷ Cương dùng thủ đoạn tiểu nhân, không ngờ hắn đã ra tay trước rồi. Dương Thu Trì kéo tay Tống Vân Nhi: "Muội đừng gấp, từ từ nói." 

Tống Vân Nhi thở thêm mấy hơi, bấy giờ mới kể: "Vừa rồi miêu binh hộ vệ và các thành viên trong đội kiểm sát cẩm y vệ của Vân Lăng đã chạy về báo, nói rằng bọn chúng cùng đến Miên Xuân lầu ở ngõ hoa tìm bắt Lâm Viễn, đã bắt được rồi, không ngờ vừa ra khỏi vườn thì đột nhiên có một đám người không rõ thân phận cầm thiết côn đột nhiên tập kích họ. Bọn họ đều thụ thương. Tiếp theo đó cẩm y vệ của Bắc trấn phủ ti đều đến, phát hiện ở hiện trường có một thi thể, trên thi thể có cắm một thanh Tú Xuân đao, là của Vân Lăng. Do đó bọn chúng nói Vân Lăng... nói Vân Lăng mang người đi làm việc riêng, đấu nhau với người, giết chết người ta, cho nên đánh Vân Lăng một trận ở đương trường, rồi bắt đi rồi!" 

Giết chết người? Trên thi thể có Tú Xuân đao của Vân Lăng? Dương Thu Trì ngẩn ra một hồi, trực giác đầu tiên khẳng định là Kỷ Cương lại bày trò cũ, tiến hành bày kế hãm hại. Người của Vân Lăng đều bị đánh ngất đi, thì tùy tiện tìm một thi thể hãm hại Vân Lăng là chuyện vô cùng dễ dàng. 

Vân Lăng dù sao cũng là tay chân đắc lực của hắn, cha của Vân Lăng với hắn có mối giao tình sinh tử. Miêu Vương Vân Thiên Kình đã hiệp trợ hắn công kích vào sào huyệt của Kiến Văn, ở trình độ nhất định có thể nói là cứu hắn một mạng. Trong khi đó muội muội của Vân Lăng là ân nhân cứu mạng trực tiếp của hắn, lại một mực thâm tình, hắn tuyệt không thể nào ngồi nhìn mà không quản. 

Hiển nhiên, tình huống này Kỷ Cương nhất định là biết rất rõ, xem ra, y nhất thời không tìm được lý do nào thích hợp để hãm hại hắn, cho nên trước hết hạ thủ với thủ hạ của hắn. Và giống như ba tháng trước hắn đã từng xử thủ hạ của y vậy, nhưng chẳng qua là hắn đường đường chính chính thanh tra rồi theo án tình mà theo pháp luật trị tội, còn y thì tự nhiên sắp bày vu khống, hãm hại một cách bỉ ổi mà thôi. 

Dương Thu Trì hỏi: "Người của chúng ta có thương vong không?" 

"Không rõ, dù gì thì những miêu binh hộ vệ và thành viên đội kiểm sát đều đầu mặt đầy máu, đúng rồi, bọn chúng nói, cẩm y vệ của Kỷ Cương khi bắt Vân Lăng đi đã đánh hắn một trận ngay đương trường, khiến hắn bất tĩnh nhân sự, rồi mới kéo đi. Còn nữa, Miêu binh còn phái người đem chuyện này đi báo cho Vân lộ công chúa rồi!" 

A! Dương Thu Trì phát giác sự tình không ổn. Vân Lộ có tính tình rất gấp. Trong tay nàng có 500 thiết giáp kỵ binh, là hoàng thượng ngự tứ để phòng thân. Nếu như nàng biết ca ca bị Kỷ Cương bắt đi, khẳng định là không thể để yên. 

Dương Thu Trì vội nói: "Đi, lập tức đến Bắc trấn phủ ti đòi người!" 

Liễu Nhược Băng: "Ta sẽ đi với chàng!" 

Tống Vân Nhi cũng nói theo: "Muội cũng muốn đi!" 

Dương Thu Trì biết, lần này chỉ sợ không thể dùng lời lẽ tốt đẹp để giải quyết được, và hắn tuyệt đối không thể chịu thiệt trước mắt. Còn về giải quyết thế nào sau đó, hiện giờ không thể lo nghĩ tới trước được. Có Liễu Nhược Băng và Tống Vân Nhi đi cùng, thiệt thòi trước mắt có thể sẽ không xảy ra, cho nên hắn lập tức gật đầu. 

Liễu Nhược Băng giao con cho hai chị em song sinh Sương nhi và Tuyết nhi. Dương Thu trì dặn dò Hạ Bình mang theo cẩm y vệ hộ vệ tăng cường giới bị Dương phủ. Tiếp theo đó, hắn mang theo Liễu Nhược Băng, Tống Vân Nhi, Nam Cung Hùng cùng các hộ vệ và các miêu binh hộ vệ mặt mũi đầy máu đó vội vã đến ngay Bắc Trấn Phủ Ti của cẩm y vệ. 

Đến Bắc trấn phủ ti, hắn trực tiếp xông vào, gác cổng thấy hắn là phó chỉ huy sứ, nào dám cản ngăn, đều đua nhau quỳ xuống làm lễ ra mắt. 

Dương Thu Trì tiến vào nha môn, trực tiếp đến sảnh đường, lớn tiếng quát gọi: "Kỷ Cương! Mau ra đây cho lão tử!" 

Cẩm y vệ thiêm sự Trang Kính và Viên Giang cười ha ha bước tới nghênh đón, thưa: "Phó chỉ huy sứ đại nhân, chỉ huy sứ của chúng ta không có ở trong nha môn a." 

Dương Thu Trì liếc xéo mắt nhìn chúng. Hai tên khốn này chính là bè đảng của Kỷ Cương. Lần trước, dánh sách hắn chuẩn bị tài liệu để báo thỉnh lên hoàng thượng trị tội có hai tên này. Chỉ có điều, có lẽ hoàng thượng không muốn đả kích thế lực của Kỷ Cương thái quá, muốn cân bằng thế lực của Kỷ Cương và của hắn, cho nên chỉ phạt bổng lộc của hai tên này. 

Dương Thu Trì cười lạnh nói: 'Như vậy được, ta hỏi hai ngươi, Kỷ Cương phái người bắt Vân Lăng của Nam Trấn Phủ ti của ta về, có phải là giam trong ngục ở đây hay không? Còn không mau đem hắn thả ra!" 

"Cái này..." Trang Kính và Viên Giang đưa mắt nhìn nhau, đều lộ vẻ kinh ngạc. Trang Kính hỏi lại: "Chẳng thể nào? Ti chức không hề nghe nói đến chuyện này a?" 

Dương Thu Trì chỉ vào hai miêu binh hộ vệ ở phía sau: "Bọn chúng cả chục người bị một đám người không rõ thân phận tập kích, sau đó Kỷ Cương phái cẩm y vệ đến cho Vân Lăng uống rượu quậy phá, giết người nên bắt về theo. Bổn quan chính là muốn tìm Kỷ Cương hỏi cho rõ, rốt cuộc là chuyện thế nào? Hắn bằng cái gì mà bắt người của ta?" 

Trang Kính và Viên Giang không khỏi lộ nụ cười đắc y ở khóe miệng. Viên Giang đáp: 'Đại nhân, hai chúng tôi nhất mực ở trong nha môn này, chuyện này chúng tôi chỉ mới ưừa nghe ngài nói qua thôi, chứ chưa thấy Kỷ chỉ huy sai sử gì hết. Đêm nay Bắc trấn phủ ti của chúng tôi không nghe thấy có hành động gì, và cũng không thấy có bắt người nào về a." 

Dương Thu Trì lười rầy rà cùng chúng, phất tay quát bảo: "Tìm cho ta!" 

Nam Cung Hùng đáp ứng, mang theo hộ vệ định đi lục soát trong Bác trấn phủ ti. Trang Kính và Viên Giang vội ngăn lại, Trang Kính cười lạnh: "Dương đại nhân, hoàng thượng dường như chỉ mệnh cho ngài chấp chưởng Nam trấn phủ ti, các người đến chỗ này dường như là thuộc quyền chấp chưởng của Kỷ chỉ huy sứ a, ngài không nhìn lầm chỗ chứ?" 

Viên Giang cũng cười lạnh tiếp: "Có người tự cho là mình hay, không biết trời cao đất rộng là gì, không đụng đầu vào tường không biết đau đầu, người như vậy trên đời này không ngờ vẫn có." 

Dương Thu Trì tức giận, giơ tay tặng cho Viên Giang một bạt tay thật mạnh, thuận thế phóng một cước, trúng ngay háng Trang Kính. Viên Giang bị đánh lăn mấy vòng, máu mũi bắn ra, mồm sưng vù. Còn Trang Kính thì tái xanh mặt mũi, ôm bộ hạ sụm người xuống rồi ngất đi luôn. 

Dương Thu Trì đưa tay chỉ hai người: "Hai ngươi là cái thá gì mà dám nói chuyện với bổn quan? Thật là muốn ăn đòn!" Nói xong, một quyền nữa được phóng tới mặt Viên Giang. 

Cũng đáng đời cho Viên Giang và Trang Kính, bọn chúng tuy biết Dương Thu Trì và Kỷ Cương kết thù, nhưng chưa hề nghe nói chuyện Dương Thu Trì dạy cho Kỷ Cương một bài học sáng nay. Thứ chuyện mất mặt này Kỷ Cương chẳng thể nói cho thuộc hạ nghe, còn những người khác muốn đem chuyện xấu này truyền đi, tai mắt của cẩm y vệ khắp nơi, nghe được chuyện gì là báo cáo ngay, nhưng chuyện xấu này thì nhất định không dám báo về, cho nên không đến tai hai vị này. Cho nên, hai người không hề biết Dương Thu Trì có cái gan lớn như vậy, cho nên họ cũng to gan đụng chạm với Dương Thu Trì. 

Chờ cho họ hiểu rõ Dương Thu Trì thì ra là có cái gan to lớn như vậy thì đã trễ rồi. Hai nắm đấm của Dương Thu Trì đã liên tiếp đánh trúng mặt Viên Giang. 

Chính vào lúc này, một đạo hàn quang từ trong đại đường bắn ra, bay thẳng tới cổ tay của Dương Thu Trì. 

Liễu Nhược Băng hừ lạnh, phất ống tay áo, dao găm trong tay bay sau mà tới trước, chặn đạo hàn quang đó ở giữa đường, đánh rụng nó, hiện ra một khối đá cuội. 

Tiếp theo đó, từ ngoài đại đường truyền vào tiếng bước chân loạn xạ, tiếp theo đó là một thanh âm cao gắt hét lên: "Họ Dương kia, Bắc Trấn phủ ti vẫn còn chưa phải là chỗ ngươi muốn làm càn gì thì làm!" 

Dương Thu Trì quay đầu nhìn ra ngoài, nghe âm thanh đó thì đúng là kẻ tử địch đối đầu của hắn - Kỷ Cương. 

Quả nhiên, Kỷ Cương chống quài trượng được các hộ vệ vây quanh bảo vệ bước lên bậc thềm, tiến vào đại sảnh. Sau lưng y còn có một người trẻ tuổi mặc áo bào trắng, khoảng hai chục tuổi, tướng mạo khá anh tuấn, chỉ có điều đôi mắt vô cùng âm lãnh. Hiện giờ sắc trời vẫn chưa nóng lắm, nhưng tên này cứ làm vẻ tiêu sái phất phơ quạt xếp, nhìn lên nhìn xuống ngắm nghía Liễu Nhược Băng. 

Viên Giang ôm mặt sưng vù vội vã tránh ra sau lưng Kỷ Cương. Mấy cẩm y vệ vội xốc tới bấm vào huyệt nhân trung của Trang Kính, luôn miệng gọi lắc, một lúc sau tên này mới lấy lại hơi lên, nhưng vẫn còn đau đến hai mắt trợn ngược, mồ hôi lạnh ứa ra, rên rĩ liên hồi. 

Những cẩm y vệ thấy Trang Kính đã tỉnh, liền vội vã kéo hắn vào phía sau. 

Người trẻ tuổi bên cạnh Kỷ Cương xòe quạt, bộ dạng tiêu sái phe phẫy ấy cái, cười hì hì nói với Liễu Nhược Bang: "Vị cô nương này thân thủ thật khá, có thể khiến viên phi đạn của Kỷ mỗ bay đi chỉ có một mình cô mà thôi." 

Liễu Nhược Băng phảng phất như không nghe, không hề để ý gì đến hắn. 

Người trẻ tuổi này lại phe phẫy quạt, xá dài thi lễ: "Tiểu sinh Kỷ Phiêu, là Phiêu trong yên ba phiêu miểu, Kỷ chỉ huy sứ là bá phụ của tiểu sinh, xin thỉnh giáo phương danh của cô nương?" 

Liễu Nhược Băng vẫn giũ thần tình đạm bạc, không hề lý gì đến hắn. Tống Vân Nhi nghe tên Kỷ Phiêu nói là cháu của Kỷ Cương, sinh lòng chán ghét, ở bên cạnh lạnh lùng nói: "Tỷ tỷ của ta trước giờ không nói chuyện với chó." 

"Vậy à? Vậy nàng ta chỉ nói chuyện với cô thôi sao?" Kỷ Phiêu phe phẫy quạt cười tủm tỉm. 

Tống Vân Nhi trừng mắt hạnh, giơ tay phất một mũi liễu diệp phi tiêu, bắn thẳng vào vai Kỷ Phiêu. 

Kỷ Phiêu phất quạt, nhẹ nhàng tiếp lấy mũi phi tiêu ấy. Hắn vẫn cười tủm tỉm như cũ: "Ái da, tiểu sinh nhìn trúng tỷ tỷ của cô, sao cô lại ném tú cầu cho ta thế?" 

Tống Vân Nhi tức giận, định phóng tới hai mũi dao găm, Liễu Nhược Băng ngăn nàng lại, bảo: "Chính sự cần làm hơn." 

Tống Vân Nhi bấy giờ mới trừng mắt nhìn Kỷ Phiêu, xong trở về sau lưng Dương Thu Trì. 

Kỷ Cương hỏi: "Họ Dương kia, ngươi đến Bắc trấn phủ ti ta làm loạn, đánh bị thương hai vị thiêm sự của ta, cái này nên tính sổ làm sao đây?" 

"Rất dễ tính! Ngươi đem hai tên khốn không biết kính nễ thượng ti này cho ta, ta sẽ thay ngươi tính cho chúng!" Dương Thu Trì khoanh hai tay, lạnh lùng hỏi Kỷ Cương: "Ta hỏi ngươi, Vân Lăng có phải là do ngươi bắt không?" 

Kỷ Cương cũng cười lạnh: "Ngươi đến hỏi ta hay là cầu ta vậy?" 

"Ngươi đừng có ngông cuồng con mẹ gì đó, ngươi mà không thả Vân Lăng, có tin là lão tử lật tung cái chiếu ngục của ngươi không?!" 

Trong ba tháng nay, Dương Thu Trì đã biết tâm tư của hoàng thượng. Tên Kỷ Cương này dám động đến lăng mộ của ái phi của hoàng thượng, vì muốn hãm hại hắn mà dám băm vằm di thể của Hiền phi nương nương thành tương, đã khiến cho hoàng thượng có điểm nhịn không được nữa rồi. Tuy Kỷ Cương đối với chính quyền của Minh Thành Tổ còn rất nhiều chỗ hữu dụng, nhưng tình thế như vậy không phải thứ mà Minh Thành Tổ hi vọng có. Vì thế, hoàng thượng mới nghĩ cách bồi dưỡng Dương Thu Trì thành một thế lực mạnh có thể khiên chế thế lực của Kỷ Cương, để tránh cho thế lực của Kỷ Cương quá mạnh. Do đó, Dương Thu Trì hiện giờ được hoàng thượng chống lưng ở phía sau, không cần phải sợ sệch gì. 

Kỷ Cương sao không biết điểm này. Nhưng địa vị của y trong mắt Minh Thành Tổ thật ra chẳng hề lung lay. Đối với tình thế trước mắt, Minh Thành Tổ tuy cần Dương Thu Trì, nhưng có rất nhiều chuyện cần đến Kỷ Cương. Dương Thu Trì trước mắt chỉ là một nước cờ thí để khống chế thế lực của Kỷ Cương, chứ không phải là nước cờ chính, cho nên y cũng không hề sợ. 

Kỷ Cương cười ha hả: "Được! Lão tử cứ ngồi ở đây xem thử hôm nay ngươi lật tung cái chiếu ngục lên như thế nào!" 

Lời vừa rồi chỉ là câu nói trong lúc tức giận của Dương Thu Trì. Chiếu ngục này chính là nhà tù đặc biệt của hoàng thượng, giam trong đó toàn là những khâm phạm mà hoàng thượng giao phó bắt về quy án. Nếu động thủ thật sự, thì chẳng khác nào cấp cho Kỷ Cương cái cớ tuyệt vời để hãm hại hắn, ví dụ như nói là trọng phạm nhân vì thế tử vong hay vượt ngục, đổ hết tội lên đầu hắn, như vậy thì thảm rồi. 

Nhưng mà, nếu như vì thế mà nhận thua thì vô cùng mất mặt, hắn chỉ còn biết xoay chuyển chủ đề: "Kỷ Cương, Vân Lăng rốt cuộc là phạm tội gì, vì sao ngươi lại bắt hắn?" 

"Họ Dương kia, ngươi dường như chỉ là một phó chỉ huy sứ, lão tử mới là chỉ huy sứ, ngươi hỏi như thế chẳng phải là miệt thị thượng ti hay sao?" 

"Miệt thị? Ngươi còn đáng để ta miệt thị hay sao?" Dương Thu Trì phun phèo một bãi nước bọt, chỉ vào Kỷ Cương mắng: "Ngươi đừng quên rằng, ba tháng trước đây trong đại đường này, hoàng thượng đã nhậm mệnh cho ta chấp chưởng Nam Trấn phủ ti, đồng thời kiểm soát bá quan. Ngươi ngồi ghế này trong cẩm y vệ không phải là ít rồi, coi cái bộ dạng đầu hai thứ tóc chỉ biết ăn chẳng biết làm của ngươi kìa, ngươi còn nhớ không vậy? Ngươi có biết là Nam trấn phủ ti làm chuyện gì không?" 

Cẩm y vệ Nam trấn phủ ti có nhiệm vụ trọng yếu nhất là kiểm soát pháp kỷ nội bộ của cẩm y vệ. Vân Lăng nếu như phạm tội, thì là thuộc quyền phụ trách pháp kỷ của Nam trấn phủ ti quản, điểm này Kỷ Cương đương nhiên biết. Kỷ Cương đáp: "Vân Lăng uống rượu rồi vì chuyện riêng mà giết người, bổn quan đương nhiên có quyền bắt hắn quy án." 

"Bắc trấn phủ ti các người cũng có cái đuôi thò dài ra quá hen? Cho dù Vân Lăng xúc phạm pháp kỷ, ngươi đừng có quên đó là thuộc chức quyền của Nam Trấn phủ ti ta, ngươi phải giao cấp hắn cho ta xử lý. Ngươi bằng cái gì mà bắt người không chịu thả?" 

"Lão tử nếu không giao thì sao?" Kỷ Cương ngước mắt nhìn trời. 

Dương Thu Trì nhìn vào bọn cẩm y vệ phía sau lưng Kỷ Cương, nhân số rất nhiều. Tuy bên hắn cũng không ít người, nhưng mà đụng độ chỉ sợ chẳng chiếm được bao nhiêu phần hơn, hơn nữa trong chuyện này vẫn còn chưa đến lúc trở mặt động thủ. Hắn ngẫm nghĩ một chút, lòng đã có chủ ý, lạnh lùng đáp: "Được! Dù gì cũng là Bắc trấn phủ ti cẩm y vệ của ngươi bắt Vân Lăng. Vân Lăng là con trai của phụ quốc ta thánh miêu vương, là ca ca của Vân Lộ công chúa. Ngươi cứ xét phân lượng của mình đi, ngươi không giao người, bổn quan sẽ tiến cung bẩm báo hoàng thượng!" 

Kỷ Cương lạnh lùng đáp: "Vương tử phạm pháp đồng tội với thứ dân! Ngươi chẳng lẽ không biết điều đó? Vân Lăng vì chuyện riêng mà giết người, xét tội đáng phải chém, không giao cho ngươi là sợ ngươi vì chuyện riêng tác tệ, bảo hộ cho bộ hạ. Ngươi chẳng phải nói là muốn lật tung cái chiếu ngục của ta hay sao? Thế nào? Muốn vẫy đuôi chạy rồi à? Ha ha, vừa nhìn là biết người chẳng là cái thá gì cả! Ha ha ha!" 

Dương Thu Trì tức giận, định hạ lệnh tra xét chiếu ngục, nhưng thấy mặt y cười gian, tức thời minh bạch, tên khốn này khẳng định là chuẩn bị sẳn rồi, hắn sẽ bắt bí chỗ hở của hắn, chuẩn bị vu khống hãm hại, hắn không thể nào mắc mưu, tốt nhất là vào cung tìm hoàng thượng! 

Chính vào lúc này, chợt nghe bên ngoài tiếng người ồn áo, người hét ngựa hí, không biết đã phát sinh chuyện gì. Tiếp theo đó, hắn nghe bên ngoài có người lớn tiếng quát: 'Kỷ Cương, ngươi mau ra đây cho ta!" 

Mấy cẩm y vệ vội vã chạy vào, bẩm báo với Kỷ Cương: "Chỉ huy sứ đại nhân, nha môn của chúng ta đã bị thiết giáp kỵ binh của Thanh khê công chúa bao vây rồi, nói nếu như không thả Vân Lăng, sẽ tiến vào cướp người!" 

Kỷ Cương khẽ lộ nụ cười đắc ý, nhưng mạt lại lộ biểu tình chấn kinh, lớn tiếng quát hỏi: "Cái gì? Thanh Khê công chúa muốn cướp chiếu ngục? Như vậy sao được? Mau! Nhanh chóng đóng cửa lớn lại, bảo hộ chiếu ngục...." 

Dương Thu Trì thầm kêu không xong, nếu như Kỷ Cương đem cái tội cướp ngục chụp lên đầu Vân Lộ, thì đó là tử tội chém đầu, đừng nói gì đến cứu Vân Lăng, chỉ sợ ngay cả Vân Lộ đều bị kéo vào và liên lụy! 

Vân Lộ dù sao cũng là ân nhân cứu mạng của hắn, lại nhất mực thâm tình, tuyệt không thể để nàng bị lão con rùa Kỷ Cương này hãm hại. Hắn cần phải nhanh chóng ra ngoài cản trở nàng, vì một khi kỵ binh xông vào, thì cái tội cướp ngục đã thành sự thật. 

Dương Thu Trì quát: "Kỷ Cương, ngươi định hãm hại Vân Lộ công chúa? Có lão tử ở đây, ngươi đừng có hòng! Chúng ta đi!" Nói xong hắn vội bước ra ngoài. 

Kỷ Cương vội vã kêu lên: "Dương đại nhân, không thể ra ngoài, người ngựa của Vân Lộ công chúa sẽ thương hại đến ngài!" 

Hộ vệ của Kỷ Cương đều rút Tú Xuân đao, nhất tề ùa tới, chặn hết đường, mắt gườm gườm nhìn Dương Thu Trì cùng mọi người. 

Liễu Nhược Băng nói: "Vân nhi cùng mọi người đoạn hậu, theo ta xông ra ngoài!" Nói xong, tay lập tức chụp tay Dương Thu Trì, rút đoản kiếm ra, lớn tiếng quát: "Tránh ra!" Đoản kiếm lập lòe, mấy cẩm y vệ cản đường căn bản không thể tránh thoát, Tú xuân đao trong tay đua nhau bị Liễu Nhược Băng đánh văng. Nam Cung Hùng, Thạch Thu Giản hai người một trái một phải, chụp lấy bọn cẩm y vệ mất binh khí này quẳng ra ngoài, lập tức tiếng kêu gào thảm thiết nổi lên. Tống Vân Nhi và Tử Thạch Lăng mang theo những hộ vệ khác bảo vệ hai bên. 

Những cẩm y vệ vây quanh không thật sự động thủ với bọn Dương Thu Trì, một mặt cứ để cho bọn họ chụp quẳng, một mặt chống chịu không lui, trong khi đó Tú Xuân đao trong tay chỉ hư trương thanh thế, miệng thì không ngừng gào thét la giết vang trời, giống như trong này đang đánh nhau tử thương vô số vậy. Tuy Kỷ Cương gọi người đi đóng cửa, nhưng không ai đi đóng, cửa lớn cứ khép hờ như thế. 

Dương Thu Trì lúc này lòng sáng như bưng, Kỷ Cương hãm hại Vân Lăng giết người, một là có thể trừ bớt cánh tay đắc lực của hắn, hai là có thể cứu được kẻ hiềm nghi là Lâm Viễn, chặt đứt manh mối án tiểu thiếp của đô đố đại nhân bị giết, ba là dẫn đến việc hắn đi vào kiểm soát chiếu ngục, mượn cớ đó vu cáo hãm hại hắn. Kế đến, điều thứ tư là có thể dẫn đến việc Vân Lộ bị kích động, dẫn binh bao vây Bắc trấn phủ ti, nhân cơ hội đó vu khống Vân Lộ cướp chiếu ngục. Còn hiện giờ y cho bọn hộ vệ làm như vậy, chẳng qua là bức bách cho Vân Lộ ở ngoài không rõ chân tướng mà kéo đánh vào trong. 

Tên Kỷ Cương này quả thật là ngoan độc. Y biết quan hệ huynh muội của Vân Lăng và Vân Lộ, lần hãm hại này không những chỉa đầu mâu vào hắn, mà còn trực tiếp chỉa vào hai người họ. Thậm chí nói không chừng có thể gây hiệu quả dẫn tới sự tạo phản của miêu vương Vân Thiên Kình. 

Dương Thu Trì vội kêu lên: "Băng nhi, nàng mau xông ra ngoài ngăn chặn Vân Lộ công chúa! Nhanh!" 

Liễu Nhược Băng quay đầu nhìn lại dương Thu Trì, trong mắt thoáng tia do dự và lo âu. 

Dương Thu Trì biết nàng lo cho sự an toàn của hắn, vội bảo: "Đừng lo lắng, ta không sao đâu, ta ở trong Bắc trấn phủ ti của Kỷ Cương hắn, không không dám chân chính động tới ta, nếu không hắn không thể thoát khỏi sự can hệ! Hơn nữa còn có mọi người ở đây!" 

Liễu Nhược Băng quét mắt nhìn, quả nhiên thấy bọn cẩm y vệ của Kỷ Cương chỉ múa Tú Xuân đao hư trương thanh thế, không chân chánh công đánh tới. Nàng gật gật đầu, phất tay một cái, một dây thừng dài phóng qua không trung, cho đầu móc bấu chặt cột cờ của Bắc trấn phủ ti nha môn, rồi dùng lực giật một cái, mượn lực phi thân bay lên giống như một đóa bạch mẫu đơn bay hướng về ngọn cờ. 

Kỷ Phiêu kêu lên một tiếng: "Xuống đi!" Hắn phất quạt, liền vang lên miếng tiếng xuy xuy, từ trong quạt bay ra vô số phi phong châm nhỏ rí, bắn thẳng vào hậu tâm của Liễu Nhược Băng. 

Liễu Nhược Băng phất tay áo, cuốn hết số phi phong châm đó lại, rồi quật mạnh tay: "Trả lại cho ngươi!" 

Kỷ Phiêu giương quạt, thu hết số phi phong châm đó, cười hi hi, vừa định lên tiếng thì hàn quang lóe lên, bấy giờ mới phát hiện sau khi Liễu Nhược Băng quật trả số phi phong châm đó, còn có một mũi liễu diệp phi tiêu bén ngót bay theo. Hắn kêu lên cả kinh vừa định tránh nhưng không kịp, sột một cái, bị phi tiêu bắn trúng đùi! 

Một tiếng kêu thảm cất lên, Kỷ Phiêu quỳ gối một chân xuống đất. 

Tống Vân Nhi cười nói: "Hi hi, tỷ tỷ ta không thích con chó ngươi, quỳ xuống cầu cũng vô ích!" 

Lúc này, Liễu Nhược Băng đã bay lên cột cờ, vòng qua đáp xuống tường cao của nha môn. 

Kỷ Phiêu cắn răng, dụng sức rút mũi liễu diệp phi tiêu ở đùi ra, vẫy tay, bắn phi tiêu về phía Tống Vân Nhi. 

Trong tiếng cười dài, Tống Vân Nhi phất tay áo rộng, nhẹ nhàng cuốn lấy mũi phi tiêu đó: "Vừa khéo, đây là phi tiêu của sư phụ ta, không thể cho ngươi!" Nói xong lấy ra một cái khăn tay, gói nó bỏ vào trong lòng. 

Ngoài nha môn, Vân Lộ đang ở ngoài lớn tiếng mắng: "Kỷ Cương, lập tức giao ca ca của ta ra, nếu không, bổn công chúa đạp bằng trấn phủ ti của ngươi!" 

Điều này không trách Vân Lộ sốt ruột, vì chiếu ngục của Kỷ Cương kỳ thật là địa ngục nhân gian, người tiến vào chiếu ngục có kết cục bi thảm vô cùng, Vân Lộ đã nghe nhiều về chuyện ấy. Vừa rồi những miêu binh đến báo tin nói, Vân Lăng bị cẩm y vệ của Kỷ Cương đánh một trận ở đương trường, hôn mê bất tỉnh, sau đó mới bị lôi đi. 

Vân Lộ nghe ca ca mình bị thảm như vậy, lại nghĩ tới hàng loạt truyền thuyết về chiếu ngục của Kỷ Cương, nghĩ đến ca ca mình sẽ chịu khổ như thế nào, không khỏi lòng nóng như lửa đốt, vội mang theo 500 thiết kỵ đến cẩm y vệ Bắc trấn phủ ti ngay. 

Năm trăm thiết giáp kỵ binh của Vân Lộ dưới sự chỉ huy của hộ vệ trưởng Trương Khiếu Giang tay cầm trường thương, khôi giáp sáng bừng bao vây đoàn đoàn Bắc trấn phủ ti. Họ chỉ cần chờ một tiếng ra lệnh của Vân Lộ, lập tức đánh giết vào cứu người. 

Vân Lộ gọi mấy tiếng, nhưng giọng nói của nàng quá nhỏ, trong khi đó trong Bắc trấn phủ ti vang lên tiếng đánh giết ngút trời, tiếng của nàng căn bản không thể tiến xa. 

Trương Khiếu Giang ra lệnh cho thủ hạ lớn tiếng hò hét theo Vân Lộ công chúa. Lần này thì tiếng quát lớn hơn xa hơn, nhưng cửa lớn của Bắc trấn phủ ti vẫn khép hờ, bên trong tiếng hò hét vang trời, nhưng không ai ra ngoài đáp lại họ. 

Vân Lộ gấp lên, vung roi ngựa, lớn tiếng quát: "Xông vào cho ta!" 

Trương Khiếu Giang hơi do dự, giật ngựa chạy lên trước, hỏi nhỏ Vân Lộ: "Công chúa, đây chính là Bắc trấn phủ ti, trong chiếu ngục này giam giữ toàn là khâm phạm, nếu chúng ta cứ xông vào như thế, e rằng..." 

"Thế nào? Ngươi sợ rồi à? Sợ rồi thì cút đi cho ta!" 

Trương Khiếu Giang không dám nói nữa, vội vã khom người: "Mạt tướng lĩnh mệnh!" Trường thương của y vụt phất, vừa định hạ lệnh xông vào trông, thì chính vào lúc này, ở giữa không trung truyền lại quát trong trẻo: "Vân Lộ công chúa! Không thể xông vào!" 

Một đám mây trắng từ từ đáp xuống trước ngựa của Vân Lộ, thì ra là Liễu Nhược Băng trong bộ đồ trắng. 

Vân Lộ vừa kinh vừa mừng: "Liễu tỷ tỷ! Tỷ đến rồi! Miêu binh hộ vệ nói Thu Trì ca ca ở trong đó, huynh ấy thế nào rồi?" 

Liễu Nhược Băng sau khi lấy Dương Thu Trì, Vân Lộ liền đổi sang gọi nàng là tỷ tỷ luôn!

Liễu Nhược Băng nói: "Thu Trì đang giao thiệp với Kỷ Cương ở bên trong, khiến hắn giao ra lệnh huynh. Thu Trì bảo ta ra đây nói cho công chúa biết, ngàn vạn lần không được xông vào trong, đó là âm mưu của Kỷ Cương. Hắn cố y kích giận cô, khiến cho cô mang binh xông vào trong. Sau đó vu khống cô cướp chiếu ngục, đó là tử tội tru diệt cửu tộc! Chúng ta không thể mắc kế của Kỷ Cương được." 

Lời này nếu là ai khác nói, Vân Lộ chưa chắc đã nghe lọt tai, nhưng Liễu Nhược Băng là ái thiếp của Dương Thu Trì, truyền đạt lời của hắn, hơn nữa bản thân Liễu Nhược Băng không giận mà uy, tự có sự uy nghiêm khiến người ta tín phục. Cho nên Vân Lộ lập tức thanh tỉnh hẳn lại, bình tĩnh suy nghĩ, phát hiện hiệu quả nghiêm trọng trong chuyện này, không khỏi xuất mồ hôi lạnh toàn thân. 

Vân Lộ vội hỏi: "Vậy ca ca của muội làm sao đây? Liễu tỷ tỷ, tỷ võ công cao tuyệt, có thể tiềm nhập vào chiếu ngục cứu ca ca muội ra không, hay là ngầm giúp chiếu ứng cho huynh ấy cũng được a!" 

Liễu Nhược Băng hơi đắn đo, trầm ngâm suy nghĩ, hiện giờ điều Kỷ Cương mong nhất chính là người của chúng ta đánh tới chiếu ngục, chỉ cần thế là tội cướp ngục đã thành sự thật. Và như thế thì bọn chúng đã sớm có phòng bị rồi, hiện giờ nếu nàng đến đó, một là rất khó đắc thủ, hai là chỉ sợ trúng vào quỷ kế của chúng. Nàng đành nói: "Thu Trì đang giao thiệp với bọn chúng, nếu không ổn thì đi tìm hoàng thượng..." 

Vân Lộ lại gấp lên: "Chờ tiến vào hoàng cung tìm được hoàng thượng thì ca ca của muội đã bị chúng đánh chết rồi!" 

"Lệnh huynh là công tử của Miêu vương, là anh ruột của công chúa nàng, Kỷ Cương hắn không dám tự tiện xử tử đâu. Hắn chỉ muốn dùng cái này để đả kích Thu Trì, dẫn dụ chúng ta vào bẫy. Tự tiện xử tử đối với hắn không có cái hay gì." 

"Nhưng mà...." 

Không chờ Vân Lộ nói xong, thì đã nghe ở xa xa có tiếng vó ngựa ồn ào, vài cánh quân đã kéo tới. 

Trương Khiếu Giang cả kinh, lập tức hạ lệnh tổ chức thành đội hình chiến đấu. Rất may là ở quảng trường trước Bắc trấn phủ ti rất rộng, đội hộ vệ của Vân Lộ có huấn luyện bài bản, nên nhanh chóng kết thành trận hình. 

Quân kéo đến không tệ, tổ chức thành một trận trường xà bao vậy thiết kỵ binh của Vân Lộ vào giữa. Cánh quân đó có mấy thớt chiến mã xông lên, dẫn đầu là một thanh niên thân hình cao lớn khôi ngô, tiếng như chuông đồng, cất giọng quát lớn: "Hoàng muội! Muội tự dẫn binh toan tính cướp chiếu ngục, thật là to gan lớn mật! Còn không mau xuống ngựa, theo ta vào gặp phụ hoàng!" 

Vân Lộ cả kinh, ngước mắt nhìn, người đến thì ra là hoàng tử Chu Cao Hú. Cánh quân do y dẫn theo chính là thân binh hộ vệ Thiên Sách vệ do hoàng thượng ngự tứ cấp cho y. 

Quân chế thời Minh về nguyên tắc thì mỗi một vệ có quân ngạch là năm nghìn sáu trăm người. Do đó binh lực của Thiên Sách vệ vượt hẳn 500 thiết kỵ của Vân Lộ công chúa. 

Vân Lộ giục ngựa tiến lên, nói: "Nhị hoàng huynh, Kỷ Cương vu khống hãm hại ca ca muội giết người, rồi đánh huynh ấy tàn nhẫn, bắt vào chiếu ngục của Bắc trấn phủ ty. Muội tin là ca ca muội không giết người, nhất định là do tên cẩu tặc Kỷ Cương vu hãm....!" 

Chu Cao Hú lạnh giọng nói: "Có phải vu hãm hay không thì Kỷ chỉ huy sứ đại nhân tự nhiên sẽ tra rõ. Kỷ chỉ huy sứ là đại thần được phụ hoàng thập phần sủng tín. Hoàng muội, muội sao có thể xuất lời ô uế tự ý miệt thị trọng thần của triều đình thế? Hừ! Muội tự tiện dẫn binh tiến hành bao vây cẩm y vệ trấn phủ ti, toan tính cướp chiếu ngục, cái gan to đến thế là cùng! Còn không mau giải tán hộ vệ của muội, sau đó theo ta đi gặp phụ hoàng lãnh tội!" 

Vân Lộ đơn giản là ngẩn cả người. Vị nhị hoàng huynh này không giúp người nhà của mình, ngược lại lại giúp người ngoài, còn tùy tiện vu hãm nàng muốn cướp ngục. Rất may vừa rồi Liễu Nhược Băng kịp ngăn cản, nàng không hề mang binh xông vào, nếu không quả thật là có lấy hết nước hoàng hà cũng không rửa sạch tội. 

Nàng thật ra là không biết Chu Cao Hú là bè đảng của Kỷ Cương. Năm xưa trong chiến dịch Tĩnh Nạn, Kỷ Cương là thân binh hộ vệ của Minh Thành Tổ, đã nhiều lần kề vai tác chiến với Chu Cao Hú. Sau nhiều lần sinh tử, họ có thể nói là chiến hữu sống chết có nhau rồi. Sau đó trong quá trình tranh đoạt vị trí thái tử, Kỷ Cương thủy chung kiên định đứng bên cạnh Chu Cao Hú. 

Đưa ra lựa chọn này không phải là không có đạo lý: Kỷ Cương có sự mẫn duệ về chính trị rất cao, đã sớm trong chiến dịch Tĩnh Nạn nhận thấy rằng nhị hoàng tử Chu Cao hú tác chiến dũng mãnh, nhiều lần vào sinh ra tử cứu mạng cho Minh Thành Tổ, được Minh Thành Tổ thưởng thức, nhiều lần khen ngợi Chu Cao Hú chẳng khác gì mình năm xưa. 

Còn thái tử Chu Cao Sí lúc đó thì thủ ở hậu phương, lại không biết theo hầu và nịnh hót khiến Minh Thành Tổ vui lòng, do đó Minh Thành Tổ không thích thái tử, nhiều lần có ý đổi vị trí thái tử, để cho nhị hoàng tử Chu Cao Hú làm thái tử. Tuy vẫn chưa đưa ra quyết định cuối cùng, nhưng phần nghiêng về nhị hoàng tử là điều rất rõ ràng, ngay cả thân binh vệ đội Thiên Sách vệ của hoàng thượng cũng giao cấp cho Chu Cao Hú. 

Thiên Sách vệ đâu phải là quân thường, năm xưa Đường Thái Tông Lý Thế Dân khi còn làm Tần vương đã thiết lập cái gọi là Thiên Sách phủ, và binh mã dưới tay gọi là Thiên Sách vệ. Minh Thành tổ đồng ý đưa đội Thiên sách vệ của mình giao cho Chu Cao Hú, dụng ý vô cùng rõ ràng (Chú: Lý Thế Dân lúc đó không phải là thái tử, dù binh quyền và công lao dựng nhà Đường hầu hết là của Lý Thế Dân. Sau đó, Lý Thế Dân đã trù tính quật ngược thế cờ trong chính biến Huyền Vũ môn, diệt thái tử, sau đó lên ngôi vua. Người dịch). 

Kỷ Cương chính là nhìn rõ điểm này, mới kiên quyết đứng bên cạnh hoàng tử Chu Cao Sí. Tuy nhiên, sau đó sự thật chứng minh sự lựa chọn này của y là sai, từ đó mà mất mạng, nhưng hiện giờ thì lựa chọn này rõ ràng là phù hợp với sự tính toán và phán đoán của y. 

Chu Cao Hú xuất hiện trong tình thế căng thẳng này chẳng phải là ngẫu nhiên. Cái bẫy rập này hắn và Kỷ Cương đã bàn tính rất kỹ, chờ Dương Thu Trì tiến vào Bắc trấn phủ ti, Vân Lộ mang binh mã tiến vào cướp ngục, Chu Cao Hú lập tức xuất binh bắt ngay tại trận Vân Lộ, Dương Thu Trì cùng mọi người ngay tại trận, nhân cơ hội đó vu hãm hai người cướp chiếu ngục, khép tử tội và tru di cửu tộc.

Nhưng mà, tai mắt của Chu Cao Hú phát hiện Dương Thu Trì không mắc mưu. Vân Lộ vốn chuẩn bị xông vào trong, nhưng cuối cùng lại dừng. Bọn chúng đem chuyện này báo cho Chu Cao Hú mai phục cách đó không xa. Chu Cao Hú lo lắng là Vân Lộ và Dương Thu Trì lập tức triệt quân khỏi Bắc trấn phủ ti, bao nhiêu kế mưu bỗng chốc tan tành, bèn lập tức xuất binh, bao vây Vân Lộ, định căn cứ vào sự thật hiện giờ, vu khống nàng mưu toan cướp chiếu ngục. 

Toan tính cướp chiếu ngục mắc tội cũng không nhỏ, nói không chừng phải bị rơi đầu. 

Đến lúc này, Dương Thu Trì đã được chúng hộ vệ bảo hộ xông ra khỏi Bắc trấn phủ ti, đến trước quảng trường. 

Vừa nhìn thấy hai quân đối địch trên quảng trường, chiến sự chỉ cần hở một cái là phát sinh, Dương Thu Trì cả kinh, xông tới trước mặt Vân Lộ, lớn tiếng hỏi: "Có chuyện gì vậy?" 

Vân Lộ vừa tức vừa gấp: "Nhị hoàng huynh không giúp ta, còn vu hãm ta nói ta muốn cướp chiếu ngục. Ca ca ta đâu?" 

"Đừng có gấp, đây là bẫy rập do Kỷ Cương lão tặc bày ra, chúng ta không thể mắc mưu. Hiện giờ nàng theo ta lập tức tiến cung gặp hoàng thượng." 

"Dạ!" Vân Lộ gật đầu đáp. 

Từ xa có tiếng cười truyền tới: "Họ Dương kia, ngươi không phải là định lật tung chiếu ngục của ta hay sao? Thế nào? Hiện giờ định cụp đuôi chạy dài rồi sao?" Người nói chính là Kỷ Cương. 

Kỷ Cương được hộ vệ vây quanh cầm quài trượng bước ra khỏi cửa lớn, đến trước mặt nhị hoàng tử Chu Cao Hú, khom người thi lễ: "Ti chức tham kiến nhị hoàng tử điện hạ." 

Chu Cao Hú gật gật đầu, đưa roi ngựa chỉ Dương Thu Trì: "Tặc tử to gan, không ngờ dám sách động Vân Lộ công chúa lĩnh binh cướp ngục, nên đáng tội gì? Còn không mau quỳ xuống!" 

Đối với hoàng tử Chu Cao Hú, Dương Thu Trì trước đó chỉ nghe qua, nhật mực không giao thiệp. Hiện giờ vừa gặp, vị hoàng tử này không ngờ vu khống hắn định cướp ngục, chuyện không thành có, bản lĩnh vu cáo hãm hại của y không kém gì Kỷ Cương. 

Kỷ Cương vu khống hãm hại hắn như vậy còn dễ đối phó, nhưng nếu có thêm nhị hoàng tử Chu Cao Hú được Minh Thành Tỗ vô cùng sủng tín, thì rõ ràng là chuyện không ổn chút nào. Lòng hắn không khỏi trầm xuống, vội vã bước tới khom người thưa: "Ti chức Dương Thu Trì, là cẩm y vệ chỉ huy sứ phó sứ, phụng thánh chỉ chấp chưởng Nam trấn phủ ti. Kỷ Cương bắt thủ hạ Vân Lăng của tôi đi. Ti chức đặc biệt đến đây đòi người, chứ không phải muốn cướp ngục..." 

Chu Cao Hú vung roi ngựa quất mạnh một cái, quát to: "Im miệng! Các ngươi vây kính Bắc Trấn phủ ti, ngươi còn tự thân mang người tiến vào trong ti, hành hung đánh người, lớn tiếng đòi cướp ngục, chẳng lẽ còn giả hay sao?" 

Dương Thu Trì hơi tức giận, không thèm tránh không thèm né đáp: "Ti chức là cẩm y vệ chỉ huy sứ phó sứ, phụng thánh chỉ kiểm sát pháp kỷ của cẩm y vệ, đừng nói gì tiến vào trong Bắc trấn phủ ti, cho dù có tiến vào chiếu ngục thì cũng là sự tình nằm trong quyền hành của ti chức, sao có thể nói là cướp chiếu ngục được? Còn hộ vệ của Vân Lộ công chúa chỉ ở phía ngoài Bắc trấn phủ ti, yêu cầu gặp Kỷ Cương hỏi về sự tình của ca ca Vân Lăng của người, đó là chuyện bình thường, sao có thể coi là cướp ngục được?" 

Chu Cao Hú nhất thời tắc họng, đành quát: "Bổn vương không phải nghe ngươi giảo biện, bổn vương chỉ nhìn thấy binh của các ngươi bao vây Bắc trấn phủ ti, toan tính cướp chiếu ngục, tội này đại ác cùng cực, tặc tử to gan còn không mau quỳ xuống!" 

Dương Thu Trì ưỡn ngục: "Ti chức phụng chỉ hành sự, tại sao lại có tội? Vương gia chỉ là vương gia, không phải là hoàng thượng, ti chức không cần phải quỳ!" 

"Phản rồi! Thật là phản rồi!" Chu Cao Hú lớn tiếng quát to, roi ngựa vụt tới, "Bắt tên tặc tử này lại cho bổn vương!" 

Thân binh hộ vệ đằng sau y đáp ứng xông lên định bắt người. 

Nam Cung Hùng và đội hộ vệ cũng nhanh chóng lên ngăn ở phía trước, Tống Vân Nhi phất đoản kiếm, quát: "Không sợ chết thì tới đây!" 

Trong lúc giằng co đó, chợt nghe xa xa có tiếng vó ngựa, một đội nhân mã giục ngựa phi tới, người đi đầu lớn tiếng hô vang: "Tất cả đều dừng tay! Thánh chỉ đến!" 

Mọi người đều ngước mắt nhìn, thấy đó là một đại đội đại nội thị vệ, đi sau đó chính là Lý công công. 

Lý công công giục ngựa tới trước mặt Dương Thu Trì và Chu Cao Hú, lớn tiếng hô: "Thánh chỉ đến, chỉ huy sứ Kỷ Cương, Trấn viễn hầu Dương Thu Trì, Thanh khê công chúa Vân Lộ quỳ xuống tiếp chỉ!" 

Ba người mặt lộ vẻ nghi hoặc, quỳ xuống dập đầu. 

Giọng nói the thé của Lý công công tiếp đó vang lên: "Hoàng thượng khẩu dụ, lệnh cho Kỷ Cương, Dương Thu Trì, Vân Lộ áp giải nhân phạm Vân Lăng lập tức nhập cung tấn kiến. Khâm thử!" 

Nhị hoàng tử Chu Cao Hú hỏi: "Công côg, hoàng thượng không gọi ta tới sao?" 

"Hoàng thượng còn chưa biến Hán vương gia ngài cũng có ở đây," Lý công công quét mắt nhìn xung quanh, tức thời minh bạch, mỉm cười nói tiếp: "Hay là... vương gia ngài cũng theo vào luôn một thể."

"Được, bổn vương đang có ý đó!" Chu Cao Hú đưa roi ngựa chỉ Dương Thu Trì, "Tặc tử này kích động Vân Lộ công chúa dẫn binh bao vây Bắc trấn phủ ti, toan tính cướp chiếu ngục, theo lý thì phải bắt trói lại hỏi tội! Người đâu...!" 

Lý công công vội nói: "Vương gia, hoàng thượng chỉ nói muốn truyền Dương đại nhân tấn kiến, không nói bắt trói a." 

"Chẳng lẽ bổn vương còn không thể bắt tên loạn thần tặc tử này lại hay sao?" Chu Cao Hú tức giận hỏi. 

Vị nhị hoàng tử Chu Cao Hú này rõ ràng chẳng giảng chút đạo lý nào, nằng nặc đòi trói Dương Thu Trì lại mới cam tâm. Dương Thu Trì không khỏi bốc hỏa lên đĩnh đầu, chẳng cần nghĩ ngợi chi xa xôi, lớn tiếng bảo: "Vương gia, căn cứ Đại Minh luật, chỉ có cẩm y vệ và tam pháp ti mới có thể bắt người, hoặc là phụng thánh mệnh hành sự mới có thể bắt người." Ý trong lời nói đó rõ ràng là Chu Cao Hú ngươi tuy là hán vương, nhưng cũng không có quyền lực tùy tiện bắt người. 

Chu Cao Hú có khi nào chịu qua sự ương ngạnh thế này, lập tức đưa roi ngựa chỉ Dương Thu Trì, tức giận quát: "Được! Được! Chờ bổn vương làm ...., hừ! Người đầu tiên bổn vương muốn diệt cửu tộc chính là ngươi!" 

Dương Thu Trì lạnh khắp cả người, trước khi hắn xuyên việt đến đây, đoạn lịch sử này hắn không hề tìm hiểu rõ, cho nên khi đến rồi mới biết ba hoàng tử tranh đoạt địa vị thái tử. Hắn không hiểu lịch sử, nên không biết hoàng đế sau Minh Thành Tổ là ai, nếu quả thật đó là Hán vương Chu Cao Hú, thì coi như vận mệnh của hắn quá xui xẻo rồi. 

Nhưng mà, cũng vì câu nói này của Chu Cao Hú, khiến cho Dương Thu Trì hạ định quyết tâm toàn lực trợ giúp ân nhân cứu mạng của mình là thái tử Chu Cao Sí kế vị, chứ quyết không thể để vị nhị hoàng tử Chu Cao Hú này lên ngồi ghế hoàng đế là tru diệt chín tộc của hắn. 

Nếu như đã hạ quyết tâm đó, Dương Thu Trì đã không cần phải sợ nhị hoàng tử nữa, cười lạnh lùng, chuyển thân nói với Kỷ Cương: "Kỷ đại nhân, hoàng thượng ra lệnh cho ông lập tức áp giải Vân Lăng cùng ta vào kiến giá, ông sẽ không kháng chỉ bất tuân chớ?" 

Minh Thành Tổ kịp thời nhúng tay, khiến cho Kỷ Cương cảm thấy bất ngờ. Nhưng mà, hôn nay Dương Thu Trì không hoàn toàn rơi vào cái bẫy do y sắp bày, khiến cho Kỷ Cương có chút tiếc nuối, nhưng chỉ dựa vào hiện tại, y có đủ tự tin vu hãm Dương Thu Trì, Vân Lộ và Vân Lăng, cho nên lập tức dặn dò bộ hạ áp giải Vân Lăng ra. 

Vân Lộ hô lên một tiếng cả kinh, lắc người xuống ngựa chạy tới ôm Vân Lăng: "Ca! Huynh thế nào rồi?" 

Vân Lăng bị đánh mặt mày sưng húp, một con mắt bị đánh thâm thủng nhìn không rõ cái gì hết, môi miệng thì sưng vều, toàn thân trên dưới đều đầy vết roi và ứa đầy máu nhớp nháp. Hắn hàm hồ đáp không rõ: "Ca không sao... đừng lo lắng..." 

Vân Lộ đau xót ôm Vân Lăng, quay người lệnh cho Trương Khiếu Giang: "Mau đến đây! Giúp ta cởi trói cho ca ca ta!" 

Trương Khiếu Giang buông người xuống ngựa, mang kiếm bước tới. Mấy cẩm y vệ áp giải Vân Lăng đều rút Tú xuân đao ra đứng ngăn ở trước mặt. Trương Khiếu Giang múa trường kiếm, lanh canh mấy tiếng, vài tên cẩm y vệ trúng kiếm nơi tay, kêu thảm lùi lại, những cẩm y vệ khác định xông lên, đã nghe Kỷ Cương ho khan một tiếng, lắc lắc đầu, liền lui cả lại. 

Trương Khiếu Giang múa xoạt xoạt mấy kiếm, cắt đứt hết dây trói của Vân Lăng. Tay của Vân Lăng bị trói quá lâu, tê buốt hết cả, nhất thời động đậy không được. Vân Lộ đỡ hắn đi cùng. 

Dương Thu Trì bước tới đón, hỏi: "Vân Lăng, thế nào rồi? Bị thương nặng không?" 

Vân Lăng nhếch cái môi bị đánh sưng vều, cười hì hì: "Tôi không sao, đều là thương ngoài da, đa tạ hầu gia lo lắng." Tiếp theo đó quỳ một chân, ôm quyền nói: "Ti chức không hoàn thành nhiệm vụ hầu gia giao phó, thỉnh hầu gia ban tội!" 

Dương Thu Trì đưa hai tay nâng hắn dậy: "Chuyện này không trách ngươi, chỉ trách là chúng ta không nhận rõ con chó cắn người đã thành tính này! Ta hỏi ngươi, ở Miên Xuân lầu trong ngõ hoa, ngươi có từng gây ra án mạng hay không?" Đây là điều Dương Thu Trì quan tâm nhất, người khác nói thế nào cũng không rõ bằng người trong cuộc nói. 

Vân Lăng vội đáp: "Tôi không có! Bọn chúng ở trong chiếu ngục đã dùng khốc hình bức cung với tôi, và cũng muốn tôi thừa nhận giết người đó, nhưng tôi thật sự không giết. Chúng tôi bắt và áp giải Lâm Viễn ra, vừa đến ngoài vườn thì có một đám người xông vào, tay cầm thiết côn đánh loạn vào chúng tôi, cũng không biết đó là bọn nào. Tôi cầm đao múa đỡ đề kháng, tiếp theo đó bị loạn côn đánh hôn mê đi!" 

"Múa đao đề kháng? Vậy ngươi có làm bị thương người nào không?" 

"Khẳng định là không! Nếu làm người nào bị thương tôi khẳng định sẽ cảm giác được. Tôi lúc đó chỉ đề kháng thiết côn bọn chúng tập kích thôi." 

Dương Thu Trì nói: "Chuyện này ta sẽ tra ra cho rõ, ngươi yên tâm. Hiện giờ hoàng thượng muốn triệu kiến mấy người chúng ta, ngươi theo bọn ta tiến vào cung diện thánh, hãy đem sự tình kinh qua kể kỹ lại, hoàng thượng tự sẽ có công đạo." 

Vân Lăng nhất mực bị giam trong lao, bị đánh bị đập, tình huống bên ngoài không hay biết gì, giờ nghe Dương Thu Trì nói, mới biết là đã xảy ra nhiều sự tình nghiêm trọng đến như vậy. Khi nghe nói hoàng thượng muốn triệu kiến, hắn lập tức hơi hoảng. Hắn tuy đã gặp qua hoàng thượng, nhưng trước đó là cùng cha Vân Thiên Kình đưa Vân Lộ tới kinh thành thành hôn với tam hoàng tử. Còn hiện giờ thì bản thân hắn đã là người đang mang tội, tinh huống rõ rằng rất khác, không khỏi sinh nỗi thắc thỏm trong lòng. 

Dương Thu Trì vỗ vô vai của hắn: "Yên tâm, có ta và Vân Lộ công chúa ở đây, chúng ta nhất định không chịu thua thiệt đâu!" Xong hắn chuyển thân nói với Vân Lộ: "Chúng ta đi thôi!" 

Vân Lộ gật gật đầu, Trương Khiếu Giang đã dẫn ngựa của Vân Lộ công chúa lại, ngoài ra còn cho ngươi đưa một thớt ngựa tới cho Vân Lăng. Dương Thu Trì cũng lên ngựa của mình, đoàn người lập tức giục ngựa tiến tới ngọ môn của hoàng cung. 

Chu Cao Hú vừa rồi bị lời của Dương Thu Trì làm cho tức đến toàn thân phát run, nhưng mà hiện giờ có thánh chỉ triệu kiến Dương Thu Trì và Vân Lộ, y cũng chẳng làm sao được, chỉ còn biết cùng với Kỷ Cương đi theo phía sau đến hoàng cung. 

Cẩm y vệ Trấn phu ti nằm ở ngoài cung thành, phía trong hoàng thành, phía trái ngự đạo. Đoàn người đi qua Ngũ long kiều, Thừa thiên môn, Đoan môn, đến phía ngoài ngọ môn của cung thành. 

Tiến vào ngọ môn thì là hoàng cung chân chánh, do đó, ở đây ngoài trừ thiếp thân hộ vệ và cân ban, đội hộ vệ không thể tiến vào. 

Dương Thu Trì mang theo Tống Vân Nhi, Liễu Nhược Băng và ba thiếp thân hộ vệ. Vân Lộ mang theo Trương Kiếu Giang cùng vài hộ vệ từ bên phải ngọ môn tiến vào hoàng cung. Nhị hoàng tử Chu Cao Hú và Kỷ Cương cũng tự mang theo thiếp thân hộ vệ của mình tiến vào theo. Đoàn người đi xuyên qua Phụng thiên môn, Càn Thanh môn, tiến vào hậu đình, đến tẩm cung của Minh Thành Tổ là Càn Thanh cung. 

Hiện giờ đã vào canh ba, nhưng mà hoàng thượng Minh Thành Tổ thường phê duyệt tấu chương đến khuya, do đó ngủ rất trễ. 

Mọi người cùng đến ngoài vườn, Lý công công vào trong thông báo, tiếp theo đó trở ra nói: "Hoàng thượng cho Kỷ chỉ huy sứ và nhị hoàng tử tiến vào, và cho giải nhân phạm Vân Lăng cùng vào theo. Dương đại nhân, Vân Lộ công chúa thỉnh chờ ở ngoài." 

Kỷ Cương nghe thế, cùng Chu Cao Hú nhìn nhau cười, nụ cười lộ vẻ đáng sợ. 

Hai người họ tiến vào phòng xong, đại nội thị vệ cũng áp giải Vân Lăng tiến vào theo. Dương Thu Trì thầm cảm thấy không ổn. Minh Thành Tổ trước hết cho gọi Kỷ Cương vào, hiển nhiên là tuy hoang thượng hi vọng hắn có thể thành thế lực kềm chế Kỷ Cương, nhưng trước mắt, trong tâm của Minh Thành Tổ, địa vị của hắn dù sao cũng không thể bằng Kỷ Cương được! 

Điều này cũng không có gì là kỳ. Dương Thu Trì bất quá chỉ là chuyên gia về phá án, và đối với Minh Thành Tổ, điều tra phá án thật ra chẳng trọng yếu gì. Nếu như ông ta cần đả kích thế lực nào đó, tài vu khống hãm hại của Kỷ Cương mới là có ích cho quyền lực của ông ta. Cái ông ta cần không phải là chứng cứ, không phải là đem chứng cứ ra khiến cho đối phương tâm phục khẩu phục, mà là ông ta muốn mượn một cái cớ, một cái cớ để về mặt biểu hiện khiến cho nhân tâm, cho lòng dân tâm phục khẩu phục, ví dụ như đối phương nhận tội. Và điểm này thì rõ ràng Kỷ Cương giỏi hơn hắn nhiều. 

Đối với chuyện củng cố chính quyền của Minh Thành Tổ, tác dụng của Kỷ Cương to lớn hơn Dương Thu Trì nhiều. Hắn thầm nghĩ, hoàng thượng cho gọi bọn họ vào trước, nghe những lời hồ thuyết bát đạo của họ, có được cái ý vào trước làm chủ rồi, thì tình huống này đã nghiêm trọng đến mức không có gì để gở gạc được nữa.

Lần này, ngoại trừ Kỷ Cương với cái lưỡi không xương từ không nói có, còn có nhị hoàng tử Chu Cao Hú là nhân vật quan trọng, đại sự xem ra không ổn rồi. 

Dương Thu Trì tuy còn chưa biết địa vị của Chu Cao Hú trong tâm Minh Thành Tổ thế nào, nhưng có một điều mà hắn biết, đó là Chu Cao Hú là con trai hoàng đế, và từ chuyện hoàng thượng đưa Thiên Sách vệ đại danh đỉnh đỉnh của mình giao cho y, thì quan hệ giữa y và hoàng thượng không phải tầm thường nữa rồi. 

Dương Thu Trì cảm thấy tình huống không ổn, có vết xe đổ bị vu hãm lần trước, lần này hắn cảm thấy lực lượng của mình không đủ đối kháng với Chu Cao Hú và Kỷ Cương, nên cảm thấy khẩn trương xuất hạn cả mồ hôi lạnh. Tuy nhiên, lần này do đã dự cảm trước, nên hắn không hoảng sợ cho lắm. 

Lại chờ thêm rất lâu, sau đó mới thấy mấy vị cẩm y vệ áp giải Vân Lăng đẩy ra ngoài. Kỷ Cương cười âm hiểm đi phía sau. Vân Lăng giãy giụa la lớn: "Oan uổng a! Ta không giết người! Hầu gia, Vân Lộ, cứu ta a!" 

Vân Lộ cả kinh, xông tới ôm chặt Vân Lăng, khẩn cấp hỏi: "Ca! Làm sao vậy?" 

Vân Lăng kinh khủng đến nỗi mặt dúm dó biến hình, khản giọng nói: "Kỷ Cương bọn chúng... bọn chúng nói ta giết người, hoàng thượng hạ chỉ kéo ta ra ngọ môn đánh một trăm trượng, do Kỷ Cương giám hình!" 

Lòng Dương Thu Trì trầm xuống, một trăm đình trượng không phải là chuyện chơi, huống chi Kỷ Cương giám hình. Lão tiểu tử này chỉ cần cho hai mũi chân hướng vào trong, thì Vân Lăng chết chắc. Cho dù Minh Thành Tổ có lệnh tha cho hắn một mạng, Kỷ Cương có thể báo thụ hình không nổi chết đi thì xong. Và cho dù đánh không chết, thì đánh thành siêu đẳng tàn phế thậm chí thành người thực vật cũng coi như tiêu tùng rồi. 

Vân Lộ càng kinh hãi hơn, ôm chặt ca ca của mình: "Không! Không thể nào! Ca chờ đó, muội muốn gặp hoàng thượng, ca không có giết người! Bọn chúng hãm hại huynh! Muội sẽ yết kiến hoàng thượng!.... Các ngươi cút ra! Không được đụng tới ca ca của ta! Nếu không ta giết các ngươi!" Vừa nói, nàng vừa đá vào mấy cẩm y vệ áp giải Vân Lăng. 

Mấy cẩm y vệ nào dám động thủ với công chúa. Chủ tử đánh người, bọn chúng thậm chi còn không dám tránh, đừng nói chi là đánh trả. 

Kỷ Cương âm lãnh cười: "Vân Lộ công chúa, tuy Vân Lăng giết người, nhưng hoàng thượng long ân hạo đãng, niệm tình hắn là hoàng tộc, nằm trong bát nghị, cho nên miễn cho cái chết, đình trượng một trăm hèo coi như xong, không sao đâu, ti chức sẽ khiến bọn chúng cẩn thận đánh, yên tâm đi." 

"Phì!" Vân Lộ phun một bãi nước bọt vào Kỷ Cương, "Tên cẩu tặc mặt người lòng thú như ngươi dám đụng vào ca ca ta, ta sẽ giết ngươi!" 

Vân Lộ là công chúa, là chủ tử, Kỷ Cương không dám đắc tội, cười bối rối: "Ti chức phụng thánh chỉ hành sự, thỉnh công chúa hiểu cho!" Xong phẫy tay, mấy tên cẩm y vệ lại định bước lên kéo Vân Lăng. 

Vân Lộ ôm che lấy Vân Lăng, một mặt đá cẩm y vệ, một mặt khóc lóc nói với Dương Thu Trì: "Thu Trì ca, bọn chúng định giết ca ca muội! Huynh cứu ca ca của muội đi a...!" 

Dương Thu Trì bước lên nói với Kỷ Cương: "Án của Vân Lăng chưa tra rõ, không thể như thế mà hành hình, chờ ta gặp hoàng thượng rồi nói sau!" 

Kỷ Cương cười lạnh đáp trả: "Chờ ngươi? Ngươi là cái thá gì? Bổn quan phụng thánh mệnh hành hình, ai dám ngăn trở? Mang đi!" 

Mấy cẩm y vệ xông tới, Dương Thu Trì trong lúc nóng giận đã vung quyền lên đánh, thoáng cái đã đánh ngã mấy người. 

Kỳ thật, các vị cẩm y vệ phụ trách hành hình này tuy không thể kể là cao thủ nhất lưu, nhưng võ công không tệ. Nếu đánh nhau thật, Dương Thu trì chưa chắc là đối thủ của chúng. Nhưng hiện giờ một bên là cẩm y vệ chỉ huy sứ, một bên là phó chỉ huy sứ cộng thêm công chúa, cục diện này khiến bọn chúng không biết nghe ai. Mấy người rất nhanh trí, chỉ cần Dương Thu Trì động thủ, bọn chúng một là không có gan đối địch với phó chỉ huy sứ đại nhân, hai là giả vờ hôn mê đi là có thể tránh được cửa ải này, cho nên mấy người dễ dàng bị Dương Thu Trì đánh hạ. 

Kỷ Cương không giỏi về loại đánh giáp lá cà này, hơn nữa trọng thương vừa bớt, chân tay không lanh lẹ, chỉ chống quài trượng đứng đó không dám lên, chỉ Dương Thu Trì quát: "Ngươi... ngươi dám cướp khâm phạm!" 

"Tên cẩu tặc ngươi ngoại trừ ngậm máu phun ngươi, còn điểm gì khác nữa không?" Dương Thu Trì lạnh lùng cười. 

Đúng lúc đó, trong phòng có một thái giám đi ra, lớn tiếng hô: "Hoàng thượng khẩu dụ, tuyên Trấn Viễn hầu Dương Thu Trì, Thanh Khê công chúa Vân Lộ tấn kiến!" 

Vân Lộ khóc lóc ôm đẩy Vân Lăng vào trong: "Ca! Chúng ta đi gặp hoàng thượng, chúng ta không thể để chúng hiếp đáp như vậy!" 

Ba người tiến vào phòng, Kỷ Cương cũng chống gậy đi cà nhắc tiến vào theo, ngữa cổ lớn tiếng hô: "Hoàng thượng, bọn chúng cướp khâm phạm Vân Lăng rồi!" 

Dương Thu Trì đưa mắt nhìn thấy mặt của Minh Thành Tổ âm lạnh, giật thót người, thầm kêu không xong. Nét mắt này quá quen rồi, lần trước khi hắn bị Kỷ Cương vu hãm, Minh Thành Tổ cũng dùng thứ nét mặt và ánh mắt này nhìn hắn, chẳng lẽ lần này cuối cùng cũng bị bức dùng đến súng rồi sao? 

Dương Thu Trì quỳ xuống dập đầu: "Hoàng thượng, án Vân Lăng giết người, vi thần có lời muốn nói." 

Vân Lộ y như cũ ôm ca ca Vân Lăng của mình, sợ người khác cướp hắn đi, khóc lóc nói: "Phụ hoàng! Ca ca của con bị oan uổng đó! Người không thể vì thế mà giết huynh ấy được!" 

Minh Thành Tổ bảo: "Lộ nhi, vương tử phạm pháp, đồng tội với thứ dân. Huynh trưởng của con giết người, có nhiều người chứng minh, thi thể của người bị hại còn đó, có thể làm chứng rõ ràng. Nhân chứng vật chứng đều đủ đầy, con muốn phụ hoàng làm sao đây? Phụ hoàng đã căn cứ vào bát nghị, miễn cho hắn tử tội, đình trượng một trăm hèo...." 

"Không...! Đình trượng trăm hèo là huynh ấy chết chắc!" Vân Lộ khóc gào: "Ca ca của con không giết người! Bọn họ oan uổng huynh ấy!" 

Minh Thành Tổ nhíu mày: "Lộ nhi...! Con hãy về trước, ngày mai phụ hoàng đến phủ gặp con! Được không?" Minh Thành Tổ quay lại nói với Lý công công: "Cho nữ quan trong cung đưa Lộ nhi về phủ trước." 

Lý công công khom người đáp ứng, định bước ra gọi nữ quan. 

Vân Lộ ôm chặt Vân Lăng, ré lên: "Không! Con không về đâu! Phụ hoàng, người không thể giết ca ca của con! Ca ca của con bị oan uổng mà!" 

Vân Lăng đã sợ đến mặt tái nhợt, miệng không ngừng thều thào: "Ta oan uổng... ta oan uổng a..." Ngoại trừ câu nay, hắn không biết nói sao cho ổn. 

Dương Thu Trì dập đầu tâu: "Hoàng thượng, án Vân Lăng giết người chưa tra rõ án tình, không thể như thế mà dễ dàng dùng trọng hình!" 

Nhị hoàng tử Chu Cao Hú phì một tiếng cười lạnh: "Ngươi là cái thá gì, phụ hoàng ta tự thân thẩm tấn án này, ngươi lại dám nói là chưa rõ ràng! Quả thật là đại nghịch bất đạo!" 

Dương Thu Trì biết, vừa rồi hai người này khẳng định là ta một câu ngươi một câu, đã đem án này định rõ. Hai người này, một là nhị hoàng tử được Minh Thành Tổ nhất mực muốn đưa lên vị trí tiếp nhiệm mình, một là đại thần tối thân tín và tin dùng nhất, thì còn có lời nào để nói nữa. Nếu như án này đã được hoàng thượng khâm định, muốn lật ngược trở lại chỉ còn có nước xuất kỳ chiêu. 

Dương Thu Trì lớn tiếng thưa: "Hoàng thượng, cho dù Vân Lăng giết người, cũng là có nguyên nhân, chính là Kỷ Cương trước hết phái người giết chết ái thiếp của Tiết Lộc Tiết đô đốc. Vân Lăng tra án bắt giữ hiềm nghi phạm thì bị giặc phỉ tập kích, mới tạo thành ngộ thương!" 

Dương Thu Trì trước hết khẳng định lại án do hoàng thượng định, để tránh cho ông ta sản sinh tâm lý đối lập, sau đó đưa án ái thiếp của Tiết Lộc ra. Tiết lộc cũng là trọng thần thân tín của Minh Thành Tổ, chỉ có như thế mới dẫn tới sự trọng thị của ông ta. 

Quả nhiên, Minh Thành Tổ à một tiếng, nhìn trừng Dương Thu Trì, một lúc sau mới giơ tay ra hiệu cho hắn bình thân, tiếp theo đó mặt mày không vui nói: "Dương ái khanh, ngươi cổ động Lộ nhi xông đánh Bắc trấn phủ ti, toan tính cướp chiếu ngục, trẫm còn chưa hỏi tội ngươi, ngươi lại đến nói bậy cái gì là ái thiếp của Tiết đô đốc bị giết, cái gì Kỷ ái khanh chỉ sử? Ngươi điên đảo trắng đen, xáo trộn mọi thứ, rốt cuộc là muốn làm cái gì?" 

Tuy Minh Thành Tổ nói lời không thiện, nhưng lòng Dương Thu Trì vẫn hơi giản ra, vì chí ít lần này Minh Thành Tổ cũng để cho hắn đứng mà nói, chứ không phải như lần trước nhất mực phải quỳ. Có khả năng là hoàng thượng đối với lời của Kỷ Cương nói còn có chút nghi ngờ, và cũng có thể là Minh Thành Tổ có lòng nâng đỡ cho mình, cho nên mới có động thái như vậy. 

Dương Thu Trì khom ngừơi thưa: "Hoàng thượng, chuyện này nói ra rất dài, án Vân Lăng giết người cũng từ đó mà ra. Hoàng thượng có thể nghe vi thần trình bày tường tận hay không?" 

Minh Thành Tổ còn chưa trả lời, nhị hoàng tử Chu Cao Hú đã giành nói trước: "Phì! Phụ hoàng có nhiều chuyện quân cơ sự vụ trọng đại cần xử lý, còn đâu rảnh mà nghe ngươi nói nhăng nói cuội? Thật là thứ không biết sống chết gì!" 

Dương Thu Trì đưa mắt thấy Minh Thành Tổ nhíu mày không hài lòng, chẳng còn cách nào khác, quyết định phải cùng bọn họ đánh một trận võ mồm, cung thân nói: "Hoàng thượng, Vân Lăng chính là con trai của Miêu vương, cho dù là phạm phải trọng tội giết người, nếu như không hỏi cho minh bạch, qua loa dùng ngay trọng hình, chỉ sợ Miêu vương không phục a!" 

Nhị hoàng tử Chu Cao Hú quát: "To gan! Dám dùng Miêu vương để uy hiếp phụ hoàng ta, Miêu vương là cái thá gì? Ngày nào đó ta dẫn một đội nhân mã, đạp bằng Miêu cương của hắn, lấy đầu hắn về treo trên cổng thành!" 

Minh Thành Tổ hừ lạnh một tiếng, mặt mày đầy vẻ không hài lòng, quay lại nói với Chu Cao Hú: "Cao Hú, con cần phải nhớ, người Miêu không phục vương hóa đã lâu, các triều đời trước đều nhiều lần chinh tiểu, lao dân tốn của, như hiệu quả thu được rất ít. Do đó, có thể dùng cách an phủ được thì tuyệt đối không thể vọng động đao binh. Nghe rõ chưa?" 

Chu Cao Hú lập tức minh bạch, Minh Thành Tổ đây là đang chỉ dẫn cho y yếu quyết trị nước, và ý tứ trong đây đã quá rõ ràng, lòng không khỏi mừng rỡ, vội vã khom người thưa: "Dạ! Thần nhi kính cẩn nhớ lời giáo huấn của phụ hoàng!" 

Minh Thành Tổ gật gật đầu, nói: "Lời của Dương ái khanh cũng có lý, thôi được, Dương ái khanh chấp chưởng Nam Trấn phủ ti, kiểm soát pháp kỷ của cẩm y vệ. Vân Lăng này là cẩm y vệ, hắn phạm pháp, tự nhiên do Dương ái khanh thẩm tấn. Tuy trẫm đã thẩm tra qua, nhưng nghe thêm ý kiến của Dương ái khanh cũng không sau, sao này đối với Miêu vương cũng dễ nói chuyện." 

Lời vừa rồi của Minh Thành Tổ nhất mực xoay vầng trong tâm tư của Chu Cao Hú, khiến y vô cùng cao hứng, cho nên những lời nói sau này y không để ý gì, cũng không đảo loạn gì nữa. Nếu như y không nói, hơn nữa thái độ của Minh Thành Tổ cũng đã quá rõ ràng, Kỷ Cương không còn cách nào khác. 

Dương Thu Trì nghe hoàng thượng nói vậy, vô cùng mừng rỡ, khom người thưa: "Chuyện này cần phải nói từ án ái thiếp của Tiết lộc bị giết. Hôm nay sau buổi triêu sớm, đô đốc phủ Tiết Lộc Tiết đại nhân mời thỉnh ti chức đến phủ của ông ta làm khách, còn báo án với ti chức, nói rằng một người thiếp của ông ta tên là Hư Linh Tử bị người giết trong phòng, ngoài ra còn có hai nha hoàn cũng bị giết ở đó, trước đó do Cố phủ doãn Cố đại nhân tự thân tra án, nhưng rất tiếc là chưa tìm bắt được chân hung. Tiết Lộc yêu cầu vi thần tra án này..." 

Minh Thành Tổ khe khẽ nhíu mày: "Thiếp thất của Tiết Lộc bị giết...? Chuyện này là thế nào?" 

Dương Thành Tổ liếc mắt thấy sắc mặt Kỷ Cương hơi biến, tức thời lòng bừng sáng nảy ra ý, cúi đầu nhỏ giọng đáp: "Tiết đô đốc đại nhân mới cưới một người thiếp. Người thiếp này nguyên là một đạo cô ở đạo quan, đạo hiệu là Hư Linh Tử, dáng mạo như hoa, Kỷ đại nhân dường như cũng nhìn trúng đạo cô này..." 

"Nói bậy! Không có chuyện đó...!" Kỷ Cương vội vã cải chính. 

Minh Thành Tổ hừ một tiếng, lừ mắt nhìn Kỷ Cương, Kỷ Cương vội vã im miệng. 

Dương Thu Trì lại yên lòng hơn một chút, xem ra Minh Thành Tổ lần này không như lần trước dễ dàng tin lời Kỷ Cương. Chỉ cần cho hắn được nói, thì sẽ không có chuyện gì mà nói không rõ. 

Dương Thu Trì nói tiếp: "Kỷ đại nhân nhờ người nói với Tiết đô đốc đại nhân là muốn có vị mỹ cơ đó, bị Tiết đô đốc đại nhân cự tuyệt. Sau chuyện này, vị mỹ cơ đó bị người ta gian sát tại nhà! Ngoài ra còn có hai thị nữ bị giết cùng, đầu bị chặt đứt hẳn." 

Minh Thành Tổ a lên một tiếng: "Có chuyện này sao?" 

"Vi thần dám lấy tính mệnh đảm bảo!" Dương Thu Trì khom người thừa, "vì thần trưa nay đã từng được Tiết đô đốc thỉnh nhờ, tiến hành khai quan nghiệm thi, phát hiện ái thiếp Hư Linh Tử của Tiết đô đốc đại nhân bị trúng một đao ở tim mà chết. Còn hai nha đầu thì bì người ta cắt đứt đầu." 

Minh Thành Tổ đối với năng lực khám tra án mạng của Dương Thu Trì rõ ràng là tin tưởng không hề nghi ngờ, nghe lời gật đầu, hỏi: "Trẫm sao không nghe Tiết ái khanh nói qua chuyện này?" 

"Tiết đô đốc cẩn thận từng chút, hoàng thượng bình thường lo liệu vạn chuyện, làm sao có thể rảnh rỗi nghe những chuyện nhỏ nhặt thế này. Do đó Tiết đô đốc chỉ báo án lên Ứng thiên phủ nha môn, không kinh động hoàng thượng. Hơn nữa, điều này so với những chuyện Tiết đô đốc bị Kỷ đại nhân chèn ép khác thì nhỏ như gợn nước giữa cơn biển động, nào có đáng gì." 

Minh Thành Tổ hơi nhíu mày: "Lời này là sao?" 

Dương Thu Trì liếc xéo Kỷ Cương, thấy thần tình của y kinh hoảng. Nếu như Tiết Lộ đã nói cộng mưu tiến thối, thì chuyện này nếu không nói ngay bây giờ, sẽ không còn cơ hội nào tốt hơn để nói nữa. Hắn thầm quyết định, khom người thưa: "Hoàng thượng, năm rồi Tiết đô đốc từng gần một tháng không thượng triều đúng không ạ?" 

Minh Thành Tổ ngẫm nghĩ, gật đầu đáp: "Không sai, dường như là bị bệnh." Ông ta quay sang nhìn Lý công công, "Lão lí đầu, có phải như vậy không?" 

Lý công công khom mình thưa: "Dạ... Tiết đại nhân lúc đó bẩm báo như vậy." 

Dương Thu Trì nói: "Không phải như vậy! Tiết đại nhân không hề sinh bệnh, mà là bị Kỷ Cương ở hoàng cung dùng quài trượng đánh vào đầu, não suýt bị đánh vỡ, phải nằm ở trên giường suốt cả tháng mới dậy được. Chuyện này rất nhiều người đều nhìn thấy, chỉ có điều dám giận mà không dám nói mà thôi..." 

"Nói bậy!" Kỷ Cương rống lên, "Dương đại nhân, ngươi vu hãm bổn quan như thế là có ý gì đây?" 

"Ha ha, thì ra ngươi cũng sợ người khác vu hãm? Chỉ có điều, Dương Thu Trì ta trước giờ không thích vu hãm người khác, không giống như ai kia, trừ vu cáo hãm hại tự nhiên không nói có, còn những bản lãnh cứt gì khác cũng không biết!" Dương Thu Trì cười lạnh chuyển thân nói với Minh Thành Tổ: "Hoàng thượng nếu như không tin, thì có thể triệu Tiết đô đốc đại nhân vào hỏi là biết! Hoặc là tra hỏi các quan trong hoàng cung ngày ấy, nhất định là tìm ra nguyên nhân!" 

Minh Thành Tổ xua xua tay: "Thôi được, chuyện này không nói nữa, ngươi nói tiếp chuyện vừa rồi đi." 

Dương Thu Trì hơi kỳ quái, chuyện này liên quan đến chuyện vu hãm đại thần Kỷ Cương mà hoàng thượng sủng tín nhất, hoàng thượng sao lại tự tiện cho qua vậy? Hắn hơi trầm ngâm, lạp tức minh bạch: Chuyện này phát sinh trong hoàng cung, lúc đó có nhiều người thấy tận mắt, hoàn thượng sao có thể bị che giấu mãi sự thật chứ? Hoàng thượng khẳng định là biết, chỉ có điều, nếu như Tiết Lộ không đề cập, ông ta nhiều hơn một chuyện chi bằng ít đi một chuyện, túng dung cho hành vi độc ác của Kỷ Cương. 

Dương Thu Trì tiếp tục: "Vi thần khám tra thi thể xong phát hiện, hung thủ gian sát ái thiếp Hư Linh Tử của Tiết đô đốc có bệnh hoa liễu, đồng thời, hắn sử dụng hung khí có một vết mẻ. Căn cứ vào hai manh mối điều tra, đã nhắm vào kẻ hiềm nghi phạm tội là một tên trong đội hộ vệ của Kỷ Cương tên là Lâm Viễn. Vân Lăng là trấn phủ phụ trách kiếm soát pháp kỷ trong cẩm y vệ, vi thần lập tức chỉ phái hắn dẫn đội kiểm sát cẩm y vệ đó đi đến ngõ hoa bắt Lâm Viễn về quy án." 

Kỷ Cương nghe đến đây, khóe môi lộ nụ cười mỉm không dễ phát giác, nhưng bị Dương Thu Trì linh mẫn nắm bắt được, không khỏi ngẩn ngơ: tên Kỷ Cương đắc y cười cái gì vậy? Chẳng lẽ, Lâm Viên căn bản không phải là hung thủ, cho nên y mới yên tâm như vậy? 

Lúc này không thể nào suy nghĩ kỹ vấn đề này, Dương Thu Trì nói tiếp: "Vi thần tra hỏi cẩm y vệ tại đương trường, biết được sau khi bọn chúng bắt Lâm Viễn xong, bị một đám người không rõ thân phận đột nhiên tập kích. Vân Lăng trọng thương ngã ra đất, tiếp theo đó ở hiện trường xuất hiện một thi thể, trên đó có cắm Tú Xuân đao của Vân Lăng. Tiếp theo đó, người của Kỷ đại nhân lại đến, chưa tra rõ sự thật gì là đã vu hãm Vân Lăng giết người, còn đánh cho hắn một trận rất tàn nhẫn, sau đó bắt đi." 

"Dương ái khanh, lời ngươi nói so với tình huống tra chứng hoàn toàn không giống nhau." Minh Thành Tổ sầm mặt, cầm lên một sấp chứng từ: "Những cái này đều là lời chứng của tú bà của Miên Xuân lầu, các tên móng rùa và khách làng chơi ở đó, chứng minh đích xác là hành vi của Vân Lăng không ổn, thân mặc áo phi ngư dẫn hộ vệ đến thanh lâu tìm hoa vấn liễu, uống rượu làm việc riêng, tranh giành với khác chơi khác, dẫn tới xô xát. Vân Lăng còn chém một khách làng chơi bảy tám đao, cho tới tử vong ở đương trường. Kỷ ái khanh tiếp được báo cáo này phái người vội tới, Vân Lăng thậm chí còn muốn tiếp tục hành hung, người Kỷ ái khanh bất đắc dĩ mới bắt về quy án." Minh Thành Tổ vỗ vỗ lên sấp lời khai ở trên bàn: "Những thứ này là chứng tứ của cẩm y vệ đến đó bắt, chứng cứ chính xác, sao lại là vu hãm chứ?" 

Vân Lăng khản giọng kêu gào: "Hoàng thượng, nhưng cái đó đều là Kỷ Cương vu hãm hết, không phải là sự thật a! Tôi không có giết người. Tôi phụng mệnh của Dương phó chỉ huy sứ đại nhân, đi bắt nhân phạm..." 

Kỷ Cương quát: "Im miệng! Ngươi đi vào chốn yên hoa tìm vui, tranh giành đánh đấu với khách làng chơi khác, còn chém chết một người. Chuyện này chứng cứ rõ ràng, chắc như đinh đóng cột, ngươi còn muốn giảo biện?" Y liếc xéo Dương Thu Trì, đắc ý cười: "Vân Lăng, nhắc ngươi một câu, kiếp sau có đầu thai, nhất định phải tìm một chủ nhân tốt, đừng có tìm những kẻ yếu ớt không làm được chuyện gì, lại tự cho mình là chủ nhân có bản lĩnh bằng trời vậy, khiến cho bản thân chết lúc nào cũng không biết!" 

Đối với sự trào phúng của Kỷ Cương, Dương Thu Trì coi như lọt tai mà không nghe thấy, hắn đang khẩn trương suy xét xem nên làm thế nào. 

Tình huống hiện tại rất phức tạp, tài vu khống hãm hại của Kỷ Cương quả thật đã đến mức thượng thừa, những tú bà, móng rùa đó dưới sức ép của y, ai dám nói một chữ không chứ, đương nhiên là ngoan ngoãn chiếu theo cách nói của y mà thuật lại mọi chuyện. Còn về cái gọi là khách làng chơi tận mắt chứng kiến, nói không chừng đều là người do Kỷ Cương an bài. 

Đơn thuần từ góc độ chứng cứ mà xét, thì an này có rất nhiều người tận mắt chứng kiến có thể chứng minh sự việc, lại có thanh Tú Xuân đao của Vân Lăng cắm ở thi thể người chết. Chứng cứ như vậy cho dù đem tới thời hiện đại, cũng quá đủ để chứng minh tội ác rồi. Minh Thành Tổ định án như thế, cho xử Vân Lăng 100 đình trượng, có thể nói là không gì khéo hơn!

Thủ đoạn chỉnh trị người của tên Kỷ Cương này quả thật là không đơn giản, hèn gì được Minh Thành Tổ thưởng thức và tin dùng như vậy. Minh Thành Tổ cần đàn áp ai đó, Kỷ Cương có thể đem mọi chứng cứ cần thiết sắp bày đầy đủ, bỏ qua không bàn đến độ tin cậy của những chứng cứ này, chỉ về mặt biểu hiện là khiến cho người ta đối đáp không thành lời rồi. Dựa vào những chứng cứ do Kỷ Cương thu thập, Minh Thành Tổ có thể danh chính ngôn thuận tru diệt những kẻ không hợp, củng cố chính quyền do ông ta soán vị mà có. 

Cũng vì có được sự tín nhiệm của Minh Thành Tổ thế này, rất khó có thể lật đổ những án do Minh Thành Tổ nhận định và xét xử dựa trên những chứng cứ do Kỷ Cương thu thập đưa ra. 

Nhưng mà, dù là án đã do hoàng thượng khâm định rồi, Dương Thu Trì vẫn quyết định phải nghĩ phương pháp điều tra trở lại. Bỏ qua tình hữu nghị lâu năm với Miêu vương Vân Thiên Kình và ân cứu mạng của Vân Lộ với hắn, chưa bàn đến vội, chỉ lấy việc luận việc, thì Vân Lăng cũng vì hắn mà bị oan uổng. Nếu như hắn không bảo vệ được Vân Lăng, thì quả thật đúng như lời của Kỷ Cương nói, sẽ khiến cho thủ hạ vì thế mà lạnh lòng. Vì thế, Dương Thu Trì quyết định phải cứng cỏi quyết điều tra lại án này. 

Dương Thu Trì vừa định mở lời, Minh Thành Tổ đã lên tiếng trước, lời nói thập phần băng lãnh: "Dương ái khanh, ngươi vì sao lại cổ động Vân lộ công chúa mang binh bao vây Bắc trấn phủ ti, toan tính cướp ngục? Trong mắt ngươi chẳng còn vương pháp nữa hay sao?" 

Lời này nói nặng phi thường, nếu như là đổi thành lúc trước, Minh Thành Tổ đã sớm nổi giận lôi đình, ra lệnh kéo Dương Thu Trì xuống trị tội. Hiện giờ ông ta có thể hỏi như vậy, là vì trước đó đã có chuyện Kỷ Cương vu hãm Dương Thu Trì. Minh Thành Tổ tuy đối với Kỷ Cương còn thập phần tín nhiệm, nhưng liên quan đến chuyện của Dương Thu Trì, ông ta vẫn còn ít nhiều sự đắn đo nghi ngờ trong lòng. Hơn nữa, Minh Thành Tổ nhất mực hi vọng Dương Thu Trì có thể thành lực lượng khiên chế quyền lực của Kỷ Cương. Cho nên, không đến lúc vạn bất đắc dĩ, ông ta không muốn hủy con cờ trọng yếu Dương Thu Trì này. 

Vân Lộ vội nói: "Không phải đâu! Phụ hoàng, không phải là hầu gia cổ động con đến đâu, chúng con cũng không định cướp chiếu ngục! Con chỉ là muốn Kỷ Cương hỏi y coi sao lại bắt ca ca của con, nhưng mà y sống chết gì cũng không chịu ra gặp con..." 

Minh Thành Tổ xua tay: "Lộ nhị, con khoan hãy nói gì, phụ hoàng biết con bản tính thiện lương, nhất định là bị người ta khích bác!" Ông ta quay lại, ánh mắt lập lòe nhìn Dương Thu Trì trừng trừng. 

Nếu như hoàng thượng không cho nàng nói, Vân Lộ tự nhiên không dám nói, chỉ ôm chặt ca ca nàng, sợ là cẩm y vệ của Kỷ Cương sẽ bắt đi. 

Dương Thu Trì khom người nói: "Vi thần nhất mực duy trì và bảo hộ vương pháp, cố công tra án, đâu dám biết mà phạm pháp được. Vi thần to gan dám hỏi một câu, không biết hoàng thượng vừa rồi nói vậy là có nguyên nhân gì?" 

"Kỷ ái khanh nói, ngươi mang hộ vệ xông vào Bắc trấn phủ ti, gọi to lên rằng muốn lật tung cả chiếu ngục. Rất nhiều thủ hạ của Kỷ ái khanh đều nghe thấy. Có chuyện này không?" 

Dương Thu Trì rất hối hận là lúc đó vì xung động nhất thời mà nói câu này, bị Kỷ Cương bắt giò, như vầy làm sao đây? Đầu óc hắn xoay chuyển, nghĩ tới lời của Liễu Nhược Băng, rằng phải lấy thủ đoạn của tiểu nhân để đối phó tiểu nhân, nên lập tức có ngay chủ ý. 

Dương Thu Trì căm phẫn thưa: "Cái này... cái này rõ ràng là chuyện không nói có, đổi trắng ra đen! Vi thần tuyệt đối không cói câu này!" 

Kỷ Cương chỉ Dương Thu Trì: "Ngươi... ngươi..." Y không ngờ Dương Thu Trì nhất mực tuân theo quy củ không ngờ lại giở trò vô lại, nhất thời không biết nên nói thế nào. 

"Ta làm sao?" Dương Thu Trì cười lạnh, nhìn trừng Kỷ Cương: "Cái tai nào của ngươi nghe ta nói muốn lật tung chiếu ngục vậy?" 

"Ta... hai tai của ta đều nghe thấy, còn rất nhiều lổ tai của thủ hạ ta đều nghe được!" Kỷ Cương đỏ mặt rống lên. 

"Ngươi ngậm máu phun người! Ta chưa hề nói qua! Thủ hạ của ta có nhiều cái tai vậy sao không nghe thấy chứ? Hơn nữa, ta lớn nhỏ gì cũng là phó chỉ huy sứ, ta muốn tiến vào chiếu ngục thì cũng là nằm trong phạm vi chức quyền của ta, vì sao lại phải cướp ngục? Nếu như chiếu ngục bị cướp, ta thân làm phó chỉ huy sứ, tội trạng khó thoát. Người khác muốn cướp ngục ta còn ngăn cản, sao ta lại tự đi cướp ngục chứ? Cái này là do Kỷ Cương ngươi ngậm máu phun người! Lão tặc ngươi một ngày không vu hãm lão tử, ngươi cảm thấy không thoái mái hay sao?" Dương Thu Trì nhảy choi choi lên vừa tru tréo vừa chửi, làm ra vẻ ủy khuất oan ức cùng cực vậy. 

Dương Thu Trì sở dĩ dám giở trò vô lại, nhân vì trong đại đường ở nha môn Bắc trấn phủ ti chỉ có người của Kỷ Cương và người của hắn, đều là một đối một, chứ không có người không liên quan ở tại đương trường. Do đó, chỉ cần cứ làm già không nhận, nhất quyết cho rằng là do Kỷ Cương vu hãm, thì khó có thể nhận định đúng sai. Hơn nữa, Kỷ Cương trước đó đã có hành vi vu hãm Dương Thu Trì, và có câu "Lấy giả làm thật rồi thì đến lúc thật vẫn bị coi là giả", trước đó nói dối bị bắt quả tang, sau đó dù có nói thật cũng chẳng có ai tin. 

Quả nhiên, Minh Thành Tổ nghi hoặc nhìn Kỷ Cương. Kỷ Cương càng ủy khuất hơn, tức đến đỏ ửng cả mặt, rống lên: "Họ Dương kia... ngươi... ngươi con mẹ nó rõ ràng là..." 

Lý công công lớn tiếng nói: "Kỷ đại nhân! Hoàng thượng trước mặt, không được vô lễ!" 

Kỷ Cương sững người, vội vã khom người không dám nói gì nữa. 

Dương Thu Trì giả vờ cứ tức giận thở phì phì nhìn Kỷ Cương trừng trừng, dường như bị oan uất dữ dội lắm vậy. 

Nhất thời, trong phòng an tĩnh hẳn lại. 

Lúc sau, Minh Thành Tổ trừng mắt nhìn Dương Thu Trì, hỏi: "Dương ái khanh, chuyện này rốt cuộc là sao?" 

"Là như vầy, hoàng thượng." Dương Thu Trì nghe Minh Thành Tổ cho phép mình nói, lòng giản ra, "Vi thần phụng thánh mệnh chấp chưởng Nam trấn phủ ti, kiếm sát pháp kỷ của cẩm y vệ là phạm vi chức trách của vi thần, cho dù là Vân Lăng phạm pháp giết người, cũng phải do vi thần tra xử. Nhưng Kỷ Cương không ngờ tự tiện vượt quyền bắt người, còn dùng khốc hình với Vân Lăng, vi thần mới chiếu theo chức quyền đến Bắc trấn phủ ti đòi người." 

Minh Thành Tổ hơi gật đầu, mặt lộ vẻ không vui, quay sang nói với Kỷ Cương: "Kỷ ái khanh, sau này pháp kỷ của cẩm y vệ ngươi không được nhúng tay vào nữa, cứ buông tay để cho Dương ái khanh quản đi. Đây vốn là chức trách của Nam trấn phủ ti mà." 

Minh Thành Tổ lúc trước để cho Dương Thu Trì chấp chưởng Nam Trấn Phủ ti, chính là suy xét đến việc kềm chế Kỷ Cương. Hiện giờ Kỷ Cương vượt quyền hành sự, nếu như Minh Thành Tổ không tỏ rõ thái độ ngăn cản, là đi ngược với dự định ban đầu, lựa chọn không tiếp tục kềm chế Kỷ Cương nữa. Đó là điều ông ta không muốn. 

Dương Thu Trì mừng rỡ, đắc ý liếc nhìn Kỷ Cương. Câu vừa rồi của Minh Thành Tổ chẳng khác gì tát cho Kỷ Cương một cái thật mạnh, gương mặt bỗng chốc già đi của y lập tức đỏ phừng, khom người thưa: "Dạ, vi thần biết rồi..." 

Nhị hoàng tử Chu Cao Hú nói: "Phụ hoàng, tên Dương Thu Trì này tác tệ, lạm dụng chức quyền, để cho hắn chấp chưởng Nam trấn phủ ti vô cùng bất thỏa. Hơn nữa, Vân Lăng là thuộc hạ của hắn, do hắn thẩm tra, không khỏi để hắn tự tiện bảo hộ người nhà a." 

Minh Thành Tổ lắc đầu: "Lời này không đúng, Dương ai khanh thân là cẩm y vệ phó chỉ huy sứ, nếu nói thật ra, thì trừ Kỷ chỉ huy sứ, mọi cẩm y vệ đều là thủ hạ của hắn. Nếu như nhân vì là thủ hạ mà không thể kiểm tra đốc sát, thì con để hắn tra ai? Đổi thành ai làm phó chỉ huy sứ chấp chưởng Nam trấn phủ ti cũng đều gặp phải vấn đề này! Do đó điều này không phải hắn sai." 

Chu Cao Hú không dám đụng chạm với Minh Thành Tổ, chỉ còn biết dạ dạ liên hồi. 

Minh Thành Tổ quay đầu nhìn Chu Cao Hú, ngẫm nghĩ một lúc, nói: "Cao Hú, điều con vừa nói không ngờ nhắc nhở ta, là dùng cẩm y vệ để giám sát cẩm y vệ e rằng không thỏa..." Trầm ngâm một chút, ông ta nói tiếp: "Chuyện này phải nghĩ biện pháp giải quyết mới được." 

Minh triều đặc biệt chú trọng việc giám đốc kềm chế lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực. So với các triều đình khác, Minh triều tổ chức hệ thống này hoàn thiện nhất, hầu như mỗi cơ quan đều có cơ cấu giám đốc tương ứng, có những cơ quan trọng yếu, thì cơ cấu giám đốc chẳng phải chỉ có một. Ví dụ như giám đốc của lục bộ nếu đã có đô sát viện gồm mười ba giám sát ngự sử, còn có sáu khoa cấp sự chuyên môn giám sát đối với lục bộ, từng chút từng chút một. 

Còn đối với cẩm y vệ, do yêu cầu đấu tranh chính trị, ban đầu Minh Thành Tổ không hề an bài cơ quan giám sát đặc biệt và độc lập, mà chỉ dùng Nam trấn phủ ti thiết lập trong nội bộ cẩm y vệ để tiến hành giám đốc, đến lúc bài trừ xong những thế lực không phục, thì đã tiến tới giai đoạn mâu thuẫn không kiểm soát được ở hiện tại. Hiện giờ Minh Thành Tổ đã phát hiện, tự thân cẩm y vệ giám đốc và tự kiểm soát mình rõ ràng là một tệ đoan không thể giải quyết ổn thỏa. 

Cũng chính xuất phát từ suy xét này, trong lịch sử sau khi Minh Thành Tổ dời đô về Bắc Kinh, đã tạo ra một cơ quan đặc vụ mới gọi là "Đông Hán". Cơ quan này có mục đích trước nhất chính là giám đốc cho cẩm y vệ. Chỉ là sau đó, quyền lực của nó không ngừng được gia tăng, vượt mức kiểm soát, cuối cùng đã là cơ cấu nằm trên hẳn cẩm y vệ. 

Minh Thành Tổ ra ý cho Dương Thu Trì nói tiếp. 

Dương Thu Trì thưa: "Vi thần đến Bắc trấn phủ ti đòi người, Kỷ Cương cố tình làm khó, nằng nặc không chịu. Vi thần vừa định vào cung trình hoàng thượng giải quyết chuyện này, thì Vân Lộ nghe được tin tức cũng đã đến." 

Nhị hoàng tử Chu Cao Hú nói: "Hoàng muội của ta nếu như không có người xúi giục, tuyệt đối không mang binh bao vây Bắc trấn phủ ti, kẻ xúi giục này nhất định là ngươi!" 

Dương Thu Trì khom người đáp: "Vương gia nói lời này vi thần không phục." 

"Không phục? Ngươi không phục cũng không được...!" Chu Cao Hú rống lên. 

Minh Thành Tổ nhìn trừng Chu Cao Hú, lòng có vẻ không vui: Cứ ngang ngược không giản đạo lý như vậy không phải là cách hành sử của người làm vua thiên hạ. 

Chu Cao Hú nhìn thấy vẻ không hài lòng của Minh Thành Tổ, vội vã ngậm miệng, lòng ít nhiều gì cảm thấy hối hận. 

Minh Thành Tổ nói với Dương Thu Trì: "Dương ái khanh, ngươi vì sao không phục? Nói ra nghe thử?"

Trong “Thiên Tuyệt trận”, Đạt Tạp chịu không thấu những phiền toái, hắn bị đủ loại lực lượng kiềm chế làm cho bị tiêu hao đến ba thành Hủy Diệt thần lực.

Đạt Tạp cực kì phẫn nộ nhưng lại bị sức trói buộc kì lạ của trận pháp khiến hắn không thể nào tránh được, thủy chung không thể thoát ra khỏi vòng giam cầm của “Thiên Tuyệt trận”. Hơn nữa, mỗi giờ mỗi khắc hắn đều phải thận trọng đối phó với những công kích quỷ dị khó lường, mọi biện pháp đều vô dụng.

Không biết kéo dài bao lâu, đột nhiên cái lực lượng kì dị tràn ngập trong “Thiên Tuyệt trận” tựa hồ bị một lực lượng nào đó ảnh hưởng làm cho dần dần suy yếu đi.

Đạt Tạp mừng rơn, lập tức nắm lấy cái thời cơ ngàn năm có một này, ngưng kết toàn bộ Hủy Diệt lực lượng thành một thanh trường mâu đâm xuyên qua vòng trói buộc của trận pháp và trốn thoát ra ngoài.

Bên ngoài, Cam Đạo Phu đang tươi cười, từ tốn thu hồi một cây Thập Tự, nhìn hắn và hỏi:

- Sao vậy? Ngay cả ngươi cũng bị vây khốn ư?

Trong mắt Đạt Tạp chợt hiện lên tia sáng kỳ dị, hắn nhìn chằm chằm vào cây Thập Tự trong tay Cam Đạo Phu rồi kinh hãi quát hỏi:

- Đó là một trong bốn loại Quang Minh chủ thần khí mà Quang Minh thần năm xưa luyện chế ra phải không?

Cam Đạo Phu sửng sốt, có vẻ không ngờ Đạt Tạp lại biết việc này, đành cười và gật đầu đáp:

- Không sai. Chén Thánh, cành Ô Liu, cây Thập Tự và tượng Thiên Sứ là bốn loại chủ thần khí do Quang Minh thần năm đó luyện chế ra. Cành Ô Liu ở trong tay Cổ Nhĩ còn cây Thập tự ở chỗ ta. Ha ha, nếu như không phải đây là một thanh chủ thần khí do đích thân Quang Minh thần luyện chế thì ngay cả ta cũng không có biện pháp cứu ngươi ra khỏi nơi đó!

Đạt Tạp kinh ngạc, cười khổ lắc đầu nói:

- Cây Thập tự ở trong tay ngươi, vậy mà ngươi lại không bị Quang Minh thần giết chết. Cam Đạo Phu, ngươi quả nhiên thật may mắn!

- Chắc thế!

Cam Đạo Phu khiêm tốn cung tay, người đứng thẳng, ngẩng đầu nhìn lên trời cung kính khấn:

- Ca ngợi Quang Minh thần, sự khoan hồng độ lượng của Ngài chiếu rọi cả thế gian!

Trong một trận pháp khác, Hàn Thạc đang đuổi giết Áo Tác Ai đột nhiên biến sắc mặt, thân hình đang bay nhanh vun vút chợt đứng sững lại.

Hắn có cảm ứng kì diệu với các loại ma trận có trong Ma Ẩn cốc, đã nhận ra những biến hóa đến từ “Thiên Tuyệt trận”. Một lực lượng đột nhiên xuất hiện gây ảnh hưởng tới thiên địa nguyên khí trong trận pháp giúp Đạt Tạp đang bị giam cầm lập tức thoát được ra ngoài.

Cùng lúc đó, một luồng khí tức băng hàn khác nhanh chóng bay đến khiến hắn giật mình, lập tức hiểu rằng lại có địch nhân tiến đến.

Không đợi Hàn Thạc hành động, thống lĩnh Liệp thần giả Khắc Ma Nhĩ đến từ Thủy thần vực đột nhiên xuất hiện, nhìn thoáng qua tình hình trước mắt rồi cười lạnh nói:

- Thú vị. Không ngờ lại là Ma Ẩn cốc chiếm thế thượng phong!

A Sắt Nhĩ Tư Đặc đang có vẻ cực kì chật vật đối phó những đòn công kích của hai người Ngõa Tây Tư và Tát Lạp Tư, vừa thấy Khắc Ma Nhĩ đột ngột xuất hiện bèn lập tức cố sức thoát ra khỏi vòng vây của hai người, bất chấp mọi giá đi tới bên và bảo viện thủ:

- Ma Ẩn cốc khó giải quyết hơn rất nhiều so với trong tưởng tượng. Chúng ta nhất định phải hợp lực thì mới có thể tiêu diệt được nó!

Khắc Ma Nhĩ gật đầu đáp:

- Thật không ngờ rằng nơi có sức phòng ngự mạnh nhất trong Vùng đất hỗn loạn không phải là bên Thái Nhĩ, La Cách mà ngược lại là cái Ma Ẩn cốc không hề nổi tiếng này!

Áo Tác Ai vừa thấy hai người Khắc Ma Nhĩ và A Sắt Nhĩ Tư Đặc đứng cùng nhau thì cũng cố gắng tiến đến hội nhập vào với bọn họ.

Hàn Thạc sắc mặt âm trầm, không hề ngăn cản Áo Tác Ai đứng gần sát hắn hành động bởi vì đúng lúc này, hơn mười cây cột đá che trời chung quanh hắn đột nhiên kêu lên “răng rắc” và vỡ vụn ra, lực lượng duy trì cái trận pháp này cũng đột ngột biến mất.

Hai tên Đạt Tạp và Cam Đạo Phu cũng từ từ hiện ra. Cả hai vừa xuất hiện đã đổ dồn ánh mắt lên trên người Hàn Thạc, nhìn trừng trừng như sợ hắn sẽ có cử động gì đột ngột.

- Không ngờ các ngươi cũng tới Ma Ẩn cốc!

Hàn Thạc liếc xéo Khắc Ma Nhĩ rồi lại nhìn sang Cam Đạo Phu, kẻ thần bí quái dị nhất trong Liên minh Liệp thần giả rồi trầm giọng hỏi:

- La Cách đâu? Động Mai Cốt đã đi đời rồi phải không?

Cam Đạo Phu mặc một bộ áo bào cúng tế màu trắng cũ kỹ trông rất hiền hòa, nhìn cách nào cũng không giống một thống lĩnh Liệp thần giả hai tay dính đầy máu tanh. Hắn cười ha hả nhìn Hàn Thạc rồi đáp:

- Động Mai Cốt đích thực đã đi tong rồi, nhưng mà cái tên La Cách xảo trá như hồ ly kia đã chạy trước một bước.

- Thái Nhĩ thì sao? - Hàn Thạc trầm ngâm một chút rồi lại hỏi lần nữa.

La Cách có thể chạy thoát thì cũng không ngoài dự tính của Hàn Thạc. Gã này thuộc loại có tính cách hèn hạ âm hiểm, một khi gặp nguy hiểm thì chắc chắn sẽ không thèm quan tâm đến sự sống chết của thủ hạ, động Mai Cốt dù sao cũng là nơi hắn đã nhiều năm bố trí nên thoát khỏi nơi ấy tự nhiên không phải là việc khó.

Hiện giờ Cam Đạo Phu và Khắc Ma Nhĩ xuất hiện ở Ma Ẩn cốc chứ không phải phía Thái Nhĩ, điều đó có nghĩa là cuộc chiến ở đằng đó đã kết thúc. Điều này khiến cho Hàn Thạc thầm thấy bất ngờ, không nhịn được nên mới hỏi.

Cam Đạo Phu thấy Hàn Thạc hỏi vấn đề này thì hơi do dự một lát, tỏ vẻ cổ quái đáp:

- Thái Nhĩ biến mất, thủ hạ của hắn cũng không thấy tung tích. Ba Lâm Thản và Khảo Trạch có tới chỗ thần điện bị phá hỏng nhưng không phát hiện được có gì kì lạ, cũng không thấy bóng dáng Thái Nhĩ gần đó, vì thế hai người họ cũng tới đây.

Hàn Thạc biết hai người Ba Lâm Thản và Khảo Trạch vừa đến chỗ Thái Nhĩ chính là Thống lĩnh Liệp thần giả Hỏa hệ và Sinh Mạng hệ, còn thần điện bị phá hỏng thì là đại bản doanh của Thái Nhĩ tại Vùng đất hỗn loạn. Nghe Cam Đạo Phu nói như thế thì có vẻ hai người này không thu hoạch được gì, không thể tìm được bất cứ thứ gì hữu dụng tại thần điện bị phá hỏng đó. 

Vùng đất hỗn loạn tuy lớn, nhưng lực lượng thực sự mạnh thì chỉ có năm nhóm, phân biệt là Thái Nhĩ, La Cách, Áo Tác Ai, Ngõa Tây Tư và Ma Ẩn cốc của hắn. Hiện giờ, Thái Nhĩ mất tích, La Cách bỏ trốn, Áo Tác Ai, Ngõa Tây Tư cùng đến Ma Ẩn cốc, vì vậy Ma Ẩn cốc thành chỗ cuối cùng mà liên minh Liệp thần giả cần phải diệt trừ.

Do đó, các thủ lĩnh Liệp thần giả không hẹn mà cùng nhau kéo đến Ma Ẩn cốc.

Hàn Thạc vừa nghe Cam Đạo Phu nói như thế thì thấy lòng trầm xuống. Hắn sớm cho rằng Thái Nhĩ, La Cách hoặc sẽ không chống nổi công kích của đối phương, hoặc sẽ có âm mưu quỷ kế nhưng không dự liệu rằng hai người đó bỏ trốn dứt khoát như vậy, không cho hắn tranh thủ được chút thời gian nào.

Tính toán của Hàn Thạc là sẽ phân chia và giết chết từng nhóm thống lĩnh Liệp thần giả này. Hiện giờ hai đại thống lĩnh Không gian và Vận mệnh trước đây đến đỉnh Tuyết Băng đã bị hắn đẩy vào vết nứt không gian, chắc hẳn trong vòng mấy ngàn năm cũng không trở về Chúng Thần đại lục được. Ba người Lôi Cát Tư, Tái Á Lộ, Mễ Lặc thì bị hắn đánh thương và phong ấn tại thạch thất trong lòng đất; còn bọn Đạt Tạp, Đạt Cách Mã, A Sắt Nhĩ Tư Đặc thì vốn cũng có thể nhanh chóng thu thập.

Chỉ cần cho hắn thêm chút thời gian thì hắn vốn có thể xử lý thỏa đáng mọi việc, sau đó thảnh thơi chờ bọn Cam Đạo Phu đến nộp mạng. Nhưng không ngờ lại xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Bọn này kéo rốc tới Ma Ẩn cốc sớm hơn, chẳng những giải cứu được Đạt Tạp mà sợ rằng cả ba người Lôi Cát Tư đang bị giam cầm trong thạch thất kia cũng sẽ được cứu thoát ra.

Tựa như đoán được Hàn Thạc đang nghĩ cái gì, Cam Đạo Phu tu luyện Quang Minh lực lượng cười gật đầu nói:

- Đúng như ngươi nghĩ, Ba Lâm Thản và Khảo Trạch đã đến gian thạch thất mà ngươi nhốt ba người Lôi Cát Tư, lúc này chắc đã bắt đầu động thủ rồi, không bao lâu nữa thì bọn họ cũng có thể thoát ra.

Khi Cam Đạo Phu vừa nói xong những lời này thì Hàn Thạc cũng chấn động trong lòng, nhận thấy từ gian thạch thất giam cầm ba người Lôi Cát Tư cách đó không xa truyền đến những dao động năng lượng mãnh liệt, có lẽ thật sự không bao lâu nữa thì nó sẽ bị phá vỡ.

Mặt hắn âm trầm, không ngừng cười khổ trong lòng, thầm nghĩ quả nhiên là người tính không bằng trời tính, đôi khi những chuyện bất ngờ lại phá vỡ kế hoạch. Chỉ cần hai người Cam Đạo Phu và Khắc Ma Nhĩ đến trễ một ngày thì hắn có thể giết chết toàn bộ bọn Áo Tác Ai, A Sắt Nhĩ Tư Đặc, Đạt Tạp và cấm chế toàn bộ lực lượng của bọn ba người Lôi Cát Tư.

Đến lúc đó, cho dù cả bốn tên Khắc Ma Nhĩ, Cam Đạo Phu, Ba Lâm Thản, Khảo Trạch có tới, với lực lượng của hắn và Ngõa Tây Tư, Tát Lạp Tư, Hàn Hạo, An Đức Lệ Na cộng thêm địa thế đặc thù của Ma Ẩn cốc thì cũng tin tưởng khiến cả bốn tên phí công mà rút lui, thậm chí còn phải lưu một hai người ở lại trong cốc.

Song mọi việc lúc này đã phát triển vượt ra ngoài tầm khống chế của Hàn Thạc, giờ mà chân chính giao chiến thì hắn thực sự không nắm chắc một chút nào.

Đúng vào lúc này, một chiếc Bạch Cốt vương tọa từ xa nhẹ nhàng bay lại rồi đột ngột xuất hiện ở bên phía Hàn Thạc.

Tiểu Khô Lâu ngồi ngay ngắn trên Bạch Cốt vương tọa, chớp chớp mắt nhìn quanh, không nói lời nào mà chỉ điều khiển “cái ghế” tới bên cạnh Hàn Thạc, thản nhiên nói:

- Đạt Cách Mã chết rồi.

Lời vừa nói ra, mọi người tức thì biến sắc mặt.

Cam Đạo Phu liếc mắt nhìn Đạt Tạp vẻ mặt âm trầm lạnh lùng, rồi lại nhìn A Sắt Nhĩ Tư Đặc biểu tình kinh hãi, cười khổ lắc đầu nói:

- Không ngờ Đạt Cách Mã lại không chịu nổi, bị một thủ hạ cũ giết chết. Xem ra, ta trước kia đã đề cao hắn.

Hàn Thạc cảm thấy được an ủi một chút, những ý nghĩ liên tiếp nảy ra trong đầu nhanh như những tia chớp. Hắn đột nhiên nói:

- Xem ra không thể tránh khỏi trận chiến này. Nếu như có thể làm thịt một hai tên trước khi các ngươi cùng bọn Ba Lâm Thản, Khảo Trạch gặp mặt thì chúng ta chưa chắc đã không còn đường sống!

Đạt Tạp cười lạnh, khinh thường đáp:

- Ngươi thật đúng là mộng tưởng! Đừng cho rằng ta không biết tại sao Hàn Hạo có thể giết chết Đạt Cách Mã. Hừ, hắn có thể giết chết Đạt Cách Mã nhưng không phải là đối thủ của bất cứ người nào trong chúng ta!

Hắn đảo mắt liếc sang Ngõa Tây Tư và Tát Lạp Tư, khi nhìn về phía Tát Lạp Tư thì cặp mắt không hề che giấu cừu hận khắc cốt ghi tâm, nói lạnh như băng:

- Hai người bọn chúng cộng thêm cả ngươi nữa, trước sức tấn công của ta và Cam Đạo Phu, A Sắt Nhĩ Tư Đặc, Khắc Ma Nhĩ thì chỉ sợ rằng ngay cả năng lực tự bảo vệ mình cũng không có chứ đừng nói đến chuyện trong thời gian ngắn giết chết một hai người chúng ta!

Cam Đạo Phu phất tay ngăn Đạt Tạp lại, cười ha hả nhìn Hàn Thạc đề nghị:

- Giao Ma Ẩn cốc và lực lượng áo nghĩa mà ngươi tu luyện ra đây thì ta có thể làm chủ cho thần hồn của ngươi và vợ con ngươi rời khỏi nơi này, nhưng mà hai tên Tát Lạp Tư, Ngõa Tây Tư thì phải lưu lại!

Theo cách nhìn của Cam Đạo Phu, trận đánh nhằm vào Vùng đất hỗn loạn lần này đã không còn phải lo lắng. Mọi chuyện bây giờ đã nằm trong lòng bàn tay hắn, hắn cho thần hồn Hàn Thạc rời đi cũng đã là khoan hồng độ lượng lắm rồi. Hàn Thạc chỉ cần tốn thời gian khoảng ngàn năm thì lại có thể một lần nữa tu luyện đến cảnh giới hiện giờ, người của Hàn gia cũng có thể được bảo toàn.

- Bố Lai Ân, đề nghị này có thể chấp nhận được. - Ngoài dự tính của Hàn Thạc, Ngõa Tây Tư lạnh như băng chợt lên tiếng. Vẻ mặt hắn không vui không buồn, cứ như không hề nghe thấy câu nói sau cùng của Cam Đạo Phu, không để chuyện sinh tử của mình ở trong lòng.

Cho dù là nhân loại cũng vậy, tinh linh cũng thế, cả ải nhân, thú nhân, long tộc, vân vân… Mỗi vị thần của các chủng tộc đều là thần, theo ý nghĩa nào đó mà nói, bọn họ không phải “Thần” do tôn giáo sắc phong.

Khi đám tín đồ cuồng nhiệt đối với thần linh lên tới mức cực độ, để khiến cho tôn giáo khoác thêm một sắc thái thần thánh khiến thần linh nằm trong sương mù càng thêm không thể suy xét, thông thường đều sẽ trao cho thần linh một loại “thần tính”.

Cho nên bất kể là dân tộc, chủng tộc gì, thần linh được sùng bái đại đa số đều có tính cách vượt xa những người thường. Loại “thần” này không có nhân tính, chủ yếu là không có những nhược điểm của người bình thường, vô luận là dục vọng hay tham lam… những thiếu hụt đó đều bị loại bỏ hoàn toàn.

Trở thành một vị “thần” cao cao tại thượng, không vui không giận, không ăn thức ăn trần gian.

Song, những cường giả thần cấp trên thế giới lại hoàn toàn không phù hợp với những điều kiện này.

Xét về một mặt nào đó, họ quả thực có năng lực siêu phàm, song xét trên một mặt khác - xin lỗi đã khiến những tín đồ đông đúc thất vọng, bởi họ không có cái gọi là thần tính.

Những cường giả thần cấp này đều có tính cách của bản thân, có dục vọng, có tham lam, thậm chí có cả cảm tình.

Họ, không có cái gọi là “thần tính”.

Ma thần kết hôn với nữ thần của nhân loại, về mặt ý nghĩa mà nói, chỉ là một loại… nhu cầu! 

Chỉ là một loại “nhu cầu” mà thôi.

Ma thần muốn dùng cách này thay đổi sự hủ hóa đọa lạc của ma tộc, hạ thấp những chèn ép điên cuồng của họ đối với những chủng tộc khác. Theo lời Đỗ Duy, hành động này thậm chính có thể coi là một loại… diễn biến hòa binh?

Chẳng hề liên quan tới tình yêu, cũng chẳng hề thê mỹ.

Thậm chí, ngươi có thể nói, đây có thể coi là một cuộc “hôn nhân chính trị” điển hình.

- Thật… quá nực cười.

Khi Đỗ Duy nói câu này, khuôn mặt của chính hắn lại chẳng hề có một chút ý cười mà hoàn toàn ngược lại, hắn vừa nghiêm túc vừa ngưng trọng, lắc đầu than thở lia lịa.

Sau đó, hắn nói một câu mà những người nghe truyện cổ đều sẽ hỏi:

- Sau đó thì sao?

- Sau đó thì sao?

Câu chuyện cổ “Ma vương và thiếu nữ” được cho là thê mỹ, chủ đề là ở sự phản bội.

Phản bội tình yêu - cho nên đây là một bi kịch.

Song khi đã nhận rõ đây chẳng qua là một cuộc hôn nhân chính trị, như vậy tiếp theo cũng chẳng liên quan gì tới tình yêu cả.

Ngay cả tình yêu cũng không có vậy tất nhiên cũng chẳng có “phản bội” rồi.

Mà đã không có phản bội, vậy càng không nói tới “bi kịch.”

Đỗ Duy đột nhiên cảm thấy câu truyện cổ “Ma vương và thiếu nữ” mà mình nghe trước đây không ổn.

Nó giống cái gì nhỉ? Giống như bộ «La Sinh Môn» Cũng là một truyện cổ, mỗi người kể khác nhau, đứng trên góc độ khác nhau, khi kể lại đều sẽ đem nội dung và cảm tình rẽ theo hướng có lợi cho mình.

Khi Ares kể lại câu truyện kia đã đem mình và Ma thần trở thành hai nam nhân bị nữ thần âm thầm ám hại, trở thành kẻ bị hại.

Hay có thể nói, đó cũng không phải Ares cố ý nói dối, chỉ là hắn là một nam nhân đã chịu đau thương, để tránh điểm yếu trong lòng, hắn vô thức đã đem đoạn lịch sử kia “biến đẹp”, trong nội tâm đã diễn dịch bản thân mình thành một vai diễn “tình thánh” không ngừng ra sức vì nữ thần song lại bị phản bội.

Đây không phải cố ý nói hoang, mà là nhân tính. Đúng, không phải thần tính ! Bởi vì Ares dù là «Chiến thần» song hắn cũng là người!

Mà trong phiên bản Chris kể lại lại không hẳn như vậy.

Rốt cuộc đâu mới là thật?

- Đều là thật.

Chris cười nói: 

- Phiên bản ngươi nói do tên Ares mềm yếu ấy kể phải không? Như vậy trong đó có một số chuyện hắn cũng không biết, hay nói trên góc độ khác là không nhìn thấy. Như ta vừa nói đó, đoạn thứ nhất thiếu mất một chút. Loại tình cảm này, Ares hẳn là yêu nữ thần cho nên câu truyện của hắn lại thành người yêu hắn bị người khác đoạt mất, mình trở thành kẻ bị hại. Vì trái tim bị lừa gạt hắn phủ lên trên câu truyện một màu sắc thê mỹ của tình yêu, còn sự thật… thế giới thật thường không có nhiều lãng mạn như vậy! A, đúng rồi, lãng mạn, từ này cũng là do Aragon dạy ta.

- Nội dung còn thiếu ở đoạn thứ hai…

Chris đột nhiên cười một tiếng.

Trong lòng Đỗ Duy chấn động bởi hắn phát hiện mỗi khi Chris lộ ra nụ cười quỷ dị như vậy cũng là lúc hắn sắp ra nói ra những lời khảo nghiệm tâm trạng đối với người nghe - hắn nhất đính sắp nói ra một chuyện rất đáng kinh ngạc.

- Nội dung còn thiếu của đoạn thứ hai… Được rồi, chúng ta cứ đối chiếu theo truyện cổ ma vương và thiếu nữ ấy mà kể lại… Ừm, thiếu nữ gả cho ma vương, nhưng, thời gian này rốt cuộc trong bao lâu?

Đỗ Duy sửng sốt.

Đúng rồi, bao lâu nhỉ?

Nếu theo như truyện cổ tích thì chẳng cần nhiều tiểu tiết như vậy, ngươi chỉ cần biết thiếu nữ sau khi được gả cho ma vương, thu được sự tín nhiệm của ma vương sau đó tìm ra nhược điểm của y, liên kết các tộc nhân đánh bại rồi giết chết ma vương…

Rất đơn giản song cũng quá qua loa.

Vấn đề là… Trong lịch sử, nữ thần cưới ma thần. Ừm, nói vậy trước khi bọn họ trở mặt, cuộc hôn nhân đó rốt cuộc kéo dài bao lâu?

Một ngày? Một tháng? Một năm? Hay là mười năm?

Thời gian quan trọng vậy sao?

Đáp án: đương nhiên rồi, rất quan trọng.

Chris phủ nhận tình yêu trong cuộc hôn nhân này, đây hoàn toàn là một cuộc hôn nhân vì chính trị. Song lại nói… Nữ thần làm sao có thể lừa được sự tín nhiệm của ma thần?

- Sáu năm hai tháng lẻ chín ngày.

Chris nói ra ngày tháng vô cùng chuẩn xác, ngữ khí của hắn khẳng định khiến Đỗ Duy không thể không tin.

- Phiên bản kia ngươi đã nghe hẳn cũng biết đại khái các cường giả thần các cùng tổ chức một âm mưu, họ đã hợp lực tạo thành thàn khí mạnh nhất, mũi thương Ronkinus – À, điểm này Ares nói không sai, mũi thương đó quả thực là vũ khí mạnh nhất. Đám cường giả thần cấp đó liên hợp lại muốn cùng lúc lật đổ địa vị thống trị của ma thần, lật đổ thống trị của ma tộc, đó là dưới cái nhìn của Ares, là thứ hắn nghe được, song, ta muốn nói tới cuộc sống sau khi kết hôn của thiếu nữ và ma vương.

Chris nói đến đây lại đột nhiên thở dài, giọng nói hắn đầy vẻ giễu cợt đồng thời mang theo một tia bi ai. Từ ngữ hắn dùng cũng khiến Đỗ Duy có cảm giác cổ quái khó tả.

- Đó thực sự là một trường phong hoa tuyết nguyệt.

Chris nói như vậy.

- Rốt cuộc có tình yêu thật hay không? Không có tình yêu vậy làm sao có tín nhiệm? Không có tín nhiệm thì cũng lấy đâu ra phản bội?

Đỗ Duy hỏi thẳng vào vấn đề mấu chốt: 

- Muốn lừa được sự tín nhiệm của ma thần, có được bí mật của hắn, vậy nữ thần dựa vào cái gì? Nếu ngươi đã phủ nhận tình yêu tồn tại, vậy chân tướng thực ra là gì?

Chris bình tĩnh nghe Đỗ Duy hỏi, hắn không trả lời ngay mà chậm rãi đứng lên, dùng sức vươn eo một cái giọng nói u sầu.

- Ai, đã bao nhiêu năm rồi. Nói tới những chuyện cũ này thật khiến người ta đau lòng! Ta trước giờ không có cảm giác thế này… Giờ mà có một chén trà thì tốt biết mấy.

Đỗ Duy hiểu ý lập tức lấy từ trong giới chỉ ra một cái bao, bên trong là tuyết liên trà lấy được từ chỗ Lam Hải Duyệt, còn có một bình nước.

Rất nhanh chóng đã có nước trà.

Chris tựa hồ thờ ở đối với hành động của hắn, ánh mắt hắn trống rỗng nhìn vào vách tường đầy bảo thạch óng ánh ngũ sắc kia, dường như lâm vào trầm tư.

Khi Đỗ Duy đem nước trà đặt tới trước mặt Chris, Chris lại dùng một ánh mắt gần như gian nan nhìn chén trà bốc hơi nóng kia, sau đó thở dài: 

- Cảm ơn ý tốt của ngươi, song… ta không cách nào hưởng thụ trà tốt như vậy.

- Vì sao?

Đỗ Duy tùy ý hỏi lại.

Chris mỉm cười vươn tay ra, nhè nhẹ đưa tới chén trà, sau đó, bàn tay hắn cứ như vậy xuyên thẳng qua…

- Thấy chưa? Ta là một tù đồ. Ta không có thân thể, một vạn năm nay ta vẫn tồn tại dưới dạng linh hồn.

Thấy vẻ kinh ngạc của ĐỖ Duy, Chris hờ hững cười:

- Được rồi, trả lời ngươi đã. Ta phải nói trước một chuyện... Thân phận của. Ta, Chris là người hầu của ma thần, nhưng ta tưởng ngươi nhất định sẽ hỏi vì sao nữ thần lại giam ta ở nơi này vạn năm, thậm chí để giam ta còn đem cả Long thần đặt ở đây trông giữ. Dạng “Đãi ngộ” này có vẻ không nên dành cho một người hầu đơn giản, phải không?

Chris nhìn vào đôi mắt ĐỖ Duy mỉm cười nói:

- Được rồi, ta biết ngươi sớm muộn gì cũng hỏi chuyện này cho nên cứ trả lời trước thì hơn.

Sau đó hắn đột nhiên dùng ánh mắt như mê luyến nhìn vào chén trà đang tỏa hơi trước mắt, dường như đang nuốt nước miếng, rồi mới cười khổ nói:

- Thẳng thắn mà nói, ta quả thực không phải một “người hầu bình thường.”

Đỗ Duy không nói gì, bình tĩnh đợi Chris nói xong.

- Vừa rồi ta đã nói với ngươi, Ma Thần đại nhân thật ra không phải thần cấp, người vốn không phải.

Chris cười lạnh một tiếng:

- Đỗ Duy, ngươi hiện tại ở cấp bậc gì? Thánh giai? Lĩnh vực? Ngươi hiểu rõ về đẳng cấp lực lượng được bao nhiêu?

- Trên Thánh giai là Lĩnh vực. Lĩnh vực lĩnh ngộ thần cách là thành thần cấp.

Đỗ Duy dùng lời lẽ đơn giản nhất nói ra những gì mình biết.

- Ngươi nói không sai.

Chris bĩu môi: 

- Vậy trên thần cấp thì sao?

Vấn đề này không phải Đỗ Duy có thể trả lời, bởi cho dù là Bạch Hà Sầu hay là chiến thần Ares đều chưa hề đột phá thần cấp. Hiểu biết Đỗ Duy về lực lượng đều đến từ hai tên gia hỏa đó.

Trên nữa là gì, đây không phải vấn đề hắn có thể trả lời.

- Quy tắc của lực lượng, khống chế thời gian và không gian.

Chris chậm rãi nói: 

- Nhưng trên thế giới này rốt cuộc không có thần theo ý nghĩa của tôn giáo, cường giả thì là cường giả, thần cấp cường giả cũng không phải vạn năng, tuy nhiên đến cấp bậc lĩnh vực rồi là cón thể khống chế cả quy tắc của thời gian và không gian. Còn thần cấp bất quá chỉ là dựa vào lực lượng của thần cách mà khếch đại lực lượng này lên vô hạn. Đương thời tựa hồ mọi người đều công nhận đó đã là điểm cuối.

Đỗ Duy lập tức nói: 

- Đây không phải điểm cuối phải không? Ma thần đã siêu việt thần cấp?

- Là sáng tạo ra sinh mạng.

Chris cười rất khó nhìn: 

- Chuyện này rất thú vị, vị thần mà nhiều tôn giáo của nhiều chủng tộc tô vẽ ra đều có năng lực “tạo vật”. Đó đều là do những sinh linh phổ thông vì tăng cường tính thần thánh của thần linh mà tự mĩnh huyễn tưởng ra. Cường giả thần cấp có thể khống chế thời gian cùng không gian, thậm chí có thể tạo ra một không gian đơn độc ngoài thế giới này, tự do khống chế thời gian nhanh chậm trong đó. Song... Xem ra thần cấp cường giả tựa hồ miễn cưỡng đạt tới mức không gì không thể, song họ vẫn còn khuyết thiếu một năng lực mà thần do các tôn giáo miêu tả có... Tạo vật! Hay có thể nói là... sáng tạo sinh mạng! 

- Sáng tạo sinh mạng?

Đỗ Duy nhíu mày.

- Đúng, sáng tạo sinh mạng.

Chris cười ha hả nói: 

- Ngươi cũng đừng nghĩ tới vấn đề sinh sản của sinh vật, cho dù là người sinh người hay thú sinh thú dều không phải “sáng tạo sinh mạng” thực sự, đó là một loại phục chế. Đó gọi là phục chế sinh mạng chứ không phải sáng tạo. Sáng tạo sinh mạng mà ta nói là chân chính tạo ra một sinh mạng độc lập!

- Cho nên trên thần cấp, tiêu chuẩn là: Sáng tạo ra sinh mạng. Đây mới thực sự là “không gì không thể”

Đỗ Duy im lặng.

Muốn có ánh sáng, có ánh sáng.

Muốn có trời đất, có trời đất.

Muốn có thời gian, có thời gian.

Cái này quả thực cường giả thần cấp có thể làm được, đối với họ mở ra một không gian độc lập không phải việc khó.

Song… Sáng tạo ra sinh mạng lại không được.

- Ma thần làm được.

Chris chậm rãi nói: 

- Ngài tạo ra ta, mà sự tồn tại của ta chỉ có hai người biết. Một người là ma thần, một người là thê tử của ngài, nữ thần.

- Lúc trước ta nói câu chuyện này thiếu mất một chuyện, đoạn này chỉ có ma thần đại nhân, nữ thần và ta, chuyện này chỉ có ba người chúng ta biết…

Chris chớp chớp mắt với Đỗ Duy: 

- Trong cuộc sống vợ chống “sáu năm hai tháng lẻ chín ngày” của ma thần và nữ thần đã xảy ra một việc.

Đỗ Duy trợn tròn mắt.

- Nữ thần, mang thai.

Khi Chris nói ra đáp án này, Đỗ Duy hét lên một tiếng, lập tức té từ trên ghế xuống.

Sáng sớm ngày thứ hai đã có người gõ cửa phòng Trần Thiên Minh. Trần Thiên Minh vừa mở cửa đã nhìn thấy một Lạt Ma khoảng hơn 20 tuổi, da ngăm đen, nhìn trang phục thì có vẻ là người của Hoàng Lạt Ma giáo.

“Xin chào, anh là Trần tiên sinh phải không?” Lạt Ma đó hỏi Trần Thiên Minh.

“Đúng, là tôi, anh là?” Nghe Lạt Ma hỏi, Trần Thiên Minh hỏi lại.

“Tôi là đệ tử của toạ hạ Hồ Minh đại sư, tôi tên Thản Ca, sư phụ tôi bảo tôi đến làm người dẫn đường cho anh.” Lạt Ma đó nói.

Trần Thiên Minh nghe thấy là đệ tử của Hồ Minh đến làm người dẫn đường cho mình thì nhớ tới lời mà Ngật Tang Đạt Kiệt hôm qua đã nói, đây chính là họ bảo Thản Ca Lạt Ma này đến, vì thế hắn nói với Thản Ca: “Xin chào, Thản Ca, cảm ơn anh đã làm dẫn đường cho tôi.” Nói xong hắn mời Thản Ca vào phòng.

Thản Ca xua xua tay nói: “Trần tiên sinh, anh đừng khách sáo như vậy, sư phụ tôi nói anh là người bạn tôn kính của chúng tôi, chúng tôi nên giúp đỡ ông.”

“Ừm, anh ngồi xuống trước đã, đợi tôi một lát.” Nói rồi Trần Thiên Minh chạy vào trong nhà vệ sinh bận chuyện của mình. Một lát sau Trần Thiên Minh bước ra nói: “Ngại quá, để anh chờ lâu rồi.”

“Không có gì, Trần tiên sinh, hôm nay anh muốn sắp xếp như thế nào?” Thản Ca hỏi Trần Thiên Minh.

“Tôi muốn đi dạo các vùng gần đây xem phong cảnh, xem có gì có thể thu mua không.” Trần Thiên Minh cười nói.

“Được, anh còn có bạn đồng hành nào không?” Thản Ca hỏi Trần Thiên Minh

“Còn có hai người nữa, một lát họ sẽ tới đây.” Trần Thiên Minh nói.

Một lát sau Ngô Tổ Kiệt và Chiêm Khởi bước vào, họ nói với Trần Thiên Minh: “Ông chủ, bây giờ chúng ta đi đâu?” Vì có người ngoài nên họ đã đổi cách xưng hô.

“Đi dạo bên ngoài xem có gì tốt không?” Trần Thiên Minh cười nói. Tiếp theo đó họ xuống nhà ăn nhỏ phía dưới ăn sáng rồi ra ngoài.

Thản Ca vừa đi vừa giới thiệu cho đám người Trần Thiên Minh cảnh đẹp gần đó. “Bên này là Hoàng Lạt Ma giáo, bên kia là Hồng Lạp Ma giáo, không xa phía trước chính là một số thôn trang của tây bộ. Bên đó có một hồ nước thiên nhiên, bên cạnh hồ nước là rừng cây, bên thôn lâm là núi.”

Sau khi đám người Trần Thiên Minh đi được khoảng nửa tiếng đồng hồ thì đã đến được một cái hồ, nước hồ trong vắt nhìn thấy đáy, hơn nữa phản chiếu màu xanh của nền trời, trông như một chiếc gương. “Wa! Cái hồ này thật đẹp!” Ngô Tổ Kiệt hưng phấn kêu lên.

Thản Ca đã quen với sự kinh ngạc của du khách khi lần đầu tiên nhìn thấy cái hồ này, anh ta mỉm cười nói với mọi người: “Đây là Nạp Mộc Thố, nước ở hồ này là do băng tuyết của Niệm Thanh Đường Cổ Lạp Sơn tan chảy mà thành, vì thế nước rất trong, hiện ra cả màu xanh của nền trời.

Trong thần thoại cổ Tây Tạng Nạp Mộc Thố và đỉnh tuyết Niệm Thanh Đường Cổ Lạp không chỉ là thần núi thánh hồ mà còn là nơi những đôi tình nhân hẹn hò. Đỉnh tuyết Niệm Thanh Đường Cổ Lạp vì dựa sát vào Nạp Mộc Thố mà càng anh tuấn hùng vĩ. Nạp Mộc Thố cũng vì thế mà làm bạn với Niệm Thanh Đường Cổ Lạp, càng làm động lòng người. Nó là một trong ba đại thánh hồ thu hút những người cúng bái từ bốn phương tám hướng đến đây.

“Cái hồ này hoá ra lại có nhiều truyền thuyết như vậy.” Chiêm Khởi kinh ngạc nói.

“Đúng vậy, hơn nữa trong Nạp Mộc Thố tôm cá nhiều vô cùng, đặc biệt còn có các loại trùng tuỵ bối mẫu, tuyết liên…đủ các loại dược liệu quý, cho nên những thương nhân đến đây thu mua dược liệu rất nhiều.” Thản Ca nói.

“Thản Ca , bên kia có bò dê, đó là hoang dã hay là do người tây bộ nuôi?” Trần Thiên Minh chỉ tay về đàn bò dê ở trước mặt, hưng phấn hỏi Thản Ca , nếu như là hoang dã thì mình có thể săn bắn rồi. Đặc biệt là những con bò dê đó trông rất kì lạ, bên trái phần màu trắng của những con dê lại có cái đầu màu đen, những con bò bên phải toàn thân màu đen nhưng lại có cái mặt màu trắng rất giống cái mặt nạ.

“Là những trang thôn gần đây nuôi, đặc beietj là chu kì sinh trưởng của chúng khá dài, mỗi con bò phải nuôi khoảng 6, 7 năm mới có thể bán được. Người tây bộ là những người trọng tình cảm, vì thế họ sẽ không tự giết mổ bò dê mà mình nuôi.” Thản Ca nói. “Trần tiên sinh, các anh chủ yếu đến đây là muốn thu mua cái gì?”

“Chúng tôi thu mua da lông và dược liệu. Thản Ca, nghe nói Tạng dược ở tây bộ rất lợi hại, đúng không?” Trần Thiên Minh hỏi Thản Ca .

“Đúng vậy Tạng dược quả thật rất thần kì. Chúng tôi ở đây có rất nhiều dược liệu đều là sinh trưởng ở nhưng nơi cao mấy nghìn mét so với mực nước biển, hoàn cảnh môi trường cao hàn thiếu dưỡng khí đã ban cho những loại dược liệu này dược tính đặc biệt. Tôi lấy một ví dụ nhé: Thiện đại sư đời thứ mười của chúng tôi sau khi được xử lí qua bằng thuốc Tạng mà trong ba năm đầu và các móng tay vẫn tiếp tục sinh trưởng. Có thể cho thế Tạng dược đối với một số cơ năng trong cơ thể con người có tác dụng cải tử hoàn sinh.” Thản Ca nói.

Họ đi vòng quanh hồ, liền nhìn thấy một thôn trang. Thản Ca chỉ về phía thôn trang đó nói: “Đó là thôn A Bá, họ có da lông và dược liệu bán, chúng ta đi xem xem.”

Trần Thiên Minh bị cảnh sắc của hồ Nạp Mộc làm cho mê mẩn, hắn nói với hai người Ngô Tổ Kiệt: “Tiểu Kiệt, các cậu đi cùng với Thản Ca vào trong thôn xem xem có lông a và dược liệu tốt không, nếu có thì mua một ít. Ta ở đây đi dạo một lát.” Dù sao bọn họ vào đây cũng là giả vờ mua một số vật phẩm rồi trở về, cho nên Trần Thiên Minh cũng không muốn đi, chi bằng ở lại đây đi dạo còn hơn.

“Vâng, ông chủ, chúng tôi sẽ đi xem xem.” Ngô Tỏ Kiệt gật đầu nói.

“Hai giờ sau bất kể là có hay không thì các cậu cứ quay lại nhé!” Trần Thiên Minh nhìn thời gian rồi nói.

“Rõ rồi.” Nói xong mấy người Ngô Tổ Kiệt đi vào trong thôn với Thản Ca .

Trần Thiên Minh thấy mấy người Ngô Tổ Kiệt đã đi rồi, hắn cũng bước tới ngắm hồ Nạp Mộc Thố. Thật là đáng tiếc, lần này hắn đi không có đem theo camera, nếu không đã thu lại cảnh đẹp này rồi mang về cho chị Yến xem. Có điều Trần Thiên Minh vẫn mang chiếc điện thoại chức năng không cao lắm lên chụp cảnh đẹp.

Hắn vừa ngắm vừa chụp, nếu không phải là thời tiết lạnh thì hắn còn muốn xuống hồ bơi một lát, tiện thể xem có thể tìm thấy một số dược liệu quý hiếm không.

Đang đi dạo thì Trần Thiên Minh nhìn thấy một rừng cây rất lớn gần đó, đang không có việc gì làm hắn liền bước vào trong rừng cây xem cảnh vật. Bên trong có một con đường nhỏ thẳng tắp kéo dài về phía trước, Trần Thiên Minh liền đi men theo con đường đó. Đi qua con đường nhỏ trước mặt lại là một ngọn núi lớn.

Phong cảnh bên này không giống chỗ lúc vừa nãy, ở đây là núi và rừng bao bọc lẫn nhau. Đột nhiên Trần Thiên Minh phát hiện thấy một thôn lâm bên ngã rẽ có điều khác thường, vì hắn nhìn thấy bên trong hình như có sương khói. Nếu như không phải nội lực của hắn thâm hậu thì rất khó phát hiện ra thôn lâm đó có sương khói.

Trời ạ, không phải là bên đó có người đang đốt rừng chứ? Trần Thiên Minh thầm kinh hãi, một cánh rừng đẹp như vậy mà lại bị người ta đốt, tội quá. Nghĩ đến đây Trần Thiên Minh liền thi triển khinh công bay sang bên đó.

Đến đợi chỗ đó thì Trần Thiên Minh không khỏi ngẩn ra. Hoá ra không phải là có người đốt rừng mà là cánh rừng đó có một cái hồ nhỏ, sương khói là bay từ hồ đó ra. “Đây là sao vậy? Sao lại bốc ra sương khói?” Trần Thiên Minh tự hỏi mình, rồi nhẹ nhàng đặt tay lên mặt hồ.

Có những khi trời quá lạnh thì hồ cũng toả ra sương khói, nhưng ở hồ Nạp Mộc lúc nãy không thấy xuất hiện hiện tượng này, vậy tại sao ở đây lại có sương khói? Trần Thiên Minh trong lòng cảm thấy kì lạ vô cùng, khi vừa đặt bàn tay xuống mặt nước thì trong lòng bất giác vui mừng, vì hắn phát hiện ra hồ này lại là hồ nước nóng.

Trời ạ, suối nước nóng! Trần Thiên Minh thầm kêu lên trong lòng. Không phải, là hồ nước nóng, làm gì có suối nước nóng nào to đến vậy? Không ngờ tây bộ lại có một nơi tốt như thế này, Trần Thiên Minh thầm than tiếc, nếu như ở đây có thể làm thành suối nước nóng rồi mở cửa bán vé cho người ta vào tắm thì nhất định có thể kiếm được tiền.

Bây giờ Trần Thiên Minh đã có chút động lòng, hắn muốn xuống tắm một cái, hôm qua trong khách sạn chỉ có một ít nước nóng để tắm, cũng chẳng đã tí nào. Ở tây bộ không giống như phía nam của mình, có thể dùng bình nước nắm tắm cho đã, nghĩ đến đây Trần Thiên Minh liền nhìn xung quanh thấy không có người.

Thực ra hồ này ở trong rừng có chút âm u, nhưng vừa rồi đều thấy không có đường, là mình dùng khinh công bay vào đây, cho nên hắn cởi quần áo ra rồi nhảy xuống tắm. Tắm một lúc thì Trần Thiên Minh cảm thấy vo vị.

Hắn ngẩng đầu lên nhìn hồ nước, ở bên mình là điểm cuối của hồ, nhưng bên kia lại không phải. Tuy cái hồ này không dài nhưng nó lại từ bên phải cánh rừng chảy tới. “Đi qua bên kia xem phong cảnh như thế nào.” Trần Thiên Minh thầm nghĩ. Vì thế hắn liền bơi sang bên đó. Khi vừa bơi đến chỗ rẽ thì Trần Thiên Minh phát hiện nước phía trước mặt đang động, hình như phía dưới có vật gì đó.

Trời ơi, cái gì đang động vậy? Lẽ nào là cá? Chắc không phải, vì cá nào có động tĩnh lớn như vậy. Lẽ nào là quái vật? Nghĩ đến đây thì Trần Thiên Minh cảm thấy có chút căng thẳng. Hắn vội vàng vận nội lực của mình, hướng một chưởng về chỗ nước động. “Bộp” một tiếng, nước hồ bị hắn xuất chưởng làm vang lên tiếng kêu, cho dù là quái vật thì cũng sẽ bị doạ sợ hãi mà bỏ đi.

“Nước hồ vừa nãy có động tĩnh đột nhiên chui lên một cái đầu, hơn nữa cái đầu còn bay nhanh lên. Trời ơi, đó không phải là quái vật mà là một người, còn là một cô gái trẻ!

Trần Thiên Minh kinh ngạc ngẩn ra, có thể vì nước phía trước không phải rất sâu, cô gái đó từ nước nhảy lên, lộ ta toàn bộ cơ thể. Đây không phải là nguyên nhân chủ yếu làm cho hắn ngẩn ra, mà chủ yếu là cơ thể cô gái này quá đẹp. Da trắng mượt mà như tuyết, hồng hào căng tròn, bụng bằng phẳng toả ra hương thơm mê người.

Cô gái trẻ đó đã rơi xuống, như cô ấy hoàn toàn trần chụi, đẫy đà bóng loáng còn lộ ra khuôn mặt với lấm tấm giọt nước, những giọt nước đó rơi xuống bộ ngực trắng nõn. Trời ơi, đẹp quá! Trần Thiên Minh ngẩn ra, hắn không rời mắt khỏi cơ thể cô gái, không ngờ ở tây bộ lại có thể nhìn thấy một cơ thể đẹp tuyệt như vậy.

“A!” Cô gái kêu ầm lên, tiếng kêu này có thể được gọi là tiếng kêu làm thiên địa quỷ thần cũng phải sợ. Vì cô ấy cuối cùng đã phát hiện ra trước mặt mình có một người đang đứng, nói chính xác là một người đàn ông mê sắc đang nhìn chằm chằm vào thân thể mình, trông như là muốn chảy cả nước miếng vậy.

Vừa rồi cô ấy đang nghịch nước, lặn xuống dưới chơi, khi cảm thấy trên mặt nước có một sức mạnh đang lao xuống nước, vì thế không biết đã xảy ra chuyện gì nên cô ấy vội vàng nhảy từ dưới nước lên, không ngờ phát hiện thấy trước mặt mình lại có một người đàn ông, hơn nữa người này còn không ngừng nhìn vào bộ ngực của mình.

Triển Hoạch là chủ nhân, ngồi ở vị trí chủ trì, Khổng Khâu cùng Khánh Kỵ là khách, ai ngồi bên phải sẽ lại phải mất một phen khiêm nhường. Thiên hạ chư hầu, ngoại trừ Sở quốc chú trọng bên trái, các quốc gia khác đều là trọng bên phải, lấy bên phải làm tôn quý, khách nhân trọng yếu đương nhiên là phải ngồi phía bên phải.

Khổng Khâu cho rằng mở tiệc vui lần này vốn là vì nghênh đón Khánh Kỵ, hơn nữa thân phận của hắn là công tử Ngô quốc, lẽ ra phải ngồi ở ghế trên. Khánh Kỵ ngược lại nhìn thấy Khổng Đại Phu Tử thân cao như cây cột chắc, trong đầu lại hiện lên một cái hoành phi lấp lánh kim quang, ở trên viết bốn chữ to "Chí Thánh Tiên Sư", đâu có chịu để cho ông ta phải ngồi ghế cuối, hai bên liền khiêm tốn nhường cho nhau.

Khổng Khâu tôn sùng Chu lễ, Chu lễ đem các lễ nghi tôn ti cao thấp dung hợp vào tất cả các phương diện trong cuộc sống, nằm ngồi đi lại, kiến trúc ẩm thực, đều có các quy định cực kỳ tường tận. Lễ nghi khi đó không chỉ có đúng một loại lễ phép mà thôi, cho nên Khổng Khâu đối với lễ nghi rất là coi trọng, đâu chịu làm việc đi quá nghi lễ. Khánh Kỵ vừa thấy Lão Phu Tử trịnh trọng mà nói với hắn về chữ "Lễ", trong lòng lập tức sợ hãi, đành phải ngồi an vị ở ghế bên phải, khách và chủ lúc này mới vui vẻ khai yến.

Thành Bích phu nhân giao du rất rộng, thường tới Tất Thành nghỉ ngơi, biệt viện nơi này quanh năm nuôi dưỡng một nhóm nhạc công vũ kỹ (người chơi nhạc và nhảy múa), cho nên ca múa rất phong phú, thập phần náo nhiệt.

Triển đại phu nâng chén hướng tới hai người kính rượu, rồi buông chén rượu hỏi Khổng Khâu: "Trọng Ni, lúc trước ngươi vì tức giận mà bỏ đi, vi huynh lúc nghe được, nắm tay thở dài rất lâu. Hiện giờ nếu ngươi đã trở lại, liệu có dự tính gì không?"

Khổng Khâu do dự một chút, mới chậm rãi buông chén rượu, thản nhiên cười nói: "Khâu dự định trở về quê hương, lập đàn dạy học, Triển huynh nghĩ thế nào?"

Triển đại phu vuốt râu cười: "Trọng Ni thông thái đạo lý, khắp nơi kính ngưỡng, hiện giờ còn đang trung niên, hẳn là phải xuất thế làm quan mới đúng."

Khổng Khâu bùi ngùi thở dài: "Khổng Khâu muốn làm quan ở Lỗ, sợ là tiền đồ sẽ rất gian nan."

Triển Hoạch chăm chú nhìn Khổng Khâu một lát, đột nhiên bật cười: "Trọng Ni còn nhớ chuyện giáp mặt trách móc Quý Tôn đại nhân vượt quá lễ nghi sao? Trọng Ni, Quý Tôn đại nhân chấp chưởng việc nước, cầu người tài như khát nước, một ít việc nhỏ như vậy làm sao có thể để ở trong lòng? Ngươi là văn nhân Lỗ quốc, thông suốt cổ kim (xưa và nay), học thức uyên bác, thanh danh lan khắp chư hầu, Quý Tôn đại nhân có chí nguyện làm Lỗ quốc cường đại, như thế nào có thể bỏ người hiền tài như Trọng Ni mà không dùng được? Nếu ngươi nguyện ý làm quan, ngu huynh có khả năng vì ngươi tiến cử."

Khổng Khâu động tâm, suy nghĩ sơ qua, rồi nâng chén cười nói: "Thịnh tình của Triển huynh, Khâu không nén nổi vô cùng cảm kích. Rời khỏi cố hương lâu như vậy, ta nhất định phải quay về xem thế nào, đợi Khổng Khâu về nhà ở vài ngày, lại tới Khúc Phụ bái phỏng Triển huynh có được không?"

Hắn nói như vậy, chính là đã ngầm đáp ứng rồi, Triển Hoạch trong lòng vui sướng, lại đối ẩm cùng hắn một ly. Khổng Khâu buông chén xuống, vui sướng quay sang hỏi Khánh Kỵ: "Công tử cũng tới Khúc Phụ sao?"

Khánh Kỵ cười cười, khóe mắt cũng không liếc qua nhìn Triển Hoạch, ngang nhiên đáp: "Khánh Kỵ vốn có ý muốn tới Khúc Phụ chữa thương, hiện giờ thương thế đã dần khỏi, có điều nỗi nhớ nhà như mũi tên, Khúc Phụ không đi cũng không sao. Làm phiền thịnh tình của Triển đại phu, Khánh Kỵ ở tạm đây vài ngày, chờ khi đi lại bình thường, lập tức quay về Ngải thành, chiêu binh mãi mã, lại phạt Ngô. Thù giết cha một ngày chưa báo, Khánh Kỵ chẳng phải vẫn chưa xứng phận làm con sao?"

Khổng Khâu nghe thấy thì vô cùng xúc động, lập tức vỗ vỗ tay trầm trồ khen ngợi.

Đạo hiếu, chính là một bộ phận trọng yếu trong những lễ nghi mà ông ta đề xướng. Khánh Kỵ đáp lời như thế này đúng là quá tuyệt vời, sao có thể khống chế được cảm xúc? Từng có đệ tử của ông hỏi nếu có thù giết cha với kẻ khác thì phải làm thế nào bây giờ? Lúc đó Khổng Lão Phu Tử đã trả lời một lượt, sau lại được ghi trong "Luận ngữ" (tên sách, chép những lời nói và hành động của Khổng Tử và một số học trò).

Đoạn nói của ông ngày nay được đổi thành một đoạn tán gẫu, đại ý chính là: Nếu có thù giết cha mà chưa báo, không thể ăn, không thể mặc, không thể làm quan, mặc kệ dùng biện pháp gì, nhất định phải giết chết cừu nhân báo thù cho cha. Nếu chẳng may gặp phải ven đường, trong tay lại không có vũ khí, cũng phải nhặt hòn gạch lên ném hắn.

Cho nên ông ta đối với việc Khánh Kỵ bày tỏ thái độ hiếu thảo đương nhiên cực kỳ biểu dương, lập tức khen: "Lời ấy của công tử thật đúng! Mối thù cha mẹ, không đội trời chung. Còn chưa nói việc công tử Quang hành thích vua đoạt vương vị, đó chính là đại nghịch bất đạo, cho dù hắn có là vua của một nước, phận làm con, có huyết hải thâm cừu thế này, cũng vì cha mà bỏ vua, chứ không thể vì vua mà bỏ cha được."

Khánh Kỵ nghe thấy thế thì phát ngốc: "Nho gia không phải nói chuyện vua muốn thần chết, thần không thể không chết sao? Như thế nào Khổng Khâu lại nói rằng thà vì cha bỏ vua, chứ không vì vua mà bỏ cha như vậy, chẳng lẽ đó đều là những lời bịa đặt xu nịnh của bọn con cháu Nho gia bất tài, vì để tâng bốc lão hoàng đế mà phát minh ra, căn bản là không có quan hệ với Khổng Khâu?"

Triển Hoạch ngồi một bên vuốt râu mỉm cười, nghe thấy Khánh Kỵ nói như vậy thì sắc mặt lại không rõ như thế nào, đúng lúc này, một trận gió thổi đến, đưa vào một mùi hôi thối, nhạc công vũ kỹ hai bên đều bịt mũi nhíu mày. Triển Hoạch giận dữ, quát: "Nực cười, đây là cái mùi gì?"

Quản sự Thành phủ hoảng hốt vội vàng chạy ra ngoài dò hỏi đến tột cùng, một lúc sau chạy về nói: "Triển đại nhân, tiểu nhân đã ra ngoài hỏi qua, gia nhân Bạch phủ cách vách ủ phân làm ruộng, mùi bay sang đây."

Triển Hoạch khoản đãi khách nhân, trong bữa tiệc lại truyền đến một mùi ngũ cốc hôi thối, nhất thời làm mất hết cả mặt mũi của hắn, khiến Triển đại phu tức giận đến mức mặt tái mét. Hắn biết cái gọi là Bạch phủ cách vách chính là một chỗ ở của Lỗ quốc đại thương nhân Bạch Tử Lăng, hắn đường đường là một Lỗ quốc đại phu đương nhiên không để Bạch Tử Lăng trong mắt.

Có điều hiện tại Bạch Tử Lăng không ở đây, trong Bạch phủ cùng lắm chỉ có một ít hạ nhân, hắn không tiện hạ thân phận tự mình ra mặt, liền giận dữ quát: "Ngươi đi nói với bọn họ, trong phủ đang có tiệc mời khách, lại có mùi lạ quấy nhiễu hứng thú của ta, nhất định sẽ không tha."

Quản sự kia chạy tới bức tường nói qua, bất chợt một tiếng hô như sấm từ đối diện truyền sang, đám người Triển Hoạch ngồi ở trong sảnh cũng nghe rõ ràng, một nam tử thanh âm kỳ quái nói: "Ngươi mời khách của ngươi, ta ủ phân của ta, nhà ngươi muốn trách tội, thì đi mà trách làm sao gió không biết điều, có quan hệ gì tới ta?"

Dứt lời sau tường truyền đến một trận cười to, Triển Hoạch nghe thấy vậy thì hai hàng lông mày dựng thẳng đứng, 'bộp' một tiếng đập bàn đứng lên. Khánh Kỵ khuyên nhủ: "Đại phu chớ bực mình, để người nhà qua Bạch phủ nói rõ thân phận đại phu, tiểu tử ngu dốt sẽ phải biết sợ."

Triển Hoạch nuốt một cục tức, mặt bình tĩnh gọi quản sự Thành phủ trở lại, lệnh cho hắn sang phủ bên kia can thiệp. Quản sự kia cũng không nghĩ tới hạ nhân Bạch phủ lại trở nên lớn mật như vậy, nhận được phân phó liền vội vàng đi sang Bạch phủ. Có điều chỉ một lát sau, một loạt tiếng kêu thảm thiết truyền qua bức tường ngăn, Triển Hoạch cùng Khánh Kỵ, Khổng Khâu nhìn nhau ngạc nhiên, lập tức liền thấy quản sự Thành phủ cùng vài tên gia đinh dìu nhau, mặt mũi bầm dập chạy về.

Quản sự Thành phủ quỳ sụp xuống đất, khóc lóc tố cáo bị hạ nhân Bạch phủ lỗ mãng đánh, cầu xin Triển đại phu ra mặt. Triển đại phu tức giận đến run cả người, đôi mắt to của Khổng Khâu cũng trừng lên, hai vị đạo đức kiểu mẫu xoa tay, như muốn lập tức xuất đầu đi đòi lại công đạo.

Khánh Kỵ thấy tình cảnh như vậy không khỏi động tâm tư, mới vừa rồi Triển đại phu nói rằng Bạch gia chính là thương nhân Lỗ quốc, biết rõ cách vách là một vị đại phu địa vị hiển hách đang mời khách, gia nhân của một thương nhân sao dám làm càn như vậy? Mùi thối lan ra cũng không nói, còn đánh cho người sang tranh luận thành bộ dạng như thế này, rõ ràng là có ý khiêu khích, ý đồ của bọn họ là gì?"

Khánh Kỵ xoay chuyển tâm tư một hồi, liền bình tĩnh lại, ngồi ổn định nói: "Triển đại phu, Khổng tiên sinh, cứ an tâm chớ nên nóng nảy. Lương Hổ Tử, tới đây!"

Tả binh vệ Lương Hổ Tử kêu 'Rõ' một tiếng, từ ngoài phòng khách đi nhanh vào, chắp tay làm quân lễ. Khánh Kỵ chăm chú nhìn Lương Hổ Tử, thản nhiên nói: "Ngươi sang bên kia, chớ để cho bọn phàm phu tục tử quấy nhiễu hứng thú của mọi người."

Lương Hổ Tử là quân Ngô quốc mang theo từ đầu, vẫn luôn đi theo Khánh Kỵ, đối với tâm ý của hắn hiểu rất rõ. Khi hắn chắp tay hành lễ mắt luôn chăm chú nhìn Khánh Kỵ rất kỹ, ánh mắt Khánh Kỵ hơi hơi ngưng lại phía hắn, sau đó buông xuống dưới chăm chú nhìn vào chén rượu. Lương Hổ Tử trong lòng hiểu rõ, nhướng lông mày rậm, cúi đầu hô 'Rõ', đi lùi từng bước ra khỏi phòng khách, điểm danh hai mươi hổ lang chi binh, giống như gió lốc ra khỏi đại môn.

Triển Hoạch lúc này mới có phản ứng, bất an nói: "Công tử là khách phương xa, chiêu đãi không chu toàn, đã là lỗi của Triển mỗ, lại làm phiền quân lính của người, Triển mỗ chẳng phải quá hổ thẹn sao?"

Khánh Kỵ hạ thấp người, mỉm cười nói: "Thịnh tình khoản đãi của đại phu, Khánh Kỵ thẹn không báo được. Một chút việc nhỏ, Khánh Kỵ làm giúp một tay, coi như cảm tạ tình cảm sâu đậm của đại phu đi. Tới tới tới, đừng để kẻ tiểu nhân quấy nhiễu hứng thú uống rượu, Triển đại phu mời, Khổng tiên sinh mời."

Triển Hoạch, Khổng Khâu giơ chén lên đáp lại, hai tai lại vẫn dựng thẳng lên, lắng nghe động tĩnh cách vách.

Lương Hổ Tử lĩnh hai mươi binh sĩ, đi tới trước cửa Bạch phủ, đập ầm ầm vào cửa lớn, cao giọng quát: "Mở cửa, mở cửa!"

Bên trong có tiếng người xót xa nói: "Chó ở Thành phủ lại tới đây sủa sao? Muốn vào cửa, bên cạnh có cái cửa đấy, chớ có làm hỏng đại môn nhà ta, ngươi muốn bồi thường cũng không nổi."

Lương Hổ Tử nhìn sang bên cạnh, nhìn thấy một cái lỗ chó đục trên cửa, không khỏi giận tím mặt. Hắn nhìn quanh trái phải, thấy trên cái sân bên cạnh cánh cửa có một cái trục lăn lúa, liền đi tới đó, cầm chỗ hõm hai bên trục lăn, hít vào một hơi thật sâu, hét lớn một tiếng, nâng cái trục lăn lúa lên.

Cái trục lăn lúa này nặng không dưới ba trăm cân, lực sĩ bình thường đúng là không thể nâng nổi. Lương Hổ Tử vốn cậy mạnh, khí lực toàn thân chỉ hơi kém so với Khánh Kỵ, hét lớn một tiếng không ngờ lại có thể nâng cái trục lăn lên quá đỉnh đầu, binh lính bên người lập tức hô 'Hay'. Lương Hổ Tử thần tình dữ tợn đến run cả người, nâng trục lăn lúa đi từng bước một tới bậc thềm, tới trước cửa thì hung hăng đập về phía trước, một tiếng nổ giống như đất rung tuyết lở, đại môn cực kỳ rắn chắc liền nứt ra một khe hở, cây đòn chắn ngang cánh cửa gần như gãy làm đôi.

Lương Hổ Tử lại rống to một tiếng, đập trục lăn lúa về phía trước, một tiếng nổ ầm vang, đại môn bị đập cuối cùng cũng mở ra, hai bên cánh cửa ngay cả trục cửa cũng bị đập gãy, cong cong vẹo vẹo lung lay sắp đổ.

Lương Hổ Tử ném trục lăn lúa xuống, nhấc chân đá một cái, hai cánh cửa ầm ầm đổ xuống đất, làm tung lên vô số tro bụi, đợi cho tro bụi kia từ từ tiêu tan, Lương Hổ Tử dẫn hai mươi binh sĩ xông vào trong viện, cầm trường mâu trong tay, trợn mắt lên, lớn tiếng quát to: "Ai là quản sự Bạch phủ?"

Mắt nhìn thấy uy thế của bọn họ như thế, vài tên đạo chích giả làm gia nhân cố ý quấy rầy cảm thấy hơi sinh ý khiếp sợ, một đại hán trong đó bước lên trước một bước, cố gắng cứng rắn quát: "Ngươi kẻ này không biết lễ nghi, làm sao lại đập vỡ đại môn nhà ta?"

Lương Hổ Tử 'Hừ' một tiếng, túm lấy cổ áo hắn, mắt báo trừng to quát: "Chủ nhân nhà ta đang êm đẹp uống rượu ở phòng khách, lại cứ bị mấy kẻ tiểu nhân các ngươi làm cho mùi thối đầy trời. Quản sự Thành phủ sang tranh luận với các ngươi, lại bị các ngươi tự dưng đánh cho. Lễ? Ta khinh! Lễ cũng là thứ mà kẻ hạ nhân cỡ ngươi có thể nói ra sao?"

" Ngươi là ai?" Thủ lĩnh bọn đạo tặc Lý Huyền xuất hiện ở cửa phòng khách, lạnh lùng đánh giá trang phục và dáng người vạm vỡ của đại hán này.

Lương Hổ Tử nheo mắt liếc nhìn hắn, thấy thần thái hắn kiên định, hiểu ra người này mới là chính chủ, tay đẩy một cái, gã đạo tặc đang tranh cãi với hắn khó khăn lui lại mấy bước, may mắn được đồng bọn đỡ lấy mới không bị ngã ngồi lên mặt đất.

Lương Hổ Tử ưỡn ngực nói: "Ta là Lương Hổ Tử người nước Ngô, chủ nhân của ta được Lỗ quốc Triển đại phu mời uống rượu tại Thành phủ, gia nhân Bạch phủ hà cớ gì hết lần này đến lần khác quấy rầy, gây hấn sinh sự?"

Lý Huyền mưu đồ sinh sự, nghe thấy vậy thì cười lạnh nói: "Thế này sao có thể trách được, ta đứng trong sân nhà mình, như thế nào lại bị đổ lên đầu cái tội danh gây hấn với nhà ngươi? Người nước Ngô các ngươi luôn hung hăng ngang ngược như vậy sao? Phì, chủ nhân nhà ngươi là cái giống gì?"

Lương Hổ Tử giận dữ: "Chủ nhân nhà ta thân phận tôn quý, há lại có thể nói cho bực tiểu nhân như ngươi nghe, nói chuyện cẩn thận một chút cho ta, nếu không chớ trách ta đây vô lễ."

Lý Huyền cười to: "Ngươi là giống man di, biết cái gì gọi là 'Lễ'? Giấu đầu hở đuôi, không dám gặp người đó thôi."

Khánh Kỵ trong phòng khách nghe rất rõ ràng, hai hàng lông mày không khỏi nhíu lại, lập tức liền nghe thấy từ cái sân cách vách truyền tới tiếng "keng keng", là tiếng binh khí va chạm, hai bên đúng là đã giao thủ.

Triển đại phu bất an ngẩng cổ nhìn sang, tuy nhiên chẳng nhìn thấy được cái gì. Nếu bộ hạ của Khánh Kỵ bị người ta làm cho bị thương, thì hôm nay coi như mất hết mặt mũi. Đúng lúc này, từ cách vách phát ra một tiếng la: "Giết người, giết người!" Sau đó là một trận hô hét điên cuồng.

Triển đại phu rốt cuộc ngồi không yên, thoáng cái đã đứng dậy, vội la lên: "Mau, mau sang xem tới cùng là thế nào."

Hắn vừa dứt lời, đại môn rầm rầm mở ra, hai mươi giáp sĩ giống như 'sao quanh trăng sáng' vây lấy Lương Hổ Tử đi nhanh tới, trong tay Lương Hổ Tử cầm theo một cái đầu người máu chảy đầm đìa, bước nhanh lên thềm, đè kiếm quỳ xuống, lớn tiếng tâu lên: "Gia nhân Bạch phủ gây hấn sinh sự, làm nhục chủ thượng, Lương Hổ Tử đã dùng kiếm chém chết hắn, hiện đến phục mệnh."

Lời Lương Hổ Tử vừa nói ra, trên dưới phòng khách đều cả kinh. Lương Hổ Tử dập đầu thật mạnh, nói: "Mời chủ thượng cùng Triển đại phu, Khổng tiên sinh yên tâm uống rượu, sẽ không có kẻ tiểu nhân đến quấy rầy nữa, kẻ hèn xin cáo lui." Dứt lời đứng dậy rút lui ra hướng cửa phòng.

Khánh Kỵ nhấc bầu rượu lên châm vào chén, cũng không ngẩng đầu lên thản nhiên mà hỏi: "Ngươi xách cái đầu người, muốn chạy đi đâu vậy?"

Lương Hổ Tử dừng lại, khấu đầu nói: "Kẻ hèn không dám vì tội của mình mà làm phiền tới chủ thượng, tự đi gặp thành mục thủ thỉnh tội chịu phạt." (Thành mục thủ: quan trông coi thành)

Khánh Kỵ cười ha ha, nâng ánh mắt lên nói: "Ngươi trung thành bảo hộ chủ nhân, bản công tử chỉ thấy có công, làm gì có tội? Đem cái đầu này ném về Bạch gia đi, nói cho gia nhân Bạch Thị, Ngô quốc Khánh Kỵ ở trong sân nhà hắn săn bắn, giết nhầm một con chó dữ, nếu muốn bồi thường, mời đến gặp ta, Khánh Kỵ tự nhiên xin được chỉ giáo!"

Khánh Kỵ nói có vẻ rất nhẹ nhàng hời hợt, Triển Hoạch nghe thấy mà mặt trắng bệch, bọn thị vệ ngoài phòng khách cùng với gia nhân Thành phủ mỗi người đều thấy mở mày mở mặt.

Khánh Kỵ dứt lời, cười nói với Triển Hoạch: "Triển đại phu, thuộc hạ của bản công tử tính tình hung bạo, vì nóng lòng bảo hộ chủ, mà làm cho Triển đại phu chê cười."

Triển Hoạch lấy lại bình tĩnh, vội nói: "À... À..., gia nhân Bạch Thị ngang ngược, làm nhục công tử, đáng phải chết, công tử có thuộc hạ trung thành nghĩa khí như vậy, Triển mỗ rất là... rất là thán phục."

Khi đó chỉ có một vài quốc gia ở Trung Nguyên là định ra pháp luật rõ ràng, vấn đề là Lỗ quốc cũng như rất nhiều nước chư hầu mặc dù về đất đai, lễ chế một vài phương diện thì có quy định rõ ràng, nhưng mà về hình pháp (như pháp luật bây giờ) vẫn chưa có nhiều văn tự, người dân trong nước không biết rõ ràng về các điều khoản pháp luật, một khi phát sinh án kiện, đều là do công khanh đại phu ở địa phương cùng ngồi công đường xử án nghị sự, thảo luận kết quả xử phạt cuối cùng, bởi vậy mà tính tùy ý rất lớn.

Cho nên giống như báo thù rửa hận, hoặc là người có thanh danh tốt mắc phải tội sát nhân, khi dân chúng thỉnh cầu tha thứ, các đại phu nói thả là có thể thả. Quý tộc giết người thường lại có thể nhơn nhơn ngoài vòng pháp luật. Công tử Khánh Kỵ là quý tộc, đối phương cùng lắm chỉ là mấy tên gia nô của một thương nhân, thân phận hèn mọn, lấy thân phận kẻ hèn mọn mà đi lăng nhục quý tộc, ngoài cái chết ra chỉ còn cái chết. Cũng không cần quan gia truy cứu, thứ dân làm gì có thể dựa vào pháp luật nào mà kháng nghị, đáng chết hay không đáng chết, có tội hay vô tội, tất cả đều dựa vào quan gia mở miệng nói ra mà thôi.

Khánh Kỵ cười ha ha, nói: "Khánh Kỵ vốn định ở đây hảo hảo tĩnh dưỡng vài ngày sẽ quay về Vệ quốc, không muốn bọn đạo chích cứ mãi kiếm chuyện, lại làm liên lụy Triển đại phu, thật sự là có lỗi."

Hắn nói đến đây, quay đầu ra ngoài, quát lớn: "Đông Cẩu, đi tới trước cửa phủ dựng tên hiệu của bản công tử lên, Ngô quốc Khánh Kỵ tới nơi nào cũng là một hảo hán đỉnh thiên lập địa, để ta xem còn có kẻ nào có can đảm quấy rầy sinh sự!"

Hữu binh vệ Đông Cẩu là võ sĩ từ Tấn quốc tìm hắn làm nơi nương tựa, viết chữ rất khá, nghe vậy lớn tiếng hô 'Rõ', bước nhanh ra ngoài.

Thần sắc Khánh Kỵ lại biến đổi, mặt giãn ra nâng chén lên, nói nói cười cười với Triển Hoạch và Khổng Khâu: "Tới tới tới, bọn tiểu nhân đã xử lí xong, chúng ta cứ yên tâm uống rượu."

Quản sự Thành phủ thấy vị Khánh Kỵ công tử này làm cho hắn nuốt trôi đi được một cục tức, vui sướng hoa chân múa tay, vội vàng trừng hai cái mắt như con gấu trúc, hướng trái phải quát: "Còn không cử nhạc, nhảy múa?"

Nhạc công và vũ kỹ hai bên đang sợ ngây người bị hắn quát một cái, thoáng cái như tỉnh mộng, lập tức kèn tiêu cùng thổi, tay áo tung bay, phòng khách Thành phủ lại là một màn ca múa mừng cảnh thái bình.

Triển Hoạch cùng Khổng Khâu nhìn nhau cười khổ, bọn họ thật sự không nghĩ tới Khánh Kỵ một công tử mất nước, tới Lỗ quốc cũng không chịu hạ thấp người, còn mãnh liệt như thế, đành phải nâng chén theo đáp lại.

Triển Hoạch nâng chén, uống chén rượu đến một nửa, trong lòng chợt lóe một tia suy nghĩ, đột nhiên tỉnh ngộ ra: "Ai da, không đúng! Ta bị Khánh Kỵ công tử dắt mũi rồi!"

Tiệc xong, Triển Hoạch cùng Khổng Khâu nắm tay trở vào phòng, phân phó thị tỳ pha trà, hai người ngồi đối diện nhau. Triển Hoạch lắc đầu cười khổ, Khổng Khâu nhìn thấy bạn tri giao như vậy, biết rõ còn hỏi: "Triển huynh hà cớ gì lại cười khổ?"

Triển Hoạch thở dài: "Ta đã xem thường Khánh Kỵ công tử."

Khổng Khâu khẽ cười nói: "Xin được chỉ giáo?"

Triển Hoạch trầm tư một lát, mới chậm rãi nói: "Ta đã sớm nghe nói Khánh Kỵ là Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ, vốn được Ngô Vương Liêu sủng ái, trong số những công khanh sĩ tử Ngô quốc cũng có uy danh, có điều... Hắn dù sao cũng chưa tới nhược quán (ngày xưa gọi thanh niên 20 tuổi là nhược quán), có sức mạnh như vậy, lại có thêm trí tuệ, hắc, có được tâm cơ mức này... Có lẽ hắn thật sự có thể làm nên đại sự chưa biết chừng?"

Ánh mắt Khổng Khâu chợt lóe, cười ha ha nói: "Khánh Kỵ sao lại có tâm cơ? Ta thấy tính tình hắn cương mãnh, làm việc không tính hậu quả, trong bữa tiệc chém chết gia nhân Bạch phủ cũng là như vậy, hành vi như thế, đúng là bản tính của thiếu niên dũng sĩ thôi."

Triển Hoạch vuốt vuốt chòm râu, không đồng tình trắng mắt nhìn hắn, sẵng giọng: "Trọng Ni, ta biết tính tình ngươi ngay thẳng, nhưng cũng không phải một kẻ hủ nho không hiểu thói đời. Ngươi và ta tương giao tâm đầu ý hợp, ở trước mặt ta sao còn phải che giấu suy nghĩ, Khánh Kỵ công tử làm vậy, ngươi không nhìn ra dụng ý của hắn sao?"

Khổng Khâu tránh không đáp, hỏi ngược lại: "Nếu nói như vậy, Triển huynh nhận sự sai khiến của Quý Tôn đại nhân, chứ cũng không phải xuất phát từ loại tình cảm cố nhân mới tới Tất Thành đón chào thì sao?"

Triển Hoạch gật gật đầu, suy nghĩ một lát nói: "Trọng Ni, không nói gạt ngươi, Khánh Kỵ gặp chuyện, binh bại phải đào vong, sau khi tin tức hắn đi qua Lỗ quốc về Vệ truyền tới đô thành, lúc đó trên dưới đô thành cũng không để ý, nguyên nhân chính là vì thế, cho nên hiện giờ mới có chút trở tay không kịp."

"Nếu mới đầu đã không để ý, vì sao đột nhiên lại thay đổi chủ ý?"

"Đó là bởi vì sau đó không lâu, Dương Hổ hiến một kế cho Quý Tôn đại nhân..."

" Dương Hổ?" Khổng Khâu vừa nghe thấy nhất thời giận tới tái mặt. Triển Hoạch cũng biết chuyện ở tiệc rượu khi đó của hắn cùng với Dương Hổ, không khỏi ung dung cười.

Nói đến cái chuyện tiệc rượu của Dương Hổ và Khổng Khâu, đã là chuyện thật lâu trước kia. Lúc ấy Khổng Khâu tuổi còn trẻ, có chút ái mộ hư vinh, hoặc cũng có thể nói là một người trẻ tuổi có chút thành công trong học vấn muốn biểu hiện chính mình trước công chúng, cho nên phi thường hướng tới cuộc sống của xã hội thượng lưu.

Có một lần Quý Tôn Thị mở một bữa tiệc lớn mời các quý tộc dự tiệc, Khổng Khâu tuy rằng gia cảnh sa sút, có điều cũng được coi như là quý tộc lụi bại, hổ chết cũng không chịu ngã, cảm thấy cũng đủ tư cách tham gia, liền đến dự tiệc. Lúc ấy chính là gia nô của Quý Thị Dương Hổ đứng ở cửa đón khách, nhìn thấy bộ dáng tuềnh toàng của hắn, liền ngăn lại ở ngoài cửa. Khổng Khâu không phục, tranh luận với hắn, bị Dương Hổ trước mặt mọi người chế nhạo một phen, khiến cho Khổng Khâu xấu hổ mặt đỏ gay xoay người bỏ đi. Việc này đã là chuyện cũ hai mươi năm trước, không ngờ hắn vẫn còn nhớ trong lòng.

Triển Hoạch tiếp tục nói: "Dương Hổ cố gắng khuyên Quý Tôn đại nhân tương trợ Khánh Kỵ, hắn nói làm việc này thứ nhất có thể truyền bá danh tiếng Lỗ quốc nhân nghĩa tới các nước chư hầu, thứ hai Khánh Kỵ một khi phục quốc, Lỗ quốc cũng có ân, tổng lại thì vẫn hơn là có một láng giềng cường đại dã tâm bừng bừng như Hạp Lư, hơn nữa..."

Triển đại phu dừng một chút, lý do tiếp theo đề cập đến mâu thuẫn bên trong Lỗ quốc tam đại quyền thần, tuy nói rằng hắn cùng Khổng Khâu đúng là bạn tốt tri kỷ, dù sao việc này cũng đề cập tới triều đình, mà Khổng Khâu đối với Quý Tôn Thị cùng Dương Hổ vốn không có hảo cảm gì, lại chỉ là dân thường áo vải, có chút chuyện cơ mật không tiện cho hắn biết.

Triển Hoạch nuốt nửa câu lại, xong lại nói: "Chính là Thúc Tôn, Mạnh Tôn hai nhà đối với việc này thì phản đối mãnh liệt, không tán thành bởi vì Khánh Kỵ mà kết thù kết oán với Ngô. Quý Tôn đại nhân tuy là chấp chính đương triều, nhưng mà Thúc Tôn, Mạnh Tôn cùng Quý Tôn ba nhà một thể, từ trước tới nay cùng tiến cùng lùi. Quý Tôn đại nhân cũng không tiện gạt đi sự chuyên quyền độc đoán của hai đại thế gia kia, vì thế phái vi huynh đến Tất Thành tạm chặn Khánh Kỵ công tử lại, chờ ba vị gia chủ ở đô thành thống nhất thêm ý kiến."

Khổng Khâu cười cười, nói: "Vì thế ngươi lấy lí do việc tư nghênh đón hắn, trong triều nếu quyết ý dùng Khánh Kỵ, liền mời hắn tới đô thành, nếu không cần Khánh Kỵ, cũng có thể để hắn ra khỏi nước, như thế tiến cũng được lui cũng được, nắm chặt sự chủ động trong tay chính mình. Ngô quốc về phương diện nào cũng không tìm ra được Lỗ quốc có gì không phải, có thể nói là 'tích thủy bất lậu - giữ nước không chảy ra ngoài'.

Đáng tiếc Khánh Kỵ công tử tựa hồ như đã nhìn ra được chủ ý của ngươi, hắn đánh đòn phủ đầu, thừa dịp Bạch gia quấy rầy chém người lập uy, dựng cờ dương danh (nêu cao tên tuổi), nhìn thì như lỗ mãng, kì thực cũng là một nước cờ tốt. Danh hiệu của hắn bày ra ngoài, cho dù ngươi không phải là hành nhân* Lỗ quốc, cũng sẽ biến thành hành nhân Lỗ quốc. (Hành nhân: như là nhà ngoại giao)

Ngô quốc biết hắn ở đây, đương nhiên sẽ gửi thư tới đòi người, khi đó nếu lại đưa hắn ra, trong mắt các nước chư hầu, rõ ràng là Lỗ quốc ta sợ Ngô quốc, đây là đại sự có thể làm tổn hại quốc thể. Trong triều quyết định đối đãi với Khánh Kỵ như thế nào, điểm này đúng là vấn đề không thể không lo lắng cho được."

Triển Hoạch cười khổ nói: "Đúng vậy."

Khổng Khâu im lặng một lát, cười cười nói: "Nếu không dùng Khánh Kỵ, Lỗ quốc cũng không hại gì. Nếu dùng Khánh Kỵ, lợi hay hại trong đó vẫn còn rất khó nói, nhưng mà muốn đi tìm cái lợi, tất phải có cái hại, lợi hại từ trước tới nay chính là cùng gắn bó với nhau. Nhưng giải quyết thế nào cũng không phải chúng ta lo được, Triển huynh làm sao phải phiền não, cứ giao cho các đại nhân chấp chính đau đầu đi."

Triển Hoạch cười khổ nói: "Thôi, có nghĩ nữa cũng vô dụng, ta sẽ viết một phong thư, cho người lập tức đưa tới đô thành. Trọng Ni, ngươi hãy khoan, ngồi uống trà cái đã, chúng ta hai người lâu ngày gặp lại, còn có rất nhiều điều để nói."

o0o

Khánh Kỵ trở về chỗ ở của mình, chỉ ở bên trong đi qua đi lại một chút. Chờ cho Triển đại phu vừa đi, liền lập tức đi ra, trước tiên đi thăm bính lính của mình.

Hai trăm binh lính ở các phòng bên trái bên phải, gia đinh của Thành phủ mang gạo và rau đến, sĩ tốt mượn bếp nấu cơm, lúc này đã ăn xong cơm, vừa thấy công tử đến, đều đứng dậy đón chào.

Khánh Kỵ thăm hỏi một lượt, rồi một mình trở lại đình (sân), tả binh vệ Lương Hổ Tử liền lặng lẽ đi theo.

Khánh Kỵ đứng ở trước vườn hoa, khoanh tay nhìn con bướm nhẹ nhàng bay lượn. Lương Hổ Tử đi đến cách hắn hai bước sau lưng thì dừng lại, thấp giọng nói: "Chủ thượng, gia nhân Bạch phủ mỗi người đều có võ có lực, nhìn không giống loại người lương thiện. Tên đầu lĩnh thân thủ linh hoạt, thái độ tỉnh táo, nếu không phải đã sớm được chủ thượng ra hiệu, kẻ hèn bất ngờ hạ sát thủ, sẽ không thuận lợi đoạt sinh mệnh của hắn như vậy. Mà không đúng, binh khí mà bọn họ sử dụng, cũng không phải là những người bình thường trông coi nhà sử dụng, thật giống như lợi khí của bọn cướp đường sâu mọt hay dùng."

Khánh Kỵ nhẹ nhàng nâng một đóa hoa, cười lạnh nói: "Có thế chứ, ta thấy hắn ba lần bốn lượt cố ý khiêu khích, đã biết rằng nhất định có gì mờ ám, căn nhà đó... nhất định có vấn đề."

Lương Hổ Tử hỏi: "Công tử, liệu có phải tên thương nhân này chính là đạo tặc cướp đường ngang ngược?"

Khánh Kỵ hỏi ngược lại: "Nếu đúng là như vậy, hắn việc gì phải chọc giận ta, chọc giận Triển đại phu, bại lộ hành tung bọn chúng, làm như vậy thì được ích gì?"

Hắn trầm ngâm một lát, cười cười nói: "Có lẽ là có người không thích ta ở lại Lỗ quốc, quên đi, dụng ý của bọn chúng là gì không cần quan tâm, binh đến thì chặn, nước lên thì đắp đê, chúng ta cứ âm thầm cẩn thận, chính là lấy bất biến ứng vạn biến."

Lương Hổ Tử nhãn tình sáng lên, hưng phấn mà nói: "Chủ thượng xuất khẩu thành thơ, câu này thực sự là hùng hồn."

Khánh Kỵ cười lên một tiếng, lại hỏi: "Hiện tại chúng ta có mấy tiễn thủ, kiếm sĩ, binh sĩ cầm mác, cầm khiên?"

Lương Hổ Tử hồi đáp: "Lần này những người đi theo công tử, đều là chọn những binh lính thân thể khoẻ mạnh, giáp phục đầy đủ, hiện tại tả hữu binh vệ tổng cộng hai trăm người, ba mươi lăm tiễn thủ, tám mươi hai qua thủ (qua: mác), hai mươi hai thuẫn thủ (thuẫn: khiên), bốn mươi ba kiếm sĩ, cầm kích dài ngắn mười tám người."

Khánh Kỵ 'ừm' một tiếng, nói: "Ngươi cùng Đông Cẩu thương nghị một chút, sắp xếp hai vệ binh thay nhau canh phòng, buổi tối phải bố trí binh sĩ tuần tra, phòng ngừa vạn nhất."

"Rõ!"

" Mặt khác..., tìm vài người mánh khóe linh hoạt, mặc thường phục dân thường, ẩn núp gần Bạch gia trang viện, dò xét tình hình bọn chúng."

"Rõ!"

Hai ngón tay Khánh Kỵ mân mê, gập đầu ngón tay búng một cái, đóa hoa mai héo úa bị hắn búng bay đi. Khánh Kỵ nhìn cánh hoa rơi, nói: "Đi thôi, hôm nay hành quân vất vả, sẽ không phải luyện tập võ nghệ. Sáng sớm ngày mai khôi phục lại bình thường, nghe thấy tiếng gà gáy, mưa gió cũng không nghỉ!"

Lương Hổ Tử chắp tay quay đi, tiếng bước chân dần biến mất, Khánh Kỵ phất một ống tay áo, cũng đi tới chỗ khác.

Khánh Kỵ chậm rãi đi dạo xung quanh, thấy A Cừu Tái Cừu hai huynh đệ cùng với hai tiểu thị nữ mới vừa rồi hầu hạ hắn tắm rửa đang ngồi xổm sau cửa sân nói chuyện phiếm, liền đi tới đó, cười nói: "Các ngươi đang nói chuyện gì? Hiện giờ đang nắng gay gắt vậy, sao không vào trong mà ngồi?"

Khánh Kỵ chậm rãi đi dạo xung quanh, thấy A Cừu Tái Cừu hai huynh đệ cùng với hai tiểu thị nữ mới vừa rồi hầu hạ hắn tắm rửa đang ngồi xổm sau cửa viện nói chuyện phiếm, liền đi tới đó, cười nói: "Các ngươi đang nói chuyện gì? Hiện giờ đang nắng gay gắt vậy, sao không vào trong mà ngồi?"

"Công tử!" A Cừu hai huynh đệ cùng hai thị nữ nhìn thấy hắn đã tới, vội vàng đứng lên. A Cừu thấy hắn muốn đẩy cánh cửa viện, vội vàng ngăn hắn lại nói: "Công tử, căn phòng ở này có điềm xấu, công tử là quý nhân, chớ nên đi vào."

Một thị nữ khiếp vía thốt: "Khánh Kỵ công tử, căn phòng này quả thật có điềm xấu, công tử chớ nên đi vào, sẽ gặp phải tà khí."

Khánh Kỵ còn nhớ rõ lúc mới vào tắm có thuận miệng hỏi qua tên của nàng, hình như là Bạch Ny, liền cười nói: "Điềm xấu như thế nào, Bạch Ny, ngươi nói cho bản công tử nghe qua một chút."

A Cừu thấy Bạch Ny khó nói ra được, vội nói: "Công tử, mới vừa rồi ta đã nghe Bạch cô nương nói qua, để ta kể cho công tử nghe."

A Cừu vừa nói ra thân phận của Thành Bích phu nhân chủ nhân căn nhà này, Khánh Kỵ trong lòng liền cười thầm, hắn đã sớm đoán ra Triển đại nhân chắc chắn là do Quý Tôn Ý Như sai khiến mới đến nghênh đón hắn, hiện giờ lại càng chứng thật được suy đoán.

Nguyên lai, tòa nhà này thuộc về Thành Bích phu nhân, mà Thành Bích phu nhân lại đúng là phu nhân của Lỗ quốc đại phu Quý Tôn Tử Phi, Quý Tôn Tử Phi lại là một nhân vật trọng yếu trong Quý Tôn gia tộc, từ đó suy ra, người đứng sau lưng Triển Hoạch là ai đương nhiên không cần đoán cũng biết.

Vị Quý Tôn Tử Phi đại phu này vốn ban đầu cưới vợ là Ngải Thị, chính thất (vợ cả) hiện giờ Thành Bích phu nhân lúc trước lại chỉ là một thị thiếp. Giờ đây Quý Tôn Tử Phi đại phu cũng đã ốm chết, Ngải phu nhân lại sớm qua đời, chấp chưởng quyền hành nhà Quý Tôn Tử Phi lại là một thị nữ nho nhỏ, thật là biến hóa mà không ai ngờ tới.

Cái viện ở phía sau A Cừu bọn họ này, chính là địa phương mà năm đó Ngải Thị treo cổ tự vẫn. A Cừu trầm trầm bổng bổng nói, vô cùng lôi cuốn người nghe, Khánh Kỵ thật không nghĩ tới dường như thị vệ bên người gã Trương Phi hung mãnh này còn có tài ăn nói rất tốt, hơn nữa lại còn thích tọc mạch, mới ít thời gian như vậy đã nghe hết sạch chuyện dài chuyện ngắn nhà người khác.

Người vợ cả của vị Quý Tôn Tử Phi này nguyên là Ngải Thị phu nhân, phải nói thật sự là rất tài năng. Quý Tôn Tử Phi tuy là một tộc nhân rất trọng yếu của Quý Tôn Thị, vả lại ở Lỗ quốc đảm nhiệm chức vụ trọng yếu, nhưng mà trong nhà cũng không phải là rất giàu có. Vị Ngải Thị này lại có khả năng quản lý tài sản, dưới sự để ý của nàng, tài sản của Tử Phi gia giống như hòn tuyết lăn nhanh chóng lớn mạnh, vài năm thời gian đã mua hai mươi mấy đại điền trang, lại kinh doanh vải vóc và muối, kiếm lãi dồi dào, trở thành một trong những đại phú hào chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay ở Lỗ quốc.

Chỉ có điều vị Ngải Thị phu nhân này có một chút không tốt, đó là hay ghen. Tì thiếp mà Tử Phi mua về, nếu không phải bị nàng cố ý giáng xuống làm gia nô, cũng là tìm cớ đánh đuổi ra ngoài. Nhưng Quý Tôn Tử Phi lại cứ hết lần này tới lần khác làm một nhân vật phong lưu, Ngải Thị càng ngăn cản, hắn càng làm không biết chán, hai vợ chồng cứ như vậy mà so đo tinh thần với nhau.

Vị Ngải Thị phu nhân này tuy rằng nhân sinh ngắn ngủi, nhưng khi còn sống cũng chiến đấu rất quang huy, lấy chồng xong thì vượt qua hết mọi chông gai, vì nhà chồng mà kiếm được tài phú rất lớn. Vài năm cuối đời, lại tập trung toàn bộ vào đấu đá bên trong hậu cung của trượng phu, mới đầu cũng có thành quả rõ rệt.

Chỉ có điều, Liên Nhi muội muội bị đuổi đi, Trân Nhi muội muội lại vào đến cửa, Trân Nhi muội muội bị đuổi đi, Đậu Nhi muội muội lại vào đến cửa. Ngải Thị phu nhân là một vị nữ trung hào kiệt, mà cứ như vậy phải đem tất cả tinh lực dồn vào cái việc tranh đấu với nào vợ ba, vợ bốn, vợ năm , vợ sáu vân vân vô cùng nhàm chán.

Đáng tiếc, ở trong lòng nam nhân, nữ nhân ở nhà trên cho dù có khả năng khôn khéo đến đâu, cũng không bì được hồ ly tinh ở trên giường ngọc thể uốn éo mị nhãn như tơ. Ngải phu nhân càng gay gắt, Quý Tôn Tử Phi càng lập chí muốn tìm một mùi hương ôn nhu có thể chân chính làm cho hắn tiêu dao khoái hoạt.

Rốt cục, Ngải Thị phu nhân cũng gặp được một đối thủ ngang tài ngang sức, chính là Thành Bích phu nhân hiện giờ. Nữ nhân này đã xinh đẹp thì chớ, sinh ra lại còn có một bộ dạng ôn nhu như nước, ngây thơ đáng yêu. Quý Tôn Tử Phi đón nàng qua cửa xuất giá chính là thân phận tì thiếp, nàng lại biến mình trở thành nô tỳ, mặc váy vải bố, chỉ ăn mì sợi suông, mỗi ngày lại làm một chút việc của nô tỳ như quét nhà lau dọn.

Nàng chẳng những thường thường khuyên nhủ chủ nhân ngủ ở trong phòng phu nhân, hơn nữa theo khuôn phép cũ, tuyệt không có chuyện được chiều mà làm nũng. Ngải Thị phu nhân cũng không biết có phải là tranh đấu quá nhiều mà mệt mỏi hay không, thấy tiểu nữ tử này thật sự nhu thuận, liền dễ dàng bỏ qua sự tồn tại của nàng. Nhưng Thành Bích phu nhân này nhìn như nhu nhược, lại có tâm cơ làm giàu, bình thường ngày ba lần, chuyện lớn chuyện nhỏ đều báo cáo xin chỉ thị với phu nhân, nhưng sau lưng lại kết giao làm lung lạc tất cả quản sự cao thấp trong nhà.

Đợi cho đến khi Ngải Thị phu nhân hiểu ra được, Thành Bích chim đã tung cánh, đã không còn là bà muốn xử trí thế nào thì xử nữa. Đến khi Thành Bích phu nhân sinh con trai, đại thế của Ngải Thị phu nhân coi như tiêu tan. Bà chỉ có một con gái, Thành Bích phu nhân mẹ dựa vào quý tử, ngược lại còn đè lên đầu bà.

Ngải Thị phu nhân tính tình cương liệt, sao có thể chịu được kết quả như vậy, Thành Bích phu nhân lại ngoài sáng thì cung kính, trong tối thì lén ngáng chân dùng đao đâm, ở trong mắt người khác nàng ngược lại chỉ như một hạ nhân. Ngải Thị phu nhân vừa tức vừa hận, ba thước vải bố quấn lên trên xà nhà, là đủ kết thúc tính mạng chính mình, gia nghiệp to lớn như vậy khổ khổ sở sở gây dựng nên đều chắp tay đưa hết cho Thành Bích phu nhân.

Căn phòng này có người chết đã là điềm xấu, sau đó mỗi ngày giỗ của bà từ trong phòng lại thường xuyên truyền ra những tiếng động mạc danh kỳ diệu - vô cùng kỳ quái, cho nên ban đầu còn dùng để chứa đồ, sau thì dứt khoát bỏ đi không dùng nữa, cứ như vậy thành căn nhà ma, cũng không có ai dám vào.

A Cừu nói xong, tức giận bất bình nói: "Công tử, hôm nay chính là ngày giỗ của Ngải phu nhân, là ngày đại hung. Công tử là quý nhân, cho nên tiểu nhân không dám để cho ngài tới gần. Hừm, hôm nay được ở chỗ này, kẻ hèn trong lòng còn có chút cảm tạ vị Thành Bích phu nhân này, không thể tưởng được mụ lại có tâm địa rắn độc như vậy, bức tử người còn sống sờ sờ!"

Bạch Ny cùng người tỳ nữ kia nghe thấy thế thì trên mặt có chút bất an. Các nàng đều là hạ nhân, đem một ít chuyện bất bình trong lòng nói cho hạ nhân khác nghe cũng không phải ngại, nhưng mà Khánh Kỵ là nhân vật thượng lưu, vạn nhất lúc gặp Thành Bích phu nhân, đem những lời này nói cho bà ta nghe, vậy thì mình sẽ không ổn rồi.

Khánh Kỵ thấy bộ dạng bất an của các nàng, cười cười nói: "A Cừu, nói như vậy cũng không đúng, chưa nói tới ai đúng ai sai, vị Thành Bích phu nhân kia là nữ nhân đã qua tay Quý Tôn đại nhân, một khi bị đuổi ra ngoài, những công khanh đại phu khác cũng không tiện thu nhận, còn không phải là thân gặp khó khăn, cầu cứu không cửa à? Vì sinh tồn mà tận lực vùng vẫy, không có chút thủ đoạn thì chẳng lẽ cứ để mặc cho người ức hiếp ư? Đều chỉ là vì muốn kiếm chút chỗ tốt cho chính mình thôi, ai! Lại nói tiếp vị Ngải Thị phu nhân này lòng dạ cũng hơi hẹp hòi một chút."

Những lời này của hắn nói ra, gian phòng trong viện đột nhiên truyền ra tiếng rít đầy phẫn nộ, tiếng rít lướt qua, nhưng Khánh Kỵ chẳng nghe thấy gì. Bạch Ny mơ hồ nghe thấy trong phòng có chút động tĩnh, nàng xưa nay tin vào quỷ thần, bất giác hơi hơi sợ hãi, gấp gáp tiến lên một chút, đứng ở giữa ba đại nam nhân Khánh Kỵ cùng A Cừu, Tái Cừu, lúc này mới an tâm hơn một chút.

Khánh Kỵ hoàn toàn không phát giác ra, nói: "Hơn nữa, vị Ngải phu nhân này dùng biện pháp giữ chồng sai lầm, nàng nghĩ rằng vì nhà chồng mà vất vả dốc sức làm lụng, càng vất vả công lao càng lớn, nào biết rằng Quý Tôn đại nhân từ nhỏ đã sinh ra trong gia đình giàu có, tài sản nhiều một chút, hay ít một chút cũng chẳng sao, hắn làm sao mà hiểu được cái đáng quí trong đó?

Nói tới đây, hắn cười nói với Bạch Ny và người thị nữ kia: "Các ngươi cần phải rút ra bài học, chuyện tình Ngải phu nhân, Thành Bích phu nhân là tấm gương tày liếp cho các ngươi. Về sau gả cho người, cứ an tâm làm tốt phận thê tử là được, ngàn vạn lần không cần phải dốc sức để trở thành một thiếu phụ luống tuổi đã có chồng, mà tâm của trượng phu lại bị nữ tử khác câu đi mất, kết quả là chỉ làm xiêm y cho hắn."

Bạch Ny cùng thị nữ kia xấu hổ tới đỏ mặt, khuôn mặt Bạch Ny trắng sáng bóng, giờ đỏ lên, mấy cái tàn nhang nhỏ xinh trên chóp mũi đều trở nên rõ ràng. Nàng cúi đầu xuống, ngượng ngùng nói: "Công tử nói đúng, Bạch Ny... rất giỏi việc làm bếp đó."

Khánh Kỵ thấy bộ dáng thẹn thùng của tiểu cô nương thì vô cùng thú vị, không khỏi cười ha hả: "Không phải đúng hay không, con đường tắt đến trái tim cũng chưa chắc đã là dạ dày, vùi đầu vào làm đầu bếp cũng không phải là phương pháp hay, vẫn là đi học ca hát nhảy múa đi, khuôn mặt cùng với dáng người mới đúng là ngạnh đạo lý của nữ nhân."

Bạch Ny chớp chớp mắt mấy cái, kỳ quái hỏi: "Công tử, ngạnh đạo lý là cái gì?"

"Ngạnh đạo lý chính là... so với đạo lý còn có đạo lý hơn."

Bạch Ny dùng sức gật đầu lia lịa, A Cừu huynh đệ hai người giống nhau vẻ mặt sùng bái nhìn hắn, phục sát đất nói: "Công tử anh minh!"

Khánh Kỵ cười, phất tay áo quay về chỗ nghỉ ngơi của mình, nghĩ thầm rằng: "Mỗi nhà mỗi quốc gia, đều không thể thiếu được sự tùy cơ ứng biến giống như trong kinh doanh. Ngải Thị phu nhân tuy rằng quật cường, còn không phải là bị Thành Bích phu nhân bức tử sao? Thiên hạ Xuân Thu, bởi vì một lời nói đùa mà lập nên một quốc gia, như Tấn (1). Ỷ vào thích khách mà cướp được một quốc gia, như Ngô. Ta sao không thể dựa vào một thân vũ dũng, lấy chính nghĩa, lấy bất ngờ, ngôi vị của Hạp Lư, muốn giành lấy, tựa hồ... cũng không phải không có khả năng!"

Khánh Kỵ cũng đã đi rồi, Tái Cừu tổng thể lại là vẫn làm việc chậm hơn đại ca một bước, giờ mới vỗ mông ngựa, cao giọng nói: "Công tử đúng là rất thánh minh."

A Cừu trắng mắt nhìn hắn, khinh thường nói: "Thánh minh là thế nào?"

Tái Cừu tự cho là thông minh nói: "So với anh minh còn anh minh hơn, chính là thánh minh."

Bạch Ny gật đầu cười nói: "Lời Tái Cừu ca ca nói mới đúng ngạnh đạo lý."

Khánh Kỵ ở xa nghe thấy, không khỏi phì cười.

Tái Cừu được nữ nhân khen ngợi, trong lòng vô cùng đắc ý, liền huênh hoang nói với hai cô gái: "Thế nào, ta đã nói công tử nhà ta đối đãi với hạ nhân rất hòa khí mà."

Bạch Ny than thở: "Đâu chỉ có đối đãi với người hòa khí, nhân phẩm của Khánh Kỵ công tử tuấn tú phong lưu, Bạch Ny cũng mới nhìn thấy lần đầu. Hơn nữa mới vừa rồi người ở nhà trên, cười nói giết người, bình tĩnh tự nhiên, thật sự là... thật sự là..."

Nói đến đây, khuôn mặt của nàng không khỏi ửng đỏ lên một chút, tim đập cũng hơi nhanh hơn bình thường. Thời kỳ loạn thế, người dân sùng bái nam tử cường đại uy phong, cái loại tiểu bạch kiểm (mặt trắng) trói gà không chặt như ở hậu thế, lúc này cơ bản không có đất diễn. Ở trong mắt Bạch Ny, luận về tài năng, Khánh Kỵ chạy có thể đuổi kịp thú, nhảy có thể bắt phi điểu, một mâu trong tay, vạn người khó địch, đúng là đại anh hùng trong các anh hùng, có thể gọi là ngạnh anh hùng (Bạch Ny bắt chước theo 'ngạnh đạo lý' ở trên). Luận về diện mạo, hắn eo nhỏ lưng rộng, dáng người kiện mỹ (khỏe đẹp), mặt như ngọc thạch, môi hồng răng trắng, đúng tiêu chuẩn của một tiểu bạch kiểm, lúc này phải gọi là ngạnh bạch kiểm mới đúng.

Điều kiện như vậy, hơn nữa thân thế cao quí, quả thực là vừa ra tay là có thể bắt được mẻ cá lớn, 'ăn' hết mỹ nữ các nước, có thể coi như là 'sát thủ thiếu nữ' của thời kỳ Xuân Thu, Bạch Ny sao có thể không lâm vào cảnh xuân tâm nảy nở? Chính là nàng cũng biết thân phận cách xa, đối với người ta chỉ có thể có tâm tư trong lòng mà thôi.

A Cừu ha ha cười nói: "Công tử nhà ta đúng là địch được vạn người, sát gái đã là gì? Không nói về võ, tài văn của công tử nhà ta cũng là người thường khó bì được, đến mức... đến mức có thể xuất khẩu thành thơ. Hôm qua công tử nhà ta nhìn thấy một vị cô nương xinh đẹp, liền ngâm luôn một bài thơ, cái gì... cái gì mà cỏ dại hề, có mỹ nhân hề, trên đường ngẫu nhiên tương ngộ hề, tâm hoan hỉ hề..."

Người thị tỳ vẫn luôn im lặng ít nói bên cạnh Bạch Ny bỗng nhiên phì cười, nói: "Không biết hề sẽ không loạn hề, người ta bị ngươi 'hề' đến mức toàn thân nổi da gà hề."

A Cừu hoành tráng nhìn nàng một cái, đắc ý dào dạt nói: "Không nên mắt cứ thèm công tử nhà ta hề, ngươi với ta thực là thích hợp hề..."

Thị tỳ kia giả vờ xấu hổ, hai nam hai nữ cãi nhau ầm ỹ chạy đi, trước cửa viện nhất thời tĩnh lặng tịch mịch.

Tiểu viện, trong phòng, một thiếu nữ đứng ở trước cửa sổ, trên cánh cửa sổ có khoét một cái lỗ nhỏ, một luồng ánh sáng chiếu vào, chiếu lên trước ngực nàng. Từ lỗ khoét nhìn ra ngoài, có thể nhìn thấy cỏ hoang trải dài trong viện, ở trong gió nhẹ hơi hơi run rẩy.

Si ngốc một lúc lâu sau, thiếu nữ đó mới thê lương bi ai ngâm nga: 

"Khải phong tự nam, xuy bỉ cức tâm. 

Cức tâm yêu yêu, mẫu thị cù lao. 

Khải phong tự nam, xuy bỉ cức tân. 

Mẫu thị thánh thiện, ngã vô lệnh nhân..."

Hai hàng lệ châu trong suốt theo khuôn mặt nàng chảy xuống, tích ở trước ngực nàng, cô gái bỗng nhiên cúi đầu nước mắt ròng ròng, khóc không thể ngâm tiếp...

o0o

Mới sáng sớm tinh mơ, binh lính Khánh Kỵ đã tập hợp diễn luyện võ nghệ. Lúc này sắc trời còn chưa rõ, đúng là thời điểm ngủ nướng mùa xuân. Triển đại phu cùng Khổng Khâu hai vị lão hữu đêm qua cầm đuốc soi đêm đàm luận, tối muộn mới ngủ, bị người khác đột nhiên đánh thức không khỏi có chút tức giận.

Vị Triển đại phu này cũng không thèm ăn mặc tử tế, khoác liền một chiếc chăn đơn chạy ra ngoài, hắn vốn là một nhân vật không coi trọng tiểu tiết, bằng không lúc trước cũng không vì sợ một cô gái xa lạ bị cóng chết mà ôm vào trong lòng ngực sưởi ấm.

Khổng Khâu sợ hắn lại muốn tranh cãi ầm ỹ với người khác, luống cuống tới mức cứ để lộ cái chân đầy lông đuổi theo. Hai người chạy tới nhà trước nhìn ngó, chỉ thấy Khánh Kỵ đội mũ mặc giáp, tay cầm một thanh trường mâu, hùng vĩ khí thế hiên ngang đang ngồi quan sát sĩ tốt bày trận, đội ngũ, luyện tập võ nghệ. Hai vị Lão Phu Tử không khỏi ngẩn ra, đầu tiên là liếc nhau, sau đó là lắc đầu, chạy về phòng lấy chăn trùm kín đầu, tiếp tục ngủ nướng.

Kỳ thật cũng không phải hai vị này quá mức ham ngủ, mà bởi vì lúc đó con người bình thường không dậy sớm như vậy. Thời kỳ đó những gia đình thông thường đều một ngày hai bữa, quý tộc có điều kiện thì một ngày ba bữa, có điều hầu hết toàn dân đều là hai bữa. Thời gian bọn họ rời giường đương nhiên cũng là lúc trời đã sáng rõ, cứ như vậy bữa thứ ba nếu có căn bản cũng chỉ là bữa ăn khuya.

Hai trăm binh sĩ của Khánh Kỵ ở trong viện diễn luyện hàng ngũ, đồng thanh hò hét, thanh thế so với sự quấy rầy của Bạch phủ hôm qua còn hơn thập bội. Có điều Bạch phủ bên kia lại chẳng hề có động tĩnh gì, thật ra chỉ có gia nhân của Nhâm phủ bên này là muốn cách tường quát to vài câu bực tức, nhưng lập tức đã bị quản sự ngăn lại.

Nói đùa à, trước cửa nhà người ta dựng thẳng một lá cờ lớn, "Ngô quốc Khánh Kỵ!". Chỉ bốn chữ này là đủ rồi, hôm qua gia nhân Bạch phủ làm nhục Khánh Kỵ công tử, lực sĩ thuộc hạ của Khánh Kỵ công tử lập tức lấy trục lăn lúa phá cửa mà vào, cắt đầu thủ lĩnh. Thủ đoạn lôi đình như thế hiện giờ toàn bộ Tất Thành ai mà chẳng biết? Tốt nhất là đừng có mở miệng nói gì, mang hung thần tới nhà, khi đó muốn giữ cái đầu cũng khó.

Hơn nữa bên trong Bạch phủ, kẻ buồn bực không nói thành lời Triển Chích đang vô cùng ảo não. Hôm qua hắn ngậm bồ hòn làm ngọt, khó chịu đến nửa đêm mới ngủ được, lúc này đang ngủ say, từ viện bên cạnh tự nhiên truyền sang tiếng 'Sát' rung trời, lập tức làm cho hắn tỉnh dậy. Triển Chích nghiêng tai lắng nghe động tĩnh, lại để cho người chạy ra ngoài dò xét, mới biết là Khánh Kỵ ở trong phủ luyện binh, sau khi biết được rõ ràng, thì toàn bộ buồn bực đều bay đi hết...

Ngày hôm qua người của Thành phủ lại có thể đập cửa vào nhà, chém chết thủ hạ của hắn, lúc ấy thật sự là làm cho hắn trợn mắt há hốc mồm. Với sự hiểu biết của hắn đối với đại ca, chỉ cần quấy rầy vài lần, đại ca nhất định sẽ mang khách nhân đi chỗ khác đón tiếp, đương nhiên, sau này có thể chủ nhân của trạch viện này Bạch Tử Lăng sẽ gặp phải xui xẻo, nhưng cũng chẳng quan hệ gì với hắn. Chỉ có điều không nghĩ tới đại ca lại có thể phái người đập cửa giết người, hoàn toàn không giống tác phong bình thường của lão.

Hắn chính là đang không biết tại sao, trước cửa Thành phủ một cột cờ được dựng thẳng lên, trên đó ghi bốn chữ nét mực còn chưa ráo "Ngô quốc Khánh Kỵ". Triển Chích lúc này mới hiểu được công phu "Đá đít"* đã làm không được cẩn thận, hiện giờ một cú đá trúng ngay phải tấm sắt, đụng phải kẻ mạnh mẽ nhất Ngô quốc. 

Ngẫm lại Khánh Kỵ ở trên đường phá hỏng sinh ý của thuộc hạ mình, hiện tại lại chém giết kẻ dưới tay mình, thù mới hận cũ, Triển Chích thật sự là hận từ trong tâm mà ra. Chính là đại ca lại cũng đang ở trong Thành phủ, đừng nói rằng thực lực của hắn giờ phút này còn chưa đủ để quyết chiến với Khánh Kỵ, cho dù có thực lực như vậy, cũng không thể không để ý tới đại ca ruột thịt. Hơn nữa cũng không thể xung đột vũ lực, làm cho Nhâm gia đề cao cảnh giác, lượng vũ khí đó hắn còn có chỗ dùng. Nghĩ trước nghĩ sau, Triển Chích luôn luôn mưu mô quỷ kế đột nhiên lại không có được chủ ý gì.

Lúc này bị Khánh Kỵ đánh thức, Triển Chích hoàn toàn hết buồn ngủ, chui vào chăn suy nghĩ về đối sách, một bên vẫn theo bản năng vuốt chòm râu. Chờ khi hắn đếm tới hơn bốn mươi, bỗng nhiên lại nghĩ ra một biện pháp. Triển Chích lập tức khoác áo bật dậy, gọi một tên cướp, ghé vào lỗ tai hắn để nói hành động...

Trong Thành phủ, đình ngoài, đình giữa đã bị hai trăm binh sĩ luyện võ hoàn toàn chiếm cứ. Khánh Kỵ cầm mâu nhìn xung quanh một hồi, vừa lòng gật gật đầu, xoay người trở về hậu trạch (nhà sau), thị vệ bên người A Cừu huynh đệ theo sát phía sau.

Phủ Thành Bích phu nhân ở Lỗ quốc, vườn hoa không so được với phong cảnh ở Giang Nam, nhưng mà ở giữa đào một cái hồ, đưa nước chảy vào, trong nước chất đá làm giả sơn, trên trồng hoa tử đằng, cũng làm pha thêm một chút cảnh sắc. Lúc này đã là tiết trời tháng tư, gió xuân hiu hiu thổi, khiến cho mặt nước gợn sóng, ráng mặt trời sáng sớm in bóng trên mặt nước, những gợn sóng lấp lánh dập dờn.

Một chiếc cầu bắc ngang qua, bắc tới một cái đài nhỏ bằng gỗ ở giữa hồ, bốn phía có rào chắn cao tới đầu gối. Gia nhân trồng cây hạnh ở khắp nơi, lúc này lại đúng vào mùa hoa hạnh điêu tàn, cánh hoa hạnh bay trắng bầu trời, rơi xuống đài ở trong hồ, thoáng như những bông tuyết nhỏ rơi xuống.

Khánh Kỵ đi lên trên đài, cầm mâu đứng lặng, nhắm mắt hồi tưởng lại những cách dùng mâu mà Khánh Kỵ tâm đắc, sau đó phấn chấn vung tay lên, cầm mâu nơi tay, bắt đầu luyện võ nghệ. Mâu trong tay hắn là thanh đồng chiến mâu, đầu mâu dài một thước có thừa, mũi nhọn vô cùng sắc bén, trên thân mâu có hoa văn trang trí, còn có hai hàng chữ Triện nhỏ thếp vàng "Công tử Khánh Kỵ, tự chế dụng binh!"

Mũi mâu sắc nhọn lạnh lẽo, làm cho người ta không dám nhìn gần, ở trong tay Khánh Kỵ, chiếc chiến mâu này vọt lên như bay, giống như thuồng luồng. Làm binh khí, cán mâu đều phải chọn loại gỗ chắc thượng đẳng để chế tác, không giống như cán thương sáp ong của hậu thế, cho dù thiếu đi tính dai, không thể rung thương, nhưng chiêu thức đi thẳng về thẳng, có thể đánh ra rất rộng, có một loại màu sắc cổ xưa khác lạ.

Cán trường mâu trong tay Khánh Kỵ múa lên, chùm tua màu đỏ thình lình tung loạn, lại khiến người ta khiếp sợ. Ở trên mâu buộc chùm tua đỏ, không phải vì đẹp, mà vì mũi mâu sau khi đâm vào nhục thể, máu sẽ phun ra, trên mâu có buộc chùm tua, có thể dẫn cho máu chảy xuống dưới, nếu để chảy xuống cán mâu sẽ gây trơn, không nắm chắc được, cho nên trong thực chiến ít khi có chuyện không buộc tua đỏ.

Bởi vì vấn đề dung hợp ký ức, ban đầu động tác dùng mâu của hắn còn có chút trì trệ, dần dần động tác càng lúc càng trôi chảy, một cây mâu uy vũ phần phật gió, tuy rằng sợ miệng vết thương hở ra, không dám sử dụng hết mười phần khí lực, uy thế kia cũng đã làm cho người ta cực kỳ sợ hãi.

Không biết từ khi nào, Nhâm Nhược Tích xuất hiện tại đình nghỉ chân ở Nhâm gia hậu viện, đó là một cái đài cao, hình vuông, dùng đất xây nên, ở phía trên tiểu đình mái hiên cong lên như mặt trăng. Một trận gió thổi đến,làm tung bay cổ tay áo của nàng, khắp viện hoa hạnh bay múa, lướt cạnh người nàng nhẹ nhàng không dứt.

Nàng lẳng lặng đứng ở đó, trong tay chống một cây trường mâu, một đôi mắt đẹp chăm chú nhìn chằm chằm vào nhất cử nhất động của Khánh Kỵ. Cửa Thành phủ dựng thẳng lên ngọn cờ lớn "Ngô quốc Khánh Kỵ", tin tức ngay lập tức truyền khắp Tất Thành. Nàng lúc này nhìn thấy võ sĩ đang độc vũ ở trên đình, đương nhiên đoán ra được hắn tám chín phần mười chính là Khánh Kỵ, người đã suýt nữa cùng mình kết duyên vợ chồng. Bởi vì trọng trách trên vai mà phải bỏ qua duyên phận, cho nên lúc này nhìn thấy hắn, trong lòng Nhược Tích có một chút cảm giác kỳ lạ.

Bỗng nhiên, mũi nhọn chợt thu lại, Khánh Kỵ một tay cầm mâu, nâng lên hướng tới không trung, cả người liền giống như một thanh trường mâu thẳng tắp dựng lên ở đó. Một lượt vận động này, đã làm cho khí huyết cả người hắn được thông suốt, huyết mạch chảy nhanh hơn, trong đầu là một khoảng không sáng chói, mỗi một chiêu mỗi một kiểu vừa được hắn sử ra, ở trong lòng hắn cảm thấy đều rõ ràng như nước chảy. Hắn biết, các kỹ nghệ dùng mâu tâm đắc vốn của Khánh Kỵ, giờ phút này đã chân chính bị hắn nắm giữ.

Giơ mâu đứng thẳng trong đình, phong cảnh bốn phía giống như trong bức tranh, cỏ cây theo gió nhẹ nhàng lay động dập dờn, trời đất trong lúc đó dường như chỉ có hắn một người yên lặng đứng tại đây, tựa như là chúa tể của thiên địa. Trong lòng Khánh Kỵ không khỏi tự nhiên dâng lên một vầng hào khí: "Lúc tỉnh cầm kiếm giết người, lúc say gối vào đùi mỹ nhân, đại trượng phu chính là như vậy!"

Mục tiêu cuối cùng mà một kẻ vô danh tiểu tốt tầm thường cả đời hướng tới, không gì ngoài việc hưởng thụ tiền tài và mỹ nữ. Chính là khi hắn đã đứng ở một khởi điểm rất cao, lòng dạ, chí hướng cùng mục tiêu đương nhiên cũng càng thêm lớn hơn. Đây là một loại kết quả tự nhiên "thay đổi về lượng sẽ thay đổi về chất", với Khánh Kỵ mà nói, giờ phút này chính là như vậy.

Đổi sang một thân phận khác, hắn sẽ không có hùng tâm như vậy. Lưu Bang thời điểm vừa mới bắt đầu tạo phản khẳng định không nghĩ rằng hắn muốn đoạt thiên hạ, cũng sẽ không nghĩ tới kẻ làm hoàng đế tương lai lại chính là hắn. Dục vọng và dã tâm chỉ bắt đầu sinh ra khi thế lực của hắn đã đạt tới mức độ nhất định, thời điểm vương vị không còn xa tầm với.

Sử sách vì để tăng thêm tính truyền kỳ của quân vương, mới có thể biên ra được một câu nói nho nhỏ rất có dã tâm rất có khí phách mà các đồng chí cảnh sát giao thông hay ở sở cảnh sát hay nói "Đại trượng phu chính là như vậy", dường như quả thật hắn sinh ra đã là một vương giả (chỉ Lưu Bang). Nhưng mà khi hắn nói câu đó thì vẫn còn chưa làm hoàng đế cơ mà, nào đã bắt đầu cuộc sống mà hàng ngày đều có quan đi theo sau mông ghi chép lại những gì hắn nói? Những lời này nếu như không phải sau khi hắn làm hoàng đế nói lại cho sử quan nghe, thì chính là sử quan vì vỗ mông ngựa hắn mà bịa ra như vậy.

Vẫn là Chu Nguyên Chương (1) chân thực nhất, sau khi làm hoàng đế, khi cùng tán gẫu với các đại thần Dụng Phượng Dương Khang thì rất thẳng thắn: "Ta lúc trước vào thời điểm muốn tạo phản, cũng nào có nghĩ tới một ngày sẽ làm hoàng đế."

Tịch Bân cũng là như vậy, hắn thông qua Khánh Kỵ nhận được cuộc sống mới, cũng phải kế thừa trách nhiệm cùng nghĩa vụ của hắn. Nhưng khi đang yếu ớt, còn phải dẫn theo tàn binh bại tướng, chỉ vì bản năng sinh tồn mà mới kiên trì đi theo con đường của Khánh Kỵ, bởi vì hắn biết rõ nếu không làm như vậy, những người đi cùng hắn sẽ mất đi hi vọng cùng mục tiêu, tất nhiên một khi tan rã, sẽ như phượng hoàng gãy cánh, kết cục có thể đoán trước được.

Trong thâm tâm của hắn, vốn là vẫn có một chút ý niệm trốn tránh trong đầu, cũng không muốn đi theo con đường chinh phạt dùng mưu đoạt lại quốc vị. Chỉ có điều con người tóm lại là đều có dã tâm, khi hắn dần dần lành hẳn vết thương, lại tiếp xúc với đại thần Lỗ quốc, tỉnh táo nhận ra rằng hắn chỉ có thể đi trên con đường không có lối lại này. Phải thân phận của hắn mới có thể trở thành vua của một nước, chỉ cần hắn có thể kích thích ý chí chiến đấu, đánh bại Hạp Lư, khi những chuyện này đã nằm trong tầm tay, tự nhiên là sẽ bắt đầu sinh ra dã tâm.

Không phải sao, lui lại chỉ có đường chết, mà tiến vào? Không nói tới vinh hoa phú quý, người đẹp nước Sở múa đằng trước, nữ nhân nước Yên hát đằng sau, mỹ nhân nước Việt đánh đàn sắt bên trái, mỹ nữ yêu kiều nước Tề đánh đàn tranh bên phải, trong lòng ôm đứa nhỏ nước Ngô, gối lên đùi thiên nga nước Tần... đó là cuộc sống hương diễm vô cùng tươi đẹp "Ỷ hồng ôi thúy" (2), còn là hợp nhất thiên hạ, chỉnh lại chư hầu, xưng bá với Xuân Thu. Thậm chí thông qua những kiến thức về sự phát triển của lịch sự cùng quan điểm chính trị tiên tiến và chính xác, làm lớn mạnh Ngô quốc, giành trước Tần quốc trở thành một quốc gia cường đại có khả năng thống nhất toàn bộ Trung Nguyên, đó cũng không phải là một giấc mộng quá mức xa vời.

Khánh Kỵ đứng đó suy nghĩ một hồi lâu, mới thở ra một hơi thật dài, thu hồi trường mâu. Xoay người lại, giống như trong lòng có linh cảm, ánh mắt hắn đột nhiên dừng lại ở tòa đình trong Nhâm gia hậu viện kia.

Mái đình cong lên như lưỡi câu, được mây trắng trời xanh làm nền, tựa như một cung điện trên trời. Một nữ tử xinh đẹp thướt tha đứng ở trên đình, đang cầm mâu nhìn lại chính mình, khung trời xanh biếc, nàng giống như đang đứng ở cuối chân trời. Cái loại xinh đẹp kinh người này, làm cho hắn lập tức như ngừng thở: "Phong thái quá đẹp, không thể tưởng được mình lại có hàng xóm tốt như vậy, nàng là nữ tử nhà ai nhỉ?"

Nhâm Nhược Tích lẳng lặng nhìn một lúc lâu sau, đột nhiên vung tay giơ lên, trường mâu vọt lên bầu trời. Vốn bàn tay vẫn nắm ở gần đầu mâu đột nhiên trượt xuống nắm lấy cán mâu, hai tay nàng cầm mâu, chân liên tục di chuyển, cây trường mâu trong tay như rắn thiêng thè lưỡi, bắt đầu diễn luyện võ nghệ. Mỗi một thức thi triển ra, mâu pháp tinh diệu không hề kém hắn chút nào.

Khánh Kỵ nhìn một lúc lâu, luôn luôn có chút cảm giác kỳ quái, sau một lúc hắn đột nhiên kinh động, lập tức tỉnh ngộ ra. Nữ tử xinh đẹp xa lạ này sử dụng mâu pháp mỗi chiêu mỗi thức đều là đặc biệt nhắm vào mâu pháp mà hắn vừa mới sử ra. Có một vài chiêu thức ứng đối nhìn không được rõ ràng, nhưng đại đa số chiêu pháp là có thể nhìn ra được, đúng là đang phá giải công phu mà hắn vừa mới thi triển.

Lòng hiếu thắng của Khánh Kỵ nhất thời nổi lên, lại nhìn thêm một lát, hắn cũng bày ra động tác, tiếp tục cầm mâu, cùng luyện tập cách không với nàng (cách một khoảng không). Hai người cách nhau bảy tám trượng, lại như là đối diện thực chiến, ngươi tới ta đi, đâm chém vùn vụt, rung động quấn lấy nhau, chiến sự thập phần kịch liệt.

Nếu luận về võ nghệ, Tịch Bân kế thừa ký ức Khánh Kỵ đương nhiên là phải ở trên Nhâm Nhược Tích. Nhưng muốn dung hợp được hết một môn kỹ nghệ thì phải cần thời gian, trong đầu có thể nhớ ra được là một chuyện, mà ngay lập tức áp dụng vào thực tế lại là một chuyện khác. Huống chi chiêu pháp của Nhâm Nhược Tích tinh diệu, muốn tìm ra sơ hở của đối phương, tấn công để địch không thể cứu được, lại càng không dễ dàng. Mà tối trọng yếu chính là, Nhâm Nhược Tích là một nữ nhân, mà còn là một nữ nhân xinh đẹp. Nam nhân bại dưới tay nữ nhân đã là không thể tha thứ, mà bại dưới tay một nữ nhân xinh đẹp thì càng là thiên địa bất dung, khiến cho lúc này tâm lý của Khánh Kỵ vô cùng nặng nề.

Mà Nhâm Nhược Tích lại không hề có loại áp lực tâm lý này. Đối diện chính là Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ, có thể cùng hắn đối chiến, cho dù có bại trong vinh quang, Nhâm Nhược Tích cũng không để trong lòng, ra chiêu chẳng những càng thêm linh động tiêu sái, trái lại còn phát huy ra toàn bộ thực lực. Khánh Kỵ trong lòng khẩn trương, đấu sức một lát, mồ hôi ra còn nhiều hơn cả lúc nãy tự luyện tập một mình.

Có điều trận chiến này đối với Khánh Kỵ vẫn vô cùng có lợi, thông qua loại luyện tập gần như là thực chiến này, hắn sử mâu càng lúc càng tâm đắc, cảm xúc dần dần chìm vào trong đó, không hề suy tính sự được mất của mỗi chiêu mỗi thức, cây mâu trong tay sử ra chiêu thức thô kệch chứ không tinh tế, mau lẹ tàn nhẫn, giống như trước mặt đang có một địch nhân vô hình. Cây trường mâu đâm hay cản đều tự nhiên như gió, mỗi chiêu mỗi thức đều gắt gao áp tới những chỗ yếu hại của đối phương.

Song phương quấn lấy nhau đấu hơn ba mươi hiệp, Khánh Kỵ lại đâm một mâu, chân dẫm mạnh lên mặt đất, sử một chiêu giống như chiêu pháp hồi mã thương, đồng thời nhún chân nhảy lên, một thương thẳng tắp đâm tới Nhâm Nhược Tích trên đài cao. Một mâu này vô luận về góc độ hay tốc độ, thủ pháp hay bộ pháp, nhìn qua thì có vẻ đơn giản nhưng biểu hiện hình dáng lại như du long - rồng bay lượn.

Tuyệt luân nhất là hắn mượn lực hông và lực chân phát kình, chiêu này sử ra hội tụ toàn bộ khí lực mãnh liệt toàn thân, nhanh như tia chớp, trước đó lại không hề có dấu hiệu gì, trong khoảng khắc mũi mâu giống như đã đâm tới ngực nàng, mũi mâu mãnh liệt làm cho cánh hoa hạnh ào ào bay tán loạn, tung bay ra xa.

Đó là còn bởi vì miệng vết thương của hắn vẫn chưa lành, sử lực cũng không dám mạnh quá, dù vậy, nhìn thấy uy thế rõ ràng này, hai người nếu thực sự giáp mặt tác chiến, Nhâm Nhược Tích dáng người mềm mại mảnh mai yếu ớt như vậy, cho dù có ba người cũng bị một mâu này xuyên qua.

Đối mặt với tốc độ cùng lực đạo như vậy, Nhâm Nhược Tích nếu thật sự đang đối chiến cùng hắn, tuyệt đối sẽ không tránh kịp, lúc này cách phá giải duy nhất là đặt ngang cán mâu đập lên một mâu mà Khánh Kỵ đang đâm tới này, nhưng mà với tốc độ cùng lực đạo của một mâu này, một nữ tử như nàng có thế đập tan được sao?

Nhâm Nhược Tích chậm rãi thu thế, hơi hơi nghiêng đầu, đáng yêu nhìn hắn, cặp mắt xinh đẹp liếc hắn, trên mặt tựa hồ có chút không cam lòng, còn có chút khó chịu như tiểu cô nương bị người khi dễ, hoa hạnh bay lượn hạ xuống mái tóc xõa xuống vai của nàng, nàng cũng không buồn phủi đi.

Khánh Kỵ cười ha hả, cổ tay rung cả lên, làm ra một động tác thu thế phiêu dật, sau đó vung tay sang bên, ném thanh đồng chiến mâu cho A Cừu.

"Đấu với nàng mấy chiêu thức này, lẽ ra sớm nên dốc sức dùng ngoan chiêu (chiêu hung ác). Giống như nàng là một nữ tử nhát gan chỉ có lý thuyết suông, nếu thật sự đánh nhau trên chiến trường, không sợ bị ta một mâu xuyên qua sao? Có điều nha đầu này thực sự rất xinh đẹp, nếu có cơ hội, ta thật không ngại bắt nàng làm tù binh, tại một chiến trường khác dùng 'Trường mâu' của ta đại chiến ba trăm hiệp với nàng, ha ha..."

Khánh Kỵ trong lòng xoay chuyển, nhưng không để cho ai biết ý niệm dâm đãng trong đầu, trên mặt nhìn vẫn không đổi, vẫn một bộ dáng quân tử rụt rè thủ lễ. Hắn nhận khăn mặt trong tay Tái Cừu, chậm rãi lau đi mồ hôi trên mặt, khóe mắt hơi hơi đảo qua, ngó trộm nữ tử xinh đẹp kia, chỉ thấy trên đài cao đã 'người đi đình trống', tiểu mỹ nhân chỉ lưu lại hương thơm xa xăm, duy chỉ còn hoa hạnh bay múa...

"Hừm! Nữ nhân, đều là như vậy, không chịu nhận thua!" Khánh Kỵ ảo não nghĩ: "Lẽ ra ta nên nhường nàng..."

Thấy nàng cũng đã rời khỏi, Khánh Kỵ không khỏi mất hứng. Nhìn thấy trời đã sáng rõ, liền trở về chỗ ở, cởi bỏ khôi giáp, mặc áo ngắn rồi rửa lại mặt, thị nữ Bạch Ny lập tức đưa lên một cành liễu đã ngâm qua nước.

Khánh Kỵ vừa nhìn thấy loại bàn chải đánh răng thượng cổ đơn sơ này, liền nhớ tới "Phát minh vĩ đại" của chính mình, hắn vội vàng hỏi: "Bạch Ny, trong thành này có người thợ thủ công nào tay nghề khéo léo, làm được những vật tinh xảo không?"

Bạch Ny nhẹ nhàng nói: "Thợ thủ công thông minh khéo tay trong thành thì không ít, nhưng không biết là công tử muốn làm đồ vật gì?"

Khánh Kỵ mở bức tranh do chính tay mình vẽ ra, giải thích cho nàng một lượt, lại sợ nàng cứ chiếu theo hình dạng trong tranh vẽ, làm ra thật sự là lớn như vậy, khi đó đành phải để cho hà mã đánh răng, nên phải đặc biệt thuyết minh độ dài ngắn lớn nhỏ. Bạch Ny vừa nghe là hiểu, hoan hỉ nói: "Thứ này công tử cũng nghĩ ra được sao? Ai cũng đều dùng cành dương liễu đánh răng, không thể tưởng được lại có thể dùng vật như vậy, thật tốt quá, vậy nô tì đi tìm thợ thủ công làm luôn."

Bạch Ny nói xong cầm tấm da thú phi thường vui mừng chạy ra ngoài, Khánh Kỵ chợt nhớ tới cô gái mới vừa rồi cùng hắn đối chiến, quay đầu lại hỏi người thị tỳ tên là Di Vi: "Đúng rồi, người ở hộ bên phải Thành phủ là ai?"

Di Vi đáp: "Là nhà của một gia tộc họ Nhâm, nghe nói cũng là đại thương nhân, gia tài rất nhiều, có điều bình thường người trong nhà cũng không ở chỗ này."

Khánh Kỵ 'à' một tiếng, thấy từ miệng nàng cũng không hỏi ra được tin tức gì khác, liền không hỏi nữa. Hắn kiên trì dùng cành dương liễu chải răng, chỉnh trang lại trang phục, liền đi ra nhà ngoài.

Lúc này Triển đại phu cùng Khổng Khâu cũng đã rời giường, hai người đang ở dưới tàng cây du trong viện thảnh thơi thảnh thơi "Tập thể dục theo đài". Duỗi toàn thân vận động 'một hai ba bốn', ôm gối vận động 'một hai ba bốn', nhìn thấy hắn đi tới, mỉm cười tiếp đón hắn, rồi hai vị phu tử* lại tiếp tục vài động tác nữa mới dừng lại. (Phu tử: Sư phụ)

Bọn họ đang luyện 'Đạo dẫn' thuật, sau khi được Đại Hán Hoa Đà chỉnh sửa ưu hóa lại, trở thành 'Ngũ cầm hí'. Thời kì Xuân Thu, đây là phương pháp tập thể dục rất bình thường của dân gian, cũng không hiếm gặp. Chờ cho hai người luyện xong, ba người ở dưới tàng cây cười nói một hồi, quản sự tới báo rằng thức ăn đã chuẩn bị xong, ba người liền trở vào trong sảnh.

Dùng bữa xong, Triển đại phu nói với Khánh Kỵ: "Theo Triển mỗ được biết, Bạch phủ cũng không cho người đi gặp mục thủ* nơi này để tố cáo công tử, có điều ta nếu đã ở đây, không đi thông báo một tiếng không khỏi có chút thất lễ, Triển mỗ lúc nữa phải đi một chút. Công tử cứ ở trong phủ nghỉ ngơi, nếu cảm thấy buồn chán, có thể đi tới các vùng lân cận, ra khỏi cửa đi về bên trái, đi đến cuối là có chợ." (Mục thủ: Quan địa phương)

Khánh Kỵ gật đầu xác nhận, Khổng Khâu hỏi qua tên của mục thủ nơi này, đột nhiên cũng là người quen cũ, không khỏi mừng rỡ, liền cùng Triển đại phu dắt tay nhau đi. Hai người đi rồi, Khánh Kỵ ngẫm lại chính mình đã tới đây một thời gian, thật đúng là vẫn chưa cẩn thận nhìn ngắm một tòa thành trì nào, liền dẫn theo vài tên thị vệ ra khỏi Thành phủ, chậm rãi đi dọc theo con đường nhỏ dưới tàng cây liễu, thưởng thức phong cảnh Tất Thành.

Tất cả các kiến trúc trọng yếu của Tất Thành đều tập trung ở vùng này, kho lương, phủ khố (nơi chứa binh khí hoặc văn thư quan trọng), phủ đệ của quan khanh đại phu đều được xây ở chỗ này. Tất Thành có nhiều đình đài của các thương nhân quý tộc, những biệt thự có vườn của những người giàu có từ đô thành chi chít như sao trên trời, khiến cho địa phương này trở nên đẹp không sao tả xiết.

Một con phố dài đi mãi cũng hết, liền thấy được khu dân cư, chợ búa, quán trọ, cửa hàng, dân cư cũng nhiều lên. Khánh Kỵ nhìn thấy một cửa hàng bán binh khí, lững thững đi vào nhìn ngắm, binh khí dài ngắn rực rỡ đủ màu sắc, có điều trên tường nhiều nhất là tước dài ngắn khác nhau. (tước: đao con - TG)

Khánh Kỵ tùy tay gỡ một thanh tước từ trên tường xuống, rút ra khỏi vỏ ngắm nghía, chất liệu chọn làm chuôi đao là sắt, lưỡi đao lạnh lẽo, vô cùng sắc bén, trên vỏ đao còn có trang trí hoa văn cổ xưa ưu mỹ. Thời kỳ Xuân Thu, đao đồng của Trịnh quốc, rìu Tống quốc, tước Lỗ quốc, kiếm Ngô Việt nổi danh, đúng là những vũ khí chất lượng tốt nhất. Khánh Kỵ lấy ngón tay thử độ sắc nhọn của lưỡi đao, cảm thấy vô cùng vừa lòng, liền mua thanh tước này, tùy tay cất vào trong ngực áo.

Lại đi một lát, bỗng nhìn thấy bên đường có một hộ săn bắn đang bán da thú, trên sạp của hắn có mấy bộ lông chồn tuyết, màu lông trắng như tuyết tuyệt đẹp, Khánh Kỵ vốn đã đi qua rồi, đột nhiên nảy sinh một ý niệm trong đầu, liền dừng chân, quay trở lại.

Hắn nghĩ, Thành Bích phu nhân giao du rộng với nhiều nhân vật nổi tiếng Lỗ quốc, lại có Quý Tôn Thị làm kẻ đứng sau, nếu mình muốn làm lay động các quan lại Lỗ quốc, nữ nhân này đúng là một con đường tốt để tiến thân. Của cải nhà bà rất nhiều, các đồ vật quý hiếm chỉ sợ đều đã gặp qua, đừng nói hiện giờ mình là một thân đào vong, không có vật gì quý, cho dù là có, chỉ sợ là bà ta cũng không để trong mắt. Lễ vật này sẽ có đôi chút xảo diệu, động não một chút làm một cái áo lông chồn, tất có chỗ dùng.

Khánh Kỵ quay trở lại quán, ngồi xổm xuống nhẹ nhàng vuốt ve lông chồn, sợi lông mềm mại, ấm áp, Khánh Kỵ hai hàng lông mày không khỏi nhướng lên. Hộ săn bắn kia quan sát sắc mặt, thấy vị công tử này tựa hồ có ý mua hàng, vội vàng chào đón, hết sức khoe khoang nào là lông chồn tuyết ưu tú như thế nào, lại giảng giải chồn tuyết nhạy bén khó săn như thế nào, thật không nhìn ra một đại hán dũng mãnh mà lúc nói chuyện lại có thể thao thao bất tuyệt như vậy.

Khánh Kỵ thấy biện pháp mời chào bán hàng của cổ nhân thì rất hứng thú, không khỏi cười ha ha, liền mua hết mấy bộ lông chồn tuyết rồi cho thị vệ ôm vào trong ngực. Khánh Kỵ quay người lại, nhìn ngay thấy một vị công tử quý tộc đang cưỡi con ngựa màu đỏ mận đi qua trước mặt, không khỏi ngẩn ra.

Vị công tử kia thân mặc áo bào lụa hồng, đeo thắt lưng to bản (của quan lại và trí thức thời xưa), tuổi ước chừng trên dưới ba mươi, phía trước có một thần thiếp (nô lệ - TG) nắm cương ngựa, chậm rãi đi trong phố xá sầm uất. Người này thật ra không có gì đặc biệt, Khánh Kỵ chú ý tới chính là con ngựa mà hắn đang cưỡi, vị công tử kia ngồi trên lưng ngựa, lót dưới mông là một chiếc đệm bằng vải đay, hai bên sườn còn có một cái gì đó giống như lỗ tai buông xuống, tránh cho ma sát vào đùi, trên lưng ngựa không có yên cương, cũng không có bàn đạp.

Lúc này trên đời còn chưa có yên ngựa bàn đạp, hắn kế thừa ký ức của Khánh Kỵ hẳn là phải biết rồi, có điều là từ đầu hắn đã hấp hối nửa sống nửa chết, sau khi thương thế tốt hơn một chút lại phải suy tính các bước phát triển sau này, không lúc nào cần phải dùng đến ngựa, cũng không nghĩ về phương diện này, lúc này thấy rồi mới đột nhiên nghĩ tới.

Khánh Kỵ một bên suy nghĩ một bên đuổi theo con ngựa kia, cùng đi hơn mười bước, vừa định gọi rồi lại thôi. Ngô Việt lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa, cho dù có nghiên cứu ra yên cương bàn đạp thì cũng có ích lợi gì? Còn không phải là làm mẫu cho kẻ khác sao.

Không chỉ nói Ngô Việt, chính là toàn bộ thiên hạ, đại bộ phận các vùng miền đều là xã hội nông canh, địa phương nuôi ngựa không nhiều lắm. Yên ngựa, bàn đạp cũng không có kỹ thuật gì phức tạp, chỉ cần vừa nhìn là có thể làm ra được, hiện giờ những dân tộc du mục như Bắc Địch, Tây Khương, Khuyển Nhung sở dĩ làm hại còn chưa gay gắt, chính là bởi vì trên đời còn chưa có yên cương bàn đạp, hai tay của kỵ sĩ còn chưa được giải phóng.

Hiện tại khí giới chiến đấu của các quốc gia Trung Nguyên còn tương đối nguyên thủy, phương tiện thủ thành lại lạc hậu, một khi phát minh ra yên cương bàn đạp, lập tức những tộc người đó sẽ biến thành một đám ác lang, sớm trở thành họa lớn mấy trăm năm mùa màng của Trung Nguyên, hơn nữa làm hại chỉ sợ còn hơn hậu thế. Trừ phi chính mình có thể chiếm được những địa phương nuôi ngựa trước, nếu không có bổn sự như vậy thì cứ giấu đi giả ngu là tốt nhất.

Khánh Kỵ nghĩ tới đây, liền đứng lại không bước theo nữa, lúc này, bên cạnh là một cửa hàng có cửa chính không lớn, trên tấm bảng đen thui như mực treo trên cửa viết bốn chữ "Bạch Dương Hề Xá". Trước cửa có một chiếc bếp lò nhỏ được đắp bằng bùn, ở dưới đang cháy tí tách, bên trên để một cái chậu xù xì đen thui, đang luộc thịt chó, nước thịt sôi sùng sục, mùi thơm nức mũi. Một đại hán phanh ngực, lộ ra bộ ngực rậm rạp, một tay cầm vò rượu, một tay dùng đũa gắp thịt, ăn cực kỳ ngon lành.

Khánh Kỵ liếc mắt nhìn hắn một cái, đang định bước đi tiếp thì một người nam nhân từ trong căn phòng ánh sáng lờ mờ chạy vội ra ngoài. Người này tầm hai mươi có lẻ, eo nhỏ chân dài, dáng người gầy, thân trên để trần, tướng mạo cũng thanh tú, mắt sáng mày dài, mũi thẳng, có điều trên mặt lại có vết máu.

Trong tay hắn cầm một thanh trường kiếm mài sáng quắc, nhưng vỏ đã nứt nẻ cũ nát, phẫn nộ mắng: "Buồn cười, lập tức trả lại tiền cho ta. Lấy một nữ nhân mang bệnh lừa ta, còn nói là một thân xử nữ, Anh Đào ta dễ bị lừa như vậy sao?"

"Hả?" Đại hán đang uống rượu ở cửa nhảy dựng lên, chặn đường đi của hắn, hét lớn: "Cái quái gì đấy? Muốn chơi mà không trả tiền sao?"

Ngay sau đó từ trong phòng lại lao ra một tên mập mạp, kêu lên: "Anh Đào, Bạch Dương Hề Xá chúng ta cũng không phải là dễ dàng bị khi dễ, Hề di nương là nữ tử mới tới nơi này, ngươi mở bao rồi lại muốn chuồn phải không? Mọi người xem đi, ta giữa ban ngày ban mặt làm sao có thể có nửa câu bịa đặt, các người xem thứ này của Lạc Hồng..." Mập mạp vênh mặt đưa ra một bộ y phục dính đầy máu, khoe ra với quần chúng đang xúm lại.

Anh Đào mãnh liệt mắng: "Đi con mẹ Lạc Hồng của ngươi đi, coi ta là kẻ ngu à! Lạc Hồng ra nhiều như vậy, rong huyết phải không? Hơn nữa, Lạc Hồng còn làm văng lên mặt ta, con bà nó, lão tử dùng đầu lưỡi mở bao à? Có bệnh mà còn đi làm, làm mặt lão tử bị văng đầy máu."

Nhìn thấy bên cạnh có rất nhiều người xúm lại xem náo nhiệt, hai gã du côn của kỹ viện đã thẹn quá hóa giận, mập mạp đi ra sau cánh cửa rút lấy cây đòn gài cửa, còn đại hán canh ở cửa đã nắm lấy một cây gậy, hai người liền động tay động chân. Khánh Kỵ đứng ở một bên khoanh tay nhìn, chỉ thấy hán tử gọi là Anh Đào thân thủ cực kỳ linh hoạt, hắn cũng không xuất kiếm, chỉ né tránh, một gậy một đòn mạnh mẽ đầy uy lực mà ngay cả góc áo của hắn cũng không chạm vào được, 'rầm rầm' một trận tiếng vang, tên mập mạp kia đã đập hỏng cổng chính của nhà mình.

Công phu linh hoạt khéo léo như con báo, Khánh Kỵ nhìn xem cũng âm thầm gật đầu, hai tên đầu gấu thấy đánh hắn không trúng, mặt đã không nhịn nổi nữa, khí lực trên tay cũng tăng lên. Anh Đào hạ thấp người tránh được đòn gỗ của tên mập mạp, ôm lấy cây gậy gỗ trong tay đại hán, chuôi kiếm đập lên khuỷu tay của hắn một cái, đại hán kia 'Ôi' lên một tiếng, liền bị hắn đoạt mất binh khí trong tay.

Anh Đào cười ha ha, một tay múa gậy gỗ, xoay tròn giống như chong chóng, khiến cho gã mập mạp liên tục lui về phía sau, gót chân bị vấp phải một chỗ gồ ghề, té ngã lăn quay ra đất, Anh Đào quát to:

- Trả tiền đây! - Gậy gỗ trong tay đã hướng về cổ họng của hắn.

Thân thủ của mập mạp cũng khá tốt, mạnh mẽ xoay người lăn một vòng, tránh được một gậy này của hắn. Gã đại hán bị mất đi binh khí, mắt thấy hắn làm cho đồng bạn té xuống mặt đất, nghiến răng một cái, liền bưng cái chậu thịt chó đang sôi sùng sục lên, quát to một tiếng giội vào Anh Đào.

Khánh Kỵ thấy vậy, vội vàng cao giọng nhắc nhở:

- Coi chừng! Mau tránh ra!

Anh Đào quay đầu nhìn lại, thấy một chậu nước sôi đang hất về phía mình, sắc mặt tức khắc biến đổi, thân hình nhoáng lên một cái, tựa hồ muốn tránh sang một bên, cũng không biết như thế nào, thân hình rõ ràng đã rất nhanh tránh sang, lại giống như lò xo bật trở lại.

-A!

Chỉ nghe thấy một tiếng hét thảm, mặc dù hắn đã nâng tay lên che mặt, một nồi nước thịt sôi sùng sục vẫn hất vào người hắn, đau tới mức hắn ngã nhào xuống đất, liên tục quằn quại. Mập mạp cùng đại hán thấy thời cơ có thừa, liền nhào tới tay đấm chân đá, mập mạp giơ thanh đòn gỗ lên, một đòn đập thẳng vào bụng hắn, đau đến mức Anh Đào cong cả người lại như con tôm.

Mập mạp nhe răng ra cười, mắt lộ ra hung quang, hắn giơ cao thanh đòn gỗ trong tay, đang định hung hăng đánh vào đùi Anh Đào, chính là đã cố gắng dùng sức, cái đòn ở trên không trung không biết làm sao mà vẫn không chịu nhúc nhích. Mập mạp kỳ quái, quay đầu nhìn lại, chỉ thấy cái đòn gỗ của hắn đã bị một vị công tử mặc áo bào bắt lấy. Công tử kia chỉ lấy một tay bắt lấy cây đòn gỗ của hắn, mà hắn dùng hết khí lực toàn thân cũng không làm cho động đậy được chút nào.

Hai tay du côn của kỹ viện tuy rằng là hung hãn, nhưng nhãn lực cũng không phải tồi, hắn vốn định phát tác, nhưng vừa nhìn cách ăn mặc của công tử này là biết được thân phận không phải là thấp, lại nhìn vài tên gia tướng đứng sau lưng hắn, một đám vóc người cao lớn, hình dáng hung mãnh, người nào cũng không phải loại dễ chọc vào, thần sắc liền hòa hoãn, hỏi:

- Công tử muốn vì tên vô lại này mà ra mặt sao?

Khánh Kỵ cười nhạt nói:

- Các ngươi làm việc buôn bán, mua bán không được thì cũng phải có nhân nghĩa, không nên đánh cho người thành tàn phế.

Mập mạp liền kêu lên oan khuất:

- Công tử ngài có điều không biết, việc mở cửa buôn bán chú ý nhất chính là thanh danh, Anh Đào làm bại hoại danh dự của nhà ta, về sau còn có ai dám đến nữa sao?

Khánh Kỵ hừ một tiếng nói:

- Nếu khách nhân tới nói một lời không hợp ý là sẽ bị các người đánh gãy hai chân, vậy thì liệu còn có ai dám đến cửa nữa không?

Mập mạp cứng họng, Khánh Kỵ cười nói:

- Bản công tử đứng ra làm hòa giúp các ngươi, việc này coi như bỏ qua.

Nói xong tay đẩy một cái, mập mạp đạp đạp lui lại mấy bước, sắc mặt biến đổi, thầm nghĩ trong lòng: "Công tử này nhìn tuấn tú nho nhã, không thể tưởng được lại có khí lực lớn như vậy." Trong lòng liền sinh ra vài phần khiếp sợ.

Anh Đào mặc dù lúc đó đã che mặt đi, nhưng những chỗ bị nước sôi hất vào bắt đầu phồng rộp lên, trên cổ cũng sưng phù một vùng, bụng hắn bị đòn gỗ đánh mạnh vào, đến giờ vẫn còn đang thở hổn hển, nghe thấy Khánh Kỵ nói như vậy, lại lớn tiếng hô to:

- Không được, ta không chơi cô nương nhà hắn, đem tiền trả cho ta!

Mập mạp nghe thấy vậy, thần sắc càng buồn bực, nhưng cây đòn gỗ trong tay vừa giơ lên, lại nhìn thấy ánh mắt lạnh lùng của Khánh Kỵ, trong lòng lập tức trở nên yếu ớt, chậm rãi thả cây đòn xuống, căm giận nói:

- Trên đời nào có đạo lý như vậy, ta thu tiền của hắn, cũng đã để cho cô nương hầu hạ hắn, chính hắn cảm thấy chướng mắt, cũng không trách được ta, lại còn đòi lại tiền, như thế sẽ làm hỏng đi quy củ của chúng ta.

Khánh Kỵ thấy Anh Đào kia rõ ràng đã rơi xuống hạ phong, còn không biết thuận theo thời thế mà bỏ qua, cứ nhất định quấn lấy đòi lại tiền của hắn, đúng là quá mức không biết tốt xấu, trong lòng liền có chút không vui, có điều nếu cũng đã nhúng tay vào, tóm lại không thể cứ như vậy mà rời đi, đành phải nói:

- Đem tiền của hắn trả lại cho hắn, nhiều ít bao nhiêu, bản công tử sẽ đưa cho ngươi là được."

Gã mập mạp chỉ cần có người trả tiền, cũng chẳng quản hắn là ai, đương nhiên mình không mất gì là được, thu tiền của Khánh Kỵ, liền ném tiền của người nọ vào mặt hắn, hung hăng nhổ một ngụm nước bọt, rồi cùng đại hán kia bỏ đi.

Khánh Kỵ thấy Anh Đào nọ chỉ lo nhặt tiền trên mặt đất, cũng không buồn nhìn hắn lấy một cái, trong lòng không cảm thấy vui vẻ, hắn phất ống tay áo, liền xoay người bỏ đi.

Vừa mới đi được một đoạn, Anh Đào đã nhặt xong tiền liền đuổi theo, lớn tiếng kêu lên:

- Này! Công tử xin dừng bước!

Khánh Kỵ quay đầu nhìn lại, chỉ thấy người này cái mũi đã chảy máu, cổ sưng tấy, nhưng tay trái vẫn đang nắm chặt chuôi thanh trường kiếm cũ nát của hắn, liền thản nhiên hỏi:

- Chuyện gì?

- Công tử là ai, ngươi ban ơn cho ta, chính là vì muốn ta dốc sức cho ngươi sao?

Khánh Kỵ lập tức nở nụ cười, hắn nhịn không được nói: 

- Ngươi có cái bổn sự tài cán gì có thể dốc sức cho ta?

Anh Đào tuy rằng cả người đang chật vật, vẫn đứng thẳng thân mình, ngạo nghễ đáp: 

- Công tử đừng xem thường ta, ta hiện giờ tuy rằng nghèo túng, nhưng cũng là một võ sĩ có danh tiếng.

Thời đại Tiên Tần, vùng Hoa Hạ là do võ sĩ đảm đương quốc gia, từ cổ gọi là sĩ, tức võ sĩ. Chu Thiên Tử phong chư hầu, từ vua trở xuống, là công, hầu, bá, tử, nam, khanh, đại phu, sĩ, trong đó sĩ chính là võ sĩ. Võ sĩ tập "thất nghệ", tức võ, lễ, nhạc, xạ (bắn), ngự (đánh xe), thư (sách), thuật. Thờ phụng các đạo đức nghĩa, dũng, lễ, liêm, sỉ.

Hiện giờ bởi vì quy mô chiến tranh không ngừng mở rộng, quân đội ngày càng bình dân hóa, các tầng lớp võ sĩ mất đi quyền lợi lại lấy đặc quyền về ruộng đất để duy trì địa vị xã hội. Nhiều võ sĩ lại kiên trì theo tiêu chuẩn hành vi của mình, cho rằng làm nông là việc thấp hèn, khinh thường việc làm nông dân, bởi vậy rất nhiều người đã lưu lạc trở thành hiệp khách hay môn khách, toàn bộ giai cấp võ sĩ đang đi theo hướng hoàng hôn của thời đại.

Có điều lúc này mà nói, thân phận 'sĩ' của bọn họ vẫn được xã hội tôn trọng, nếu hắn đã nói mình là một võ sĩ, Khánh Kỵ thật sự cũng không tiện lộ ra thần sắc khinh miệt. Chính là bởi vì bộ dáng coi tiền như mạng vừa rồi của hắn khiến cho Khánh Kỵ hoàn toàn không có hảo cảm với hắn, cho nên chỉ đơn giản là chắp tay biểu thị sự kính trọng, thản nhiên cười nói:

- Ta bây giờ cũng không cần ngươi phải dốc sức, ta thấy thương thế của ngươi không nhẹ, vẫn nên sớm tìm một y sư để trị liệu đi thôi.

Anh Đào đần ra, lập tức luồn tay vào ngực, lấy ra mấy đồng tiền Lỗ, nói:

- Nếu như thế, mời thu hồi lại tiền đi, Anh Đào ta sẽ không tự dưng thiếu nợ nhân tình của ngươi.

Sự thay đổi này làm cho Khánh Kỵ sững sờ:

- Sao lại như vậy, mới vừa rồi ngươi bị người đánh cho rất thảm, vì sao còn cứ khăng khăng đòi lại tiền của mình?

Anh Đào ngang nhiên nói:

- Ta chưa từng làm cuộc mua bán nào với nhà hắn, vẫn trả tiền tức là khiếp sợ dũng lực của đối phương, là kẻ phi quân tử. Hiện giờ trả lại tiền cho ngươi, là do không thể tự dưng chịu ân huệ của người khác, hai việc này khác nhau rất lớn.

Khánh Kỵ kinh ngạc, ngây người ngẩn ra, lại hỏi:

- Ta thấy thân thủ của ngươi vô cùng tốt, mới vừa rồi hẳn là tránh được một chậu nước sôi, vì sao sau đó lại không tránh được?

Anh Đào ảo não nói:

- Ai! Ta vốn chính xác là đã tránh được, chính là ta đột nhiên phát hiện ra người hàng xóm Lưu Trọng đứng ở phía sau, Lưu Trọng năm trước khi trời đông giá rét từng tặng cho ta một bó củi, có ân với ta, chậu nước sôi này chẳng phải sẽ đổ lên người hắn sao?

Những vết bỏng trên người Anh Đào đương nhiên là đau tới tận xương tủy, hắn cố nén mà nói nhiều như vậy, mặt ngoài tuy rằng chẳng hề để ý, nhưng trên mặt cũng đã xuất hiện nhiều giọt mồ hôi li ti, hắn thấy Khánh Kỵ không nói tiếp, liền hướng hắn vái chào một cái, nói:

- Đa tạ công tử mới vừa rồi cứu ta, tiền này mời ngươi cầm lại đi.

Khánh Kỵ cũng không nhận tiền, ánh mắt của hắn lại trở nên nhu hòa:

- Ta đột nhiên thay đổi chủ ý, ngươi nguyện ý đầu nhập làm môn hạ của ta, dốc sức cho ta sao?

Anh Đào ngẩn ra, hắn chậm rãi thu tay lại, nắm chặt mấy đồng tiền, nói:

- Ta nếu đầu nhập làm môn hạ của công tử, không biết công tử cần ta làm chuyện gì?

Khánh Kỵ mỉm cười, từng chữ từng chữ nói:

- Cùng với ta, chứng kiến thiên hạ hưng vong!

- Cùng với ta, chứng kiến thiên hạ hưng vong!

Những lời này của Khánh Kỵ nói ra, Anh Đào lập tức cả kinh, cuộc sống của hắn gặp trắc trở đã lâu, chí khí hùng tâm của thiếu niên không khỏi đã phai nhạt. Quốc sách của Lỗ quốc lại luôn luôn là "Vì lợi ích của quốc gia dân tộc mà nhường nhịn nhau", muốn tìm một chủ công có thiên hạ chí lớn cũng rất khó. Kiến công lập nghiệp? Hắn còn không dám nghĩ tới.

Bằng bản lĩnh của hắn mà làm một bảo hộ cho gia viên và gia nô đánh xe cũng không phải là khó, nhưng người này chí khí lại cao, đến nỗi cao cũng không phải thấp cũng chẳng phải, hợp với nhau thành ra nghèo túng như vậy. Trước kia còn có lão mẫu trong nhà, hắn không thể đi xa, hiện giờ chỉ còn lại có một mình một người, vốn đã có tâm rời khỏi Lỗ quốc chu du thiên hạ, không ngờ rằng vị công tử trước mắt này lại có hào khí như vậy.

Anh Đào kinh ngạc hỏi thân phận hắn, mới biết được chính là Ngô quốc Khánh Kỵ công tử, Anh Đào mừng rỡ, vội vàng quỳ gối tham kiến, từ giờ làm môn hạ của hắn. Khánh Kỵ nhìn thấy chỗ hắn bị phỏng đã sủi bọt, một khi nhiễm trùng sẽ không tốt cho tính mạng của hắn, lập tức để cho hai sĩ tốt đưa hắn đi tìm y sư trị thương. Anh Đào vừa rồi đã đầu nhập làm môn hạ của hắn, là đã đem chính mình trở thành người của hắn, tính mạng bản thân gia đình đều là của hắn, vì thế hắn quan tâm chữa trị cũng chỉ là một việc nhỏ, đương nhiên không đề cập tới chuyện từ chối hay khách sao, liền dẫn hai sĩ tốt đi.

Khánh Kỵ về Thành phủ trước, lúc này Triển đại phu cùng Khổng Khâu còn chưa trở về, hắn vốn đã đoán từ trước, Triển đại phu, Khổng Khâu cùng mục thủ vùng này đều là quan viên quen biết từ trước, một khi gặp lại chắc chắn không thể thiếu được tiệc rượu khoản đãi một phen. Hôm nay hắn thu một vị tráng sĩ, trong lòng rất là vui sướng, cởi giày, bước lên chiếu đi vào phòng, vừa mới ngồi xuống, liền có một sĩ tốt xuất hiện ở ngoài cửa, bẩm báo với hắn:

- Công tử, ngoài cửa lớn có ba vị tráng sĩ xin cầu kiến.

- Là ai?

- Bọn họ nói, nghe nói công tử đã tới Tất Thành, đã kính uy danh công tử từ lâu, muốn đầu nhập góp sức dưới trướng công tử, vì công tử dốc sức.

- Ồ?

Khánh Kỵ mừng rỡ, nhất thời ngồi thẳng dậy:

- Mau mau mời bọn họ tiến vào.

Có người đầu nhập góp sức, mới có thể chứng minh được năng lực cùng uy vọng của mình. Có người sẵn sàng góp sức, thực lực mới có thể cường đại, thực lực cường đại mới có thể giành được sự tôn trọng của người khác. Nhà giàu nuôi dưỡng võ sĩ, cũng xuất phát từ nguyên nhân này. Khi Khánh Kỵ ở Ngải thành Vệ quốc, cũng có các hào kiệt khắp nơi trên thiên hạ nghe tiếng mà tới đầu nhập vào, mong có thể ở dưới trướng của hắn gây dựng nên sự nghiệp. Hắn lúc này vừa mới treo danh hiệu lên chưa tới một ngày, đã có tráng sĩ chủ động đến đầu nhập, đó chính là một đại hỉ sự.

Không lâu sau, sĩ tốt kia lại xuất hiện trước cửa, thi lễ nói:

- Công tử, ba vị tráng sĩ kia cũng đã tới rồi.

Khánh Kỵ vừa nghe thấy, vội vàng ra khỏi phòng nghênh đón, ra khỏi cửa phòng mà giày cũng không kịp đeo, chỉ có một đôi tất chạy xuống bậc thềm. Thật ra cách đón chào này chỉ là biễu diễn, Lưu Bang Tào Tháo cũng đã dùng qua, ngươi nói hắn đang làm bộ làm tịch, nhưng cố nhân cũng làm y như vậy, hiện giờ đang là thời điểm cần phải lung lạc lòng người, Khánh Kỵ sao có thể không mượn dùng tạm một chút.

- Ba vị tráng sĩ, Khánh Kỵ nghênh tiếp chậm, thất lễ, thất lễ.

Khánh Kỵ vẻ mặt 'kinh hỉ' ra nghênh tiếp, con đường trải đầy đá cuội, thật sự là có hơi cộm chân, khiến hắn phải nhe răng nhếch miệng, thật là vừa lúc, chỉ cần hơi chỉnh sửa một chút, lại trở thành vẻ mặt tươi cười 'kinh hỉ'.

Ba người vừa thấy Khánh Kỵ chiêu hiền đãi sĩ như thế, không khỏi vô cùng cảm động, vội vàng quỳ gối nghênh tiếp:

- Xạ Lễ, Khải Khiếu, Đại Lương ra mắt Khánh Kỵ công tử, làm phiền công tử tự mình ra nghênh đón, tiểu nhân thật sự không nhận được.

- Ai dà dà, ba vị tráng sĩ làm sao phải khách khí như thế, mau mau đứng lên.

Khánh Kỵ vội vã bước lên phía trước nâng đỡ, mượn cơ hội cẩn thận đánh giá bọn họ. Chỉ thấy ba người này, hán tử đứng đầu gọi là Xạ Lễ, cánh tay to dài, sắc mặt hơi vàng vọt, một gương mặt bình thường không hiếm gặp, chỉ có một đôi mắt giống chim ưng là đặc biệt lợi hại.

Hán tử thứ hai gọi là Khải Khiếu, lùn mà rắn chắc, râu dày mắt báo, khuôn mặt dài dữ tợn, trên người mặc áo ngắn quần bố dính vết dầu mỡ, bên hông quấn một cái đai lưng bằng vải bố, trên đai lưng cắm một thanh đao tai trâu sắc bén.

Người thứ ba tuổi cũng đã hơi cao, khoảng trên dưới năm mươi, dáng người gầy yếu, mặt rỗ, dáng người có chút hèn mọn, có một chiếc răng cửa vàng xỉn, thoạt nhìn rất không thuận mắt. Khánh Kỵ không có lộ ra nửa điểm biểu tình khinh thường, lúc dìu hắn đứng lên vẫn là một vẻ mặt tươi cười chân thành tha thiết.

Thời đại này, có người là có thế lực, chỉ cần ngươi cần dùng người, cho dù là hạng người trộm chó trộm gà cũng đều có tác dụng của hắn, chính là 'hải nạp bách xuyên, hữu dung nãi đại' (1). Nếu ngươi đối với những người sẵn sàng đầu nhập chọn ba loại bốn, gặp mặt liền làm cái gì mà thử thách tinh binh, nhân tài chân chính cũng nhìn thấy mà khiếp bước, cho nên không thể trông mặt mà bắt hình dong, thậm chí không thể lấy tài mà tuyển người.

Về phần sự trung thành của bọn họ, lại càng không chắc đã cần lo lắng. Nếu ngươi muốn mỗi người đi theo ngươi đều ôm lòng trung thành nghĩa khí cùng ngươi đồng sinh cộng tử, thế thì cứ tới Lương Sơn Bạc mà chơi đi, để có thể làm nên nghiệp đế vương, sẽ có thể nhận người có đủ loại ham muốn cá nhân cho ngươi sử dụng.

Khánh Kỵ hiểu được đạo lý này, thần tình vui sướng nói:

- Khánh Kỵ muốn làm đại sự, hiện giờ đúng là thời điểm cần người, có thể được ba vị tráng sĩ trợ giúp, thực vui sướng không kể xiết, không biết ba vị tráng sĩ là người phương nào, am hiểu bản lĩnh gì?

Sau một hồi nói chuyện, Khánh Kỵ mới biết được thân phận của ba người này. Ba người này đều là người địa phương, Xạ Lễ am hiểu bắn cung, là một thợ săn; Khải Khiếu là một đồ tể, lúc này thịt chó và thịt lợn là những loại thịt phổ biến mọi người thường ăn, Khải Khiếu chính là một người chuyên môn giết chó bán thịt. Trong ba người thân phận cao nhất hóa ra lại là Đại Lương bộ dạng nhìn không thuận mắt kia, hắn là thợ thủ công, am hiểu chế tạo sửa chữa các loại xe.

Khánh Kỵ trong lòng vui sướng, mời ba người lên đại sảnh, ở trên chiếu nói về triển vọng tươi đẹp khôi phục Ngô quốc, nói ra chuyện mạnh miệng hứa hẹn phong quan, sau khi làm một hồi công tác tư tưởng lung lạc lòng người, mới cho gọi tả binh vệ Lương Hổ Tử, phân bọn họ làm thủ hạ Lương Hổ Tử, bảo hắn đi an bài chỗ ở, rồi tự mình tiễn ra cửa phòng.

Khánh Kỵ tiễn bọn họ xong, liền đeo giày đi ra phía sau trạch, vừa mới đi qua một hành lang uốn khúc, thị nữ Bạch Ny liền cao giọng gọi hắn từ phía sau. Khánh Kỵ xoay người nhìn lại, chỉ thấy Bạch Ny cùng một lão giả gần năm mươi tuổi vội vàng đi về phía hắn. Lão giả kia lưng đeo một chiếc rương nhỏ, buộc khăn bố, trường bào thô ráp, thoạt nhìn giống như một thủ nghệ nhân (thợ thủ công).

Khánh Kỵ đứng dưới giàn hoa chờ, Bạch Ny mang theo lão giả đuổi tới gần, thi lễ với hắn, tươi cười rạng rỡ nói:

- Công tử, vật ngài muốn cũng đã làm xong, người này chính là thợ thủ công chế tạo... tạo bàn chải đánh răng Lỗ sư phó. Ngài xem hắn làm có phù hợp không, nếu có chút không ổn, thì để cho hắn sửa lại.

Khánh Kỵ 'Ồ' một tiếng, cười cười gật đầu với lão giả:

- Làm phiền Lỗ sư phó, không thể tưởng được Lỗ sư phó làm nhanh như vậy, mau mau mang ra cho ta xem.

- Ngài chính là Khánh Kỵ công tử?

Thợ thủ công kia cúi đầu khom lưng nói:

- Công tử kỳ tư diệu tưởng, tiểu nhân thật sự là khâm phục, nếu không có Bạch Ny cô nương mang bản vẽ đến, tiểu nhân thật sự là không nghĩ tới nguyên lai đánh răng cũng có thể dùng đồ vật như vậy."

Lỗ sư phó khuôn mặt cười tâng bốc, mở chiếc rương nhỏ ra, bên trong lại có một cái hộp gỗ, mở nắp ra, trình đến trước mặt Khánh Kỵ. Trong hộp đã tạo ra mười cái bàn chải đánh răng cán gỗ rất được, một đầu rất tròn, một đầu bẹt, trên đầu bẹt có dùi hai hàng tám lỗ, trên từng cái lỗ nhỏ có xuyên qua nhiều bó lông mao lợn ngắn mà thô cứng, lấy một sợi gân mềm mại buộc cố định lại.

Khánh Kỵ cầm ở trong tay nhìn nhìn, không khỏi cười ha hả, khi còn ở trường có học qua hóa học đơn giản, xà phòng xà bông hắn chưa học qua, mà ngay cả đã học qua rồi sẽ quên mất. Có điều hiện tại sử dụng bồ kết cũng không tệ, vật dụng tắm rửa thiên nhiên tinh khiết, chỉ có mỗi dùng nhành dương liễu đánh răng là hắn không thích ứng được, hiện giờ cuối cùng cũng không phải chịu khổ nữa.

Khánh Kỵ vui vẻ nói:

- Rất tốt, làm thực là rất tinh xảo, chính là hình dạng như thế này, cần bao nhiêu tiền?

Lỗ sư phó cười nói:

- Công tử nghĩ ra đồ vật kỳ diệu như vậy, về sau tiểu nhân lại có thể bán ra nhiều đồ vật thế này, tạ ơn công tử còn không kịp, nào dám thu tiền của ngài chứ.

Khánh Kỵ nghe xong rồi cười, thợ thủ công này thật sự rất chất phác, hoàn toàn không có sự gian trá của tiểu thương gia. Phải biết rằng thời đại này không có pháp luật độc quyền, trong những thợ thủ công khi có người nghĩ ra gì đó cũng không có khái niệm cấm bắt chước theo, bàn chải đánh răng này vừa ra đời, dùng không được bao lâu sẽ lưu truyền thiên hạ, chịu ơn huệ cũng không chỉ có một thợ thủ công là hắn.

Đúng lúc này, Lương Hổ Tử dẫn ba tráng sĩ sẵn sàng góp sức đi qua một cái hành lang gấp khúc khác, ba người ôm chăn nệm gối, quản sự Thành phủ đi phía sau cách đó không xa mang theo một chùm chìa khóa, vừa rồi đưa họ đi lấy các đồ dùng để ngủ. Khánh Kỵ nhìn thoáng qua, quay đầu thấy thợ thủ công kia cũng rướn cổ nhìn sang đối diện, liền cười nói:

- Sao vậy, Lỗ sư phó cũng quen biết với bọn họ sao?

Lỗ sư phó vội vàng cúi người cười nói: 

- Tiểu nhân không biết bọn họ.

Khánh Kỵ giật mình nói:

- Là ta hồ đồ rồi, Lỗ sư phó là một thợ thủ công, mỗi ngày đều ở trong nhà chế tác các loại dụng cụ, người trong Tất Thành đương nhiên cũng không biết được nhiều.

Lỗ sư phó cười nói:

- Công tử quá khen, tiểu nhân làm đồ vật tuy rằng cũng coi như tinh xảo, nhưng đều là những đồ vật không đáng giá lắm, chính mình khi làm đồ vật phải làm nhiều nhiều một chút rồi mới đi rao bán. Người trong Tất Thành tiểu nhân mặc dù không dám nói nhận thức được mười phần, chính là phần lớn tóm lại vẫn có chút ấn tượng. Vài vị tráng sĩ kia đều là bộ hạ của công tử sao, khó trách chỉ trừ Thành phủ quản sự, tiểu nhân cũng chưa gặp qua người nào.

- Ồ?

Khánh Kỵ ánh mắt hơi hơi trầm xuống, chậm rãi nói:

- Lỗ sư phó làm vật này, bản công tử rất vừa lòng, về sau nếu nghĩ ra cái gì đó, có lẽ sẽ còn làm phiền Lỗ sư phó.

Người thợ thủ công vừa nghe thấy thì vui mừng không kìm hãm được, vội vàng nói:

- Đúng đúng đúng, công tử sau này chỉ cần gọi, tiểu nhân nhất định lập tức sẽ tới.

Khánh Kỵ cười cười, nói với Bạch Ny:

- Tốt lắm, ngươi đưa Lỗ sư phó ra ngoài đi.

- Tiểu nhân xin cáo lui!

Lỗ sư phó nhẹ nhàng đặt chiếc hộp lên sàn gỗ của hành lang, thi lễ với Khánh Kỵ, rồi theo Bạch Ny đi ra ngoài. Khánh Kỵ nhìn thân ảnh của bọn họ biến mất ở cuối hành lang, nụ cười trên khuôn mặt từ từ trở nên căng cứng...

- Gọi Lương Hổ Tử ra sau trạch gặp ta!

Khánh Kỵ trở về nơi ở, lập tức phân phó Di Vi.

Chỉ một lát sau Lương Hổ Tử đã tới, còn mang theo một người ăn mặc kiểu thường dân, Khánh Kỵ nhận ra đó cũng là bộ hạ của chính mình, tên là Lộc Khoách. Không đợi Khánh Kỵ hỏi, Lương Hổ Tử liền giải thích:

- Công tử, Lộc Khoách phụng mệnh giả trang làm dân thường giám thị Bạch phủ, phát hiện ra một việc kỳ lạ, muốn bẩm báo cho công tử biết.

Khánh Kỵ trước tiên buông bỏ tâm sự của mình, hỏi:

- Lộc Khoách, ngươi phát hiện ra điều gì?

Lộc Khoách bẩm báo nói:

- Công tử, kẻ hèn phụng mệnh của công tử, giám thị người của Bạch phủ bên cạnh, phát hiện bọn họ sau nửa đêm có một vài người lén lút men theo vách tường, lách qua phủ Thành Bích phu nhân, trốn vào Nhâm gia bên cạnh rình động tĩnh.

Khánh Kỵ ngẩn ra, hắn để cho người giám thị động tĩnh trong Bạch phủ, vốn là đối với sự khiêu khích của bọn họ cảm thấy có chút không hợp với lẽ thường, lo lắng rằng có nhân vật bí mật nào đó đứng sau màn có ý đồ bất lợi với mình, không thể tưởng được bọn họ quả nhiên là có hành động lén lút, nhưng mục tiêu lại không phải mình, mà là Nhâm phủ bên cạnh.

Nhâm phủ..., Khánh Kỵ bất ngờ nghĩ tới cô gái xinh đẹp cùng hắn cách tường luyện mâu kia. Giống như, bóng dáng xinh đẹp cong cong nhưng lại có khí thế của nàng lại hiện ra trước mắt mình, một góc mái đình uốn cong trên nền trời, một cô gái nhẹ nhàng như bươm bướm...

- Công tử, công tử? - Lộc Khoách gọi.

- Hả... sao?

Khánh Kỵ bị gọi tỉnh lại, bóng hình xinh đẹp kia lập tức biến thành những bông hạnh hoa bay lượn, dần dần biến mất trong nền trời xanh thẳm:

- Nếu đã nhìn thấy bọn họ đi dò xét Nhâm phủ, vì sao tới bây giờ mới nói?

Lộc Khoách nói:

- Kẻ hèn vốn định sớm đem việc này bẩm báo cho công tử, có điều bọn họ rời khỏi Nhâm phủ trở về không lâu sau lại rời đi, kẻ hèn thấy bọn họ xuất phát vội vàng, lập tức đi theo phía sau bọn họ. Bọn họ đi ra khỏi thành, tới một thôn trang, kẻ hèn lần theo gót, chờ sau khi bọn họ rời đi, lúc đó sắc trời cũng đã gần sáng, kẻ hèn liền đi hỏi người trong thôn, biết bọn họ đi vào hộ của một y sư nông thôn, mới theo đường cũ gấp rút trở về. Có điều lúc đó trời đã sáng hơn, kẻ hèn không dám đi theo quá gần bọn họ, sau khi vào Tất Thành thì để mất tung tích.

Khánh Kỵ yên lặng gật đầu, trầm ngâm một lúc lâu, ngẩng đầu lên thấy Lộc Khoách còn đang đứng chờ hỏi ý của hắn, liền khoát tay, nói:

- Ngươi theo dõi tiếp, chỉ theo dõi cửa phủ, không cần phải đi theo, để tránh đánh rắn động cỏ. Hành tung đêm hôm qua, không thể nói cho bất kỳ kẻ nào biết.

- Rõ!

Lộc Khoách chắp tay quay ra, Khánh Kỵ nói với Lương Hổ Tử:

- Lương Hổ Tử, ngươi an bài tốt một chút, đối với ba người vừa mới tới kia, thừa lúc bọn họ mới tới còn chưa quen biết nhiều, chọn lấy một vài binh lính nhạy bén có mưu làm bạn cùng bọn họ, nghiêm mật giám thị nhất cử nhất động, nếu có gì khả nghi, bất cứ lúc nào cũng phải báo cho ta.

Lương Hổ Tử ngạc nhiên, nhưng hắn nhìn Khánh Kỵ một cái, cũng không hỏi thêm câu nào, thấy Khánh Kỵ ngoại trừ những lời này cũng không có phân phó gì khác, liền đứng dậy cáo lui, trở về án theo phân phó của Khánh Kỵ nhanh chóng tiến hành sắp đặt. Khánh Kỵ lại lệnh cho Di Vi đi tìm Thành phủ quản gia tới, nói tỉ mỉ về chi tiết của Nhâm gia phía bên phải.

Khánh Kỵ lúc này mới biết chủ nhân của căn hộ bên cạnh chính là đại gia đình buôn bán binh khí của Ngô quốc Nhâm Tử Anh. Hiện giờ con gái của Nhâm Thị gia chủ đang ở đó, nàng vốn là là tới Tề quốc tế tổ và thăm người thân, bởi vì trên đường sinh bệnh, cho nên lúc này tạm ở đây cũng được vài ngày rồi.

- Sinh bệnh?

Khánh Kỵ lại nghĩ tới bộ dáng oai hùng hiên ngang của nàng khi cùng mình cách tường đối vũ, trên đời có người bệnh nào như vậy sao?

Khánh Kỵ khoanh tay lại ở trong sảnh trầm ngâm một lúc lâu, đột nhiên hỏi: 

- Nữ nhi Nhâm gia đi Tề quốc tế tổ thăm người nhà, mang theo bao nhiêu gia tướng, bao nhiêu chiếc xe?

Thành phủ quản sự nói:

- Chuyện này, tiểu nhân thật sự là không nhớ. Có điều, lúc bọn họ đến trang viện, trong phủ cũng có người ra ngoài xem náo nhiệt, trở về nói, kiểu gì cũng phải có hơn bốn trăm gia tướng, hơn trăm chiếc xe nhỏ.

Ánh mắt Khánh Kỵ hơi hơi khép hờ, hơn bốn trăm gia tướng đem theo, hơn một trăm chiếc xe, cho dù là Nhâm Thị rất giàu có, phô trương thế này cũng không thấy ngại sao? Họ Nhâm đích thực là quý tộc thượng cổ, hậu duệ hoàng đế, được phong tước bởi Nhâm quốc, cho nên con cháu đời sau lấy họ Nhâm, hiện giờ ở Tề quốc vui vẻ an cư. (Nhâm quốc chỉ là một nước nhỏ, về sau bị diệt vong)

Nhâm Tử Anh là con một, rồi tách ra khỏi gia tộc, bọn họ về quê hương tế tổ, thăm hỏi người thân bằng hữu, lấy thân phận hậu duệ yết kiến tổ tông, mang cho trưởng lão trong tộc một chút lễ vật quý giá đúng là có thể, nhưng mà mang theo hơn một trăm chiếc xe lễ vật..., là muốn biếu cho cả tộc sao? Không sợ làm cho các trưởng lão bất mãn hay sao? Với sự khôn khéo của Nhâm Tử Anh, làm sao có thể làm ra cái chuyện khoe giàu có mà làm mất lòng thế này.

Khánh Kỵ suy tư một lúc lâu, khóe miệng chậm rãi lộ ra một chút ý cười...

o0o

Nhâm Băng Nguyệt an phận ở nhà hai ngày, tâm tính lại không chịu nổi, muốn mang Thanh Vũ vụng trộm chuồn đi xem chợ, không ngờ đang định đi thì bị tỷ tỷ chặn lại, bây giờ đang bị gọi vào phòng khách Nhâm phủ để chịu trách mắng.

- Băng Nguyệt, chỉ còn đợi một ngày nữa thôi, chúng ta sẽ bàn giao hàng hóa, khởi hành sang Tề quốc, lúc này sao có thể ra ngoài du ngoạn, vạn nhất xảy ra sự tình gì thì không phải là tự đi tìm phiền toái sao?

Nhâm Băng Nguyệt hai mắt trợn trắng, sẵng giọng:

- Tỷ tỷ cứ lúc nào cũng cẩn thận cẩn thận, ta thay đổi trang phục che mặt đi ra ngoài cũng không được sao? Đến chợ du ngoạn một tí, có thể xảy ra được chuyện gì?

Nhâm Nhược Tích hừ lạnh một tiếng: 

- Ta nói không được, đó là không được, không phải nói lằng nhằng, ở nhà đợi cho ta.

Nhâm Băng Nguyệt đảo đảo con ngươi, đột nhiên hì hì cười nói:

- Tỷ tỷ, phủ Thành Bích phu nhân bên cạnh dựng lên một lá cờ lớn, nói là Khánh Kỵ đã tới, ngươi có muốn cùng ta ra ngoài xem không, biết đâu lại có thể nhìn thấy hắn đó.

Nhâm Nhược Tích trắng mắt lườm nàng một cái, thần sắc hơi hơi có chút không được tự nhiên:

- Lại kiếm cớ, ta nhìn hắn để làm gì?

Nhâm Băng Nguyệt cười nói:

- Nghe nói Khánh Kỵ công tử không chỉ giỏi võ lại mạnh mẽ, hơn nữa còn anh tuấn bất phàm. Ngươi không muốn nhìn xem nam nhân đáng lẽ ra nên trở thành vị hôn phu tương lai của ngươi sao?

Nhâm Nhược Tích nghiêm mặt lại, trách mắng:

- Nói bậy nói bạ, còn sợ chưa mang đủ tai họa tới cho ta sao? Ta cảnh cáo ngươi, không được va chạm gì với những kẻ có liên quan đến Khánh Kỵ. Chúng ta hiện giờ đang dưới sự cai trị của Hạp Lư Đại vương, nếu có liên lụy gì với Khánh Kỵ, ngươi có biết hậu quả sẽ ra sao không? Nguyên nhân cũng là vì thế, hai ngày nay ta ngay cả cánh cửa cũng không dám bước ra, nơi này mặc dù cách Ngô rất xa, nhưng vạn nhất mà có tin đồn lọt vào tai của Đại vương...

Nhâm Băng Nguyệt thấy vẻ mặt nghiêm trọng của nàng, không khỏi lè lưỡi, vốn định trêu chọc cũng không dám nói nữa. Nhâm Nhược Tích nghiêm khắc răn dạy muội muội một hồi, chính mình trong lòng lại trống rỗng, sáng nay lúc đi luyện võ thấy hắn ở đó, đáng ra phải lập tức tránh đi, ai! Lúc ấy cũng không biết bị con quỷ nào nhập hồn, nhìn hắn tập võ cũng được, lại còn chủ động giao thủ với hắn.

Có điều..., một mâu đó của hắn..., một mâu của hắn đâm tới ngực thật sự là rất uy mãnh, quả nhiên rất có khí khái anh hùng. Còn con người của hắn, thật sự là anh tuấn oai phong, nhân phẩm xuất chúng. Nghĩ lại ta Nhâm Nhược Tích thay cha buôn bán, đã từng gặp qua rất nhiều người, nhân tài giống như hắn cũng không gặp nhiều, hạnh hoa lượn lờ phía dưới, nước ngọc đình gỗ phía trên, dáng người oai phong mạnh mẽ đó...

Nhâm Nhược Tích xuân tâm đã nảy mầm, trên hai má lặng lẽ hiện lên một vùng ửng đỏ. Nàng vỗ vỗ lên mặt mình, gò má có chút nóng lên, Nhâm Nhược Tích nhẹ nhàng thở dài một tiếng, lắc lắc đầu, xóa đi suy nghĩ đẹp trong đầu: “Người kia cũng không phải là người chồng lý tưởng của ta, nếu có liên quan gì với hắn, đó chính là đại họa phá gia diệt tộc.”

Nhâm Nhược Tích nheo nheo mắt, từ trong ảo mộng vừa mới tỉnh lại, ngay lập tức đập vào mắt một đôi con ngươi đen thui lấp lánh lấp lánh, Nhâm Nhược Tích hoảng sợ, theo bản năng giật hết cả mình lui về phía sau, lúc này mới nhìn rõ là muội muội Nhâm Băng Nguyệt không biết đã đến trước mặt mình lúc nào, chính là đang giương hai mắt tò mò nhìn nàng.

Nhâm Nhược Tích tức giận nói:

- Ngươi tới gần như thế mà làm gì?

Nhâm Băng Nguyệt ngạc nhiên nói:

- Tỷ tỷ, sao tỷ lại đỏ mặt, hiện giờ thời tiết nóng như vậy sao?

Nàng vừa mới hỏi, Nhâm Nhược Tích thật sự là cả người nóng hết cả lên, dường như những tâm sự con gái của nàng đều đã bị nhìn thấu hết vậy, nhất thời thẹn quá thành giận, đỏ mặt sẵng giọng:

- Đi đi đi, nhanh đi ra sau trạch đi, ngươi ít làm cho ta phải lo lắng đi, ta cũng sẽ không phiền lòng như thế.

Nhâm Băng Nguyệt trề môi nói:

- Dù sao người ta cũng chỉ là cái túi trút giận của tỷ thôi, khí trời nóng bức cũng muốn đổ lên đầu ta, hừ hừ, Thanh Vũ, chúng ta đi.

Nhâm Băng Nguyệt phất tay áo đứng dậy, đang muốn quay đi, lão nô trông cửa phủ tay áo bay bay chạy lên nhà trên, bẩm tấu:

- Đại tiểu thư, Nhị tiểu thư, trước cửa phủ có một người tới, nói là có lễ vật muốn tặng cho tiểu thư.

- Hả?

Nhị vị mỹ nhân Nhâm gia nhất tề lên tiếng, cùng đồng thời nhướng đôi mày liễu, hai tỷ muội đều tươi đẹp như mận đào, lúc làm ra biểu tình giống nhau, thoạt nhìn thật là thú vị.

Nhâm Nhược Tích nhướng mày, cảnh giác hỏi:

- Là người nào tặng lễ?

Nhâm Băng Nguyệt cũng nhướng mày, tò mò hỏi:

- Tặng cái gì vậy?

Nghe Nhâm Nhược Tích hỏi, lão nô thủ vệ trả lời:

- Đại tiểu thư, người nọ vẫn chưa nói ra thân phận của hắn, chỉ nói lễ vật muốn tặng dù không trân quý, nhưng là vật tuyệt đối có một không hai, tiểu thư nhất định sẽ thích, còn thỉnh tiếp kiến tiểu thư.

- Vật trên đời có một không hai?

Nhâm Băng Nguyệt vừa nghe thấy nhất thời hai mắt tỏa sáng:

- Mau mau gọi hắn vào.

- Chậm đã!

Nhâm Nhược Tích hơi trầm ngâm, lạnh lùng cười nói:

- Loại người cứ thích làm ra vẻ huyền bí, gặp hắn để làm gì? Đuổi hắn đi.

Tỷ muội hai người tuy rằng ý kiến không giống nhau, nhưng mà Nhâm gia ngoại trừ gia chủ Nhâm Tử Anh, luôn luôn là do Đại tiểu thư định đoạt, lão nô vốn nên lập tức lui ra, nhưng hắn lại thi lễ, cung kính nói:

- Đại tiểu thư, người đó... còn nói thêm, hắn nói... nếu Đại tiểu thư không chịu gặp hắn, thì sẽ phải vì một trăm xe hàng hóa kia mà ngày đêm lo lắng.

Nhâm Nhược Tích nghe vậy thì cả kinh, sắc mặt Nhâm Băng Nguyệt cũng trở nên ngưng trọng, tỷ muội hai người nhìn nhau, Nhâm Nhược Tích nói:

- Gọi hắn vào! - Sau đó nháy mắt với muội muội, Nhâm Băng Nguyệt hiểu ý, gật gật đầu rời khỏi nhà chính.

Một lát sau, chỉ thấy một vị hán tử cao lớn thân mặc trường bào màu đen, đầu đội nón trúc đi lên nhà trên, hai tay hắn nâng một cái tráp nho nhỏ, hiên ngang đi tới trước phòng, cất cao giọng nói:

- Nhâm tiểu thư, tại hạ có một kiện lễ vật nho nhỏ dâng tặng, mong tiểu thư vui lòng nhận cho. - Dứt lời, đá giày ra rồi bước lên phòng.

Nhâm Nhược Tích ngồi bên cạnh bàn, hai tay áo thêu đường viền hoa rủ nhẹ xuống bàn, đôi mắt đẹp kia nhìn chằm chằm không chớp mắt vào nam nhân đang hơi hơi cúi đầu, chỉ có thể nhìn thấy một cái miệng đoan chính hé ra. Coi thấy cằm hắn không có râu, tuổi cũng không quá lớn. Lưng thẳng tắp, thân hình tuy rằng ẩn sau một bộ hắc bào, nhưng mà theo từng nhất cử nhất động của hắn, có thể thấy được thân thể hắn ẩn chứa lực lượng cường đại giống như thợ săn báo, hai tay Nhâm Nhược Tích không khỏi căng thẳng.

Ánh mắt của nàng dừng ở hai chân của hắn, khi thấy chân hắn đã bước lên trên chiếu, chân có vẻ hơi hơi căng cứng, tựa hồ như lúc nào cũng có thể nhảy vọt lên. Nhâm Nhược Tích không khỏi khe khẽ phòng bị, khóe miệng vểnh lên: 

- Ngươi là ai?

Nón trúc tre hết mặt, chỉ nhìn thấy miệng, khóe miệng của hắn cũng giống nàng hơi hơi vểnh lên, thoạt nhìn thực là đáng ghét: 

- Thân phận của ta ra sao, Nhâm cô nương không ngại thử đoán xem sao.

- Đáng ghét, bổn cô nương là người nhàn rỗi vô vị, có thời gian tiêu khiển với ngươi sao? Đuổi hắn ra ngoài.

Nhâm Nhược Tích vỗ bàn hét lớn, hai gia tướng đứng ở cửa lập tức vây hắn lại.

Nam tử tre nón trúc chỉ cười nhẹ nhàng, chế giễu nói:

- Đây chính là bổn ý của cô nương sao? Nếu không biết được thân phận lai lịch cùng với mục đích của ta, chỉ sợ cho dù ta có muốn đi, cô nương ngươi chưa chắc đã chịu.

- Ngươi..., - Nhâm Nhược Tích vừa tức vừa giận, nhưng người này cứ cố ý nói trúng tâm sự trong lòng nàng, nàng vốn từ trước đến giờ luôn xử sự bình tĩnh và nhất thời cũng tức giận tới mức trong lòng hỗn loạn, không biết phải xử trí thế nào với người này cho tốt.

Đúng lúc này, ngoài cửa phía bên phải truyền đến một tiếng cười 'hi hi' khe khẽ, người đội nón hơi hơi nghiêng đầu liếc mắt một cái, Nhâm Nhược Tích nặng nề hừ lạnh một tiếng, nói:

- Nói đi, mục đích của ngươi rốt cuộc là gì? Cái gì mà một trăm xe hàng hóa?

Người nọ cười nói:

- Cô nương không xem lễ vật của ta trước sao? Cứ để cho ta đứng mà cầm như thế này, hình như không giống đạo đãi khách.

Nhâm Nhược Tích nuốt một bụng tức cả giận:

- Đa tạ khách quý hậu lễ, Thái Thành.

Một gia tướng nghe tiếng đi lên phòng, tiếp nhận tráp từ tay người nọ, kiểm tra sơ lược, sau đó nâng lên trước mặt Nhâm Nhược Tích, nhẹ nhàng hé mở nắp hộp.

- Mời ngồi, pha trà!

Nhâm Nhược Tích nói xong, ánh mắt lướt nhìn vào trong hộp, lúc nàng nhìn thấy đồ vật trong hộp, không khỏi hơi hơi ngẩn ra. Người nọ đã nói vật ấy cũng không quý trọng, cũng lường trước được đó là vật bình thường hiếm thấy, chính là vật trong hộp nằm ngoài sự tưởng tượng của nàng, nhất thời cũng nghĩ không ra đồ vật đó dùng để làm gì.

Người nọ ngông nghênh ngồi ở đối diện, trên đầu vẫn đang đội mũ trúc, Nhâm Nhược Tích vẫn không nhìn rõ khuôn mặt của hắn, chỉ thấy người nọ cười khẽ nói: 

- Ta đã nói rồi, thứ này cũng không phải vật gì quý giá, chỉ là vật trên đời chưa từng có, cô nương tất nhiên chưa từng thấy qua, quả nhiên...

- Đây là cái gì?

Nhâm Nhược Tích bình tĩnh lại, chung quy cũng chỉ là một cô nương mười bảy tuổi, vẫn động lòng hiếu kỳ.

- Cái này gọi là bàn chải đánh răng, là một phát minh nho nhỏ của tại hạ, bàn chải đánh răng này, tên như ý nghĩa, chính là dùng để đánh răng. Cô nương lan tâm huệ chất, thông minh như băng tuyết, nghĩ rằng không cần tại hạ giải thích, vừa thấy cũng biết rằng thứ này so với dùng nhành dương liễu tiện hơn thế nào.

Nhâm Nhược Tích ánh mắt sáng lên, nhìn vật trong hộp, không khỏi gật đầu khen hay:

- Không tồi, đích xác là kỳ tư diệu tưởng, bàn chải đánh răng này của ngươi... Còn hơn cả minh châu mỹ ngọc, quả thực khiến người ta khó có thể cự tuyệt.

- Ha ha, tạ ơn cô nương tán thưởng, một lời của cô nương, giống như gió xuân lướt qua mặt. Cô nương thiên sắc quốc sắc, răng như hồ tê*, tại hạ tạo ra vật này, kỳ thật cũng chỉ là dệt hoa trên gấm thôi, bảo kiếm tặng anh hùng, phấn hồng tặng giai nhân, chính là việc quá ư bình thường.

(hồ tê: hạt bầu, màu trắng sáng lóa, hay được người ta phơi thẳng hàng ngay ngắn, nên dùng so sánh với răng)

Nhâm Nhược Tích nghe xong hai hàng lông mày không khỏi nhíu lại, người này nói chuyện từng chữ châu ngọc, rất nhiều từ ngữ chưa từng nghe thấy, lúc nghe được lại cảm thấy thập phần mỹ diệu. Nghe cách nói năng của hắn, lai lịch người này chắc chắn là bất phàm, nếu là du lịch bình thường, nàng thật không ngại bắt chuyện vài câu với nam tử giỏi ăn nói này, có điều hiện tại nàng đang gấp chuyện một trăm xe hàng hóa, thấy hắn cứ nói chuyện đông tây, không hề đề cập tới, trong lòng liền thiếu kiên nhẫn.

Nhâm Nhược Tích nhịn không được hỏi:

- Đồ vật này ta đã nhận rồi, không biết khách quý rốt cục là có thân phận gì, tới đây là vì cái gì, thỉnh khách quý nói rõ.

Người nọ ha hả cười nói:

- Cô nương gấp gáp như vậy, ta đây liền nói thẳng cho xong, tại hạ vô cùng hiếu kỳ, cô nương đi về hướng Tề quốc thăm người thân gặp bằng hữu, tế bái tổ tiên, không biết mang theo hơn trăm xe binh giáp lợi khí để dùng làm gì?

Nhâm Nhược Tích vừa nghe được, nhất thời kinh sợ toát mồ hôi lạnh. Nàng không chút nghĩ ngợi liền từ dưới bàn lấy ra một thành lợi kiếm (kiếm sắc), quát lên một tiếng, bàn tay mềm mại đẩy bàn ra, nhảy lên không đâm tới hắn.

"Keng" một tiếng, đao kiếm tương giao, hoa lửa văng khắp nơi. Hán tử tay không kia đương nhiên đã sớm chuẩn bị, đã dự đoán lời này vừa nói ra nàng tất nhiên sẽ phản ứng kịch liệt, khi mũi kiếm đâm tới, người đó vốn đang ngồi ngay ngắn bất động, liền giơ tay lên, không biết từ chỗ nào lấy ra một thanh đao dài cỡ một thước, lập tức đánh lên mũi kiếm của nàng.

Đao kiếm tương giao, Nhâm Nhược Tích hạ xuống đất lăn một vòng, hai tay đẩy xuống đất, thoáng cái bật lên, mũi kiếm vù vù, lại lần nữa tập kích về phía người nọ, đồng thời quát to: 

- Bắt lấy hắn, tuyệt đối không thể để hắn chạy thoát!

Nhâm Nhược Tích vốn không phải người thiếu kiên nhẫn như vậy, nhưng mà lần làm sinh ý lần này của nàng thực sự là rất quan trọng. Đây là biện pháp mà Nhâm thị bất đắc dĩ phải chọn dùng để trao đổi con đường sống với các quốc gia khác, tin tức một khi bị tiết lộ, đó ngay lập tức là họa sát thân.

Toàn bộ Nhâm Thị gia tộc mấy trăm miệng người, thậm chí Nhâm gia sơn trang mấy ngàn hộ chỉ sợ đều phải chết oan uổng, đối phương nếu đã biết chuyện này, thì cho dù thế nào cũng không thể để hắn còn sống ra khỏi Nhâm gia trang viện, nếu không ngay cả lấy một nắm tiền dày bịt kín miệng hắn, ai biết sau này hắn có nói ra hay không, việc này không phải sẽ treo một thanh đao nhọn trên đầu tộc nhân Nhâm Thị hay sao?

Khánh Kỵ trước tiên dùng từ ngữ khiến cho nàng thấp thỏm nóng nảy, sau đó lại đưa ra một kiện lễ vật làm tiêu tan sự chú ý của nàng, cuối cùng mới thình lình nói ra chuyện tình một trăm xe binh khí, ý đồ chính là làm cho nàng trước giận sau lại nguôi, rồi lại bất ngờ nghe thấy cơ mật, không thể vững vàng mà tự lòi đuôi. Hiện giờ thấy nàng kinh hãi như vậy, liền biết rằng mình đoán không sai, một câu này quả nhiên đã gạt được nàng lộ rõ bí mật lớn, vị Nhâm gia Đại tiểu thư này giả danh nghĩa về Tề thăm người thân, trên thực tế là buôn lậu vũ khí thôi.

Nhâm Nhược Tích ra lệnh một tiếng, cửa hông trái phải đồng loạt đẩy ra, hơn nữa cửa chính đằng trước không biết lúc nào đã vây lên một đám gia tướng, mỗi người đều như lang như hổ, tay cầm mâu dài đao ngắn, chợt xông tới hơn mười người.

Khánh Kỵ hạ mũ trúc xuống, thuận tay ném ra phía ngoài, nón trúc vẽ ra một đường cong phát ra tiếng gió vù vù, mặc dù bị các võ sĩ từ cửa bên trái và cửa chính đánh nát, nhưng cũng cản trở bọn họ một chút.

Khánh Kỵ nhân cơ hội rút ra Lỗ tước (đao con) nghênh đón chúng gia tướng xông vào từ cửa, đồng thời cao giọng quát:

- Nhâm cô nương, không hỏi cho rõ ta có đồng bạn bên ngoài hay không à?

Lời vừa ra khỏi miệng, Nhâm Nhược Tích trong lòng phát lạnh:

- Nguy rồi, hôm nay như thế nào lại thiếu kiên nhẫn như vậy?

Nàng vừa định hô to dừng tay, không ngờ muội muội của nàng cũng đã kêu lên trước:

- A! Là ngươi? Ai ai ai ai... ai da...

Nguyên lai đầu lĩnh của nhóm nhảy vào từ cửa bên phải là Nhâm Băng Nguyệt. Tiểu cô nương cũng khá dũng mãnh, một tay cầm khiên tròn nhỏ, một tay cầm một thanh Ngô qua sắc bén vô cùng, giống như một chú hổ con vọt vào, dũng cảm dẫn dầu, 'sát' về phía Khánh Kỵ.

Nhưng khi nàng thấy bộ dáng của Khánh Kỵ, trong lòng cả kinh, người này như thế nào lại giống công tử mà mình đã từng gặp qua trên đường? Lại nhìn lại, không phải chính là hắn đó sao?

Nhâm Băng Nguyệt bất ngờ thấy người quen biết, nhất thời không kịp suy nghĩ thông suốt lợi hại, theo bản năng liền dừng tay thu hồi binh khí, chính là bước chân của nàng thật sự là quá gấp, phòng trên vốn là rải chiếu, làm sao giữ được chân, vì thế làm rơi Ngô qua, kêu 'ai ai ai', trực tiếp ngã vào trong lòng Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ thấy vậy cũng không khách khí, mở rộng tay ôm vào, Nhâm Băng Nguyệt 'ai da' một tiếng thét chói tai, đã bị hắn rắn rắn chắc chắc ôm vào lồng ngực. Khánh Kỵ cười mỉm liền nâng Lỗ tước trong tay nhẹ nhàng đặt lên cái cổ trắng nõn mịn màng của nàng.

Nhâm Nhược Tích vừa thấy vậy, mặt lập tức méo xệnh. Mà nhóm người dữ dằn như lang như hổ lại ngây người, lúc này mới chưa được một hiệp, Nhị tiểu thư liền chủ động làm tù binh, như thế này thì đánh đấm kiểu gi?

Khánh Kỵ vô cùng bình tĩnh, dù bị vây vẫn ung dung mỉm cười nói:

- Ta có khiên thịt trong tay, ai dám qua đây?

Nhâm Băng Nguyệt nghe thấy lời này thì không khỏi ngạc nhiên hỏi:

- Ta chỉ nghe nói qua khiên gỗ, khiên da, khiên đằng (một loại cây), khiên đồng, khiên thịt là cái gì vậy?

Khánh Kỵ cười ha ha, tiểu cô nương này thực là khờ dại, hoàn toàn không hiểu sự đời, nghe nàng nói chuyện đúng là rất thú vị. Khánh Kỵ cúi đầu xuống vành tai trắng nõn, trong suốt đáng yêu của nàng nhẹ nhàng thổi một hơi, cười nói: 

- Khiên thịt của ta, không phải là ngươi sao?

Nhâm Băng Nguyệt tức giận, kêu lên:

- Tỷ tỷ, tặc tử này khinh bạc ta, tỷ mau giết hắn.

- Câm miệng cho ta!

Nhâm Nhược Tích la lên, váng đầu hoa mắt, nàng cũng đã bị tiểu muội não ngắn này làm cho tức đến phát điên lên mất.

Nhâm Băng Nguyệt kêu to, làm cho Khánh Kỵ có chút không biết nên khóc hay nên cười. Nàng rơi vào trong tay mình, thế mà vẫn không biết rằng tai vạ đến nơi, vừa mới thổi một hơi vào tai nàng, nàng đã căm giận bất bình, trên đời như thế nào lại có một tiểu nữ phú bà ngu ngốc một cách đáng yêu như vậy.

Muốn nói khinh bạc, hắc hắc, bàn tay to gắt gao ôm lấy ngực nàng mới đáng gọi là khinh bạc. Nhâm Băng Nguyệt mặc áo vạt quấn hoa lệ dệt bằng vải nước Lỗ, vạt áo quấn quanh, vật liệu may mỏng manh, y phục ngắn bị hắn siết chặt thân mình nên hở ra một lỗ nhỏ.

Từ bên trên nhìn xuống, trong áo một đôi nhũ phong tinh tế mới vừa phát dục ẩn ẩn trong mắt, xương quai xanh  tinh xảo nhỏ nhắn, lại có thêm vài phần phong vận mê người của nữ tử thành thục. Tuyệt vời nhất chính là, không hề có áo ngực, mà thời này làm gì đã có áo ngực, nụ phấn lúc ẩn lúc hiện làm cho con ngươi như ngưng lại, chính là phong cảnh nụ hoa đẹp nhất...

Tất cả mọi thứ đều lọt vào mắt Khánh Kỵ, Nhâm Băng Nguyệt hồn nhiên không biết thì không nói, vấn đề là bàn tay to của Khánh Kỵ cũng đặt trên ngực nàng, nàng cũng không ý thức được, ý thức của nàng về việc 'nam nữ thụ thụ bất thân' thật sự là rất đần độn. 

- Ngươi buông ra!

Nhâm Băng Nguyệt giận dữ kêu lên, ra sức giãy về phía trước, bộ ngực sữa kia trong tay Khánh Kỵ đương nhiên càng bị đè chắc hơn, Khánh Kỵ nở nụ cười nói: "Tốt!" Nói xong liền thả tay, Nhâm Băng Nguyệt vốn đang dùng hết khí lực toàn thân giãy dụa thoát ra ngoài liền kêu 'ai ai ai', chân không đứng vững được, lại bổ nhào vào ngực Thanh Vũ.

“Ha, cảm giác thật không tồi, một tay có thể nắm chắc, hơn nữa chạm vào rất tốt, mềm mại tinh tế, đủ tươi non, ôn hương nhuyễn ngọc đôi gò đứng thẳng còn chưa phát dục hết, ta vẫn là lần đầu tiên được chạm vào.”

Khánh Kỵ có chút hơi tiếc nuối, nhẹ nhàng vuốt ve ngón tay tựa hồ còn lưu lại hương thơm, tay thuận cầm đao cũng đã thu lại, cười nói:

- Nhâm đại tiểu thư, hiện tại có thể chứng minh thành ý của ta chưa?

Nhâm Nhược Tích lúc này cũng đã phản ứng trở lại, biết người này một mình vào cửa tất đã có chỗ dựa, bắt hắn một người chỉ sợ cũng chẳng ích gì, liền lạnh lùng quát:

- Tất cả lui xuống đi!

Gia tướng Nhâm phủ huấn luyện rất tốt, giống như một đội quân, đối với mệnh lệnh của chủ thượng chỉ biết phục tùng, cũng không hỏi nhiều 'Tại sao?'. Nhâm Nhược Tích ra lệnh một tiếng, những thanh trường mâu vốn chĩa vào Khánh Kỵ như con nhím đều thu lại, mười mấy tên gia tướng lập tức lui sạch sẽ.

Nhâm Băng Nguyệt ngạc nhiên nói với Khánh Kỵ:

- Này, ngươi không phải bổn cô nương tại bờ sông đã nhìn thấy...

- Ngươi cũng đi xuống cho ta!

Nhâm Nhược Tích mặt xanh lét hét lớn một tiếng, Nhâm Băng Nguyệt lập tức hết lời, bỏ trốn mất dạng.

Khánh Kỵ nhìn thấy thế thì bật cười, xoay người nói với Nhâm Nhược Tích:

- Cô nương xinh đẹp như hoa, cũng không nên thường xuyên tức giận như vậy, nếu không trên mặt sẽ có nếp nhăn đấy.

Nhâm Nhược Tích không để ý tới hắn đang trêu đùa, mà chỉ đần mặt ra nhìn hắn. Lúc này nàng đương nhiên đã nhận ra người trước mặt này chính là người đã cùng nàng đọ mâu pháp ở phía sau viện, như vậy nói cách khác... Hắn chính là công tử Khánh Kỵ.

Lúc ấy cách khá xa, nhìn còn không rõ cho lắm, giờ phút này mới nhìn rõ ràng dung mạo của hắn, ngũ quan tuấn tú, vẻ ngoài lịch sự, ánh mắt có khí tức hào hiệp, nhìn dáng vẻ của hắn, giống như luôn luôn có ánh sáng mặt trời chiếu lên người, vô luận ăn mặc kiểu gì, vô luận trong hoàn cảnh nào, trên người hắn cũng không che dấu được ánh hào quang.

Nhâm Nhược Tích thầm hít một hơi thật sâu, xoay người quay về bàn. Cách ăn mặc của nàng không hoa lệ như Băng Nguyệt, mặc một bộ quần áo trắng thuần, chỉ có cổ tay áo có hoa văn xinh đẹp, nhưng ăn mặc như thế này càng tôn lên dáng điệu uyển chuyển, cử chỉ tao nhã của nàng.

Hai chân của nàng giấu đi dưới y phục, khi đi lại giống như lướt trên mặt nước, dáng đi phong vận giống như khinh vân tế nguyệt , dáng vẻ thùy mị, khó có thể nói nên lời. Vạt áo phía sau ôm trọn kiều đồn, làm hiện ra tất cả các đường cong hoàn mỹ của đồn bộ vểnh lên, lúc lắc lư lay động, ý nhị mười phần. 

Khánh Kỵ còn chưa xem đủ, cô nương đã quay người lại, vạt áo nhẹ bay, nhẹ nhàng ngồi xuống, tao nhã như nước chảy mây trôi, làm cho Khánh Kỵ không khỏi thầm khen một tiếng: "Đẹp quá!"

Nhâm Nhược Tích không biết Khánh Kỵ tới đây có mục đích gì, trong lòng thực rất lo sợ bất an, sau khi nàng an vị, mạnh mẽ ráng sức tỏ thái độ bình tĩnh, thản nhiên nói:

- Khánh Kỵ công tử, mời ngồi.

Khánh Kỵ cười ngồi xuống, Nhâm Nhược Tích liếc mắt nhìn hắn một cái, nói: 

- Công tử thân phận tôn quý, chỉ cần nói ra thân phận, Nhược Tích sẽ ra trước cửa nghênh tiếp, làm sao phải dùng thủ đoạn để gặp lại?

Khánh Kỵ cười ha hả, nói:

- Nếu là Khánh Kỵ biểu lộ thân phận, chỉ sợ người nhà sau khi tiến vào một lúc, tất sẽ báo lại cho ta biết, cô nương ngươi 'Không có ở trong phủ' đúng không?

Nhâm Nhược Tích hai má hơi hơi ửng hồng, vẻ mặt lại không có vẻ hờn giận, nàng hơi hạ mi mắt, nhẹ nhàng thở dài một tiếng, yếu ớt nói:

- Công tử là hậu duệ của Ngô quốc Đại vương, đương nhiên biết Nhâm Thị mặc dù xưng là danh gia vọng tộc, nhưng ở trong mắt Quân Vương, tóm lại chỉ là một dúm tiểu dân, bên trong có nỗi khổ, mong rằng công tử khoan dung độ lượng.

Khánh Kỵ dùng thủ đoạn như vậy đến nhà viếng thăm, đương nhiên không chỉ vì muốn giải vây cho Nhâm gia. Nhâm gia có tài phú cùng nhân lực vật lực khổng lồ, nếu có thể có được sự tương trợ của bọn họ, đối với việc chính mình chinh phạt Hạp Lư giành lại Ngô quốc rất có ích, đây mới là mục đích chủ yếu của hắn khi tới đây.

Hắn cũng không biết Nhâm Thị bởi vì một đám hỏi chưa công khai mà khiến cho Ngô Vương Hạp Lư đương nhiệm luôn ngờ vực vô căn cứ, nhưng mà hắn biết thế gia vọng tộc, hết thảy hành động ai cũng lấy lợi ích của gia tộc làm trọng. Hiện giờ Hạp Lư mới là kẻ đứng đầu Ngô quốc, hắn lại chỉ là một công tử lưu lạc nước ngoài, giúp Nhâm gia một lần, liền muốn Nhâm gia vì hắn dốc sức, đó là chuyện không có khả năng.

Cho dù hắn có cứu Nhâm Thị gia chủ một mạng, chỉ cần phán đoán hắn khó có thể làm nên việc, như vậy Nhâm Thị gia chủ Nhâm Tử Anh có lẽ thà rằng đem mạng trả lại cho hắn, cũng quyết không khinh suất mà đem toàn bộ gia tộc buộc vào chiến xa của hắn khiến cho toàn tộc chịu vận mệnh đồ sát.

Nhưng mà làm thế này bởi vì, nếu không thử thì vĩnh viễn sẽ không có cơ hội. Hiện tại làm một ít tiếp xúc tốt đẹp, như vậy khi chính mình có thể phản công lại Ngô quốc, vào thời điểm các đại tộc Ngô quốc phải vì vận mệnh của toàn gia mà đưa ra lựa chọn, chính mình có thể trở thành mục tiêu mà đại gia tộc Nhâm Thị lựa chọn.

Trước mắt Nhâm gia trưởng nữ Nhược Tích mà nói, nàng không thể kết luận được tương lai Khánh Kỵ chắc chắn có cơ hội đoạt lại Ngô quốc hay không. Là đại biểu của một đại gia tộc trong Ngô quốc, nàng hiện tại đương nhiên không dám tiếp xúc cùng Khánh Kỵ, lại cũng không dám quá mức xa lánh hắn.

Là người của một đại gia tộc, vì sự phát triển của gia tộc luôn phải tận dụng hết khả năng để kết giao bằng hữu, chứ không thể tùy tiện đắc tội với một thế lực cường đại, cho dù hắn mới chỉ là một người mà tương lai có thể có được thế lực cường đại. Nhâm Nhược Tích có nỗi khổ trong lòng, hiện tại Nhâm gia của nàng đang ở trong tình cảnh khó xử, đứng giữa hai thế lực cường đại là Ngô Vương đương nhiệm và người cạnh tranh với Ngô Vương, việc đó Khánh Kỵ đương nhiên là hiểu được.

Hắn cười cười, nói:

- Ta đương nhiên hiểu rõ nỗi khổ của cô nương, cho nên mới giả trang thành bộ dáng thế này tới thăm nhà. Về phía ta, buổi gặp hôm nay quyết sẽ không tiết lộ ra một câu một chữ, hôm nay ta đến, cũng không phải du thuyết cô nương sẵn sàng góp sức giúp đỡ ta, chỉ cần gia tướng của quý phủ cũng đều trung thành với chủ nhân, thì sẽ không có trở ngại gì.

Nhâm Nhược Tích thở ra một hơi, nhất thời yên lòng. Nàng bán vũ khí cho nước ngoài, là vi phạm nghiêm trọng lệnh cấm của Ngô Vương, cho nên những gia tướng mang theo đều là những con cháu cực kỳ trung thành với Nhâm Thị gia tộc, những người này đều từ nhỏ lớn lên tại Nhâm Thị, bậc cha chú, tổ tông cũng đều là thành viên Nhâm Thị, sẽ không thể xuất hiện gian tế, điều này có thể yên tâm.

- Khánh Kỵ công tử nói như vậy, Nhược Tích yên tâm rồi. Chỉ không biết... Khánh Kỵ công tử hôm nay tới nhà, rốt cuộc là có chuyện gì? - Nhâm Nhược Tích đem một đôi mắt đẹp tập trung vào khuôn mặt Khánh Kỵ, không bỏ qua một chút biến hóa nhỏ nào trên khuôn mặt hắn.

Khánh Kỵ nhướng mày, nói:

- Đương nhiên là vì một trăm xe vũ khí của tôn phủ mà đến.

Nhâm Nhược Tích sắc mặt hơi căng thẳng, còn chưa đợi nàng nói, Khánh Kỵ đã cười nói tiếp:

- Yên tâm, không phải là ta có chủ ý với binh khí của ngươi, mà là lại có kẻ khác. Nhược Tích cô nương, ta sau khi ở nhờ Thành phủ, cùng Bạch phủ cách vách có phát sinh xung đột...

Khánh Kỵ đem hoài nghi của hắn cùng những việc phát sinh sau đó hết thảy nói ra cho Nhâm Nhược Tích, cuối cùng nói:

- Không thể tưởng được, bọn chúng đích thực là có ý đồ xấu, có điều mục đích không phải là ta, mà là ngươi. Đại khái là ta đột nhiên tới, ở bên cạnh chỗ của ngươi, bên người lại mang theo rất nhiều giáp sĩ, những kẻ đó lo lắng ta sẽ làm hỏng chuyện tốt của bọn chúng, cho nên mới hết lần này tới lần khác quấy rầy, muốn đuổi chúng ta đi... Cho tới bây giờ, ta cũng chưa biết thân phận của bọn chúng.

Nhâm Nhược Tích nghe hắn giải thích, thần sắc không ngừng biến đổi, chờ hắn nói xong, Nhâm Nhược Tích buông lông mi lâm vào trầm tư, Khánh Kỵ cũng không nói gì, chỉ lẳng lặng nhìn nàng.

Ánh mặt trời ngoài cửa chiếu thẳng vào, chiếu lên chiếu trúc màu hoàng kim, lại làm nổi bật lên làn da sáng như ngọc của nữ tử này, đột nhiên trở nên sáng bóng lấp lánh, quốc sắc thiên hương, cũng không ngoài thế này.

Khánh Kỵ vẫn cảm thấy rằng Hán phục đúng là y phục đẹp nhất trong tất cả các loại y phục, lúc này nhìn Nhâm Nhược Tích, hắn càng cảm thấy áo dài vạt cong chính là Hán phục đẹp nhất trong các loại Hán phục. Nó không diễm lệ như trang phục đương đại, không hoa mỹ như trang phục nhà Tống, nhưng mà lại khiến cho vẻ đẹp nữ tính cổ điển, hàm súc, nhẹ nhàng, phiêu dật của Phương Đông được thể hiện ra vô cùng tinh tế.

Khánh Kỵ đang thưởng thức vẻ đẹp của nàng, Nhâm Nhược Tích trầm tư chốc lát, bỗng nhiên bức tượng ngọc mỹ nhân trở nên sống động, con ngươi lưu chuyển, ánh mắt lộ ra vẻ sáng tỏ:

- Ta nghĩ... Ta vốn đã biết bọn họ là ai.

Nhâm Nhược Tích nói xong ánh mắt vừa ngước lên, đúng lúc nhìn thấy ánh mắt chưa kịp thu hồi của Khánh Kỵ đang nhìn lại. Mắt thấy ánh mắt làm càn lớn mật của hắn đang dò dẫm trên người mình, khuôn mặt Nhâm Nhược Tích không khỏi nóng lên.

Khánh Kỵ không kịp thu ánh mắt lại, bị người ta nhìn thấy được, trên mặt cũng hơi đỏ lên, vội vàng tiếp nhận đề tài, hỏi nàng:

- Cô nương vốn đã biết là ai?

Nhâm Nhược Tích "Ừm" một tiếng, ánh mắt hơi hơi tránh đi, nói:

- Nhược Tích tuy chỉ mang theo bốn trăm gia tướng, nhưng mỗi người đều dũng mãnh thiện chiến, ngay cả là lén lút ăn cướp, trong Lỗ quốc có năng lực này, cũng cùng lắm chỉ có hai thế lực là có thể. Một là quân đội lỗ quốc, quân chính quy làm cướp là chuyện không phải không có khả năng, nhưng ta... có điều lại không đoán như vậy.

Khánh Kỵ ánh mắt chợt lóe, mỉm cười nói:

- Nói như vậy, người giao dịch cùng cô nương, nhất định là tướng lãnh trong quân đội Lỗ quốc, hoặc là người nắm giữ binh quyền Lỗ quốc.

Nhâm Nhược Tích mới nói có một nửa, đúng lúc khép miệng vào rồi mà vẫn bị hắn đoán ra, cảm thấy càng phải cẩn thận hơn:

- Mà một cỗ thế lực khác, chính là đạo tặc Triển Chích, Nhược Tích nghĩ trong tất cả đạo tặc Lỗ quốc, chỉ có Triển Chích mới có thực lực như vậy.

- Đạo tặc Triển Chích!

Khánh Kỵ lặp lại câu này, đây là lần thứ hai nghe thấy danh tự của người này, Khánh Kỵ không khỏi âm thầm suy nghĩ: "Triển Chích tại Lỗ quốc thật sự có thế lực cường đại như vậy sao?"

Nhâm Nhược Tích nói:

- Triển Chích có thực lực này, và cũng có lý do. Trước mắt, thế lực của hắn càng ngày càng lớn, lại khổ nỗi trang bị thô sơ, không ít kẻ dưới tay còn sử dụng gậy gỗ bình thường, giáp trụ cung nỏ lại càng ít, cho nên nhu cầu vũ khí cấp bách. Theo Nhược Tích đoán, đánh vào kinh doanh vũ khí của ta nhất định là Triển Chích, trừ người này không còn ai khác.

Khánh Kỵ mỉm cười nói:

- Triển Chích này cũng đã từng có 'lễ' với ta, hôm nay hắn đoạt vũ khí của ngươi, ngày sau cũng sẽ có dũng khí tới gây phiền toái cho ta, không bằng ta cùng với cô nương liên thủ làm giảm nhuệ khí của hắn, Nhược Tích cô nương nghĩ như thế nào?

Nhâm Nhược Tích vừa nghe thấy thế thì lập tức liền muốn cự tuyệt, nếu cùng Khánh Kỵ liên thủ chống địch, Ngô quốc kia nàng cũng không chắc đã còn đường về, lập tức thông tri cho phụ thân bỏ nhà mà chạy trối chết đi thôi, Hạp Lư không lập tức động thủ mới là lạ.

Khánh Kỵ bổ sung thêm:

- Cô nương sao không nghe kế hoạch của ta một chút, tin tưởng rằng chỉ cần bố trí khéo léo, chẳng những sẽ không bại lộ sự thực là ta cùng ngươi liên thủ, hơn nữa... Ngay cả tin tức ngươi vận chuyển hơn trăm xe vũ khí cũng có thể che lấp đi.

Nhâm Nhược Tích thầm nghĩ:

- Khánh Kỵ nóng lòng tương trợ như vậy, xem ra đúng là đã hạ quyết tâm muốn ta phải nợ hắn một cái nhân tình, cũng thế thôi, hôm nay hắn đã giấu không truyền tin tức ra, dĩ nhiên là đã thiếu hắn một cái nhân tình, nếu thiếu thêm một hai cái nữa cũng có sao? Chẳng qua... Nếu hắn muốn Nhâm gia làm nội ứng cho hắn, hoặc là cung ứng cho hắn bôn tẩu, còn là do phụ thân ra quyết định cuối cùng, đừng mơ tưởng rằng ta sẽ đáp ứng một chữ.

Nhâm Nhược Tích quyết định xong chủ ý, liền nói:

- Không biết công tử có diệu kế gì?

Khánh Kỵ nói ra ý tưởng của hắn, Nhâm Nhược Tích nghe hắn nói, không hiểu sao lại mang tất cả mọi chuyện đặt lên đầu hắn, mỉm cười cảm thấy bất an nói:

- Việc này vốn toàn bộ không can hệ với công tử, công tử giúp ta như vậy...

Khánh Kỵ ngắt lời cười nói:

- Cô nương nói lời này sai rồi, ta giúp cô nương, đó là tự giúp mình. Ta đã nói rồi, ta cùng với Triển Chích sớm đã có 'lễ' với nhau, thế lực của hắn càng cường đại, đối với ta càng thêm bất lợi. Ta cứu cô nương, đó là tự cứu mình. Huống chi... Có thể làm hộ hoa sứ giả của ngươi,vốn đúng là một chuyện vô cùng vui vẻ.

Nhâm Nhược Tích con ngươi sáng lên, hơi hơi vuốt cằm nói:

- Nếu như vậy... không bằng công tử cứ an bài, Nhược Tích theo công tử 'Thiên Lôi sai đâu đánh đó'.

- Tốt, như vậy ta xin cáo từ, ngươi và ta cứ y kế mà hành sự là được. - Khánh Kỵ cười đứng dậy, hơi hơi chắp tay.

Nhâm Nhược Tích đứng dậy ra tiễn, đi xuống dưới sân, mới thấp giọng nói:

- Khánh Kỵ công tử, việc trong Ngô quốc, như thế nào không cầu Quý Tử tương trợ.

- Diên Lăng Quý Tử...

Khánh Kỵ đột nhiên xuất thần, cười mà lắc đầu: 

- Quý Tử là đại hiền đương đại, chăm sóc dân sinh, danh lợi với hắn chỉ là phù vân (mây trôi), điều cầu mong chỉ là giang sơn Ngô Thị vĩnh viễn kế tục, hương khói truyền thừa, dân chúng an cư lạc nghiệp mà thôi. Hiện giờ Hạp Lư đã là chủ Ngô quốc, chỉ sợ Quý Tử thà rằng đã sai rồi thì cho sai luôn, chứ không hy vọng lại khởi việc binh đao, ta đi tìm hắn, không phải tự chuốc lấy bẽ mặt sao?

- Đã sai rồi thì cho sai luôn...

Nhâm Nhược Tích thưởng thức một hồi, nói:

- Nhưng mà nếu nhất định phải khởi khói lửa, Quý Tử chung quy vẫn không thể ngồi yên không màng tới, khi đó lòng hắn hướng về ai, kẻ đó sẽ có trợ lực to lớn. Công tử ở Vệ quốc chắc là không biết chuyện trong nước. Sau khi Tiên Vương gặp chuyện, Quý Tử đã về nước, khóc nức nở trước mộ Tiên Vương, sau đó trở về đất phong Diên Lăng, xây thành đào sông, gọi là 'Yêm thành', phát ngôn ra ngoài là cả đời không bước một bước vào Ngô quốc.

Khánh Kỵ ngẩn ra:

- Có chuyện như vậy?

Hắn trầm ngâm một lát, trên mặt lộ ra vẻ tươi cười:

- Ta biết rồi, nhưng Quý Tử mặc dù căm phẫn hành vi cướp ngôi của Hạp Lư, cũng chắc gì đã chịu giúp ta phục quốc. Một ngày nào đó, phải cho Quý Tử biết, trận binh đao này là muốn tránh cũng không thể tránh được, ta Khánh Kỵ lại càng không dễ dàng có thể bị Hạp Lư khuất phục, khi đó... Hắn mới sẽ ra mặt. Mặc kệ như thế nào, đa tạ cô nương nhắc nhở, bản công tử xin cáo từ.

Khánh Kỵ phất áo thi lễ, ngang nhiên ra khỏi cổng chính Nhâm phủ. Nhâm Nhược Tích đứng ở sau cửa, nhìn địa phương mà hắn vừa mới biến mất thật lâu không nói gì. Nhâm Băng Nguyệt lấm la lấm lét tới phía sau nàng, gian xảo 'hề hề' cười nói:

- Tỷ, Khánh Kỵ công tử so với những công tử thế gia tỷ đã gặp qua thì như thế nào?

Nhâm Nhược Tích quay đầu lại, sắc mặt điềm đạm nguyên bản đã biến thành 'Hung thần ác sát', thái độ hung dữ quát:

- Ngươi còn dám nói, hôm nay thật sự là mất hết cả Nhâm gia thể diện...

Nhâm Băng Nguyệt sợ hãi, vội vàng giải thích:

- Không phải, ta cùng Thanh Vũ trên đường có gặp qua người này, mới vừa rồi lại thấy hắn là Khánh Kỵ, trong lòng ngạc nhiên, cho nên mới thất thủ...

Nhâm Băng Nguyệt vừa nói, một bên di chuyển bước chân như muốn chạy trốn, dời đi được năm sáu bước liền co chân bỏ chạy, Nhâm Nhược Tích ở phía sau kêu to: 

- Từ mai trở đi, theo ta tập võ, cùng làm kinh doanh, ngồi cùng chiếu, nằm cùng giường, đi cùng xe, không cho phép ngươi cả ngày chơi đùa, không làm việc đàng hoàng..., Này! Ngươi đứng lại đó cho ta...

o0o

Quý Tử, chính là chú của Khánh Kỵ, người này không chỉ ở Ngô quốc danh vọng cao tới mức cho dù là Quân Vương cũng khó mà với tới, mà còn có danh tiếng rất tốt ở các quốc gia chư hầu. Thành ngữ "Quý Trát treo kiếm" (1), chính là xuất phát từ vị Quý Tử này. Chớ thấy thời kỳ Xuân Thu việc hành thích vua đoạt vị ở các nước chư hầu xảy ra ầm ầm, nhưng mà người quân tử vẫn nhiều vô cùng. Chú của Khánh Kỵ cùng ba người anh em của ông cũng là bốn vị quân tử phóng túng.

Bốn vị quân tử này đều là con của Ngô Vương Thọ Mộng, huynh trưởng Chư Phàn, nhị ca Dư Sái, tam ca Dư Muội, Quý Trát nhỏ nhất, là tứ đệ của bọn họ. Đại vương Thọ Mộng trong số các con, thích nhất là tiểu nhi tử này, muốn truyền vương vị cho hắn. Đại ca Chư Phàn nhìn ra tâm ý của phụ thân, liền chủ động nhường ngôi vị Thái tử, Quý Trát không chịu nhận, vì để tránh cho phụ thân phế trưởng lập út, đã dứt khoát rời khỏi Ngô quốc.

Bất đắc dĩ, Chư Phàn sau khi phụ vương qua đời liền kế thừa vương vị, nhưng hắn cho rằng vương vị này vốn là thuộc về tứ đệ, vì thế sau khi mắc bệnh qua đời cũng không truyền ngôi cho con, mà sau khi hạ chiếu tuyên Quý Trát về nước không có kết quả, liền đem vương vị truyền cho nhị đệ Dư Sái, mục đích đương nhiên là hy vọng có một ngày em út của mình sẽ kế vị.

Mấy vị huynh trưởng của Quý Trát đều là quân tử, đáng tiếc là không trường thọ, Dư Sái không lâu sau thì nhiễm bệnh không chữa được, sau khi lâm chung lại truyền vương vị cho tam đệ Dư Muội, sau đó vài năm Dư Muội lại sinh bệnh nặng, trong lúc thập tử nhất sinh hết sức phái người đi tìm tứ đệ, vốn nghĩ lúc này hắn tóm lại là cũng sẽ về nước, không ngờ Quý Trát căn bản là không có ý muốn vương vị, nói thế nào cũng không trở lại, rơi vào đường cùng, Dư Muội đành phải đem vương vị truyền cho con trai Cơ Liêu, cũng chính là phụ thân của Khánh Kỵ.

Công tử Quang là con của lão đại Chư Phàn trong bốn vị huynh đệ, hắn cảm thấy tứ thúc không chịu về nước, tam thúc đáng ra phải trả vương vị về cho con của huynh trưởng, cũng chính là hắn, bởi vậy tức giận bất bình, lúc này mới dùng thích khách giết vua Liêu, dùng vũ lực cướp vương vị.

Quý Trát không chỉ uy vọng tại Ngô quốc rất lớn, trong các nước chư hầu cũng có tiếng hiền đức. Công tử Quang tuy rằng là cướp được ngôi vua, lại chỉ kiêng kị mỗi vị vương thúc này, nếu hắn ra mặt can thiệp, với uy vọng của hắn, tự biết rằng vị trí Đại vương Ngô quốc này chung quy lại là vẫn không ngồi được.

May mắn Ngũ Tử Tư lại nghĩ ra một kế, sau khi Quý Trát nghe được tin về nước, liền sai người đi xung quanh tung tin tức, nói Hạp Lư có chí nhất định phải đoạt vương vị, nếu Quý Tử sau khi về nước can dự, đòi trả lại vương vị cho con của Vương Liêu, sẽ không tránh được một trận đại chiến, khiến cho dân chúng lầm than. Trừ phi, Quý Tử chịu tự mình ngồi lên vương vị.

Chính là cái gọi là 'quân tử không tự dối lòng mình' (1), tự Quý Tử đã không hứng thú với vương vị, hắn lại từ trước tới nay yêu quý bách tính thường dân, sau khi về nước đối mặt với sự đã rồi, vì sự ổn định của Ngô quốc, chung quy cũng không làm ra hành động gì, chỉ ở trước mộ phần của Vương Liêu khóc rống một hồi, rồi quay trở về đất phong của hắn, thề cả đời không nhìn mặt Hạp Lư.

Thử nghĩ một người như vậy, Khánh Kỵ cho dù đi gặp hắn, hắn lại chịu giúp hắn chiêu binh mãi mã, dùng vũ lực đoạt lại vương vị? Khánh Kỵ cũng đã nghĩ thông suốt điểm này, cho nên ít nhất là trước mắt hắn cũng quyết không đi gặp Vương thúc Quý Trát này.

Triển đại phu cùng Khổng phu tử tới chiều mới trở về, hai người được vị lão bằng hữu chiêu đãi, uống tới mức vẻ mặt đã ngà ngà say, Khánh Kỵ đón bọn họ trở về phòng, ba người uống trà đàm luận, đợi Khánh Kỵ vừa đi, hai người liền kê cao gối mà ngủ không dậy nổi, tới cơm chiều cũng không muốn ăn.

Mặt trời chiều ngả về tây, ráng hồng đầy trời. Thành phủ dấy lên khói bếp, Khải Khiếu từ trong giếng lấy đầy gánh nước, rồi đưa vào nhà bếp, Xạ Lễ đang ở ngoài nhà bếp đốn củi, ánh mắt hơi hơi liếc qua nhìn hắn một cái, không lên tiếng chào hỏi. Sau khi tiến vào nhà bếp, Đại Lương đang ở trong nhà bếp nấu ăn vội vàng mở nắp một cái vại, Khải Khiếu đưa nước rót vào trong vại, không thấy có người phát hiện liền nhẹ nhàng gật gật đầu, khóe miệng Đại Lương lộ ra một nụ cười quỷ quyệt...

an đêm, Khánh Kỵ chiếu theo quy củ quân đội tuần tra một vòng quanh trang viện, sau đó trở lại sau trạch.

Đây là một buổi đêm yên tĩnh xinh đẹp, ánh trăng sáng tỏ trên không trung, những hoa văn mỹ lệ trên bề mặt đều nhìn thấy được rõ, con dế mèn trong bụi cỏ xướng ca không biết mệt mỏi, tia sáng nhàn nhạt chiếu lên mặt đất, giống như một tầng sương mù là là mặt đất.

Cái khô nóng của ban ngày bị gió đêm thổi đi, khiến cho người ta nhẹ nhàng khoan khoái, có vài người cũng đã đi ngủ trước, trong trang viên chỉ còn một vài ngọn đèn dầu đang sáng, Khánh Kỵ thân mặc giáp trụ trở về sau trạch, vẫn chưa vội vã về phòng cởi bỏ áo giáp nghỉ ngơi, hắn ngồi ở chòi hóng mát, Bạch Ny bưng lên rượu gạo lót dạ, Khánh Kỵ tự rót tự uống, lại ăn thêm một ít đồ ăn khuya.

Đúng lúc này, bên kia tường có tiếng đàn êm ả lượn lờ truyền tới, khi thì yếu ớt như tơ, khi thì biến ảo như ẩn như hiện, tiếng đàn cổ xưa êm tai giống như âm thanh của tự nhiên khiến cho mọi mệt mỏi phiền toái trong lòng người ta trở thành hư không. Khánh Kỵ buông chén lẳng lặng lắng nghe, chút sau, trong tiếng đàn một giọng nữ hát lên êm dịu tao nhã như tiếng sáo, cùng tiếng đàn kia hòa hợp thành một khối, làm cho người ta nghe không ra được là tiếng đàn trợ nền cho tiếng hát, hay là tiếng hát trợ tiếng đàn.

- Người là ai mà như gió thoảng...

Khánh Kỵ uống rượu một mình dưới ánh trăng, khóe miệng hơi hơi mỉm cười: 

- ‘Người là ai mà như gió thoảng’... Có một người như vậy, chung quy lại vẫn vương vấn trong đầu ta, giống như gió thổi bồng bềnh, lại khiến lòng ta hỗn loạn... Không biết trong lòng Nhâm tiểu thư, nam hài giống như gió thoảng đó là ai nhỉ?

Hắn ngửa đầu uống, lại rót thêm một chén rượu nữa.

Ở Bạch phủ bên cạnh, một gã đạo tặc đang quỳ sụp xuống đất, Triển Chích dẫm lên lưng hắn rình động tĩnh bên Thành phủ. Triển Chích ló đầu qua tường nghe ngóng tiếng động ở hậu viện, con mắt loạn chuyển nhanh như chớp. Từ trên tường xuống, lẳng lặng ra lệnh cho hơn mười kẻ hầu cận cùng các thủ lĩnh đạo tặc đứng thành hàng, kiếm kích san sát, uy nghiêm sừng sững dưới ánh trăng.

Khánh Kỵ nghe hát, bỗng nhiên "leng keng" một tiếng rút ra bảo kiếm trong bao, liền múa kiếm theo tiếng ca dưới ánh trăng...

- Chàng là ai mà như gió thoảng? Sao không tới Bắc? Sao không tới Nam? Lại tới nước Lương ta, làm rối lòng ta..., - Bàn tay Khánh Kỵ múa kiếm mềm mại nhưng lại có khí thế như rồng, theo tiếng ca nọ, kiếm quang bay lượn, phát ra tiếng gió 'vu vu'.

Một khúc ca đã ngừng, nhưng dư âm vẫn quanh quẩn đâu đây, trường kiếm của Khánh Kỵ cầm trước ngực, nhắm mắt đứng đó chốc lát, đột nhiên trường kiếm trong tay rung rung hướng lên trời, mãnh liệt như rồng.

Khánh Kỵ tay múa kiếm, yết hầu cũng lớn tiếng hát lên:

- Ném cho ta đu đủ, ta sẽ báo ngọc cư. Vĩnh viễn cùng nhau hòa hợp! Ném cho ta trái đào, ta sẽ báo ngọc dao. Vĩnh viễn cùng nhau hòa hợp! Ném cho ta trái mận, ta sẽ báo ngọc cửu. Vĩnh viễn cùng nhau hòa hợp...

Triển Chích nhảy từ trên tường xuống, hung tợn mắng một câu:

- Ta... Nhổ vào! Gian phu dâm phụ!

Một đám đại hán hung ác cầm kiếm sáng loáng đã vây quanh hắn, nhất tề chắp tay, thấp giọng nói:

- Chủ thượng!

Triển Chích đảo mắt qua, lạnh lùng hỏi:

- Bọn Xạ Lễ, Khải Khiếu đã chuẩn bị tốt cả chưa?

Một đại hán bẩm báo:

- Chủ thượng yên tâm, Đại Lương ba người bọn họ đầu nhập làm tân binh của Khánh Kỵ, nhận làm một vài công việc tạp vụ, không có ai hoài nghi, những tên lính kia đối với chuyện này chắc đã sớm coi như bình thường rồi.

Triển Chích nở nụ cười, vuốt cằm nói:

- Tốt, phân phó xuống dưới, kiên nhẫn chờ đợi tin tức, tín hiệu của bọn Xạ Lễ vừa tới, lập tức động thủ.

- Rõ!

Triển Chích vung tay lên, nhóm đạo tặc nhất tề ẩn vào bóng đêm. Triển Chích lạnh lùng cười, cũng hướng đi vào trong đình, phía sau, bốn gã lực sĩ đi theo sát sao, mỗi người khiêng một thanh chùy đồng rất nặng, đây là binh khí nặng dùng để phá tường.

Kế của Triển Chích đêm nay, chính là dùng thuốc mê. Lần này đến Tất Thành để cướp Nhâm phủ, hắn cũng không mang theo thứ này. Khánh Kỵ đột nhiên xuất hiện ở cạnh Nhâm phủ, quấy rầy an bài vốn có của hắn, một khi nửa đêm phát sinh đại chiến, hai trăm quân của Khánh Kỵ đầy đủ sức lực để tham chiến, đối với hành động của hắn có uy hiếp quá lớn. Mà những nhân thủ hắn triệu tập đều đã tới rồi, giờ lại điều động thêm tinh anh tới thì sợ thời gian đã không kịp nữa, cho nên bây giờ mới nghĩ ra biện pháp này.

Thủ hạ Lộc Khoách của Khánh Kỵ phụ trách giám sát đi theo bọn họ đến làng quê thôn xóm, nhìn thấy bọn họ vào một hộ y sư, kỳ thật đó chính là y sư cấu kết với bọn họ, tới chính là để lấy thuốc mê.

Lại nói về thuốc mê này, lúc ấy cũng đã có, chứ không phải là các tiểu thuyết gia bịa đặt ra. Thuốc này cũng không thần kỳ giống như trong truyền thuyết, không làm cho người uống phải bị hôn mê ngay tức khắc, đã thế tạt nước vào một cái là lập tức sẽ tỉnh lại. Có điều loại dược vật này thực sự là có thể làm cho người ta ngủ say.

Kỳ thật thuốc mê này cũng chính là cà độc dược, sử dụng một loại cỏ có tác dụng làm cho thần chí mê mẩn, tác dụng của nó được con người phát hiện ra, lập tức liền áp dụng ngay vào thực tiễn, người sử dụng ban đầu đương nhiên là những nhân vật hắc đạo. Về sau lại phát hiện ra nó cũng trọng dụng ở những khía cạnh khác, từ ban đầu là Biển Thước dùng thuốc mê áp dụng vào lâm sàng, sau đó Hoa Đà lại đem phát dương quang đại, các lương dân an phận mới phát hiện ra rằng nguyên lai thuốc mê cũng thực đáng yêu.

Triển Chích sai người mang thuốc này tới, muốn thần không biết quỷ không hay làm cho toàn bộ trên dưới Thành phủ đều bị hôn mê, sau đó chỉ cần phái sang vài người là có thể giết sạch cả Thành phủ, hắn sẽ cùng thủ hạ tiếp tục đại kế cướp bóc Nhâm phủ.

Bởi vì có người ăn trước có người ăn sau, Khải Khiếu Đại Lương sợ đánh rắn động cỏ, không dám hạ dược quá mạnh, gói dược thảo phải cẩn thận tính toán tẩm vào trong nước giếng, dược hiệu phát tác tương đối chậm chạp, cho nên lúc này bọn họ còn phải kiên nhẫn chờ đợi dược hiệu phát tác.

Rốt cục, từ Nhâm phủ cũng truyền tới động tĩnh, ở sân trước của Thành phủ có một ngọn đèn sáng lên, ngọn đèn dầu vẽ ra ba đường tròn, nhóm cướp đang lấp ló trên bờ tường phát hiện ra, liền lập tức châm một ngọn đuốc, ở trên tường cũng vẽ một vòng tròn. Một lát sau, ngọn đèn lồng kia liền rung rinh rồi vọt đến trước mặt, người cầm đèn lồng chính là người thợ thủ công giỏi sửa xe Đại Lương.

- Chủ thượng, chủ thượng?

Triển Chích áp tai vào tường, thấp giọng hỏi:

- Đại Lương, thế nào?

Đại Lương cười hắc hắc, nói:

- Chủ thượng yên tâm, đều đã ngủ giống như lợn chết hết rồi.

Triển Chích cười ha hả, nói:

- Tốt, lập tức động thủ! Mạc Phong, ngươi mang theo vài người sang Thành phủ...

Hắn vừa mới nói xong, Sở Tài cũng đã nhảy ra, hăng hái nói:

- Chủ thượng, cho ta tới Thành phủ đi.

Triển Chích chau mày: 

- Ngươi đi làm cái gì?

Sở Tài khảng khái dâng trào nói:

- Chủ thượng, mỗ cùng với Lý Huyền luôn luôn giao hảo. Lý Huyền chết thảm trong tay Khánh Kỵ, Sở Tài muốn đích thân moi tim Khánh Kỵ cùng Lương Hổ Tử kia, để tế linh hồn Lý Huyền trên trời. Hơn nữa... Kẻ hèn nhận ra được đại gia, sẽ không để cho các huynh đệ làm ngộ thương Triển đại gia.

Triển Chích trong lòng căm giận: "Sở Tài này thực sự khó thành người tài, đầu tiên là trầm mê nữ sắc, đã bị ta đánh mắng rồi mà còn không hối cải, hiện giờ không thấy còn lợi lộc gì, lại muốn chọn việc thoải mái vừa ý để làm, loại người thế này, lưu hắn lại làm gì?"

Triển Chích ngầm khởi sát tâm, có điều giờ phút này cần phải hành sự, không phải vội mà trảm hắn trước trận, hắn cười ha hả, vỗ vỗ vai Sở Tài nói:

- Tốt, vậy để ngươi dẫn người tới Thành phủ giết sạch từ trên xuống dưới cho ta. Mạc Phong, ngươi vẫn theo an bài lúc trước tới Nhâm phủ phóng hỏa. Cổ Quân Hải, ngươi vào cửa chính, Lưu Dục đánh nghi binh hai bên sườn, những người khác đi theo ta.

Các thủ lĩnh 'Rõ' một tiếng, soát lại người của đội mình, chỉ nghe thấy tiếng bước chân rầm rập rầm rập, mỗi nhóm đã chia ra mà đi.

Sở Tài được phân phó, lập tức vui vẻ chăm chăm mang theo hơn hai mươi tên đạo tặc trèo tường sang Thành phủ, lặng lẽ lẩn vào chỗ tối. Sở Tài làm sao mà không biết biểu hiện của hắn hôm nay sẽ làm cho Triển Chích bất mãn? Mặc dù hắn cũng không lường trước được Triển Chích lại động sát tâm, nhưng cũng biết rằng với lần biểu hiện này, từ nay về sau ở dưới tay Triển Chích sẽ khó được trọng dụng.

Mặc dù như thế, Sở Tài vẫn cứ tránh chiến mà cầu nhàn, toàn bộ nguyên nhân là bởi vì nếu bây giờ hắn có thể thành công, liền không cần để ý tới Triển Chích có trọng dụng hắn hay không. Sở Tài chủ động xin mang người sang Thành phủ thu dọn tàn cục, là có bốn mục đích: Một là để tránh sự nguy hiểm khi công kích mạnh mẽ Nhâm phủ, đao kiếm vô tình, tấn công một gia tộc vũ trang cường đại như Nhâm gia lại càng nguy hiểm, tránh được thì nên tránh;

Hai là vì tìm tài vật, Thành phủ chủ nhân mặc dù không ở chỗ này, nhưng là một đại phú ở Lỗ quốc, những thứ đáng giá trong Thành phủ hẳn là không ít, mượn gió bẻ măng kiếm về vài món, là đủ cho hắn tiêu dao vài năm; ba là nếu đã không thể nhắm được các mỹ tỳ của chị em Nhâm gia, trong Thành phủ mỹ tỳ vũ kỹ cũng không phải ít, không có cá cũng có vịt, tóm lại là có thể đoạt được.

(Mỹ tỳ: tỳ nữ xinh đẹp, vũ kỹ: vũ nữ thời xưa)

Điểm tối trọng yếu cuối cùng, là hắn muốn tự tay chặt đầu của Khánh Kỵ! 

Sở Tài không hề muốn cả đời làm cướp, hắn cũng không muốn giả dạng một kẻ xuất thân đứng đắn. Hắn đã nghe nói, Chuyên Chư đâm Vương Liêu, điều kiện Hạp Lư hứa cho hắn là một khi thành công, liền phong cho con hắn làm thượng khanh, hiện giờ quả nhiên đã thực hiện lời hứa. Trừ bỏ Vương Liêu thì Khánh Kỵ chính là đối thủ mà Hạp Lư kiêng kị nhất, nếu mình cầm đầu của hắn tới để xin gia nhập, cho dù không được phong khanh, kiểu gì cũng được phong làm tướng quân. Ý niệm này hiện lên trong đầu, hắn còn quản chuyện Triển Chích không vui hay sao.

Vào Thành phủ, Sở Tài liền bắt đầu áp dụng tính toán của mình, mắt thấy Xạ Lễ, Khải Khiếu và Đại Lương đi sát ngay phía sau, hắn không khỏi nhướng mày. Triển Chích tuy là đạo tặc, nhưng cai quản thủ hạ rất nghiêm, coi trọng 'đạo của đạo tặc, y như quân pháp'. Sở Tài nếu không chỉ muốn giết người mà còn muốn cướp tiền, Triển Chích chắc chắn sẽ không đồng ý. Ba người Xạ Lễ cũng không phải là thân tín của hắn, hơn nữa Xạ Lễ, Khải Khiếu có một thân lực lượng, nếu bọn họ ngăn cản, hoặc đi báo cho Triển Chích, thì muốn thu thập bọn họ cũng không dễ dàng.

Con ngươi Sở Tài đảo mấy vòng, rồi nói:

- Xạ Lễ, trong Thành phủ cũng phải có hơn trăm tên gia tướng, chúng ta ít người, vạn nhất có vài người dược lực ít tác dụng mà tỉnh sớm quá, sẽ gây nhiều bất lợi cho chúng ta, ngươi cùng Khải Khiếu dẫn người phân công nhau đi chém giết bọn chúng, Đại Lương dẫn ta ra sau trạch giết Khánh Kỵ.

Trong nhóm đạo tặc thì Sở Tài ở vị trí cao hơn ba người Xạ Lễ, nói như vậy cũng có lý, ba người đều đồng ý, lập tức Xạ Lễ, Khải Khiếu liền dẫn hơn mười tên đạo tặc tay cầm đoản đao trường kiếm sáng loáng đi khắp nơi trong nhà chém đầu giết người, Sở Tài vội vàng chạy theo hướng Đại Lương dẫn đi.

Dọc theo đường đi nương theo ánh trăng sáng ngời, ánh mắt của Sở Tài không ngừng tập trung vào sau gáy của Đại Lương. Những người tùy tùng bên cạnh đều là những thủ hạ xưa nay luôn ở bên hắn, hắn nếu muốn phản bội Triển Chích, lại lấy nữ tử tiền tài dụ bọn họ, bọn họ chắc chắn sẽ dốc hết sức đi theo, chỉ còn con quỷ bị bệnh lao Đại Lương, xem ra không thể thiếu một đao lấy mạng hắn được.

Đại Lương đối với tâm tư của Sở Tài hoàn toàn không biết, vẫn cẩn thận dẫn đường phía trước. Hắn chỉ đi qua có một lần, nhưng hắn vốn là một lão tặc thành tinh, cách bố cục kiến trúc của các nhà giàu thường thì giống nhau, chỉ cần nhìn qua vài lần, là có thể biết vị trí đại khái của phòng chủ nhân, khách quý. Hắn dẫn Sở Tài vào hậu viện, đi qua ao nước tiểu đình, mở một cánh cửa, sờ soạng xông vào.

Đây là một căn phòng hình vuông, chính là nơi tiếp đón khách quý thân thiết ở hậu viện, trái phải đều có hành lang, mỗi bên hướng tới một phòng ngủ. Mọi người trước tiên là thích ứng với tình hình trong phòng, Sở Tài thì thầm:

- Tách ra trái phải, phân công nhau tìm.

- Ha ha, làm sao phải vất vả như vậy, Khánh Kỵ đợi ngươi đã lâu.

Những lời này đột ngột vang lên, khiến cho Sở Tài kinh hãi tới mức nhảy dựng lên, chỉ nghe thấy 'xoạt xoạt xoạt' vài tiếng động rất nhỏ, ở phía trước mặt liền sáng lên vài đốm lửa, loáng thoáng nhìn thấy một vài khuôn mặt, sau đó một ngòi lửa châm lên, chợt lóe lên tia sáng đỏ, chỉ thấy Khánh Kỵ ngồi ngay ngắn ở sau bàn, trên bàn đặt một thanh trường kiếm. Khánh Kỵ cầm trong tay mồi lửa, vẫn ung dung thong thả châm đèn.

- Đại sự không ổn!

Đại Lương cùng Sở Tài đồng thời biến sắc, lập tức cảm thấy tình hình không ổn, quay người định đào tẩu, có điều vừa quay đầu lại thì thình lình, chỉ nghe thấy tiếng bước chân dồn dập, không biết từ đâu xuất hiện hơn mười võ sĩ, sát sao bảo vệ nơi cửa, những mũi nhọn sắc bén của trường mâu toàn bộ đều hướng vào trong phòng, chỉ cần đâm lên, lập tức sẽ khiến cho cơ thể bọn hắn bị thủng lỗ chỗ.

Khánh Kỵ châm xong ngọn đèn, liền chậm rãi cầm một cái chụp đèn trang trí tinh mỹ làm bằng lụa nước Lỗ úp lên trên, cùng lúc đó, hai bên hành lang đều dậy lên tiếng bước chân, mười mấy tên võ sĩ lao tới, trên tay mỗi người đều cầm trường mâu, chặn lại mọi con đường trên dưới trái phải mà bọn đạo tặc có thể trốn thoát.

A Cừu cùng Tái Cừu đội mũ mặc giáp, trong tay mang theo hai thanh đoản kích, đi ra đứng phía sau Khánh Kỵ. Hai tiểu thị nữ Bạch Ny cùng Di Vi mang theo đèn lồng, đi tới vách tường hai bên thắp sáng từng chiếc đèn dầu, nhất thời trong phòng trở nên sáng rõ.

Khánh Kỵ phẩy tắt mồi lửa trong tay, nhẹ nhàng đặt lên bàn, ấn tay lên bàn hơi hơi nghiêng người về phía trước, cười mỉm nói:

- Đại Lương, ngươi đã đầu nhập làm môn hạ của ta, tức là người của ta, ngươi cũng biết phản bội chủ thông đồng kẻ trộm, phải bị tội gì không?

Đại Lương thoạt nhìn có vẻ gày yếu, bộ dạng có vẻ trời sinh thiếu dinh dưỡng, nhưng cũng là một lão tặc lâu năm, kinh nghiệm vô cùng phong phú, vừa thấy vậy đã biết rằng bị lộ chân tướng ở đâu, mưu kế của bọn chúng đã không thành công. Trước mặt chính là Khánh Kỵ nổi danh là Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ, hắn gần như đã đánh mất hoàn toàn ý chí chiến đấu, có điều nghĩ rằng chủ thượng đang dẫn quân tấn công Nhâm phủ, gần như vậy nhất định là có thể ứng cứu, lúc này chỉ cần chống lại một lát, khi tiếng chém giết truyền ra chủ thượng nhất định sẽ tới tiếp ứng, dũng khí liền tăng lên, quát to:

- Các huynh đệ, chủ thượng ở ngay lân cận, chúng ta liều mạng giết ra ngoài!

Đại Lương nói xong, Lỗ tước trong tay dụng lực ném tới, bắn thẳng về phía Khánh Kỵ đối diện, Khánh Kỵ cười mỉm nắm lấy vỏ kiếm, gõ lên thân đao một cái, 'Keng' một tiếng, đao kia liền thay đổi phương hướng, lướt qua đầu vai của hắn, 'Phập' một tiếng cắm vào cây cột gỗ ở đằng sau.

Đại Lương quay người bỏ chạy, đoạt lấy một thanh kiếm của đồng bọn, nhưng bước chân của hắn vừa chuyển, vừa mượn lực để nhảy lên không trung, liền kêu thảm một tiếng, giống như một con chim to trúng tên ngã gục xuống mặt đất. Ở một bên sườn hắn lộ ra một cái chuôi kiếm, ở sườn bên kia máu theo mũi kiếm chảy 'tí tách tí tách' xuống đất.

- Ngươi... Ngươi được lắm!

Đại Lương quay đầu lại, hung hăng trừng mắt nhìn Sở Tài hai tay đang trống không, nói một tiếng oán hận, thân mình run rẩy kịch liệt mấy cái liền tắt thở bỏ mình, hận ý nồng đậm tới mức mắt cũng không nhắm lại được.

Sở Tài trên mặt vẫn coi như không có việc gì, có điều khi nhìn thấy ánh mắt oán hận của Đại Lương, trong lòng không khỏi phát lạnh. Hắn tức giận nhấc chân đá một cái, một cước này thực sự tàn nhẫn, dùng mười phần lực, mũi chân đá thẳng vào hai hàng lông mày của Đại Lương, tức khắc đá nát đôi con ngươi của hắn.

Thủ đoạn ngoan độc thế này, Khánh Kỵ nhìn thấy mà cũng không khỏi phát lạnh trong lòng. Mà Sở Tài lại đá thêm cái nữa, chỗ vốn là hai con mắt của Đại Lương đã chỉ còn là một vùng huyết nhục mơ hồ. Sở Tài không thèm liếc mắt nhìn hắn một cái, quay người hướng về Khánh Kỵ, 'Phịch' một tiếng quỳ gối, cung kính nói: "Uy danh Khánh Kỵ công tử, thiên hạ đều biết. Hôm nay đã bị công tử bắt, Sở Tài nguyện mang theo bộ hạ đầu nhập dưới trướng, vì công tử mà dốc sức, mong rằng công tử tiếp nhận."

Cảnh tượng coi mạng người như cỏ rác như vậy, Khánh Kỵ vẫn là lần đầu tiên tận mắt nhìn thấy, hơn nữa người bị giết lại là đồng bọn của hắn, Sở Tài thế mà lại có thể sử dụng thủ đoạn tàn nhẫn như vậy. Khánh Kỵ đầu tiên là ngẩn ra, lúc này mới lạnh lùng sắc mặt, thản nhiên nói:

- Lâm nguy phản bội, giết bạn để được sống, hành động xấu xa như vậy cũng làm được, bản công tử dám nhận kẻ ty tiện bỉ ổi như ngươi sao?

Sở Tài mặt không đổi sắc, hiên ngang nói:

- Chim tốt chọn cây làm tổ, người hiền chọn chủ mà phụng. Công tử tranh cướp thiên hạ, hạng người nào mà không thể dùng được? Sở Tài mặc dù bất tài, cũng có khả năng dốc sức cho công tử, mong muốn của Sở Tài, chỉ là làm một môn hạ tay sai, công tử còn không chịu thu dụng sao?

Khánh Kỵ ha ha cười, nói:

- Kẻ tiểu nhân chuột xây hai ổ như ngươi, bản công tử mà thu nhận, chẳng phải sẽ làm nguội lạnh tâm tư của tráng sĩ sao?

Sở Tài nghe vậy thì biến sắc, Khánh Kỵ liếc mắt nhìn những thủ hạ theo Sở Tài tiến vào phòng, thản nhiên nói:

- Sở Tài này vì bảo toàn tính mạng chính mình, lâm nguy hàng địch, như thế cũng được, nhưng hắn lại còn ám sát đồng bọn để lấy công chuộc tội, thực không bằng cả heo chó. Bản công tử cho các ngươi một cơ hội, nếu ai giết hắn, bản công tử liền tha tính mạng cho ngươi, từ nay về sau đi theo ta, ngày sau bái tướng phong hầu, theo đuổi tiền đồ rộng lớn, thế nào?

Thủ hạ của Sở Tài nghe vậy thì đưa mắt ngơ ngác nhìn nhau, bọn họ đều là bộ hạ vẫn đi theo Sở Tài, hắn đã lập uy xuống dưới, đột nhiên bảo bọn họ chém giết chủ nhân, thật sự có chút không nâng nổi dũng khí. Chính là khi đao kiếm đã tới cổ, ai lại không có ý niệm muốn sống? Vả lại thủ đoạn ngoan độc mới vừa rồi của Sở Tài chém giết Đại Lương, có ai nhìn vào mà không thấy khinh thường kẻ máu lạnh? Hơn mười người nhìn nhau một hồi, trong mắt dần dần lộ ra sát khí dữ tợn, đột nhiên la lên một tiếng, lưỡi đao sắc bén trong tay đồng loạt đâm về phía Sở Tài.

Sở Tài vừa mới nghe thấy lời nói này của Khánh Kỵ, cả người lập tức đổ mồ hôi lạnh, đôi mắt xoay tròn loạn chuyển, hận không thể đào một cái lỗ trên mặt đất để nhảy vào, bộ hạ của hắn vừa động thủ, Sở Tài liền kinh hoảng cảm thấy không ổn, vội vàng lăn một vòng tại chỗ, vừa kịp tránh được đao kiếm của bọn chúng, có điều chân trái vẫn bị một kiếm đâm trúng, máu tươi đầm đìa.

Sở Tài lớn tiếng kêu thảm thiết, cố gắng nhịn đau, hắn nhảy bật lên, liền hướng hành lang bên phải mà chạy như điên. Vài tên võ sĩ muốn đuổi theo, Khánh Kỵ đã cười lạnh một tiếng, hắn dễ như bỡn ném thanh trường kiếm trên bàn đi, mũi kiếm phá không, vẽ ra một đạo hàn quang, chỉ nghe 'Phập' một tiếng, Sở Tài đã bị thanh kiếm xuyên qua ngực.

Sở Tài hét thảm lên, 'Bịch' một tiếng té ngã xuống đất, lại kiệt lực bò về phía trước một chút, rốt cục im lặng bất động. A Cừu chạy tới đó, rút thanh trường kiếm máu chảy đầm đìa, quay trở lại bên Khánh Kỵ hai tay dâng lên.

Khánh Kỵ tiếp kiếm, cầm lấy một cái khăn trắng chậm rãi lau đi vết máu trên thân kiếm, 'Xoát' một tiếng tra lại kiếm vào vỏ, đột nhiên đứng lên, ánh mắt từ từ lướt qua người hơn mười tên đạo tặc còn lại, cười nói:

- Tốt! Mới vừa rồi các ngươi rút kiếm giết kẻ bất nghĩa tiểu nhân kia, coi như đã biểu lộ cõi lòng, ta muốn các ngươi từ nay về sau quy thuận theo ta, các ngươi có bằng lòng hay không?

Hơn mười tên đạo tặc nhìn trái nhìn phải, rốt cục đồng loạt quỳ gối:

- Tiểu nhân nguyện đi theo sau ngựa công tử.

Khánh Kỵ cười ha ha, rút kiếm nơi tay, lớn tiếng nói:

- Tốt! Các ngươi chờ lần sau, không phải giao chiến với chủ cũ, để tránh vì giao tình trước kia mà bị thương. Bạch Ny, Di Vi, nơi đây không an toàn lắm, nhanh đi hầu hạ Triển đại phu, Thân Kiện, ngươi cùng với hơn mười huynh đệ mới đầu nhập này cùng nhau đi bảo vệ chỗ ở của Triển đại phu, Khổng Khâu tiên sinh.

- Rõ!

Khánh Kỵ nói xong, nhướng mày lên, hào khí bừng bừng nói:

- Những người còn lại, toàn bộ đi theo ta!

Chúng võ sĩ giống như chúng tinh phủng nguyệt*, vây quanh Khánh Kỵ ào ào đi ra khỏi phòng...

Khi Khánh Kỵ đi đến tiền đình, trong Nhâm phủ đã khói lửa ngút trời, trận trận tiếng 'Sát'. Binh vệ hai bên cũng đồng loạt đi tới, Khánh Kỵ hỏi:

- Những kẻ ẩn vào trong phủ ta đã giải quyết hết chưa?

Lương Hổ Tử thân mặc giáp trụ, chắp tay chào theo nghi thức quân đội:

- Thưa, một vài tên cướp mọn, đã bị bọn kẻ hèn chém chết toàn bộ.

Khánh Kỵ 'Ừm' một tiếng, tiếp nhận trường mâu của mình từ tay Tái Cừu, quắc mắt lên, quát:

- Xuất phát!

Đại môn mở ra, chúng binh vệ lập tức theo hắn lao ra ngoài.

Từ lúc nghe Nhâm Nhược Tích nói, đã xác nhận nhóm người bên cạnh muốn gây bất lợi với nàng chính là Triển Chích, hắn liền không đem kế hoạch của mình kể lại cho Triển đại phu biết. Triển đại phu cùng Khổng Khâu đều không biết cho nên vội vã chạy đến, những thủ hạ gần đó cùng với môn đồ của Khổng Khâu đều quần áo không chỉnh tề mang theo binh khí chạy tới, lại bị Anh Đào cười hà hà ngăn lại.

Anh Đào ở cổ và ngực bị bỏng, lúc này không nên động võ, cho nên cho dù hắn luôn luôn đợi lệnh, Khánh Kỵ vẫn chỉ an bài hắn canh giữ ở ngoài cửa chỗ ở của Triển đại phu, bảo hộ người trong nhà. Anh Đào cười hà hà nói:

- Triển đại phu, Khổng tiên sinh, hai vị không phải kinh hoảng, cứ trở về phòng thư giãn mà ngồi, chủ nhân của ta ở nhà trên có một chút việc nhỏ, không dám làm phiền tới hai vị đại nhân.

Triển đại phu kiễng chân nhìn lửa cháy to ở phủ bên, lại thấy đao thương kiếm kích đầy sân, không khỏi kêu lên:

- Đã... Đã xảy ra chuyện gì vậy?

Anh Đào cười nói:

- Hai vị đại nhân thấy đó, cảnh đêm mới đẹp làm sao, văn nhân nhìn thấy thì ý thơ tràn đầy, quân nhân nhìn thấy thì khí phách hào hùng, chủ thượng của ta thì, đúng là vì xem cảnh đẹp mà hưng phấn, cho nên... mới nổi hứng giết người phóng hỏa gì đó.

Triển đại phu nhất thời phát nổi nóng:

- Giết... giết kẻ nào? Khánh Kỵ công tử dẫn binh đi tấn công Nhâm gia sao?

Lúc này Thân Kiện đã dẫn theo người tới, vừa nghe Anh Đào đang tranh luận cùng hai vị đại nhân, vội vàng bước lên phía trước thi lễ, nói:

- Đại nhân hiểu lầm rồi, là có kẻ cướp nhòm ngó tiền tài của Thành phủ, định thừa dịp ban đêm tập kích, chủ thượng nhà ta khởi binh nghênh địch thôi.

Triển đại phu trố mắt nói:

- Thế này... tại sao trong Thành phủ lại im lìm, mà ở phủ bên thì lại đốt lửa?

Thân Kiện nghiêm trang trả lời:

- Kẻ cắp mò nhầm địa phương đó thôi.

Triển đại phu nghe xong thì chán chả buồn nói tiếp, Khổng Khâu hơi kéo tay áo hắn, nháy mắt với hắn, nói:

- Triển huynh, chúng ta trở về phòng đi thôi. Khánh Kỵ công tử tuy rằng tuổi còn trẻ, nhưng làm việc từ trước tới nay luôn có chừng mực, đợi hắn trở về, chúng ta sẽ biết rõ ràng thôi.

Trên đường cái, lúc này có mấy đội sĩ tốt đang hoành hành phố xá, đi khắp nơi kêu la:

- Ngô quốc Khánh Kỵ công tử đang lùng bắt đạo tặc, người lương thiện mau mau đóng cửa ở trong nhà không được ra ngoài, để tránh ngộ thương tính mạng. Ngô quốc Khánh Kỵ công tử...

Những người này kêu la lặp đi lặp lại, những người chung quanh nghe xong đều đóng chặt cửa nhà không dám ra ngoài, những nhà giàu đều tập kết gia nhân, tay cầm binh khí bảo vệ môn hộ, chỉ sợ loạn binh xông vào. Nhất thời ở hai trang viện Thành phủ, Nhâm phủ tiếng 'Sát' rung trời, ở ngoài đường cũng không có ai tới xem.

Những gia đinh và hộ viện (người bảo vệ cho viện) mà Nhâm gia dùng đều là những lão nhân trong nhà, tất cả bốn trăm gia tướng mang theo ở đây cũng đều là con em của Nhâm gia, toàn bộ Nhâm phủ có thể nói là 'tích nước không rỉ ra ngoài', ngoại nhân căn bản là không thể thâm nhập vào được. Bọn chúng hai đêm trước cũng đã dòm trộm vài lần, gia tướng trong phủ ngày đêm tuần tra, muốn đầu độc cũng không có khả năng, cho nên trận này chỉ có thể tấn công mạnh mẽ.

Mạc Phong dẫn theo một vài bộ hạ thông minh lợi dụng đêm tối xâm nhập vào Nhâm gia, vốn định đốt lửa khắp nơi, tiếp ứng cho các huynh đệ cường công, không ngờ vừa mới tiến vào Nhâm phủ, từ trong bóng tối một tiếng cồng vang lên, một vài chồng củi được xếp ở góc tường chỗ đất trống xa khu nhà ở, bỗng cháy 'Phừng' lên, nhất thời ánh lửa ngút trời, khiến cho bọn hắn không còn chỗ nào ẩn náu.

Ngay sau đó tiếng dây cung 'Phựt phựt phựt' vang lên, vô số cung tên không biết từ nơi nào bắn ra, rất nhiều tên đạo tặc ngã xuống đất, Mạc Phong ỷ vào thân thủ linh hoạt, vừa thấy không ổn lập tức dán xuống đất lăn vài vòng, khó khăn di chuyển, sau đó chạy trốn tới sau một gốc cây, chỉ một chút mà toàn thân đã đổ ra toàn mồ hôi lạnh.

Vùng Ngô Việt không giỏi dùng tên, nếu là hai quân giao chiến, rất nhiều binh lính Ngô Việt hai nước căn bản là không biết dùng cung tên, một tên bắn ra, liền giống như chim nhạn, không biết là bay đi đằng nào. Nhưng đó chỉ là những người dân bình thường tham chiến mà thôi, không phải ai cũng giỏi dùng cung tên. Chí ít là gia tướng của Nhâm phủ chẳng những mỗi người đều tinh thông võ nghệ, hơn nữa bắn tên cũng xuất chúng. Thời đại bấy giờ, một đại gia tộc sở hữu tài sản to lớn, cũng phải có được vũ lực cường đại, càng phải dựa vào thế lực chính trị cường đại mới có thể sinh tồn được, đây chính là tiền vốn để sinh tồn của bọn họ.

- Nguy rồi, Nhâm phủ sớm đã có chuẩn bị, phải làm sao bây giờ?

Mạc Phong âm thầm sốt ruột, tên ngầm của đối phương bắn ầm ầm, không nói tới đang là ban đêm, cho dù là trời sáng rõ đi chăng nữa, trong tay không có khiên chắn, hắn cũng không dám xông ra. Đúng lúc này, Cổ Quân Hải tấn công cửa chính vừa thấy trong trạch lửa đã nổi, lập tức dẫn ba trăm tên đạo tặc mạnh mẽ tấn công vào cửa chính.

Trong ba trăm đạo tặc của hắn ước chừng có trăm người cầm trong tay đao ngắn khiên mây, ở phía sau đều cầm trường mâu đại kích, chính là chuẩn bị đội hình để đánh giáp lá cà, hùng hổ vọt tới cửa chính, điều hai người lấy dây thừng buộc một cái trục lăn lúa, 'Bình bình bình' đập vào đại môn, chưa được bao nhiêu lâu, còn chưa chờ bọn chúng đập gãy cánh cửa, đại môn đã rầm rầm mở ra, khiến cho hai tên đạo tặc kinh hãi bỏ quên cả trục lăn lúa mà chạy trốn ra đằng sau.

Đại môn vừa mở ra, Cổ Quân Hải lập tức lệnh cho người chuẩn bị chiến trận, trong khoảnh khắc khiên chắn dựng thẳng tạo thành một bức tường, trong những khe hở của 'tường' mâu kích chọc ra như rừng, lạnh lẽo nhắm vào Nhâm phủ. Đại môn Nhâm phủ mở rộng, hai hàng người cầm đuốc như con sông chảy ra, phân chia đi ra hai bên trái phải, ở giữa bước ra một viên tiểu tướng, thân mặc giáp da cá sấu, đầu đội mũ đồng, trong tay là một cây trường mâu sắc bén, ở trên dải lụa đeo bên hông còn lộ ra một thanh đoản kiếm, chính là Nhâm Nhược Tích Nhâm đại cô nương.

Nhâm Nhược Tích cười lạnh đứng ở trên bậc thang, liếc mắt nhìn trận địa nghiêm chỉnh của Cổ Quân Hải, lặng lẽ nói:

- Bày ra một trận thế lớn như vậy, không biết đêm khuya tới chơi là khách quý phương nào?

Cổ Quân Hải vừa thấy chính là Nhâm gia Đại tiểu thư tự mình nghênh địch, trong lòng không khỏi mừng thầm. Mục tiêu chân chính của chủ công bọn họ chính là ở phía sau trạch, là trăm xe vũ khí kia của Nhâm gia. Nhâm đại tiểu thư ở đây, gia tướng Nhâm phủ tất nhiên đa số sẽ tập trung ở tiền đình để hộ vệ, nhân thủ sau trạch chẳng còn bao nhiêu, chủ thượng Triển Chích sẽ càng dễ đắc thủ.

Dụng ý của Cổ Quân Hải là dụ dỗ nhân thủ của đối phương, có thể kềm chân Nhâm Nhược Tích được phút nào hay phút ấy, nếu nàng đã đi ra, thật không vội gì mà tiến công, vì thế cười ha ha nói:

- Thỉnh Nhâm đại tiểu thư, mỗ phụng mệnh của chủ công Triển Chích, hướng tiểu thư xin chút vũ khí, mong rằng tiểu thư vui lòng biếu tặng, để tránh song phương tổn thương hòa khí.

Đôi mắt xinh đẹp của Nhâm Nhược Tích hơi hơi nghiêng sang bên trái, con mắt linh động đó, nhìn thấy rất rõ ràng dưới ngọn đuốc, Cổ Quân Hải theo bản năng cũng nhìn thoáng qua bên trái, bên đó là hướng của Thành phủ, cũng không có dị trạng gì.

Nhâm Nhược Tích ha ha cười, nói:

- Nguyên lai là Triển Chích môn hạ, khó trách dám có chủ ý với Nhâm Nhược Tích ta. Bổn cô nương ở ngay đây, ngươi đánh bại ta, vũ khí trong trạch ngươi cứ mang hết đi.

Cổ Quân Hải cười gằn một tiếng:

- Nếu như thế, chớ có trách ta không khách khí, lên cho ta!

Cổ Quân Hải ra lệnh một tiếng, gần ba trăm tên đạo tặc cường hãn lấy lưỡi kiếm đập vào mặt khiên, tiếng vang 'bình bình' giống như tiếng trống trận ngột ngạt, toàn bộ đội hình bắt đầu tiến về phía trước. Cùng lúc đó, từ trong Nhâm phủ có một tiếng hét lớn, đột nhiên vô số quả cầu lửa vượt tường bay ra, ném vào trận của Cổ Quân Hải, lập tức gây ra hàng loạt tiếng kêu kinh hãi.

Ở phía sau trận của Cổ Quân Hải đều là quân cầm trường mâu đại kích, trong tay cũng không có khiên. Một trận quả cầu lửa vẽ ra đường parabol ném vào trong đám người, bọn họ không có khiên chắn ngăn cản, lập tức rất nhiều người bị quả cầu lửa ném trúng, đầu tóc quần áo bị dính lửa, cả kinh nhảy loạn hết lên, có người lấy mâu kích đập vào quả cầu lửa, quả cầu lửa đó lập tức vỡ vụn, các mảnh nhỏ văng loạn khắp nơi, khiến cho càng nhiều người phải né tránh, toàn bộ trận hình nhất thời đại loạn.

Trận quả cầu lửa thứ hai ném gần hơn một chút, Cổ Quân Hải hét lớn:

- Nâng khiên!

Khiên chắn đều giơ hết lên, bảo vệ đầu của đạo tặc, nhưng chính vào lúc này, trên tường cao đột nhiên 'loạt xoạt' xuất hiện một loạt tiễn thủ, giương cung bắn vào ngực, bụng, chân của những kẻ cầm khiên, rất nhiều người trúng tên ngã xuống đất, vốn một trận hình kín kẽ nhất thời đã xuất hiện một vài lỗ hổng.

Nhâm Nhược Tích không hề chậm trễ, hô to một tiếng, nâng trường mâu nhằm vào trận địa của địch. Tất cả gia tướng nhất tề xông lên, song phương nhất thời chiến đấu giáp lá cà. Nhưng đúng vào lúc này, đại môn Thành phủ rộng mở, Khánh Kỵ dẫn theo binh lính thủ hạ vọt ra, hướng của quân tiên phong, chính là trước đại môn của Nhâm phủ nơi dũng sĩ hai bên đang hỗn chiến một vùng.

Thời kỳ Xuân Thu, nếp xưa còn tồn tại, lưỡng quốc giao chiến thì cho dù có là vua của một nước, chỉ cần thân trên chiến trường, cũng phải mặc giáp xung phong cùng chiến đấu với địch. Một nước đã như thế, một nhà lại càng thế. Nhâm gia không có con trai, Nhâm gia trưởng nữ Nhược Tích, thuở nhỏ cũng đã luyện tập võ nghê, chớ nhìn một thân con gái yểu điệu, một mặt là tiểu thư khuê các, một mặt khác lại không nhường mày râu, văn võ đều là nhất lưu.

Cây trường mâu trong tay nàng, đâm chém vài cái, đã thấy năm sáu tên đạo tặc chết dưới tay. Là một chủ tướng, bên cạnh nàng luôn có hai gã gia tướng võ nghệ xuất chúng nhất bảo vệ, thay nàng chặn lại những mâu đao kiếm tập kích, Nhâm Nhược Tích như hổ chắp thêm cánh, một tiểu tam giác trận này sát nhập vào rừng đạo tặc, đúng là đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi.

Nhâm đại tiểu thư thân thể ngàn vàng, nàng tự mình xông vào trận của địch nhân, là sự khích lệ rất lớn với sĩ khí của chúng gia tướng. Tất cả gia tướng theo Nhâm Nhược Tích đều anh dũng giành tiến lên trước, mỗi người kiêu mãnh như hổ.

Cổ Quân Hải thấy Nhâm Nhược Tích xuất chiến, đoán rằng cổng lớn chắc chắn còn phải ào ra không dưới hai trăm tên gia tướng bảo hộ, hắn chỉ mong gia tướng trong Nhâm phủ lao ra càng nhiều càng tốt, như vậy áp lực ở sau trạch sẽ giảm bớt rất nhiều. Cũng không ngờ được rằng Nhâm Nhược Tích chỉ dẫn hơn bốn mươi gia tướng đánh sâu vào trận của hắn, đại môn ở phía sau 'Uỳnh' một tiếng đóng lại, cung tiễn thủ ở trên bờ tường cũng đột nhiên không thấy bóng dáng.

Cổ Quân Hải đang cảm thấy kinh ngạc không thôi, đại môn của Thành phủ lại mở rộng, Khánh Kỵ tự mình dẫn hơn trăm năm mươi binh sĩ lao tới, đương nhiên là phát động công kích vào trận của hắn. Cổ Quân Hải cực kỳ sợ hãi, lúc này mới biết người Nhâm Nhược Tích ỷ vào không phải ở trong viện, mà là ở Thành phủ. Thấy tình hình như vậy, kế hoạch của chủ thượng chắc chắn đã bị đối phương đoán trước được, đại kế đêm nay sợ là khó thành.

Chỉ có điều lúc này hiểu ra được thì cũng đã quá muộn, Cổ Quân Hải không biết chiến sự sau trạch của Nhâm gia diễn ra thế nào, chỉ có thể mong ngóng chủ thượng ở bên kia vẫn có thể thành công. Lúc này hắn bất chấp khó khăn vọt lên, thừa dịp đội quân hung mãnh của Khánh Kỵ chưa giết lại đây, toàn lực phát động công kích điên cuồng vào nhóm bốn mươi người Nhâm gia.

Cổ Quân Hải dùng một thanh kiếm bản to, liên tiếp chém chết ba gia tướng Nhâm phủ, vọt tới đối diện Nhâm Nhược Tích, hét lớn một tiếng, hai tay cầm kiếm bổ mạnh xuống đầu. Gia tướng ở sườn bên phải Nhâm Nhược Tích lập tức thối lui để nàng né tránh, nhưng nàng sát tính đã nổi lên, lại tự phụ về võ nghệ, xoay người thấy kiếm tới, nhưng lại không tránh sang, gấp gáp cầm trường mâu trong tay chặn lại, chỉ nghe 'Răng rắc' một tiếng, thanh trường mâu đã bị một kiếm chặt đứt, Nhâm Nhược Tích kinh hãi, lúc này mới vội vàng lui thân về phía sau, mũi kiếm xoẹt một đường qua song phong của nàng, trên giáp da xuất hiện một vệt rạn nứt.

Cổ Quân Hải tiến bước lên trước, lại là một kiếm, hai vị gia tướng trái phải Nhâm Nhược Tích nhất tề nghênh đón, một người lấy trường mâu gạt mũi kiếm, một người lấy đoản kích đâm vào sườn hắn, Cổ Quân Hải 'Hây' một tiếng, vặn người lui lại một bước, thu hồi lợi kiếm, đẩy thanh đoản kích ra.

Nhâm Nhược Tích suýt nữa mất mạng trong tay hắn, không khỏi giận dữ, nàng một tay cầm một nửa thanh đồng mâu, một tay rút đoản kiếm bên hông, cầm kiếm giữ mâu, trái phải đều phát động, kiếm phong xẹt qua cần cổ của một gã định nhân cơ hội để chiếm tiện nghi, đoản mâu liền 'Phập' một tiếng xuyên qua bụng của một tên đạo tặc khác.

Gia tướng bên trái thay nàng bảo hộ mặt đó, gia tướng bên phải lại đang bị Cổ Quân Hải bức lui từng bước. Cổ Quân Hải quát một tiếng chói tai, một kiếm chém tới như điện quang sét đánh, cánh tay phải của tên gia tướng theo binh khí rơi xuống, đau tới mức kêu thảm một tiếng, lảo đảo lui lại.

Nhâm Nhược Tích vừa thấy thấy thì khóe mắt như muốn nứt ra, một bước dài đánh về phía hắn, lưỡng kiếm tương giao, 'Keng' một âm thanh vang lên, thân hình hai người tách ra, Cổ Quân Hải lui một bước, rồi đứng vững thân hình, khua kiếm đẩy một mâu mà gia tướng của Nhâm Nhược Tích đâm vào. Nhâm Nhược Tích lực không bằng hắn, toàn lực đâm ra một kiếm này, bước chân đã trở nên lảo đảo, lại đang đặt chân ở chỗ gia tướng nọ vừa mới bị chém, dưới chân là một vũng máu ẩm ướt, không đứng vững được phải lui lại hai bước. Một tên đạo tặc cầm kiếm bên cạnh vừa thấy có cơ hội, thừa dịp nhấc tay bổ xuống một kiếm, chém vào cái cổ thanh tú của Nhâm Nhược Tích.

- Đại tiểu thư cẩn thận!

Phàm là những gia tướng Nhâm phủ nhìn thấy một kiếm nguy hiểm này đều hoảng sợ kêu to, có điều bọn họ có muốn tới cứu viện cũng không còn kịp rồi. Đúng lúc này chỉ nghe thấy một tiếng hét lớn như sét đánh, một đạo hắc ảnh nặng nề xẹt qua ngang trời, đạo tặc kia mắt thấy một kiếm này sẽ làm cho Nhâm đại tiểu thư đầu mình tách biệt, trong mắt chỉ lóe ra tia sáng hưng phấn hung tàn, đột nhiên kêu thảm một tiếng, toàn bộ thân mình đều lăng không bay lên, cao cách mặt đất ước chừng phải hai thước, ra xa ba thước, khiến hai kẻ đang chiến đấu quấn lấy nhau ở đó phải tách ra, 'Bịch' một tiếng ngã ngửa ra đất.

Lúc này mới có người thấy rõ, trên người hắn xuyên qua một cây trường mâu, một mâu này lực đạo thật là lớn, khiến hắn thân mình hơn trăm cân cũng bị bay ra ngoài, vững vàng cắm lên mặt đất. Ngay lúc hắn bị trường mâu làm cho bay đi, Cổ Quân Hải cũng tận dụng thời cơ, một kiếm đâm tới Nhâm Nhược Tích. Chỉ nghe cách đó không xa lại có một tiếng hét lớn, khóe mắt Cổ Quân Hải liếc thấy một đạo ánh sáng, lập tức không cần suy nghĩ, thân hình vốn đang tiến tới liền ngửa ra đằng sau, chỉ thấy một thanh lợi kiếm sượt qua mũi hắn bay qua.

Nhâm Nhược Tích ban đầu bị Cổ Quân Hải làm cho toàn thân toát mồ hôi lạnh, vừa mới đứng vững thân mình, thanh kiếm này đã bay tới rồi, xẹt qua đầu vai của nàng, cắt ngọt sợi dây buộc giáp của nàng, khiến cho một nửa phiến giáp ngực bị rơi xuống. Khuôn mặt nhỏ nhắn của Nhâm Nhược Tích nhất thời sợ tới mức mặt cắt không còn một giọt máu.

Khánh Kỵ trước phi một mâu sau lại phi một kiếm nhanh chóng chạy tới, vừa thấy tình hình như vậy thì chính mình cũng hoảng sợ:

- Sơ xuất! Sơ xuất! Chỉ là sơ xuất, vốn là định giải vây, nào ngờ thiếu chút nữa thì đã một kiếm xử lý mỹ nhân này rồi, xem ra binh khí đúng là không nên quăng ném lung tung.

Hắn gấp gáp chạy tới, rồi lại không biết xấu hổ hướng Nhâm đại mỹ nhân để nhận công. Sau đó nhấc chân một cái, đá một thanh trường mâu từ dưới mặt đất lên, lăng không bắt vào trong tay, xoay mâu một vòng, 'Vù' một tiếng xé gió vang lên, dọn sạch phạm vi hơn trượng xung quanh, rồi hét lớn một tiếng: 

- Khánh Kỵ ở đây, Triển Chích ở chỗ nào?

o0o

Nhâm phủ đã có chuẩn bị, mà đạo tặc lại không đề phòng, kế hoạch của Triển Chích gần như nơi nơi đều thất bại. Mạc Phong phụ trách phóng hỏa quấy nhiễu địch dĩ nhiên là đã thất bại, Lưu Dục đánh nghi binh hai bên cũng khó tiến nửa bước, tường của Nhâm gia vừa cao vừa dày, bọn họ bắn tên lên tường, lại ném quả cầu lửa, lấy trường kích đâm chém những đạo tặc dám mạnh mẽ tấn công trên tường. Lưu Dục nhân thủ quá ít, trong tay lại thiếu phần lớn những công cụ công thành, chỉ có thể nhìn tường mà ca thán, làm sao còn có thể công cho được.

Triển Chích dẫn người lách tới tường sau, nơi này có một con sông, nghiêng tai nghe ngóng một chút, bên trong tường không hề có động tĩnh, Triển Chích mừng rỡ, vội vàng cho người chuẩn bị bè gỗ thật tốt đặt lên trên sông, đi tới chân tường sau của Nhâm gia, sai lực sĩ đập tường.

Trải qua hai đêm âm thầm rình rập, hắn đã rõ ràng cách bố trí bảo vệ trong trạch, hậu viện phòng thủ nghiêm mật nhất, xe của Nhâm gia mặc dù để ở trong phủ, nhưng mỗi đêm gia đinh tuần tra đều lui tới không dứt. Hiện tại tuy rằng tấn công mạnh mẽ phía trước đã hấp dẫn sự chú ý của bọn họ, lại có tiếng la giết giấu cho, nhưng chỉ cần đập mấy chùy, gia tướng bên trong đương nhiên sẽ phát giác, cho nên phải thúc giục rất gấp.

Tường này là do những viên đất nén chồng lên, 'Bình bình bình' thêm mấy đại chùy, tường vốn chịu lực, chỉ lở ra một chút bùn đất, nhưng toàn bộ bức tường vừa cao vừa sâu vẫn đứng sừng sững y như cũ. Từ trong tường truyền ra tiếng la hét kêu gào, tiếng mõ báo hiệu nổi lên bốn phía. Nghe thấy tiếng 'sát' thảm liệt ở trước trạch, Triển Chích gấp quá, ra lệnh cho lực sĩ thay nhau đập tường, dùng hết khả năng, rốt cục cũng móc ra được một cái hốc từ tường đất.

Thủ hạ lập tức mang công cụ đã chuẩn bị tốt chuyển tới phía trước, lấy dây thừng thô buộc quanh một cái thang rồi luồn vào trong tường, dựng thẳng lên cho đứng vững dựa vào tường đất. Thủ vệ phía trong tường tựa hồ không đoán được rằng bọn chúng không đào tường để vào, mà ý đồ thật sự là muốn kéo đổ tường, ở trong tường có mấy trường mâu cố đâm ra, rồi lại có người hét to mang kiếm tới.

Triển Chích lại càng không thể chậm trễ, mấy trăm đạo tặc vốn đã được huấn luyện, thừa dịp cơ hội khó có được này hò nhau kéo dây thừng giống như kéo co. Kéo như vậy vài lần, chỉ thấy bức tường lay động vài cái, 'Uỳnh' một tiếng bị bọn chúng kéo sập, bùn đất vỡ ra bốc lên bụi mù có mảnh văng xuống sông, làm bọt nước bắn lên tung tóe. Triển Chích không hề chần chờ, lập tức làm gương cho binh sĩ, người dính đầy tro bụi mạo hiểm vọt vào trong viện, cao giọng quát: 

- Diệp Vũ, không nên ham chiến, nhanh chóng tìm vũ khí chở đi, những người khác theo ta...

Hắn nói với những người này xong thì đưa mắt nhìn thẳng, hậu viện thương kích san sát, ít nhất không dưới ba trăm gia tướng Nhâm phủ trang nghiêm đứng ở trong viện, xếp thành mười lăm người một tiểu trận, có người cầm khiên kiếm, cầm trường kích, cung tiễn thủ đứng ở xa. Binh khí dài ngắn kết hợp lại thành trận hình, những cây đuốc bùng cháy trong trời đêm, trước mặt gia tướng Nhâm phủ đột nhiên xông ra một đám kẻ trộm, bọn họ thần sắc vẫn nghiêm nghị, không hề nhúc nhích.

Ở trung tâm của trận, có một cái đài cao, trên đài là một tiểu đình bốn góc, mái đình cong cong như móc câu, trong đình có tám binh sĩ đứng như hổ, mỗi người đều ghìm kiếm, tay cầm bó đuốc. Ở giữa có hai tiểu tướng mặc giáp cầm mâu, dáng người xem ra có hơi chút gầy yếu, tuổi dường như cũng không lớn.

Diệp Vũ vừa sợ vừa nghi hoặc, tiến tới trước mặt Triển Chích nói: 

- Chủ thượng, Cổ Quân Hải công kích mạnh mẽ ở trước trạch, ít nhất cũng phải hấp dẫn được một nửa số người chứ, Nhâm phủ tổng cộng đem theo có bốn trăm gia tướng, lại phải phân hai nhóm ứng phó với quân ta đánh nghi binh quấy rầy tả hữu, làm sao có thể còn nhiều người đợi ở chỗ này? Hơn nữa thấy bọn chúng áo giáp sáng loáng, thần sắc thong dong, dường như sớm đã biết chúng ta sẽ tới, thế này...

Lúc này, tiểu đình trên đài cao, Nhâm Băng Nguyệt một tay chống mâu, một tay giữ kiếm, dương dương tự đắc kêu lên:

- Này, cường đạo đằng trước, kẻ nào là Triển Chích, mau mau quỳ tới trước mặt bản cô nương nhận lấy cái chết!

Chúng đạo tặc xôn xao giận dữ, sắc mặt Triển Chích đã tái mét, quyết định thật nhanh, quát:

- Cơ mật đã lộ, sự đã không ổn, mau lui!

Diệp Vũ căm giận nói: 

- Chủ thượng, nhân thủ của chúng ta đâu kém gì nó, sao có thể không đánh đã lùi?

Triển Chích lặng lẽ cười lạnh: 

- Mục đích của chúng ta, không phải là công thành chiếm đất, sự đã không ổn, phải biết rút lui đúng lúc, biết là không thể mà cứ đâm đầu vào, là không khôn ngoan. Ham chiến không lui, làm được cái gì?

Dứt lời, hắn hét lớn một tiếng:

- Mau lui!

Triển Chích đúng là đệ nhất đạo tặc trong lịch sử Trung Quốc, làm đạo tặc cũng phải có quy củ của đạo tặc, tổng cộng đúng năm điều, một là cần phải tường tận, phải nắm rõ trong lòng bàn tay tất cả thông tin về mục tiêu chuẩn bị xuống tay; hai là lâm chiến phải dũng cảm, ra sức tranh lên trước, không được sợ chết; ba là huynh đệ phải có nghĩa khí, nếu thế địch mạnh, không thể trốn sau lưng bạn hữu; bốn là hành sự theo hoàn cảnh, chuyển đổi cho thích hợp; năm là đoạt được tiền tài, phải chia đều.

Năm quy củ của đạo tặc này, Diệp Vũ là thuộc hạ thân cận của hắn đương nhiên biết rõ ràng, vừa nghe thấy âm thanh mạnh mẽ của hắn, cũng không chần chừ nữa, lập tức nghiêm nghị nghe lệnh, quát lên: 

- Nhâm gia có chuẩn bị, sự không thể thành, mau lui!

Lập tức dẫn tùy tùng như thủy triều rút lui.

Nhâm Băng Nguyệt vừa thấy động tĩnh của đối phương thì nhất thời sửng sốt, ba trăm gia tướng của nàng đều phối hợp diễn luyện từ nhỏ, cực kỳ quen thuộc lẫn nhau, mỗi kẻ đều tinh thông liên thủ tác chiến, ba trăm người đủ để phát huy ra uy lực của năm trăm người. Đêm nay tỷ tỷ giao toàn bộ binh lực cho nàng để bảo hộ xe vũ khí, nàng đã an bài bố trí trận thế như vậy, vốn định làm một chuyện đại sự là bộc lộ tài năng trước mặt tỷ tỷ, nào ngờ đâu kẻ địch không đánh mà đã chạy?

Bọn gia tướng dưới đài cũng trở tay không kịp, chỉ bắn linh tinh ra vài mũi tên, làm bị thương vài tên cường đạo, còn nhân mã của Triển Chích chẳng bị tổn hại gì lớn. Nhâm Băng Nguyệt vội vàng nói:

- Mau, đuổi theo cho ta, chớ để bọn chúng chạy mất.

Gia tướng trái phải Từ Thủy và Trọng Thường vội vàng khuyên nhủ: 

- Nhị tiểu thư, Đại tiểu thư đã phân phó, sứ mệnh của chúng ta là bảo hộ xe vũ khí, không được rời đi nửa bước, không được để một binh khí rơi vào tay Triển Chích. Nếu đem quân truy kích, trận thế tự loạn, vạn nhất Triển Chích thừa dịp phản công, chỉ sợ sẽ gây bất lợi cho chúng ta.

Nhâm Băng Nguyệt nhớ tới lời dặn nghiêm khắc của tỷ tỷ, ngừng lại một chút, chung quy lại cũng không phát ra mệnh lệnh đuổi giết, đành phải nhìn bọn đạo tặc thong dong thối lui.

Triển Chích rời khỏi Nhâm phủ hậu viện, quay đầu nhìn lại, thấy Nhâm gia gia tướng hàng ngũ chỉnh tề, chỉ đứng đợi trong viện, cũng chẳng có ai lao tới chém giết, không khỏi thầm than một tiếng, hắn tung hoành Tề Lỗ, còn chưa bao giờ gặp phải đại bại thế này. Hắn biết thế lực Nhâm gia không giống bình thường, đã sớm có chuẩn bị, triệu tập tinh anh đạo tặc ở các nơi, đoán rằng trăm xe vũ khí này nhất định sẽ đoạt được, hiện giờ tin tức bị lộ, đối phương sớm đã có chuẩn bị, nếu dây dưa lâu, mục thủ của vùng lại dẫn quân tới đánh giáp công thì, ngay cả có đoạt được xe vũ khí, cũng không kịp vận chuyển ra khỏi thành. Hôm nay đã hoàn toàn hết cơ hội, Triển Chích đành phải mất hy vọng mà từ bỏ.

Nhất thời âm thanh nổi lên bốn phía, lúc này bọn đạo tặc không còn dùng 'mật mã' như kiểu "Căng buồm, đón gió" nữa, mà là 'minh mã', nhất thời khắp nơi đều vang lên tiếng gào:

- Đối thủ quá mạnh mẽ, mau lui ra khỏi thành.

Cổ Quân Hải ở tiền phương chật vật chống đỡ vừa nghe được tin tức, liền huýt sáo một tiếng, dẫn người của mình chạy đi tứ phía, Khánh Kỵ binh lực có hạn, lúc này lại là ban đêm, đường ngang ngõ tắt hắn không quen, cũng không chia quân ra đuổi theo, chỉ ở ngoài cửa đồng thanh hô to:

- Khánh Kỵ tại đây, đạo tặc Triển Chích bỏ trốn mất dạng.

Khánh Kỵ để người la lên như vậy, thật sự không phải để thổi phồng thanh danh của mình, mà là làm cho láng giềng tất cả đều nghe thấy, ngày mai lan truyền khắp phố phường, sẽ là một trận chiến của Khánh Kỵ hắn cùng Triển Chích, bỏ Nhâm gia qua một bên, để tránh tin tức Nhâm gia tự bán binh khí lộ ra ngoài.

Mắt nhìn thấy đạo tặc ở các nơi đều đã lui bước, Khánh Kỵ thu hồi binh khí, thở hổn hển mỉm cười nhìn về phía Nhâm Nhược Tích. Nhâm Nhược Tích chém giết cả buổi, tay chân đã hơi mềm ra, cái trán đã đầy những hạt mồ hôi nhỏ bé, mấy sợi tóc đen dính vào trán, khuôn mặt trắng trẻo đã trở nên hồng hào.

Nàng đang giơ tay quệt mồ hôi, nhìn thấy Khánh Kỵ trông về phía nàng, không khỏi mở miệng cười. Khánh Kỵ đi đến gần, thấp giọng nói:

- Nhâm cô nương, thỉnh nhanh chóng mang người của ngươi trở về, sáng sớm ngày mai, cứ theo kế hoạch mà làm.

Nhâm Nhược Tích đang định nói chuyện, trong lòng bỗng dưng run lên yếu ớt, ngày mai, là phải cùng thuộc hạ dọn đồ chạy đi, từ nay về sau ngày dài đường xa, còn có thể có ngày gặp lại sao? Nhâm Nhược Tích tâm tư không khỏi buồn bã, không biết phải rời đi thế nào, Khánh Kỵ là kẻ mà nàng đã dùng trăm phương nghìn kế để lảng tránh, nhưng ở trong tâm hồn của nàng cũng đã lặng lẽ lưu lại một bóng dáng.

Có điều lúc này tử thi đầy mặt đất, mắt nhìn trừng trừng, cho dù có muốn nói gì cũng nói không nên lời. Nhâm Nhược Tích môi mấp máy mấy lần, rốt cục chỉ cúi đầu nói một tiếng:

- Đa tạ công tử nghĩa khí.

- Công tử, mâu của ngài!

A Cừu tìm được trường mâu của Khánh Kỵ, hắn không nhìn thấy Khánh Kỵ và Nhâm Nhược Tích hai người đang đối mặt tình cảm mơ hồ, lỗ mãng trình lên.

Khánh Kỵ trắng mắt lườm một cái, 'hung tợn' bắt lấy trường mâu, ngón tay vừa mới đặt lên cán mâu, một bàn tay mềm mại đã giành cầm lấy. Khánh Kỵ cùng A Cừu nhất tề sửng sốt, Nhâm Nhược Tích bắt mâu vào tay, từ trong ngực lấy ra một chiếc khăn thêu, tỉ mỉ chậm rãi lau sạch những vết máu trên cán mâu, gió nhẹ nhàng thổi những sợi tóc rủ xuống của nàng, khiến cho trong huyết tinh lại có một tư vị ôn nhu.

Lau sạch cán mâu, Nhâm Nhược Tích mới hai tay nâng mâu, đưa đến trước mặt Khánh Kỵ:

- Đa tạ ân cứu mạng của công tử, tiểu nữ xin cáo lui!

Khánh Kỵ thoáng sững sờ, lập tức tiếp nhận trường mâu, thấp giọng nói:

- Cô nương không phải khách khí, nhanh chóng quay về trạch đi thôi.

Nhâm Nhược Tích nhìn hắn một cái thật sâu, xoay người bước đi, những người rình động tĩnh trên bờ tường truyền tín hiệu xuống, đại môn đã mở rộng. Nhâm Nhược Tích dẫn đầu đi vào, gia tướng Nhâm phủ ôm lấy đồng bạn chết trận theo ở phía sau.

Khánh Kỵ đứng bên kia đường, chỉ thấy Nhâm Nhược Tích đi vào trong cánh cửa, đột nhiên quay người lại, đứng ở sau cửa lẳng lặng nhìn hắn, cặp mắt sáng ngời không chớp một cái. Gia tướng Nhâm phủ nối đuôi nhau mà vào, đại môn lại chậm rãi khép lại, 'Kẹt' một tiếng, ngăn cách tầm mắt đôi bên.

Khánh Kỵ đã đem ánh mắt u oán phức tạp kia thu hết vào đáy mắt, bước vào đại môn, Khánh Kỵ liền 'Hây' một tiếng, cắm phập đại mâu lên mặt đất, hai tay nắm chặt, trong lòng hung hăng phát thệ:

- Có nhà mà khó trở lại, có nước lại khó trở về, thật sự là thống khổ. Đại trượng phu một khi không có quyền, ngay cả nữ tử mình thích cũng không thể theo đuổi, cho dù chỉ là vì thế, trận đấu này của ta với Hạp Lư coi như đã định rồi!

Không biết có phải là do đã dung hợp ký ức của hai người hay không, hiện tại tính cách có chút hơi hai mặt, biểu hiện hào hùng xong, tâm tư của Khánh Kỵ liền hạ xuống, dâm đãng nghĩ thầm:

- Ta nếu có thể đoạt quốc của hắn, có thể nạp nàng làm phi, để cho nàng hàng đêm lau 'mâu' của ta, chẳng phải là tuyệt diệu sao?

Trên khóe miệng Khánh Kỵ một tia cười 'vô sỉ' còn chưa kịp lộ ra, chợt nghe thấy xa xa có tiếng quát mắng liên thanh, hàng loạt đèn lồng đuốc sáng từ xa xa chạy tới, ở giữa có một chiếc chiến xa, bên sườn chiến xa có cắm giáo, mác, kích, mâu để luân phiên sử dụng. Trên chiến xa đứng bên trái là một gã giáp sĩ tay cầm cung tên, đứng bên phải là một gã giáp sĩ tay cầm trường kích.

Ngồi ở phía trước là hai người, bên trái là người đánh xe, bên phải là chủ tướng. Xe đến gần, người đánh xe ghìm cương ngựa, bốn thớt ngựa đều dừng lại, vị chủ tướng ngồi ngay ngắn phía bên phải vịn xe nhảy xuống, người này tuổi chừng năm mươi, râu dày buông xuống ngực, đội mũ mặc giáp, tay cầm một cây đại mâu, hắn uy phong lẫm liệt nhìn ngắm chung quanh, trừng mắt hô lớn: 

- Nơi này xảy ra chuyện gì? Đạo tặc Triển Chích ở chỗ nào?

Khánh Kỵ nhịn không được phì cười một tiếng, nhìn thấy vị lão tướng quân này, hắn không biết làm sao lại nhớ tới cảnh thời hiện đại khi có xảy ra trộm cướp, cảnh sát Hongkong luôn luôn khoan thai đến chậm nhất...

Ai..., nhớ tới chuyện xưa, trong lòng không khỏi dâng lên một trận thương cảm cùng phiền muộn, chuyện cũ nghĩ lại mà đau lòng, ánh trăng sáng vằng vằng giữa bầu trời...

Mục thủ vùng này là Công Tôn Quyển Nhĩ đại nhân tới đúng vào lúc mọi việc đã xong rồi, trên đường tử thi đã xếp ngay ngắn. Khánh Kỵ nghiêm trang kể lại rằng hắn ở trên đường cứu Lỗ quốc văn nhân Khổng Khâu như thế nào, cho nên mới kết thù kết oán với đạo tặc Triển Chích, Triển Chích làm thế nào đó mà đuổi tới được đây, lại chiếm Bạch phủ làm ổ đạo tặc hết lần này đến lần khác gây hấn, cho đến đêm nay thì phát sinh đại chiến, nói đến mức cứ y như là thật.

Trên đường cứu Khổng Khâu, có đệ tử của Khổng Khâu làm nhân chứng; Bạch phủ là ổ đạo chích, lục soát một chút là biết manh mối; hôm qua kẻ cắp quấy rầy, kết quả bị bộ hạ Khánh Kỵ phá cửa chặt đầu, toàn thành trên dưới đều có thể làm chứng; về phần một trận đại chiến đêm nay, còn phải nói sao, song phương chết vô số, chứng cớ đều rõ ràng trên mặt đất. Càng ghê gớm hơn là, còn có hơn mười tên bộ hạ của Triển Chích bỏ gian tà theo chính nghĩa, bảo bọn họ ra ngoài nói, miệng bọn họ chỉ nói một câu là Triển Chích trả thù Khánh Kỵ, khiến cho tối nay đại chiến.

Công Tôn Quyển Nhĩ nghe vậy đập bàn giận dữ, Thành Bích phu nhân chính là Quý Tôn Thị nhất mạch Quý Tôn Thị chính là đương kim Lỗ quốc chấp chính, nếu mà trang viên của bà bị người đốt, người hầu đầy tớ trong nhà bị trảm bị bắt thì phải làm sao? Khánh Kỵ càng không cần phải nói, nghe nói trong triều Quý Tôn đại nhân chủ trương sẽ dùng hắn, nếu không biết tại sao mà chết ở chỗ này, chính mình tội sẽ không hề nhẹ.

Tuy biết Triển Chích kia là huynh đệ của Triển đại phu, lúc này cũng không thể theo tư mà trái pháp luật, dung túng cho đạo tặc. Công Tôn Quyển Nhĩ lập tức truyền lệnh xuống, lệnh đóng chặt bốn cửa thành, truy nã đạo tặc. Một lát sau có người báo lại, thủ thành ở cửa Đông bị đầu bếp dội nước sôi chết, rồi mở cửa thả cho mấy trăm đạo tặc chạy ra, Công Tôn Quyển Nhĩ nghe thấy vậy lại càng giậm chân mắng to.

Vị đại phu này tính tình có hơi chút tục tằn, tuy rằng thân phận cao quý, nhưng khi mắng người thì có chút hơi không dễ nghe cho lắm, cái gì mụ mụ nãi nãi, tổ tông tám đời đều lôi hết ra. Triển Hoạch nghe thấy thì thần tình phẫn nộ, đành phải ra vẻ không nghe thấy. Khổng Khâu đứng ở một bên phải nhướng lông mày lườm ánh mắt nhắc nhở Quyển Nhĩ đại nhân cả buổi, Công Tôn đại nhân từ trong thịnh nộ mới tỉnh ngộ ra, vội vàng phất phất tay áo giải thích cho Triển Hoạch đại phu, Triển Hoạch chỉ còn biết cười khổ không thôi.

Triển Hoạch miễn cưỡng cười với Công Tôn Quyển Nhĩ vẫn còn thi lễ, rồi hướng sang thi lễ với Khánh Kỵ, hổ thẹn nói:

- Khánh Kỵ công tử, Triển Thị gia môn bất hạnh, xuất ra đứa con ngỗ nghịch như vậy. Trọng Ni may là được công tử cứu, bằng không nếu bị tiểu đệ của ta làm hại, Triển mỗ cả đời sẽ không yên. Không ngờ Triển Chích lại giận cá chém thớt sang công tử, may mắn công tử không việc gì, bằng không Triển mỗ thật sự là... Ài...

Khánh Kỵ cười nói:

- Triển Hoạch là Triển Hoạch, Triển Chích là Triển Chích, đại phu không cần giải thích, Khánh Kỵ qua lại khắp thiên hạ, có sóng gió nào mà chưa từng gặp qua? Một chút việc nhỏ, đại phu không nên để ở trong lòng.

Công Tôn Quyển Nhĩ không biết trong thành của mình còn có nơi nào bị quấy rầy nữa không, nóng lòng muốn đi dò xét thành trì. Triển Hoạch đại phu bởi vì sự tình là do tiểu đệ của chính mình dựng nên, trong lòng bất an, liền cũng chủ động xin đi theo, cùng hắn ra ngoài. Khánh Kỵ lại đem những gì đã nói với Công Tôn đại phu lặp lại một lần cho Khổng Khâu nghe, trong đó còn cố sức thêm vào nhiều đoạn hung hiểm, khiến cho vị thánh nhân này nghe cũng không khỏi liên mồm thán phục.

Một loạt chuyện mệt mỏi này, phải tới nửa đêm mới an tĩnh lại được, Khánh Kỵ thăm sĩ tốt bị thương, cho đến khi sắc trời hơi lộ ra ánh rạng đông mới trở về phòng ngủ. Lúc này Nhâm phủ hậu viện vẫn đang bận rộn không ngớt, may mắn rằng tường sau giáp với ven sông, bên kia sông cũng chỉ là một cánh rừng hoang, không có người ở, cũng không có ai thấy được thân ảnh mấy trăm gia tướng đang bận rộn trong Nhâm phủ.

Bọn họ mang túi túi bùn đất đến dưới chân tường, dùng nước cơm đầm lại từ đầu, trải qua nửa đêm, tới khi sắc trời sáng sủa, bức tường bị kéo sập kia lại một lần nữa đứng lên sừng sững, những bụi đất ở ngoài tường đều bị người quét xuống sông, ngay cả có người nhìn thấy, cũng không biết rằng bức tường này đêm qua đã từng bị đạo tặc kéo đổ ngã.

Sau khi sắc trời sáng rõ, một hồi đại chiến đêm qua trở thành đề tài đứng hàng đầu sáng nay của thị dân Tất Thành. Đêm qua các hộ xa gần đều nghe được không ngừng có người hô to tên Triển Chích, Khánh Kỵ, lại được gia nhân Thành phủ cùng các bộ hạ của Công Tôn Quyển Nhĩ xác nhận, trận đấu PK của công tử Khánh Kỵ cùng đạo tặc Triển Chích chính thức bị truyền rộng rãi ra ngoài.

Đạo tặc Triển Chích thanh danh tại khu vực Tề Lỗ còn vang dội hơn cả Khánh Kỵ, một trận đại chiến đêm qua, Triển Chích tổn binh hao tướng, suốt đêm dẫn người chạy ra khỏi thành, Khánh Kỵ nhất thời uy danh đại chấn, còn chưa tới giữa trưa, đã có rất nhiều tráng sĩ trong thành tới muốn đầu nhập vào. Khánh Kỵ từ chối thì bất kính, lưu lại thì lại sợ có gian tế lẩn vào, may mắn thay Anh Đào lại chính là người địa phương, liền để cho hắn ra mặt chiêu nạp, nghiêm khắc dặn dò rằng nếu người nào hắn không hiểu rõ thì cứ tận lực từ chối, để tránh vàng thau lẫn lộn.

Tới giữa trưa, Anh Đào hoan hỉ tới gặp Khánh Kỵ báo cáo:

- Công tử, trải qua chọn lựa, sau khi khéo léo cự tuyệt một vài người già quá, trẻ quá hay thân thể ốm yếu, kẻ hèn tổng cộng thu được tám mươi hai tráng sĩ, danh sách ở đây, mời công tử xem qua.

Khánh Kỵ lấy làm kinh ngạc: 

- Có nhiều người như vậy sao?

Anh Đào cười đáp:

- Công tử, Tất Thành vốn là nơi dân cư đông đúc. Tuổi trẻ thanh niên ai mà chẳng muốn kiến công lập nghiệp, mưu cầu công danh? Danh tiếng công tử anh dũng có một không hai trên thiên hạ, một khi truyền ra ngoài, mọi người đương nhiên đều nguyện phụng công tử làm chủ nhân, làm đầy tớ cho công tử.

Khánh Kỵ cười ha hả, nói: 

- Tốt, những người này toàn bộ giao cho ngươi suất lĩnh, ngươi hãy đối đãi với bọn họ như với huynh đệ, dốc lòng truyền thụ quyền thuật cho bọn họ, ngày sau chinh chiến sa trường, kiến công lập nghiệp, bọn họ chính là trụ cột của ngươi.

Anh Đào ngẩn ra, chần chừ nói: 

- Công tử, Anh Đào vốn chỉ là một võ sĩ lụi bại, vừa mới đầu nhập làm môn hạ của ngài, thấp cổ bé họng, chỉ sợ khó có thể đảm nhiệm...

- Ài, anh hùng chớ có hỏi xuất thân, dũng khí của ngươi chạy đi đâu hết rồi? Ngươi sợ người khác nói ngươi không đảm đương được chức vụ, thì hãy dốc sức mà khiến cho người ta phải thừa nhận bản lĩnh của ngươi, khi đó cho dù có lời nói ngang nói dọc, không cần dập cũng sẽ tự hết.

Anh Đào thần sắc kích động không nói nên lời, môi mấp máy vài cái, đột nhiên xoay người quỳ gối, khẳng khái nói:

- Công tử coi trọng như thế, Anh Đào nhất định không phụ sự tín nhiệm của công tử.

Khánh Kỵ mỉm cười đưa tay nâng hắn dậy, hỏi: 

- Đúng rồi, Anh Đào, ngươi vốn họ gì? Tên chỉ có Anh Đào thôi sao?

Anh Đào ngại ngùng nói: 

- Thực... Thực không dám giấu diếm công tử, Anh Đào tuy là võ sĩ, nhưng lại xuất thân hèn mọn, cũng không có họ, không có tên. Khi còn bé thường hay khóc lóc, gia phụ thường lấy quả anh đào chơi với ta, lại cho mút quả anh đào, kẻ hèn liền tươi cười rạng rỡ, vì thế mà gia phụ mới gọi ta là Anh Đào.

Khánh Kỵ gật gật đầu, suy nghĩ qua một chút, nói: 

- Tên của ngươi nghe hơi nữ tính một chút, không bằng bản công tử ban thưởng cho ngươi một tên một họ, tương lai đạt được công danh sự nghiệp, trong sử sách cũng sẽ lưu lại đại danh, ngươi thấy thế nào?

Rất nhiều tiểu dân, đần độn cả đời, cùng lắm chỉ có một cái tên, những dòng họ truyền nhiều đời đúng là không nhiều, Khánh Kỵ là công tử Ngô quốc, chính mồm ban thưởng họ cho hắn, đó là vinh quang lớn lao, khó trách Anh Đào vui tới mức không tự kìm chế được.

Khánh Kỵ nói: 

- Anh Đào là tên do người cha đã mất của ngươi đặt, là người đương nhiên phải hiếu nghĩa, tên do phụ thân đặt cũng không nhất thiết phải bỏ đi. Theo ta thấy, từ nay về sau, ngươi hãy sửa 'Anh' là 'Anh', lấy 'Anh' làm họ, 'Anh' trong 'Anh hùng hào kiệt'. Chữ 'Đào' này, liền đổi thành 'Đào' trong 'đại lãng đào sa', 'Đại lãng đào sa, phương hiển anh hùng' (1), thế nào?

- Anh Đào... Anh Đào? Đại lãng đào sa, phương hiển anh hùng!

Anh Đào mới nhận được danh tính liền trịnh trọng quỳ xuống, lớn tiếng nói: 

- Công tử ban thưởng tên họ cho ta, từ hôm nay trở đi, hẻ hèn sẽ họ 'Anh' tên 'Đào', đời này kiếp này, Anh Đào đi theo công tử, nhất định không làm nhục ý nghĩa của cái tên này!

Khi mặt trời đã lên cao ba sào, ở cổng Bắc Tất thành có một hàng khách thương chậm rãi đi tới. Đêm qua Triển Chích đại náo Tất Thành, tới nỗi hôm nay Tất Thành kiểm soát cực kỳ nghiêm khắc. Chỉ có điều sau khi tra xét biết được khách nhân trên xe là ai, cửa thành lập tức mở rộng, nhóm khách thương đi qua cửa thành mà không gặp trở ngại, thẳng đường đi vào.

Đoàn xe vào trong thành, trong một chiếc xe màn xe chợt vén lên, ngồi thẳng trong xe là một gã đại hán mặc hắc bào, thân cao tám thước, cường tráng và oai phong, tuy là ngồi thẳng người trong xe, lại vẫn có dáng vẻ như một con mãnh hổ lúc nào cũng có thể cắn người, toàn thân tản mát ra một loại mùi vị hung mãnh.

Người này tuổi gần bốn mươi, mày rậm mắt sáng, mặt như trái táo, một bộ ria mép xoắn lại, thật có bảy phần giống như Khổng Khâu. Có điều trong ánh mắt ẩn ẩn có một loại oai khí, loại uy thế của kẻ đã lâu ngày đã ngồi ở vị trí bề trên nhìn đời bằng nửa con mắt, cái này Khổng Khâu không thể bắt kịp.

Hàng xe của hắn ngoặt vào con phố tập trung các nhà hào phú, lúc đi qua Thành phủ, nhìn thấy trên cột cờ bên cạnh là bốn chữ to "Ngô quốc Khánh Kỵ", ánh mắt người này chợt lóe lên, hơi hơi mỉm cười.

Xe ngựa lại tiếp tục đi tới, đi qua Thành phủ, Nhâm phủ, phía trước có một cái viện, tiếp giáp với Nhâm phủ. Lúc này đại môn của trang viên đã sớm mở rộng, ở trên bậc thang có đặt tấm ván gỗ dành cho xe qua, đoàn xe không ngừng lại, cứ như vậy trực tiếp đi vào...

Sau giờ ngọ, ve sầu trên cây ca xướng không biết mệt mỏi, bóng cây từ trên cao chiếu xuống, những cành lá lòa xòa đu đưa đu đưa. Cá ở trong ao lười biếng lê cái đuôi, ở trong mặt nước như gương nhẹ nhàng đong đưa thân mình, chui xuống dưới lá sen để tìm bóng râm, từ miệng nhả ra từng bọt bong bóng nước.

Kỳ thật trung tuần tháng tư cũng không phải là quá nóng, có điều ở địa phương Tề Lỗ khí hậu nóng bức vốn hay tới sớm, năm nay lại càng sớm, tịnh không có chút gió, khiến cho người ta oi bức khó chịu. Dưới bóng râm của ngọn giả sơn, Khánh Kỵ mặc áo ngắn cùng quần đùi (thời này có quần đùi rồi à?), để chân trần nằm trên chiếu trúc hóng mát.

Lúc này còn chưa tới mùa đào, mận, táo, hạnh, lê, quất, ở trên cái bàn bên cạnh ngoại trừ một đĩa dâu là hoa quả tươi, còn lại đều là một ít quả khô linh tinh để điểm tâm. Đêm qua bận rộn tới nửa đêm, bây giờ thật sự là có chút ủ rũ, nằm chưa được bao lâu, mắt Khánh Kỵ đã bắt đầu díp lại buồn ngủ, đầu dần dần gối lên chiếu trúc trơn nhẵn.

Đầu đập xuống một cái, hắn liền tỉnh lại. Bạch Ny thấy thế, vội đem đầu hắn gối lên đùi mình. Khánh Kỵ gối lên một vùng âm ấm mềm nhẵn, ngáp một cái, hàm hồ nói: 

- Aaa..., trời vẫn còn sớm a...

- Công tử nếu mệt, nghỉ tạm một chút cũng không sao, không bằng trở về phòng đi ngủ, hầu gái giúp ngài... quạt.

Bạch Ny nói đến chỗ này, trên mặt hơi hơi đỏ lên. Tuy rằng việc thị tỳ của các đại hộ hào môn* hầu hạ khách quý ngủ nghỉ cũng không phải là việc bình thường hiếm thấy, thậm chí còn là nghĩa vụ hàng đầu của các nàng, có điều từ chính mồm tự tiến cử đến như vậy thì, vẫn không khỏi có chút ngượng ngùng.

Khánh Kỵ ngáp một cái, lười biếng nói: 

- Không ngủ, mới vừa rồi chỉ là ngủ gật thôi.

Trong ánh mắt Bạch Ny hiện lên một vẻ thất vọng, Di Vi ở một bên đang quạt bếp để pha trà, thấy tình cảnh như vậy, không khỏi che miệng cười trộm Bạch Ny. Khánh Kỵ gối lên đùi Bạch Ny, chậm rãi hít thở đều đều, xoay mình để nằm thoải mái hơn một chút, Bạch Ny liền cầm một cái quạt hương bồ quạt cho hắn, nhón lấy một quả dâu đỏ tía đưa tới bên môi hắn.

Quả dâu mặc dù còn chưa chín hẳn, nhưng vị ngọt như say mê, đẩy lùi cơn khát, Khánh Kỵ hé miệng nuốt quả dâu vào, gió mát thổi nhẹ, người ngọc bên cạnh, cũng đã vô cùng mãn nguyện. Đúng lúc này, chợt nghe thấy một tiếng đàn du dương truyền tới, Khánh Kỵ nhắm mắt nghe trong chốc lát, hai mắt hé ra, hơi hơi nghiêng tai nghe cho rõ.

Chỉ nghe thấy tiếng ca réo rắt, từ từ hát lên:

"Đông phương chi nhật, chiếu lâm hạ thổ.

Thập mẫu chi điền, bá quyết bách cốc.

Tâm chi ưu hĩ, duy kỳ thương hĩ. 

Mỗi hữu lương bằng, huống dã vĩnh thán. 

Ôn ôn kỳ cung, tiểu tâm dực dực. 

Hữu giác đức hành, giải cấu tương ngộ. . .

Khánh Kỵ bỗng nhiên ngồi dậy, thầm nghĩ: "Nhâm gia tiểu thư đã giao xong hàng hóa, sắp phải đi rồi."

Bạch Ny hỏi: 

- Công tử, sao lại không nghỉ ngơi tiếp?

Khánh Kỵ đứng dậy xỏ guốc vào, vội vàng nói: 

- Đi, nhanh lấy giáp trụ binh khí của ta tới.

Bạch Ny ngẩn cả người, đáp: 

- Dạ, công tử chờ một chút.

Bạch Ny vội vàng chạy đi, Khánh Kỵ lại nói với Di Vi: 

- Trà cứ để nguội, chờ ta trở về sẽ uống. Ngươi ra tiền đình, bảo Lương Hổ Tử, Đông Cẩu, Anh Đào cấp tốc điểm danh xếp trận dàn binh, theo bản công tử ra khỏi thành săn bắn.

Di Vi nghe vậy, vội vàng vứt bỏ cây quạt nhỏ, hấp tấp đi về phía tiền đình.

o0o

"Linh vũ kỳ mông, dương liễu y y. 

Tâm chi ưu hĩ, duy kỳ thương hĩ.

Như xuyên chi lưu, miên miên dực dực. 

Phong vũ như hối, duy thiên chi mệnh. 

Kỳ khấp hoàng hoàng, du du ngã tâm. 

Hủy quang kỳ cầu, bất khả phương tư. 

Xuân nhật tái dương. . .

"Tang" một tiếng, câu cuối cùng "Dữ tử giai hành"  còn chưa hát ra, dây cầm đột nhiên bị đứt, Nhâm Nhược Tích ngẩn ngơ, phất tay áo đứng lên, thản nhiên nói:

- Khởi hành đi!

Ra khỏi Tất Thành hướng Đông Bắc, đoàn xe hơn trăm chiếc của Nhâm Nhược Tích chậm rãi mà đi. Chúng gia tướng bảo vệ mặt trước và sau, có mười mấy tên võ sĩ tách ra do thám mặt trước và trái phải, để phòng ngừa có người mai phục cung thủ. Bởi vì đã giao phó xong vũ khí, hiện tại trên xe chỉ có của cải tiền tài, nguy hiểm cũng đã giảm bớt, cho nên thần sắc của bọn gia tướng vẫn tương đối thoải mái. Chỉ có Nhâm Nhược Tích cưỡi ngựa đi ở giữa, lúc nào cũng nhìn xa xa, mày hơi hơi nhíu lại, nhìn không ra sự thoải mái sung sướng sau khi bàn giao xong trọng trách.

Nhâm Băng Nguyệt lúc nào cũng nhìn trộm vẻ mặt của tỷ tỷ, nghiêng người nói nhỏ với Thanh Vũ: 

- Thanh Vũ, ta thấy tỷ tỷ cũng không vui vẻ mấy, có phải đêm qua ta lại làm chuyện gì khiến cho nàng không vui phải không?

Thanh Vũ nói cho cùng cũng lớn hơn nàng vài tuổi, so với một thiếu nữ thanh xuân mới ở tuổi mười ba đang dậy thì thì đã hiểu một chút chuyện nam nữ, nàng mỉm cười, thấp giọng nói với Nhâm Băng Nguyệt: 

- Tiểu thư chớ có lên tiếng, cũng đừng nói cho Đại tiểu thư nghe được mà lại cáu với người, Đại tiểu thư đúng là không vui, có điều không quan hệ gì với người.

- Sao?

Nhâm Băng Nguyệt hai mắt mở lớn, ngốc nghếch nói:

- Thế thì kỳ lạ, trên dưới Nhâm phủ cũng chỉ có ta mới hay chọc nàng, đánh hay trừng phạt cũng không được, mắng cũng mắng không được, nàng mới phải sinh hờn dỗi, người bên ngoài còn có ai có thể khiến cho nàng rầu rĩ không vui như vậy? Ngươi mau nói cho ta biết, ta sẽ trút giận thay tỷ tỷ.

Thanh Vũ cười 'hi hi', có chút bất đắc dĩ với vị tiểu thư hay lỗ mãng này. Đúng lúc này, võ sĩ dò đường bên phải đánh ngựa chạy như bay về, hắn lướt tới bên cạnh Nhâm Nhược Tích, chắp tay bẩm: 

- Đại tiểu thư, phía trước phát hiện ra mấy trăm giáp sĩ, đi men bờ sông, sóng vai đồng hành cùng chúng ta.

Nhâm Nhược Tích cả kinh, vội hỏi: 

- Có dò xét xem là ai không?

Võ sĩ kia sắc mặt lướt qua một tia thần sắc cổ quái: 

- Kẻ hèn đã tới gần xem qua, bọn họ là... nhân mã của Khánh Kỵ công tử.

- Hả?

Nhâm Nhược Tích thần sắc vừa động, tay nhỏ bé nhẹ nhàng ấn một cái lên lưng ngựa, vọt người lên, hai chân nhẹ nhàng đứng trên lưng ngựa, tay đưa lên trán che nắng nhìn về phía xa xa một lát, lúc trở xuống lưng ngựa hai hàng lông mày đã nhíu lại, giống như vầng trăng khuyết.

Nàng dùng roi nhẹ nhàng quất vào đùi ngựa, vẫn cứ một bộ dáng không để ý chút nào nói: 

- Không cần để ý đến hắn, tiếp tục đi thôi.

Hay cho một cái "Không thèm để ý đến", dọc theo đường đi ánh mắt của Nhâm đại tiểu thư chính là luôn hướng về phía bên phải, nơi binh lính cho Khánh Kỵ mang theo cũng đang hành quân. Chỉ tiếc là khoảng cách quá xa, nàng không thể quan sát được rõ ràng, muốn tìm ra người đó trong đám người cũng thật là muôn vàn khó khăn, đến lúc này không khỏi có chút trong lòng không yên.

Lại nói tới Khánh Kỵ, con đường mà hắn đi là một con đường nhỏ trên đê, đường xá chật hẹp, bất lợi cho ngựa xe hành tẩu, có điều đa phần binh sĩ của hắn là lính bộ, dùng để huấn luyện hành quân dã ngoại càng thích hợp. Hơn nữa trên đê có cây liễu, dương liễu hàng hàng, đi ở dưới bóng râm cũng rất mát mẻ.

Ở ven sông cũng có vài nhà nông cư trú, rải rác ở trong rừng cây, lùm cỏ. Phong cảnh xinh đẹp nơi này tràn ngập hương vị nguyên thủy, giống như một thế giới đồng thoại, ở hậu thế, muốn tìm cảnh đẹp như vậy, chỉ có thể đến núi cao sông rộng chỗ sâu, những nơi mà sự phá hoại của con người còn chưa tới được, ở chỗ này thì khắp nơi đều có thể thấy được.

Khu vực Tề Lỗ chủ yếu là người Đông Di, người Đông Di thân hình cao lớn, người dân thuần phác. Lỗ quốc tuy rằng là một địa phương hoàn toàn chấp hành Chu lễ, nhưng mà chỉ giới hạn ở cư dân trong thành trì, cũng chính là quốc dân. Dân chúng ở vùng thôn quê lúc đó gọi là dã dân , không hề được xếp vào hàng ngũ phải giáo hóa, cho nên dọc theo đường đi thường thấy những cô gái Đông Di mặc y phục không tay cùng váy ngắn, dưới váy lộ ra một đôi chân tròn lẳn duyên dáng trắng nõn, hoặc đang lam lũ ở dưới bờ ruộng, hoặc đang ca hát trong lúc thả dê trên đồng cỏ, binh sĩ của Khánh Kỵ thấy vậy không khỏi hô to gọi nhỏ một phen.

Nhà sàn và giai nhân nơi này, đúng là sót lại từ thời thượng cổ*, Khánh Kỵ nhìn thấy mà hai mắt cũng tỏa sáng. Cách ăn mặc như vậy vô cùng giống với cách ăn mặc của thế kỷ 21, thật không hiểu vì cái gì, rất nhiều hành vi, tư tưởng của con người, trải qua hàng bao nhiêu biến đổi rẽ ngoặt, cuối cùng qua mấy ngàn năm, lại quay trở về với bản chất.

Lại đi tới phía trước không xa có một con sông lớn, gọi là sông Lạc Mã. Sông Lạc Mã nối thẳng với sông Nghi*, hắn đã nghe Nhâm Nhược Tích nói qua, tới sông Lạc Mã, các nàng sẽ đổi sang đi thuyền, đi tới Dương Quan là tới được ranh giới Tề quốc, cho nên con đường ven đê mà Khánh Kỵ đi này mới hướng về phía sông Lạc Mã. 

Trời chiều đã dần dần xâm xẩm tối, phía trước là một vùng đất bằng phẳng, có lẽ là mùa mưa nước sông tràn vào đây đã xói mòn, nơi đây là một vùng cát lớn bằng phẳng, không có cây cối, chỉ có một loại cỏ xanh thẫm tới đầu gối. Phía cuối đồng cỏ là một con sông lớn, từ xa nhìn giống như một cái thắt lưng ngọc bàng bạc vây quanh một thảo nguyên xanh biếc, ở trên thắt lưng bạc có nhiều chấm đen, chính là những con thuyền đi tới đi lui.

Khánh Kỵ đứng lại, quay người quan sát tứ phương. Dưới chân chính hắn là một vùng cát trắng bằng phẳng, con đê mà hắn đã đi qua phải uốn éo ngoằn ngoèo, rồi còn quẹo sang bên phải, sau đó mới uốn lượn mà nhập vào sông Lạc Mã. Phía bên phải là một vùng đất bằng phẳng phải dài tới năm sáu dặm, ở phía cuối là một ngọn đồi cao, đồi cao mà dốc đứng, sườn đồi đất badan tràn đầy những mảnh rừng rậm.

Khánh Kỵ thở dài một hơi, thầm nghĩ: 

- Tới nơi này rồi hẳn là không phải lo lắng nữa, chỉ cần lên thuyền, không tin rằng Triển Chích hắn thủ đoạn thông thiên đến vậy, đường thủy đường bộ đều có thể điều động vô số nhân mã tới để đánh cướp trả thù.

Quay đầu lại nhìn đoàn xe của Nhâm Nhược Tích còn đang trên đường chậm rãi mà đi, Khánh Kỵ liền lệnh cho toàn quân nghỉ ngơi ngay tại chỗ. Một vài binh lính ngay lập tức nằm lăn xuống mặt cỏ xốp trên bờ cát, có vài người thì lại chạy xuống sông, dùng mũ da múc nước để uống. Khánh Kỵ ngồi ngay trên ngựa, nhìn về phía đoàn xe Nhâm gia ở xa xa, do dự không biết có nên đi tới gặp nàng không.

Bộ hạ của hắn đều là những hán tử hào sảng, ngay cả khôn khéo như Lương Hổ Tử, cũng chỉ đoán rằng cái mà chủ thượng gọi là săn bắn luyện quân, kì thực chính là bảo hộ cho đoàn xe Nhâm gia lên phía Bắc, chứ không nghĩ tới trong đó còn có lẫn lộn tình cảm cá nhân. Nhưng thật ra Anh Đào thận trọng bẩm sinh, lại nhìn ra được ít manh mối.

Hắn mặc dù không thấy buổi huyết chiến trên phố tối qua mà chỉ nghe kể lại tỉ mỉ, có điều "thần gió" A Cừu sau khi trở về cũng đã thổi phồng qua một lượt với hắn cùng đám người Bạch Ny, Di Vi, công tử như thế nào một mâu ném bay một gã đạo tặc, như thế nào một kiếm bức lui thủ lĩnh bọn giặc là Cổ Quân Hải, như thế nào trảm địch vô số, Nhâm Nhược Tích tâm hồn ái mộ như thế nào, tự tay vì hắn lau sạch vết máu dính trên trường mâu vân vân, miêu tả thế này cứ như kiểu nam nhân vật Vương Bá* ở trong tiểu thuyết ở hậu thế, hình dung ra một thân hình to lớn, hào kiệt tám hướng đều tới khấu đầu.

Anh Đào lúc ấy nghe đến đó thì tâm tư lay động, hắn là người địa phương, hàng hóa Nhâm gia từ Nam ra Bắc, tuy rằng Nhâm đại tiểu thư cũng không thường xuyên tự mình mang đội tới, nhưng mà người nhà của nàng ở Tất Thành thì cũng không ai xa lạ. Từ trong miệng người nhà của nàng thì biết rằng Nhâm đại tiểu thư vốn xưa nay tâm cao khí ngạo, rất khó yêu thích, khiến cho nàng không ngại tanh nồng mà lau chùi binh khí cho một nam tử, quan hệ của hai người trong đó chỉ sợ không đơn giản chỉ là hợp tác không thôi.

Lúc này thấy Khánh Kỵ ngồi cao trông về phía xa, ngưng mắt nhìn về phương hướng đoàn xe Nhâm gia, liền đi tới bên cạnh khuyên nhủ: 

- Công tử, hôm nay từ biệt, ngày sau gặp gỡ không biết đến bao giờ, không bằng đi tới gặp mặt đi?

Khánh Kỵ vốn đang do dự, nghe lời hắn nói, tâm tình ngược lại đã bình tĩnh xuống: "Tuổi thực tế của ta cũng không phải là nhỏ, như thế nào còn làm bộ làm tịch giống như một ông cụ non? Gặp mặt lúc này, không bằng không gặp, một cô nương cao ngạo tự phụ như nàng, nếu cứ dính chặt vào chỉ sợ lại không hay. Ngô quốc sớm muộn gì cũng phải đánh, cùng nàng có duyên phận hay không, rốt cuộc là thành bạn hay là địch, bây giờ còn khó mà nói được, gặp mặt thì phải nói thế nào?"

Khánh Kỵ nghĩ đến đây thì quay đầu lay động, hắn xoay người xuống ngựa, quẳng cương ngựa đi, tùy ý để con ngựa tới bờ đê ăn cỏ, lớn tiếng nói: 

- Mọi người ở bờ đê nghỉ ngơi một lúc đi, chờ đoàn xe Nhâm gia lên thuyền xong, chúng ta sẽ trở về Tất Thành.

Anh Đào cười cười, ngậm một nhánh cỏ đuôi chó vào trong miệng, rồi đi sang một bên.

Khánh Kỵ đi xuống đê, lấy nước sông trong suốt mát lạnh rửa mặt, lại uống vài ngụm nước sông ngọt lành, lúc này mới trở lên đê. Vừa ngẩng đầu, chỉ thấy Anh Đào kiễng chân nhìn ra xa xa, bỗng nhiên đi tới dưới một tàng cây, nhổ một ngụm nước miếng vào lòng bàn tay, tay chân cùng sử dụng giống vượn khỉ trèo lên.

Hắn đứng ở trên một chạc cây, tay che trán nhìn nhìn về hướng đoàn xe Nhâm gia, đột nhiên gấp giọng nói: 

- Công tử, tình hình khác thường, đoàn xe Nhâm gia vội vàng chạy tới, hình như phía sau có người đuổi theo.

Khánh Kỵ quay đầu nhìn lại, quả nhiên có bụi đất bay lên, hắn vội vàng nhảy lên chiến mã đi sang bên kia đường nhìn lại, quả nhiên thấy cảnh tượng đoàn xe Nhâm gia đang rất gấp, bởi vì bụi đất trên đường hanh khô, bánh xe rầm rập, làm bay lên một vùng bụi đất, chỉ còn thấy được khoảng mười chiếc xe ở phía trước, phía sau cuồn cuộn một cái phủ Hoàng Long (1), tất cả dấu vết đều bị ẩn đi dưới lớp bụi đất.

Khánh Kỵ trong lòng căng thẳng, lập tức quát: 

- Tập hợp đội ngũ, lập tức đi tới thảo nguyên.

Xe ngựa bánh gỗ đi đường bao lâu không tu sửa, dù muốn đi nhanh cũng không nhanh được bao nhiêu, nếu đi nhanh quá sẽ dễ dàng làm tổn hại trục xe, hơn nữa tâm tư thiếu nữ đều có hơi chút rụt rè, biết Khánh Kỵ đồng hành ở phía trước, Nhâm Nhược Tích lại không muốn vội vàng vượt lên để sóng vai cùng hắn, lúc này tốc độ của xe so với ban đầu chỉ chậm hơn chứ không nhanh hơn, hơn trăm chiếc xe đang chậm rãi đi về phía trước, võ sĩ ở đằng sau đột nhiên kêu lên: 

- Tiểu thư mau nhìn, phía sau có truy binh vô số.

Nhâm Nhược Tích theo tiếng nhìn lại, chỉ thấy ở trên đường phía sau có chừng hơn ngàn nhân mã, đuổi theo tới mức chân tung bụi mù, trên tay mỗi người đều cầm binh khí dài ngắn, nhìn tư thế kia, xem ra không phải là người quen.

Nhâm Nhược Tích không khỏi kinh hãi, tay đưa lên trán xem trang phục của bọn họ, thượng vàng hạ cám, cũng không phải quân đội chính quy hay là gia tướng của một gia tộc thế gia quyền thế, rõ ràng chính là nhân mã của Triển Chích tối hôm qua đã từng tranh đấu kịch liệt.

- Bọn họ thật sự không biết ta đã đem vũ khí giao cho người mua, hay là chỉ vì muốn trút giận mà đuổi theo đánh một trận?

Nguyên nhân bên trong Nhâm Nhược Tích đã không còn kịp phân tích, nàng chỉ hơi có chút kỳ quái, tối hôm qua còn không thấy nhiều đạo tặc thế này, như thế nào hôm nay nhân mã còn nhiều hơn so với hôm qua?

Nàng không biết rằng tấn công Nhâm phủ đêm qua đều là bộ hạ tinh anh của Triển Chích, lúc ấy còn có hơn mười người tiếp ứng ở cổng thành, ngoài thành ở chỗ vắng vẻ còn có Tiểu Ất dẫn theo hơn trăm xe trống chuẩn bị dùng làm nghi binh,mà đánh xe đều là nhóm đạo tặc của Triển Chích, nhân mã của hắn sao mà thiếu được?

Triển Chích đêm qua hành sự thất bại, càng nghĩ càng thấy tức giận, hắn điều đến rất nhiều nhân mã từ khắp các nơi, chưa nói tới còn chẳng vơ vét được tí chỗ tốt nào, lại còn khiến cho thanh danh sĩ khí của hắn chịu ảnh hưởng cực lớn. Danh tiếng Triển Chích dương khắp thiên hạ, chưa bao giờ nếm phải thất bại nặng nề như vậy, nỗi nhục lớn như vậy há có thể không rửa sao? Vừa mới ra khỏi Tất Thành, hắn lập tức ở đồng không tập hợp tất cả quân bản bộ, mưu đồ phản kích.

Hắn biết hôm nay Nhâm Nhược Tích sẽ giao binh giáp vũ khí cho Dương Hổ, Dương Hổ chấp chưởng Lỗ quốc binh quyền, địa vị cao thượng, hắn hiện tại thực lực có hạn, còn chưa thể trêu chọc Dương Hổ. Vũ khí đã giao vào tay Dương Hổ, thì không thể nghĩ cách nào nữa, vì thế ánh mắt của hắn liền dừng ở tài vật của Nhâm Nhược Tích.

Có điều hắn không đoán trước được rằng hôm nay Nhâm Nhược Tích cùng Dương Hổ giao dịch xong xuôi lập tức liền khởi hành đi luôn, khi người thám thính tin tức ở trong thành của hắn trở về, đoàn xe của Nhâm Nhược Tích cũng đã ra khỏi Tất Thành, Triển Chích nghe thấy tin tức liền lập tức suất lĩnh quân bản bộ một đường đuổi theo đến đây.

Gia tướng Thái Thành của Nhâm phủ thấy bọn đạo tặc đông không kể xiết, vội la lên: 

- Tiểu thư, trái phải đều là cỏ dại đồng hoang, chưa hẳn là không thể bày trận, xem tốc độ của bọn hắn, xe của chúng ta đã không kịp thoát rồi, không bằng lập tức lấy xe làm trận, ỷ vào sự lợi hại của cung nỏ quay đầu lại, chúng ta nhân số tuy ít, cũng chắc gì đã thất bại.

Nhâm Nhược Tích lắc đầu nói: 

- Không thể, nơi này khắp nơi đều là cỏ dại, nếu bọn chúng châm lửa tới, vậy thì đại sự coi như xong, đến lúc đó chúng ta chạy thoát được mấy người?

Từ Thủy đánh ngựa lại, kêu lên: 

- Đại tiểu thư, không bằng toàn lực đi tới đi, qua sơn khẩu (cửa khe núi) phía trước, đó chính là bãi cát bằng phẳng, nơi đó đương nhiên không thể đốt lửa được, chúng ta tới bờ sông rồi hãy nói.

Trọng Thường phản bác lại: 

- Xe của chúng ta ở trên đường chỉ có thể đi như một con rắn dài, với tốc độ đuổi theo của bọn chúng, chúng ta có tới được bờ sông cũng không lên được thuyền, khi đó trận hình tán loạn, càng khó chống đỡ lại địch.

Nhâm Băng Nguyệt giận dữ, hai hàng lông mày dựng ngược nói: 

- Này cũng không được, kia cũng không được, rốt cuộc thì phải như thế nào mới được đây?

Thanh Vũ ánh mắt vừa động, liền nói:

- Đại tiểu thư, Khánh Kỵ công tử đồng hành phía xa, hình như có ý hộ vệ, không bằng...

Thái Thành sắc mặt ngưng trọng nói: 

- Khánh Kỵ công tử chỉ đem theo hơn hai trăm binh lính, thật sự là có thể lấy một chọi mười sao? Còn nữa, nơi này không giống với đêm qua, trang viện hai nhà sát nhau, lại có bóng đêm che dấu, vạn nhất lúc này có người hồi hương nhìn thấy chúng ta liên thủ thì...

Nhâm Nhược Tích thấy lúc này cũng không phải là lúc để bàn bạc, cho dù thế nào, lưu lại ở chỗ này thì nguy hiểm còn lớn hơn nữa, liền nói: 

- Đi nhanh về phía trước, qua cốc khẩu rồi nói tiếp.

Đại tiểu thư hạ lệnh, hơn trăm chiếc xe đánh ngựa cấp tốc, tất cả xe ngựa đường dài cũng bất chấp làm hỏng trục xe, đều dùng tốc độ nhanh nhất mà đi tới, khiến cho bụi đất bay loạn lên không, tro bụi che trời. Đây chính là tình cảnh mà Khánh Kỵ vừa mới chứng kiến.

Nhân mã của Khánh Kỵ đi xuyên qua bụi cỏ, đợi tới khi bọn hắn đuổi tới đường lớn, đoàn xe của Nhâm Nhược Tích cũng vừa đi qua sơn khẩu. Khánh Kỵ thấy vậy, lập tức hạ lệnh: 

- Thối lui trở lại sơn khẩu chặn truy binh.

Nhâm Nhược Tích ruổi ngựa một bên đi đằng trước, đang vắt óc để suy nghĩ kế sách đối phó với địch, nhưng trong lúc hấp tấp làm sao có thể dễ dàng nghĩ ra phương pháp, mắt thấy Triển Chích càng đuổi càng gần, trong lòng nàng lửa cháy vạn phần. Xem tốc độ truy kích của Triển Chích, cho dù nàng có chạy ra khỏi đồng cỏ, hơn trăm chiếc xe ở trên bờ cát bố trí sắp xếp thành một vòng tròn trận, sợ là trong khoảnh khắc cũng không làm nên chuyện, chỉ sợ là không thể tránh được bị đánh một cái trở tay không kịp.

Đúng lúc này, nhân mã của Khánh Kỵ chui ra từ trong bụi cỏ, Nhâm Nhược Tích vừa thấy liền mừng rỡ. Quân của Khánh Kỵ chỉ có hơn hai trăm người, thực đúng là như muối bỏ biển, có điều vừa thấy Khánh Kỵ xuất hiện, trong lòng Nhâm Nhược Tích liền giống như gặp được người tâm phúc, nàng lập tức ghìm cương ngựa nói: 

- Xe đi nhanh về trước, chạy tới sông Lạc Mã. Những người còn lại tất cả lưu lại, chặn ở sơn khẩu.

Lúc này Khánh Kỵ đã lui về hướng sơn khẩu, Đông Cẩu vừa thấy truy binh khá đông, không khỏi nhướng mày. Hắn nhìn trái nhìn phải, đề nghị: 

- Công tử, không bằng phân một đội binh lên sườn núi trấn giữ, lấy lợi thế trên cao để chống địch.

Khánh Kỵ nhìn sườn núi dốc đứng bên cạnh, lắc đầu nói: 

- Chúng ta không có tên nhọn, trên sườn núi cũng không có thân cây hay đá để lăn, sườn lại dốc trên dưới đều khó trèo, đi lên làm gì? Để ngắm cảnh sao?

Đông Cẩu cười khanh khách, Khánh Kỵ nhìn Nhâm Nhược Tích đang quay ngựa dẫn đội đánh trở lại, lại nghe thấy tiếng 'Sát' rung trời của bọn đạo tặc Triển Chích. Nhìn hai nhà sát nhập lại cũng chỉ hơn năm trăm quân lại phải đấu với một ngàn mấy trăm đạo tặc thảo khấu, hôm nay chỉ sợ là một màn hao tổn khí lực rồi.

Hắn cầm mâu nơi tay, đang muốn lệnh cho binh lính chuẩn bị tốt để xung phong, nâng trường mâu lên không trung, ánh mắt nhìn nhân mã của Triển Chích càng đuổi càng gần, đột nhiên nhớ tới một chuyện, Khánh Kỵ nhất thời mừng rỡ: 

- Ha ha, Triển Chích gặp ta, thật sự là kẻ cắp gặp bà già. Không cần lưu lại người nào của Nhâm gia, chỉ cần thực hiện được kế này, hai trăm người của ta phá một ngàn binh của hắn cũng thừa sức, chậc chậc! Ta không địch vạn người, ai có thể địch vạn người?

Nhâm Nhược Tích nhìn thấy hơn hai trăm quân của Khánh Kỵ lập thành một bức tường ở sơn khẩu, sợ rằng hắn cho dù dũng mãnh đến đâu cũng không thể chặn được nhiều truy binh như vậy, liền vội vàng dặn bộ hạ chuyển xe lên thuyền, sau đó tự mình dẫn ba trăm gia tướng quay lại. Mắt thấy đã gần tới sơn khẩu, từ trong quân Khánh Kỵ đột nhiên có một người đi ra, tiến nhanh đến trước ngựa của nàng, cao giọng nói: 

- Vị ở trên ngựa đây chính là Nhâm Đại cô nương?

Nhâm Nhược Tích ghìm giữ yên cương, chỉ thấy người này mi thanh mục tú, dáng người cao gầy, có điều dù trời rất nóng, trên cổ hắn lại quấn tầng tầng mảnh lụa Lỗ cảo, tựa hồ mới bị thương, liền đáp: 

- Đúng là bản nhân, ngươi là...

Anh Đào thi lễ nói: 

- Công tử nhà ta dặn dò, tiểu thư cứ lên thuyền rồi rời đi thôi, đám ô hợp của Triển Chích, công tử nhà ta có thể ứng phó.

Nhâm Nhược Tích lắp bắp kinh hãi, thất thanh nói: 

- Cái gì? Đối phương có hơn ngàn người, công tử nhà ngươi lại chỉ có hai trăm người, mà lại muốn lấy ít địch nhiều với chúng ư?

Anh Đào kỳ thật trong lòng cũng rất bồn chồn, không biết công tử của mình đang có chủ ý gì, chỉ có thể nghĩ rằng công tử là vì người trong lòng mà cố tình trổ tài, công tử nhìn cũng không giống một kẻ cuồng vọng tự đại không biết chừng mực. Nếu không phải như vậy, thì còn vì nguyên nhân gì? Thủ hạ của Triển Chích cũng không phải là nông dân khiêng gậy gỗ, đó đều là đạo tặc dũng mãnh thiện chiến. Hai trăm đấu với một ngàn, cho dù thật sự có thể thắng, thì cũng là một trận thắng thảm, nhân mã bên ta sợ rằng không còn lại được bao nhiêu.

Nhưng mà công tử nếu đã phân phó như vậy, hắn cũng chỉ có thể làm theo. Nhâm Nhược Tích nghe hắn lên tiếng "Đúng!" khẳng định, nhịn không được kinh ngạc nghĩ: “Khánh Kỵ có quá cuồng vọng không? Người của Triển Chích nhìn thì như đám ô hợp, nhưng đó đều là bọn cướp cạn kiêu ngạo không có tính người.”

Lúc này Nhâm Băng Nguyệt đã sớm tập hợp hơn mười chiến thuyền lớn, phân phó nhanh chóng đưa xe lên thuyền, sau đó lập tức đưa người trở lại, nghe thấy Khánh Kỵ bảo Anh Đào chuyển lời như vậy thì không khỏi biến sắc kinh hãi nói: 

- Hắn điên rồi phải không? Cái gọi là địch vạn người, chỉ đáng khen cái dũng lực của hắn mà thôi, ngàn quân chém giết, đao kiếm vô tình, người không dũng mãnh như hắn thì phải làm thế nào đây? Hắn... thật sự là nói như vậy ư?

Anh Đào mỉm cười gật đầu, nói: 

- Công tử nhà ta nói, nếu cô nương không yên lòng, thỉnh ở chỗ này lập một đạo phòng tuyến, xem người chơi đùa với địch nhân. Tại hạ phải quay trở về trận trước đã.

Nhâm Nhược Tích gật gật đầu, nhìn hắn quay trở về đội hình của Khánh Kỵ, rồi phân phó với Thái Thành: 

- Sau khi đưa hết xe ngựa lên thuyền xong, ngươi ở chỗ này cấp tốc lập một đạo phòng tuyến thứ hai cho ta.

Bởi vì hai trăm sĩ tốt trước mặt ngăn cản tầm mắt, không thể nhìn rõ được động tĩnh của Triển Chích bên kia, Nhâm Nhược Tích dứt lời liền xoay người xuống ngựa, dẫn theo vài tên gia tướng đi lên đồi cao để nhìn.

Đường lên đồi cao là một sườn dốc, bên trên lại tương đối bằng phẳng, trên sườn dốc tràn đầy cỏ xanh, lại có một vài cây nhỏ, bám sâu vào đất, có thể bám vào đó để trèo lên. Nhâm Băng Nguyệt thấy tỷ tỷ trèo lên sườn núi, liền cũng xuống ngựa, trèo lên theo sau, từ trên cao ngóng về phía trước.

Ở sơn khẩu, mắt Khánh Kỵ nhìn thấy Triển Chích sắp dẫn người vọt tới, liền thong dong phân phó: 

- Lương Hổ Tử dẫn nhân mã của mình tản ra bụi cỏ bên trái, lập một tiểu trận. Quân của Đông Cẩu là quân ở trung tâm của bản công tử, Anh Đào, quân người ngươi tản sang cánh phải, mượn sườn núi cao để chuẩn bị đánh lén. Bộ hạ của ngươi non nửa vẫn còn dùng giáo, sau trận đại chiến này có thể đổi sang dùng binh khí sắc bén hơn, ha ha...

Ba binh vệ mắt thấy chủ tướng tin tưởng mười phần, trong lòng tuy rằng bồn chồn, trên mặt cũng không dám biểu hiện ra ngoài, vội y theo hắn mà sắp xếp lại đội hình, chia ra chiếm cứ các vị trí có lợi.

Một lát sau, nhân mã của Triển Chích đã đánh tới. Bọn đạo tặc này thân thể cường tráng, lướt đi như bay, cầm trường mâu đoản kiếm, dọc đường hò hét ầm ỹ. Chạy đường dài như vậy, bọn đạo tặc cũng đã đổ mồ hôi đầy đầu. Nhưng mà bọn hắn biết đối phương ít người, hơn nữa nơi này không phải trong thành, không lo lắng Khánh Kỵ sẽ có viện binh tương trợ, mắt thấy tiền tài nữ tử ở ngay bên bờ sông, dễ như trở bàn tay, một đám sĩ khí trào dâng, chiến ý đại tăng.

Ở giữa băng cướp có một con ngựa nhỏ đang lướt nhanh, ngồi trên ngựa chính là Triển Chích, tuy là ngựa nhỏ, nhưng tay áo phần phật, râu tóc tung bay, thoạt nhìn lại có vẻ mười phần uy vũ. Triển Chích ngay lập tức quát tháo liên mồm, không ngừng thúc giục bộ hạ đi tới, mắt thấy có thể quét sạch được mối nhục, Triển Chích nhịn không được cười một tiếng thật dài.

Tiếng vó ngựa tiếng hô hét khiến cho vô số chim chóc kinh sợ bay lượn một vòng cũng không dám hạ xuống, nhất thời tạo ra kỳ quan. Mây cao đồng rộng, cây cỏ rạp xuống như sóng, sơn khẩu ở trước mặt xuất hiện một mảnh rừng kim loại. Vô số đại kích trường mâu sắc bén gộp lại thành một vùng, um tùm nghênh đón băng cướp của Triển Chích. Ba đội hình này mặc dù không quá lớn, nhưng mà tác phong nghiêm chỉnh, sát khí trùng trùng, khiến cho kẻ thịnh nộ mà đến Triển Chích cũng không khỏi âm thầm tán thưởng: Khánh Kỵ kẻ này, quả là có tài cầm quân.

Ánh mắt hắn chợt lóe, liền chú ý tới sự tồn tại của Khánh Kỵ. Đứng độc lập ở trước rừng thương và mâu, có một vị tướng quân trẻ tuổi đang cầm mâu cưỡi ngựa. Hắn vững vàng ngồi trên lưng ngựa, trong tay cầm một cây trường mâu, mũi mâu hướng xuống dưới, ánh mặt trời chiếu lên lưỡi mâu làm phát ra tia sáng lạnh lẽo, như muốn đâm thủng hai mắt của người khác.

Khánh Kỵ, hắn nhất định là Khánh Kỵ!

Ánh mắt hai người cách nhau khoảng hơn mười trượng đột nhiên chạm nhau, hai mắt Triển Chích híp lại, khóe miệng lộ ra một nụ cười gằn, hắn đá vào bụng ngựa, đột nhiên tăng tốc, rời khỏi trận, một mình phóng nhanh về phía trước nghênh đón. Khánh Kỵ cũng cười, nụ cười vừa lộ ra, hắn đột nhiên hét lớn một tiếng, ném mâu về hướng thị vệ A Cừu, nhảy một cái xuống ngựa, chạy nhanh về hướng Triển Chích.

Đông Cẩu ở trong trận của Khánh Kỵ thấy thế thì kinh hãi, muốn hạ lệnh cho toàn quân đánh lén cũng đã không còn kịp rồi, chỉ thấy Khánh Kỵ chạy nhanh về phía trước như điên, Triển Chích cũng thúc ngựa rất cấp bách, khoảng cách giữa hai bên trong khoảnh khắc ngắn lại, Khánh Kỵ bước dài về phía trước, đón đầu đánh lên con ngựa cao lớn.

Triển Chích cưỡi ngựa chỉ là thay cho đi bộ, dưới chân không có bàn đạp, không thể phát ra khí lực, cũng vô pháp sử dụng binh khí dài, cho nên hắn chỉ đeo một thanh đoản kiếm, vừa thấy Khánh Kỵ một mình vọt tới, Triển Chích ngay lập tức hét lớn một tiếng, vung kiếm đánh xuống. Đáng tiếc kiếm dài không quá hai xích, Khánh Kỵ ở dưới thân ngựa thân thủ linh hoạt, lắc hông tránh khỏi một kiếm này, lập tức hét lớn một tiếng, một thiết quyền nặng nề đánh vào tai của con ngựa.

Hắn biết thương thế của chính mình còn chưa khỏi hẳn, lúc này nhiều lắm cũng chỉ có thể sử ra bảy phần lực, cho nên mượn một chút khéo léo, sau khi đánh ra một quyền, dưới chân lại hung hăng đạp vào chân ngựa, con ngựa này cũng không phải là ngựa tốt, chịu một quyền một chân của hắn, rốt cuộc không đứng yên được, "Uỵch" một tiếng ngã ra mặt đất, khiến cho bụi đất bay lên mù mịt.

Triển Chích thân thủ linh hoạt, khi chiến mã khuynh đảo đã từ trên lưng ngựa nhảy xuống, một kiếm đâm về Khánh Kỵ, Khánh Kỵ lắc mình rút kiếm, sắc bén đáp trả một kiếm, 'Keng' một tiếng song kiếm chạm nhau, đều tự âm thầm rùng mình: “Khí lực của hắn thật lớn”. Khánh Kỵ nhân cơ hội thối lui vài bước, cao giọng nói to: 

- Dừng lại, nghe ta nói một lời!

Triển Chích giương kiếm ngang ngực, mắt liếc nhìn hắn, lạnh nhạt cười nói: 

- Ngươi chính là Khánh Kỵ? Lúc này ở đây còn muốn nói cái gì, là muốn quỳ xuống trước Triển mỗ xin tha, hay là muốn giao phó lại một câu di ngôn?

Khánh Kỵ cười ha ha, cất cao giọng nói: 

- Triển Chích, bản công tử đêm qua khao khát được đánh một trận với ngươi, không ngờ ngươi không đánh đã chạy, thiện hạ đệ nhất đạo tặc, có điều chỉ là hư danh, thực là nghe tên không bằng gặp mặt, khiến cho bản công tử thất vọng. Hôm nay ngươi dẫn nhiều người tới đây, là muốn dùng đa số thắng thiểu số sao? Hừ! Ở trong mắt bản công tử, ngươi cho dù có là đạo tặc hoành hành Tề Lỗ, cũng chỉ là một đám ô hợp, bản công tử có cái gì phải sợ?

Băng cướp của Triển Chích nghe thấy vậy thì xôn xao, nhưng Triển Chích lại không bị chọc giận, hắn vừa muốn chế giễu lại, thì Khánh Kỵ vẻ mặt ngạo nghễ lại nói: 

- Khánh Kỵ hành sự từ trước tới nay luôn quang minh lỗi lạc, gặp các ngươi một đường chạy như điên tới, chạy tới mức thở không ra hơi, giống hệt như một đám chó nhà có tang. Bản công tử nếu tấn công lúc quân địch mệt mỏi, thì có thắng cũng chẳng có gì oai phong, truyền ra ngoài sẽ làm bẩn thanh danh của bản công tử. Các ngươi cứ tạm nghỉ ngơi ngay tại chỗ, chờ hết thở gấp rồi sẽ cùng đại chiến với quân ta, trận chiến hôm nay của bản công tử, muốn các ngươi phải chết tâm phục khẩu phục!

Lời Khánh Kỵ vừa nói ra, người ở trận doanh bên hắn nghe xong cũng 'Ồ' lên, Triển Chích đầu tiên là ngẩn ra, lập tức cười hô hố, hắn chỉ nghe danh Khánh Kỵ anh dũng lưu truyền khắp thiên hạ, chỉ có điều tuyệt đối không nghĩ tới Khánh Kỵ lúc này chỉ có hai trăm binh sĩ, ở vào cục diện bất lợi lấy ít địch nhiều mà còn muốn noi theo "Bất kích bán độ" (1) của Tống Tương công, trên đời lại có kẻ ngu dốt như thế, thật sự là khiến cho thiên hạ phải bái phục.

Triển Chích hữu dũng hữu mưu, không phải là một kẻ mãng phu chỉ biết dũng cảm gan dạ, nghe vậy thì cảm thấy mừng rỡ, lại còn sợ Khánh Kỵ thay đổi chủ ý, lập tức đáp: 

- Tốt! Khánh Kỵ công tử đã sợ thắng mà không oai, Triển Chích ta đây liền thành toàn cho ngươi một phần nhân nghĩa, ha ha ha..., các huynh đệ, nghỉ ngơi đi cho ta, khôi phục khí lực, sẽ đánh một trận với Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ!

Khánh Kỵ nghe xong liền mỉm cười, bước quay lại trận của chính mình, hắn vừa mới quay lại, Đông Cẩu, Lương Hổ Tử, Anh Đào liền đồng loạt chạy vội tới, góp lời khuyên can hắn. Lương Hổ Tử mặt vô cùng lo lắng nói: 

- Công tử, tuyệt đối không thể được, nhân số của chúng ta đã ít hơn Triển Chích, lại để cho bọn chúng khôi phục khí lực, khi đó lại đánh thì quân ta sẽ gặp bất lợi rất lớn.

- Đúng vậy đúng vậy, nhân mã Triển Chích hơn ta những năm lần, lúc này nghênh địch chính là lấy ít địch nhiều, ai dám nhạo báng công tử thắng mà không oai? Công tử, chúng ta không thể quản nhiều như vậy, nếu không người chịu thiệt sẽ là chính mình đó.

Khánh Kỵ nhẹ nhàng cười, nói: 

- Đừng vội đừng vội, các ngươi là sợ ta bước vào vết xe đổ của Tống Tương công sao? Tống Tương công không biết tự lượng sức mình, chỉ biết nói suông nhân nghĩa, bản công tử như thế nào có thể noi theo cái đạo lý nhân nghĩa của hắn để mà làm trò cười cho thiên hạ? Sĩ tốt của Triển Chích tuy rằng mệt mỏi, nhưng sĩ khí vẫn cao như vậy, thể lực chưa tiêu hao, lại đông người hơn, chúng ta cho dù lấy khỏe ứng mệt, nhưng hảo hán khó địch bốn người, chắc gì đã có thể thắng được. Bọn họ hiện giờ dừng lại nghỉ ngơi, cơ hội thắng của chúng ta mới thật sự tới.

Ba binh vệ nghe vậy thì nhất tề ngẩn ra, chần chừ một lúc, Đông Cẩu kinh ngạc nói: 

- Kế của công tử có phải là để yên ổn quân tâm? Hay là... hay là công tử đã thông tri tin tức cho Công Tôn Quyển Nhĩ đại phu, đợi lát nữa hắn sẽ dẫn binh tới cứu viện?

Khánh Kỵ bật cười nói: 

- Ta cũng không phải là thần nhân, dẫn quân hộ tống chỉ là phòng ngừa vạn nhất, làm sao đoán trước được Triển Chích sẽ đuổi theo? Tới giờ khắc này làm thế nào mà thông tri cho Công Tôn đại phu được. Ha hả, kế này của ta, kỳ thật cũng không có gì kỳ diệu, hơn nữa chỉ có thể dùng một lần, lần sau dùng lại là sẽ mất linh, các ngươi đưa lỗ tai lại đây, bản công tử nói cho mà nghe.

Ba người tiến lại gần, Khánh Kỵ to nhỏ với ba người bọn họ một trận, ba người nghe xong đầu tiên là thần tình mê hoặc, nháy nháy mắt cẩn thận suy nghĩ một chút, rồi lại lộ ra thần sắc bừng tỉnh đại ngộ. Nét vui mừng lộ rõ trên mặt Anh Đào: 

- Chuyện tình tầm thường như vậy, lại có thể dùng để khắc chế thắng địch, nếu không phải công tử nói rõ, có đánh vỡ đầu ta, kẻ hèn này cũng không thể nghĩ được, ha ha, rất thú vị, rất thú vị.

Lương Hổ Tử cùng Đông Cẩu hào hứng tràn trề cũng muốn nói ra, Khánh Kỵ nháy mắt, quát khẽ: 

- Chớ có lên tiếng, lại khiến cho Triển Chích nổi lên lòng nghi ngờ, nhanh chóng quay về trận chờ mệnh.

- Rõ! 

Ba binh vệ chắp tay lui ra, đều tự chạy về trận mình, xoa tay nhìn nhân mã Triển Chích, cả một đám cứ nhe răng ra cười, giống như bọn kia là một đàn sơn dương đang chờ được làm thịt vậy.

Con ngựa của Triển Chích bị gãy một chân, ngã xuống mặt đất không đứng dậy được, Triển Chích liền một kiếm cắt đứt yết hầu của nó, khoanh chân ngồi trước trận, đặt ngang kiếm trên đầu gối, cười lạnh nhìn về phía quân Khánh Kỵ, quan sát nhất cử nhất động của bọn họ, sợ Khánh Kỵ lại lặng lẽ dùng cái quỷ kế gì đó, mắt thấy Khánh Kỵ vẫn không chia người ra, cũng không có một người trốn thoát, bộ hạ ở trên cao cũng không có ai lặng lẽ trốn vào trong bụi cỏ, Triển Chích dần dần an tâm, hắn lại không hề biết rằng, lúc này hắn đã trúng kế của Khánh Kỵ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro