Những lời dạy vượt thời gian của ngài Ajahn Chah (Từ chương 26 đến chương 30)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 26

DETACHMENT WITHIN ACTIVITY – XẢ LY TRONG SINH HOẠT

Chương 27

TRAINING THIS MIND – TU TẬP TÂM NÀY

Chương 28

TRANQUILLITY AND INSIGHT - VỀ THIỀN TẬP

Chương 29

THE PATH IN HARMONY - CON ĐƯỜNG HÒA HỢP

Chương 30

RIGHT VIEW - THE PLACE OF COOLNESS - CHÁNH KIẾN – NƠI MÁT LÀNH

***

Chương 26

DETACHMENT WITHIN ACTIVITY – XẢ LY TRONG SINH HOẠT

A Dhamma talk by Ajahn Chah Sammā Samādhi - Detachment Within Activity Take a look at the example of the Buddha. Both in his own practice and in his methods for teaching the disciples he was exemplary. The Buddha taught the standards of practice as skillful means for getting rid of conceit, he couldn't do the practice for us. having heard that teaching we must further teach ourselves, practice for ourselves. The results will arise here, not at the teaching.

Một bài nói chuyện Dhamma của Ajahn Chah Sammā Samādhi - Sự xả ly trong sinh hoạtHãy nhìn vào ví dụ của Đức Phật. Cả trong thực hành riêng và trong phương pháp giảng dạy các môn đệ, Ngài đều gương mẫu. Đức Phật đã dạy các tiêu chuẩn thực hành như những phương tiện khéo léo để loại bỏ sự kiêu ngạo, tự phụ, Ngài không thể thực hành cho chúng ta. Nghe nói rằng giảng dạy chúng ta phải tự dạy dỗ chính mình, thực hành cho chính mình. Kết quả sẽ phát sinh ở đây, không phải ở việc giảng dạy.

The Buddha's teaching can only enable us to get an initial understanding of the Dhamma, but the Dhamma is not yet within our hearts. Why not? Because we haven't yet practiced, we haven't yet taught ourselves. The Dhamma arises at the practice. If you know it, you know it through the practice. If you doubt it, you doubt it at the practice. Teachings from the Masters may be true, but simply listening to Dhamma is not yet enough to enable us to realize it. The teaching simply points out the way to realize. To realize the Dhamma we must take that teaching and bring it into our hearts. That part which is for the body we apply to the body, that part which is for the speech we apply to the speech, and that part which is for the mind we apply to the mind. This means that after hearing the teaching we must further teach ourselves to know that Dhamma, to be that Dhamma.

Giáo lý của Đức Phật chỉ có thể giúp chúng ta có được sự hiểu biết ban đầu về Dhamma, nhưng Dhamma vẫn chưa ở trong tâm của chúng ta. Tại sao vậy? Bởi vì chúng ta chưa thực hành, chúng ta chưa tự dạy dỗ chính mình. Dhamma phát sinh tại thực hành. Nếu bạn biết nó, bạn biết nó thông qua thực hành. Nếu bạn nghi ngờ nó, bạn nghi ngờ nó trong lúc thực hành. Giáo lý từ các Đạo sư có thể đúng, nhưng chỉ lắng nghe Dhamma thì chưa đủ để giúp chúng ta chứng ngộ được nó. Việc giảng dạy chỉ đơn giản chỉ ra cách để nhận ra. Để chứng ngộ được Giáo Pháp, chúng ta phải tiếp nhận giáo lý đó và mang nó vào tâm của chúng ta. Phần đó dành cho thân chúng ta áp dụng cho thân, phần đó dành cho lời nói mà chúng ta áp dụng cho lời nói, và phần đó dành cho tâm chúng ta áp dụng cho tâm . Điều này có nghĩa là sau khi nghe giáo lý, chúng ta phải tự dạy dỗ chính mình thêm để biết Pháp đó, đó chính là Pháp.

The Buddha said that those who simply believe others are not truly wise. A wise person practices until he is one with the Dhamma, until he can have confidence in himself, independent of others.

Đức Phật nói rằng những người chỉ đơn thuần tin người khác thì không thực sự khôn ngoan. Một người khôn ngoan thực hành cho đến khi anh ta trở nên là một với Giáo Pháp, cho đến khi anh ta có thể tự tin vào chính mình, không lệ thuộc với người khác.

On one occasion, while Venerable Sāriputta was sitting, listening respectfully at his feet as the Buddha expounded the Dhamma, the Buddha turned to him and asked, ''Sāriputta, do you believe this teaching?' Venerable Sāriputta replied, ''No, I don't yet believe it.'' Now this is a good illustration. Venerable Sāriputta listened, and he took note. When he said he didn't yet believe he wasn't being careless, he was speaking the truth. He simply took note of that teaching, because he had not yet developed his own understanding of it, so he told the Buddha that he didn't yet believe - because he really didn't believe. These words almost sound as if Venerable Sāriputta was being rude, but actually he wasn't. He spoke the truth, and the Buddha praised him for it. ''Good, good, Sāriputta. A wise person doesn't readily believe, he should consider first before believing.''

Vào một dịp nọ, trong khi Đại đức Sāriputta đang ngồi, kính cẩn lắng nghe dưới chân ngài khi Đức Phật giảng Pháp, Đức Phật quay sang ngài và hỏi, "Sāriputta, ông có tin lời dạy này không?" Đại đức Sāriputta trả lời: "Không, tôi chưa tin". Bây giờ đây là một minh họa tốt. Đại đức Sāriputta lắng nghe, và ngài lưu ý. Khi anh ta nói rằng anh ta chưa tin rằng mình không bất cẩn, anh ta đang nói sự thật. Ông chỉ đơn giản lưu ý đến giáo lý đó, bởi vì ông chưa phát triển sự hiểu biết của riêng mình về nó, vì vậy ông nói với Đức Phật rằng ông chưa tin - bởi vì ông thực sự không tin. Những lời này gần như nghe như thể Đại đức Sāriputta đang thô lỗ, nhưng thực ra ngài không phải vậy. Ngài đã nói sự thật, và Đức Phật đã ca ngợi Ngài về điều đó. "Tốt, tốt, Sāriputta. Một người khôn ngoan không dễ dàng tin, anh ta nên cân nhắc trước khi tin."

Conviction in a belief can take various forms. One form reasons according to Dhamma, while another form is contrary to the Dhamma. This second way is heedless, it is a foolhardy understanding, micchā-ditthi, wrong view. One doesn't listen to anybody else. Take the example of Dīghanakha the Brahman. This Brahman only believed himself, he wouldn't believe others. At one time when the Buddha was resting at Rājagaha, Dīghanakha went to listen to his teaching. Or you might say that Dīghanakha went to teach the Buddha because he was intent on expounding his own views...

Niềm tin trong một niềm tin có thể có nhiều hình thức khác nhau. Một hình thức lý luận theo Dhamma, trong khi một hình thức khác trái ngược với Dhamma. Cách thứ hai này là sự phóng dật, đó là một sự hiểu biết ngu ngốc, micchā-ditthi, quan điểm sai lầm- tà kiến. Con người với niềm tin như vậy thì không thể lắng nghe bất cứ ai khác. Lấy ví dụ về Dīghanakha the Brahman. Người Bà la môn này chỉ tin chính mình, anh ta không tin người khác. Vào một thời điểm khi Đức Phật đang nghỉ ngơi tại Rājagaha, Dīghanakha đã đến lắng nghe giáo lý của Ngài. Hoặc bạn có thể nói rằng Dīghanakha đã đến với mục đích để dạy Đức Phật bởi vì ông ấy có ý định giải thích quan điểm của riêng mình ...

''I am of the view that nothing suits me.''

This was his view. The Buddha listened to Dīghanakha's view and then answered,

''Brahman, this view of yours doesn't suit you either.''

When the Buddha had answered in this way, Dīghanakha was stumped. He didn't know what to say. The Buddha explained in many ways, till the Brahman understood. He stopped to reflect and saw....

''Hmm, this view of mine isn't right.''

"Tôi có quan điểm rằng không có gì phù hợp với tôi."

Đây là quan điểm của ông. Đức Phật lắng nghe quan điểm của Dīghanakha và sau đó trả lời:

"Brahman, quan điểm này của ông cũng không phù hợp với chính ông."

Khi Đức Phật trả lời theo cách này, Dīghanakha đã bối rối. Hắn không biết nên nói cái gì. Đức Phật giải thích bằng nhiều cách, cho đến khi Brahman hiểu. Anh dừng lại để suy ngẫm phản tỉnh và thấy....

"Hừm, quan điểm này của mình không đúng."

On hearing the Buddha's answer the Brahman abandoned his conceited views and immediately saw the truth. He changed right then and there, turning right around, just as one would invert one's hand. He praised the teaching of the Buddha thus: ''Listening to the Blessed One's teaching, my mind was illumined, just as one living in darkness might perceive light. My mind is like an overturned basin which has been uprighted, like a man who has been lost and finds the way.''

Khi nghe câu trả lời của Đức Phật, Brahman đã từ bỏ quan điểm tự phụ của mình và ngay lập tức nhìn thấy sự thật. Anh ta thay đổi ngay lúc đó, quay sang quan diểm của mình, giống như người ta sẽ đảo ngược bàn tay của mình. Ngài ca ngợi lời dạy của Đức Phật như sau: "Lắng nghe lời dạy của Đức Phật, tâm tôi được soi sáng, giống như một người sống trong bóng tối có thể cảm nhận được ánh sáng. Tâm tôi giống như một cái chậu bị lật ngược đã được lật lại, giống như một người đã bị lạc đường và tìm thấy lối ra.

Now at that time a certain knowledge arose within his mind, within that mind which had been uprighted. Wrong view vanished and right view took its place. Darkness disappeared and light arose.

Bây giờ vào lúc đó, một sự hiểu biết nào đó nảy sinh trong tâm anh ta, tâm đã được làm ngay thẳng. Quan điểm sai lầm biến mất và quan điểm đúng đắn đã thay thế nó. Bóng tối biến mất và ánh sáng phát sinh.

The Buddha declared that the Brahman Dīghanakha was one who had opened the Dhamma Eye. Previously Dīghanakha clung to his own views and had no intention of changing them. But when he heard the Buddha's teaching his mind saw the truth, he saw that his clinging to those views was wrong. When the right understanding arose he was able to perceive his previous understanding as mistaken, so he compared his experience with a person living in darkness who had found light. This is how it is. At that time the Brahman Dīghanakha transcended his wrong view.

Đức Phật tuyên bố rằng Brahman Dīghanakha là người đã mở Pháp nhãn. Trước đây, Dīghanakha bám vào quan điểm của riêng mình và không có ý định thay đổi chúng. Nhưng khi nghe lời dạy của Đức Phật, tâm của ông đã thấy sự thật, ông thấy rằng sự bám chấp của mình vào những quan điểm đó là sai lầm. Khi sự hiểu biết đúng đắn nảy sinh, anh ta có thể hiểu được rằng hiểu biết trước đây của mình là sai lầm, vì vậy anh ta so sánh kinh nghiệm của mình với một người sống trong bóng tối đã tìm thấy ánh sáng. Sự việc là như vậy. Vào lúc đó, Brahman Dīghanakha đã vượt qua quan điểm sai lầm của mình. (kinh Trường Trảo, bài 74 Trung Bộ Kinh)

Now we must change in this way. Before we can give up defilements we must change our perspective. We must begin to practice rightly and practice well. Previously we didn't practice rightly or well, and yet we thought we were right and good just the same. When we really look into the matter we upright ourselves, just like turning over one's hand. This means that the ''one who knows,'' or wisdom, arises in the mind, so that it is able to see things anew. A new kind of awareness arises.

Bây giờ chúng ta phải thay đổi theo cách này. Trước khi chúng ta có thể từ bỏ ô nhiễm, chúng ta phải thay đổi quan điểm của mình. Chúng ta phải bắt đầu thực hành đúng đắn và thực hành tốt. Trước đây chúng ta đã không thực hành đúng hay tốt, nhưng chúng ta nghĩ rằng chúng tađúng và tốt như nhau. Khi chúng ta thực sự nhìn vào vấn đề, chúng ta đứng thẳng chính mình, giống như lật bàn tay của một người. Điều này có nghĩa là "người biết", hay trí tuệ, phát sinh trong tâm, để nó có thể nhìn thấy mọi thứ theo một cách khác. Một loại nhận thức mới phát sinh.

Therefore cultivators must practice to develop this knowing, which we call Buddho, the one who knows, in their minds. Originally the one who knows is not there, our knowledge is not clear, true or complete. This knowledge is therefore too weak to train the mind. But then the mind changes, or inverts, as a result of this awareness, called wisdom or insight, which exceeds our previous awareness. That previous ''one who knows'' did not yet know fully and so was unable to bring us to our objective.

Do đó, người tu luyện phải thực hành để phát triển sự hiểu biết này, mà chúng ta gọi là Buddho, người biết, trong tâm của họ. Ban đầu người biết không có ở đó, kiến thức của chúng ta không rõ ràng, đúng hay đầy đủ. Do đó, kiến thức này quá yếu để rèn luyện tâm. Nhưng sau đó tâm thay đổi, hoặc đảo ngược, là kết quả của nhận thức này, được gọi là trí tuệ hoặc tuệ giác, vượt quá nhận thức trước đây của chúng ta. "Người biết" trước đó chưa biết đầy đủ và vì vậy không thể đưa chúng ta đến mục tiêu của mình.

The Buddha therefore taught to look within, opanayiko. Look within, don't look outwards. Or if you look outwards then look within, to see the cause and effect therein. Look for the truth in all things, because external objects and internal objects are always affecting each other. Our practice is to develop a certain type of awareness until it becomes stronger than our previous awareness. This causes wisdom and insight to arise within the mind, enabling us to clearly know the workings of the mind, the language of the mind and the ways and means of all the defilements.

Do đó, Đức Phật dạy hãy nhìn vào bên trong, opanayiko. Hãy nhìn vào bên trong, đừng nhìn ra bên ngoài. Hoặc nếu bạn nhìn ra bên ngoài thì hãy nhìn vào bên trong, để thấy nhân quả trong đó. Hãy tìm kiếm sự thật trong tất cả mọi thứ, bởi vì các đối tượng bên ngoài và các đối tượng bên trong luôn ảnh hưởng lẫn nhau. Thực hành của chúng ta là phát triển một loại nhận thức nào đó cho đến khi nó trở nên mạnh mẽ hơn nhận thức trước đây của chúng ta. Điều này làm cho trí tuệ và tuệ giác phát sinh trong tâm, giúp chúng ta biết rõ hoạt động của tâm, ngôn ngữ của tâm và cách thức và phương thức vận hành của tất cả các ô nhiễm.

The Buddha, when he first left his home in search of liberation, was probably not really sure what to do, much like us. He tried many ways to develop his wisdom. He looked for teachers, such as Uddaka Rāmaputta, going there to practice meditation... right leg on left leg, right hand on left hand... body erect... eyes closed... letting go of everything... until he was able to attain a high level of absorption samādhi . But when he came out of that samādhi his old thinking came up and he would attach to it just as before. Seeing this, he knew that wisdom had not yet arisen. His understanding had not yet penetrated to the truth, it was still incomplete, still lacking. Seeing this he nonetheless gained some understanding - that this was not yet the summation of practice - but he left that place to look for a new teacher. When the Buddha left his old teacher he didn't condemn him, he did as does the bee which takes nectar from the flower without damaging the petals.

Đức Phật, khi Ngài lần đầu tiên rời khỏi nhà để tìm kiếm giải thoát, có lẽ đã không thực sự biết chắc phải làm gì, giống như chúng ta. Ngài đã thử nhiều cách tu tập khác nhau để phát triển trí tuệ của mình. Ngài tìm kiếm những vị thầy, chẳng hạn như Uddaka Rāmaputta, đến đó để thực hành thiền định. chân phải chân trái, tay phải tay trái... thân cương cứng... nhắm mắt... Buông bỏ mọi thứ... cho đến khi Ngài có thể đạt được một mức độ tầng thiền cao Samādhi. Nhưng khi Ngài xuất định đó, tư tưởng cũ của Ngài xuất hiện, và Ngài vẫn bám chấp vào nó như trước đây. Nhìn thấy điều này, Ngài biết rằng trí tuệ vẫn chưa phát sinh. Sự hiểu biết của Ngài vẫn chưa thâm nhập vào sự thật, nó vẫn chưa đầy đủ, vẫn còn thiếu. Tuy nhiên, khi thấy điều này, Ngài đã đạt được một số hiểu biết - rằng đây chưa phải là tất cả của thực hành - Ngài đã rời khỏi nơi đó để tìm một vị thầy mới. Khi Đức Phật rời bỏ vị thầy cũ của mình, Ngài đã không chê bai ông ta, Ngài đã làm như con ong lấy mật hoa từ bông hoa mà không làm hỏng cánh hoa.

The Buddha then proceeded on to study with Ālāra Kālāma and attained an even higher state of samādhi, but when he came out of that state Bimba and Rāhula3 came back into his thoughts again, the old memories and feelings came up again. He still had lust and desire. Reflecting inward he saw that he still hadn't reached his goal, so he left that teacher also. He listened to his teachers and did his best to follow their teachings. He continually surveyed the results of his practice, he didn't simply do things and then discard them for something else. Even when it came to ascetic practices, after he had tried them he realized that starving until one is almost skeleton is simply a matter for the body. The body doesn't know anything. Practicing in that way was like executing an innocent person while ignoring the real thief. When the Buddha really looked into the matter he saw that practice is not a concern of the body, it is a concern of the mind. Attakilamathānuyogo (self-mortification) - the Buddha had tried it and found that it was limited to the body. In fact, all Buddhas are enlightened in mind. Whether in regard to the body or to the mind, just throw them all together as transient, imperfect and ownerless - aniccam, dukkham and anattā. They are simply conditions of nature. They arise depending on supporting factors, exist for a while and then cease. When there are appropriate conditions they arise again; having arisen they exist for a while, then cease once more. These things are not a ''self,'' a ''being,'' an ''us'' or a ''them.'' There's nobody there, simply feelings. Happiness has no intrinsic self, suffering has no intrinsic self. No self can be found, there are simply elements of nature which arise, exist and cease. They go through this constant cycle of change.

Sau đó, Đức Phật tiếp tục học với Ālāra Kālāma và đạt được trạng thái samādhi thậm chí còn cao hơn nữa (Trung Bộ, bài 26,Kinh Thánh Cầu, hay bài 85, kinh Bồ Đề Vương Tử), nhưng khi Ngài thoát ra khỏi trạng thái đó Bimba và Rāhula trở lại trong suy nghĩ của mình một lần nữa, những ký ức và cảm xúc cũ lại xuất hiện. Ngài vẫn còn ham muốn và ham muốn. Ngẫm nghĩ trong lòng, Ngài thấy mình vẫn chưa đạt được mục tiêu của mình, vì vậy Ngài cũng rời bỏ người thầy đó. Ông lắng nghe các vị thầy của mình và cố gắng hết sức để tuân theo những lời dạy của họ. Ngài liên tục khảo sát kết quả thực hành của mình, Ngài không chỉ đơn giản là làm mọi thứ và sau đó loại bỏ chúng để làm việc khác. Ngay cả khi nói đến các thực hành khổ hạnh, sau khi Ngài đã thử chúng, Ngài nhận ra rằng đói cho đến khi một người gần như là bộ xương chỉ đơn giản là một vấn đề đối với thân. Nhưng thân thì không biết gì cả. Thực hành theo cách đó giống như xử tử một người vô tội trong khi bỏ qua tên trộm thực sự. Khi Đức Phật thực sự nhìn vào vấn đề, Ngài thấy rằng thân không thực hành, nó là mối quan tâm của tâm . Attakilamathānuyogo (tự hành xác) - Đức Phật đã thử nó và thấy rằng nó bị giới hạn trong thân. Trên thực tế, tất cả chư Phật đều giác ngộ trong tâm. Cho dù liên quan đến thân hay tâm , chỉ cần ném tất cả chúng lại với nhau như thoáng qua, không hoàn hảo và vô chủ - aniccam, dukkham và anattā. Chúng chỉ đơn giản là hiện tượng sinh diệt của tự nhiên. Chúng phát sinh tùy thuộc vào các yếu tố hỗ trợ, tồn tại trong một thời gian và sau đó chấm dứt. Khi có điều kiện thích hợp, chúng lại phát sinh; Đã phát sinh chúng tồn tại trong một thời gian, sau đó chấm dứt một lần nữa. Những điều này không phải là một "cái ngã", một "chúng sinh", một "chúng ta" hay một "họ". Không có ai ở đó, chỉ đơn giản là cảm xúc. Hạnh phúc không có bản ngã nội tại, đau khổ không có bản ngã nội tại. Không thể tìm thấy bản ngã, chỉ đơn giản là có những yếu tố của tự nhiên phát sinh, tồn tại và chấm dứt. Chúng trải qua chu kỳ thay đổi liên tục này.

All beings, including humans, tend to see the arising as themselves, the existence as themselves, and the cessation as themselves. Thus they cling to everything. They don't want things to be the way they are, they don't want them to be otherwise. For instance, having arisen they don't want things to cease; having experienced happiness, they don't want suffering. If suffering does arise they want it to go away as quickly as possible, but even better if it doesn't arise at all. This is because they see this body and mind as themselves, or belonging to themselves, and so they demand those things to follow their wishes. This sort of thinking is like building a dam or a dike without making an outlet to let the water through. The result is that the dam bursts. And so it is with this kind of thinking. The Buddha saw that thinking in this way is the cause of suffering. Seeing this cause, the Buddha gave it up.

Tất cả chúng sinh, bao gồm cả con người, có xu hướng xem sự sinh ra là chính mình, sự tồn tại là chính mình và sự chấm dứt là chính mình. Vì vậy, họ bám vào mọi thứ. Họ không muốn. Mọi thứ là như vậy, họ không muốn chúng khác đi. Chẳng hạn, khi đã phát sinh, họ không muốn mọi thứ chấm dứt; Đã trải nghiệm hạnh phúc, họ không muốn đau khổ. Nếu đau khổ phát sinh, họ muốn nó biến mất càng nhanh càng tốt, nhưng thậm chí còn tốt hơn nếu nó không phát sinh. Điều này là bởi vì họ thấy thân và tâm này là chính họ, hoặc thuộc về chính họ, và vì vậy họ ra lệnh những điều đó làm theo mong muốn của họ. Kiểu suy nghĩ này giống như xây dựng một con đập hoặc một con đê mà không tạo ra một lối thoát để cho nước đi qua. Kết quả là đập vỡ. Và nó là như vậy với loại suy nghĩ này. Đức Phật thấy rằng suy nghĩ theo cách này là nguyên nhân của đau khổ. Nhìn thấy nguyên nhân này, Đức Phật đã từ bỏ nó.

This is the Noble Truth of the cause of suffering. The truths of suffering, its cause, its cessation and the way leading to that cessation... people are stuck right here. If people are to overcome their doubts it's right at this point. Seeing that these things are simply rūpa and nāma, or corporeality and mentality, it becomes obvious that they are not a being, a person, an ''us,'' or a ''them.'' They simply follow the laws of nature.

Đây là Chân lý cao quý của nguyên nhân của đau khổ. Sự thật về đau khổ, nguyên nhân của nó, sự chấm dứt của nó và con đường dẫn đến sự chấm dứt đó ... Mọi người đang mắc kẹt ngay tại đây. Nếu mọi người muốn vượt qua những nghi ngờ của họ thì đó là điều đúng đắn vào thời điểm này. Thấy rằng những điều này chỉ đơn giản là sắc rūpa và danh nāma, hay thể xác và tâm lý, rõ ràng là chúng không phải là một chúng sinh, một con người, một "chúng ta", hay một "họ". Họ chỉ đơn giản là tuân theo quy luật tự nhiên.

Our practice is to know things in this way. We don't have the power to really control these things, we aren't really their owners. Trying to control them causes suffering, because they aren't really ours to control. Neither body nor mind are self or others. If we know this as it really is then we see clearly. We see the truth, we are at one with it. It's like seeing a lump of red hot iron which has been heated in a furnace. It's hot all over. Whether we touch it on top, the bottom or the sides it's hot. No matter where we touch it, it's hot. This is how you should see things.

Pháp tu của chúng ta là biết mọi thứ theo cách này. Chúng ta không có quyền lực để thực sự kiểm soát những thứ này, chúng ta không thực sự là chủ sở hữu của chúng. Cố gắng kiểm soát chúng gây ra đau khổ, bởi vì chúng không thực sự là của chúng ta để kiểm soát. Cả thân và tâm đều không phải là tự ngã hay người khác. Nếu chúng ta biết điều này như nó thực sự là, thì chúng ta thấy rõ ràng. Chúng ta nhìn thấy sự thật, chúng ta hòa làm một với nó. Nó giống như nhìn thấy một cục sắt nóng đỏ đã được nung nóng trong lò. Nó nóng khắp cả. Cho dù chúng ta chạm vào nó ở trên, dưới cùng hay hai bên, nó đều nóng. Bất kể chúng ta chạm vào nó ở đâu, nó đều nóng. Đây là cách bạn nên nhìn mọi thứ.

Mostly when we start to practice we want to attain, to achieve, to know and to see, but we don't yet know what it is we're going to achieve or know. There was once a disciple of mine whose practice was plagued with confusion and doubts. But he kept practicing, and I kept instructing him, till he began to find some peace. But when he eventually became a bit calm he got caught up in his doubts again, saying, ''What do I do next?'' There! The confusion arises again. He says he wants peace but when he gets it, he doesn't want it, he asks what he should do next!

Hầu hết khi chúng ta bắt đầu thực hành, chúng ta muốn đạt được, thành tựu, biết và thấy, nhưng chúng ta chưa biết những gì chúng ta sẽ đạt được hoặc biết được điều gì. Đã từng có một đệ tử của tôi mà sự thực hành của ông bị cản trở bởi sự nhầm lẫn và nghi ngờ. Nhưng anh ấy vẫn tiếp tục tu luyện, và tôi tiếp tục hướng dẫn anh ấy, cho đến khi anh ấy bắt đầu tìm thấy sự bình an. Nhưng cuối cùng khi anh ta trở nên an tĩnh hơn một chút, anh ta lại bị cuốn vào những nghi ngờ của mình, nói, "Tôi phải làm gì tiếp theo?" Kia! Sự nhầm lẫn lại phát sinh. Anh ấy nói rằng anh ấy muốn có anbình nhưng khi anh ấy có được nó, anh ta không muốn nó, anh ấy hỏi anh ấy nên làm gì tiếp theo!

So in this practice we must do everything with detachment. How are we to detach? We detach by seeing things clearly. Know the characteristics of the body and mind as they are. We meditate in order to find peace, but in doing so we see that which is not peaceful. This is because movement is the nature of the mind.

Vì vậy, trong thực hành này, chúng ta phải làm mọi thứ với sự buông bỏ. Chúng ta phải tách ra như thế nào? Chúng ta tách rời bằng cách nhìn mọi thứ rõ ràng. Biết các đặc điểm của thân và tâm y như chúng thật là. Chúng ta thiền định để tìm sự bình an, nhưng khi làm như vậy chúng ta thấy điều không bình an. Điều này là do chuyển động là bản chất của tâm.

When practicing samādhi we fix our attention on the in and out-breaths at the nose tip or the upper lip. This ''lifting'' the mind to fix it is called vitakka, or ''lifting up.'' When we have thus ''lifted'' the mind and are fixed on an object, this is called vicāra, the contemplation of the breath at the nose tip. This quality of vicāra will naturally mingle with other mental sensations, and we may think that our mind is not still, that it won't calm down, but actually this is simply the workings of vicāra as it mingles with those sensations. Now if this goes too far in the wrong direction, our mind will lose its collectedness, so then we must set up the mind afresh, lifting it up to the object of concentration with vitakka. As soon as we have thus established our attention vicāra takes over, mingling with the various mental sensations.

Khi thực hành samādhi, chúng ta tập trung sự chú ý vào hơi thở vào và ra ở chóp mũi hoặc môi trên. Sự "nâng" tâm để gắn nó vào hơi thở được gọi là vitakka – tầm , hay "nâng lên". Do đó, khi chúng ta đã "nâng" tâm và gắn chặt vào một đối tượng, điều này được gọi là vicāra – tứ, sự quán chiếu hơi thở ở chóp mũi. Phẩm chất này của vicāra sẽ tự nhiên hòa trộn với những cảm xúc khác, và chúng ta có thể nghĩ rằng tâm mình không tĩnh lặng, rằng nó sẽ không tĩnh tâm, nhưng thật ra đây chỉ đơn giản là hoạt động của vicāra, khi nó hòa trộn với những cảm giác đó. Bây giờ nếu điều này đi quá xa theo hướng sai lầm, tâm của chúng ta sẽ mất đi sự tập trung của nó, vì vậy chúng ta phải thiết lập tâm một lần nữa, dùng tầm nâng nó lên đối tượng tập trung với vitakka. Ngay sau khi chúng ta đã thiết lập sự chú ý của mình, vicāra chiếm lĩnh, hòa lẫn với các cảm xúc khác nhau.

Now when we see this happening, our lack of understanding may lead us to wonder: ''Why has my mind wandered? I wanted it to be still, why isn't it still?'' This is practicing with attachment.

Bây giờ khi chúng ta thấy điều này xảy ra, sự thiếu hiểu biết có thể khiến chúng ta tự hỏi: "Tại sao tâm tôi lại lang thang? Tôi muốn nó tĩnh lặng, tại sao nó không an tĩnh?" Đây là thực hành với chấp trước.

Actually the mind is simply following its nature, but we go and add on to that activity by wanting the mind to be still and thinking, ''Why isn't it still?'' Aversion arises and so we add that on to everything else, increasing our doubts, increasing our suffering and increasing our confusion. So if there is vicāra, reflecting on the various happenings within the mind in this way, we should wisely consider... ''Ah, the mind is simply like this.'' There, that's the one who knows talking, telling you to see things as they are. The mind is simply like this. We let it go at that and the mind becomes peaceful. When it's no longer centered we bring up vitakka once more, and shortly there is calm again. Vitakka and vicāra work together like this. We use vicāra to contemplate the various sensations which arise. When vicāra becomes gradually more scattered we once again ''lift'' our attention with vitakka.

Trên thực tế, tâm chỉ đơn giản là đi theo bản chất của nó, nhưng chúng ta đi và thêm vào hoạt động đó bằng cách muốn tâm tĩnh lặng và suy nghĩ, "Tại sao nó không tĩnh lặng?" Sân hận phát sinh, nên ta thêm điều đó vào mọi thứ khác, làm gia tăng sự nghi ngờ, gia tăng nỗi khổ và gia tăng sự mê lầm của mình. Vì vậy, nếu có vicāra, quán chiếu về những sự kiện khác nhau trong tâm theo cách này, chúng ta nên xem xét một cách khôn ngoan ... "À, tâm chỉ đơn giản là như thế này."Đó, đó là người biết đang nói, bảo bạn nhìn mọi thứ như chúng là. Tâm đơn giản là như thế này. Chúng ta buông bỏ nó và tâm trở nên bình an. Khi nó không còn tập trung nữa, chúng ta đưa ra vitakka một lần nữa, và ngay sau đó có sự an tĩnh trở lại. Vitakka và vicāra làm việc cùng nhau như thế này. Chúng ta sử dụng vicāra để quán chiếu những cảm giác khác nhau phát sinh. Khi vicāra dần dần trở nên tán loạn hơn, chúng ta một lần nữa "nâng" sự chú ý của chúng ta bằng vitakka.

The important thing here is that our practice at this point must be done with detachment. Seeing the process of vicāra interacting with the mental sensations we may think that the mind is confused and become averse to this process. This is the cause right here. We aren't happy simply because we want the mind to be still. This is the cause - wrong view. If we correct our view just a little, seeing this activity as simply the nature of mind, just this is enough to subdue the confusion. This is called letting go.

Điều quan trọng ở đây là pháp tu của chúng ta vào thời điểm này phải được thực hiện với sự buông bỏ. Nhìn thấy quá trình vicāra tương tác với các cảm xúc, chúng ta có thể nghĩ rằng tâm bị nhầm lẫn và trở nên ác cảm với quá trình này. Đây là nguyên nhân ngay tại đây. Chúng ta không hạnh phúc đơn giản chỉ vì chúng ta muốn tâm tĩnh lặng. Đây là nguyên nhân - quan điểm sai lầm. Nếu chúng ta điều chỉnh quan điểm của mình một chút, xem hoạt động này chỉ đơn giản là bản chất của tâm, chỉ cần điều này là đủ để khuất phục sự mê lầm. Điều này được gọi là buông bỏ.

Now, if we don't attach, if we practice with ''letting go''... detachment within activity and activity within detachment... if we learn to practice like this, then vicāra will naturally tend to have less to work with. If our mind ceases to be disturbed, then vicāra will incline to contemplating Dhamma, because if we don't contemplate Dhamma the mind returns to distraction. So there is vitakka then vicāra, vitakka then vicāra, vitakka then vicāra and so on, until vicāra becomes gradually more subtle. At first vicāra goes all over the place. When we understand this as simply the natural activity of the mind, it won't bother us unless we attach to it. It's like flowing water. If we get obsessed with it, asking ''Why does it flow?'' then naturally we suffer. If we understand that the water simply flows because that's its nature then there's no suffering. Vicāra is like this. There is vitakka, then vicāra, interacting with mental sensations. We can take these sensations as our object of meditation, calming the mind by noting those sensations.

Bây giờ, nếu chúng ta không chấp trước, nếu chúng ta thực hành với "buông bỏ"... xả ly trong sinh hoạt sinh hoạt trong sự xả ly... Nếu chúng ta học cách thực hành như vậy, thì Vicāra sẽ tự nhiên có xu hướng ít làm việc hơn. Nếu tâm chúng ta không còn bị quấy rầy, thì vicāra sẽ có khuynh hướng suy ngẫm về Dhamma, bởi vì nếu chúng ta không quán chiếu Dhamma, tâm sẽ trở lại với sự xao lãng. Vì vậy, có vitakka rồi vicāra, vitakka rồi vicāra, vitakka rồi vicāra và vân vân, cho đến khi vicāra dần dần trở nên tinh tế hơn. Lúc đầu, vicāra đi khắp nơi. Khi chúng ta hiểu điều này chỉ đơn giản là hoạt động tự nhiên của tâm, nó sẽ không làm phiền chúng ta trừ khi chúng ta bám chấp vào nó. Nó giống như dòng nước chảy. Nếu chúng ta bị ám ảnh bởi nó, hỏi "Tại sao nó chảy?" thì tự nhiên chúng ta đau khổ. Nếu chúng ta hiểu rằng nước chỉ đơn giản chảy vì đó là bản chất của nó, thì sẽ không có đau khổ. Vicāra là như thế này. Có vitakka, rồi vicāra, tương tác với những cảm xúc. Chúng ta có thể lấy những cảm xúc này làm đối tượng thiền định, làm dịu tâm bằng cách ghi nhận những cảm xúc đó.

If we know the nature of the mind like this then we let go, just like letting the water flow by. Vicāra becomes more and more subtle. Perhaps the mind inclines to contemplating the body, or death for instance, or some other theme of Dhamma. When the theme of contemplation is right there will arise a feeling of well-being. What is that well-being? It is pīti (rapture). Pīti, well-being, arises. It may manifest as goose-pimples, coolness or lightness. The mind is enrapt. This is called pīti. There are also pleasure, sukha, the coming and going of various sensations; and the state of ekaggatārammana, or one-pointedness.

Nếu chúng ta biết bản chất của tâm như thế này thì chúng ta buông bỏ, giống như để nước chảy qua. Vicāra ngày càng trở nên tinh tế hơn. Có lẽ tâm nghiêng về việc suy ngẫm về thân , hoặc cái chết chẳng hạn, hoặc một số chủ đề khác của Dhamma. Khi chủ đề chiêm niệm ở ngay đó, sẽ nảy sinh một cảm giác hạnh phúc. Hạnh phúc đó là gì? Đó là pīti (Hỉ sinh khởi). Pīti, hạnh phúc, phát sinh. Nó có thể biểu hiện như lông tóc dựng đứng trên thân, mát mẻ hoặc nhẹ nhàng. Tâm say mê. Điều này được gọi là pīti. Ngoài ra còn có niềm vui, sukha, sự đến và đi của những cảm giác khác nhau; và trạng thái ekaggatārammana, hay one-pointedness.

Now if we talk in terms of the first stage of concentration it must be like this: vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā. So what is the second stage like? As the mind becomes progressively more subtle, vitakka and vicāra become comparatively coarser, so that they are discarded, leaving only pīti, sukha, andekaggatā. This is something that the mind does of itself, we don't have to conjecture about it, just to know things as they are.

Bây giờ, nếu chúng ta nói về giai đoạn đầu tiên của định tâm thì nó phải giống như thế này: vitakka- tầm, vicāra – tứ, pīti – hỉ, sukha – lạc, ekaggatā – nhất tâm. Vậy giai đoạn thứ hai như thế nào? Khi tâm dần dần trở nên tinh tế hơn, vitakka và vicāra trở nên tương đối thô hơn, do đó chúng bị loại bỏ, chỉ để lại pīti, sukha, andekaggatā. Đây là điều mà tâm tự nó làm, chúng ta không phải phỏng đoán về nó, chỉ cần biết mọi thứ như chúng là.

As the mind becomes more refined, pīti is eventually thrown off, leaving only sukha and ekaggatā, and so we take note of that. Where does pīti go to? It doesn't go anywhere, it's just that the mind becomes increasingly more subtle so that it throws off those qualities that are too coarse for it. Whatever's too coarse it throws out, and it keeps throwing off like this until it reaches the peak of subtlety, known in the books as the fourth jhāna, the highest level of absorption. Here the mind has progressively discarded whatever becomes too coarse for it, until there remain only ekaggatā and upekkhā, equanimity. There's nothing further, this is the limit.

Khi tâm trở nên tinh tế hơn, pīti cuối cùng bị vứt bỏ, chỉ để lại sukha và ekaggatā, nên ta sẽ lưu ý đến điều đó. Pīti đi đâu? Nó không đi đâu cả, chỉ là tâm ngày càng trở nên tinh tế hơn, để nó vứt bỏ những phẩm chất quá thô thiển đối với nó. Bất cứ điều gì quá thô thì nó sẽ ném ra, và nó tiếp tục ném đi như thế này cho đến khi đạt đến đỉnh cao của sự tinh tế, được biết đến trong các sách là jhāna thứ tư, mức độ hấp thụ cao nhất. Ở đây, tâm đã dần dần loại bỏ bất cứ điều gì trở nên quá thô đối với nó, cho đến khi chỉ còn lại ekaggatā và upekkhā, bình đẳng. Không có gì thêm, đây là tột bậc.

When the mind is developing the stages of samādhi it must proceed in this way, but please let us understand the basics of practice. We want to make the mind still but it won't be still. This is practicing out of desire, but we don't realize it. We have the desire for calm. The mind is already disturbed and then we further disturb things by wanting to make it calm. This very wanting is the cause. We don't see that this wanting to calm the mind is tanhā (craving). It's just like increasing the burden. The more we desire calm the more disturbed the mind becomes, until we just give up. We end up fighting all the time, sitting and struggling with ourselves.

Khi tâm đang phát triển các giai đoạn của luân hồi, nó phải tiến hành theo cách này, nhưng xin vui lòng cho chúng ta hiểu những điều cơ bản của thực hành. Chúng ta muốn làm cho tâm tĩnh lặng, nhưng nó sẽ không tĩnh lặng. Đây là thực hành vì ham muốn, nhưng chúng ta không nhận ra nó. Chúng tacó mong muốn an tĩnh. Tâm đã bị xáo trộn, rồi mình tiếp tục quấy rầy mọi thứ, bằng cách muốn làm cho nó tĩnh lặng. Chính mong muốn này là nguyên nhân. Chúng ta không thấy rằng mong muốn làm dịu tâm này là tanhā (tham ái). Nó giống như tăng gánh nặng. Chúng ta càng mong muốn sự an tĩnh, tâm càng trở nên xáo trộn, cho đến khi chúng ta bỏ cuộc. Chúng ta rốt cuộc đấu tranh mọi lúc, ngồi và đấu tranh với chính mình.

Why is this? Because we don't reflect back on how we have set up the mind. Know that the conditions of mind are simply the way they are. Whatever arises, just observe it. It is simply the nature of the mind, it isn't harmful unless we don't understand its nature. It's not dangerous if we see its activity for what it is. So we practice with vitakka and vicāra until the mind begins to settle down and become less forceful. When sensations arise we contemplate them, we mingle with them and come to know them.

Tại sao lại như vậy? Bởi vì chúng ta không phản ánh lại cách chúng ta đã thiết lập tâm. Biết rằng các điều kiện của tâm chỉ đơn giản là cách chúng là. Bất cứ điều gì phát sinh, chỉ cần quan sát nó. Nó chỉ đơn giản là bản chất của tâm, nó không có hại trừ khi chúng ta không hiểu bản chất của nó. Nó không nguy hiểm nếu chúng ta thấy hoạt động của nó đúng như bản chất của nó. Vì vậy, chúng ta thực hành với vitakka và vicāra cho đến khi tâm bắt đầu ổn định và trở nên ít mạnh mẽ hơn. Khi các cảm thọ phát sinh, chúng ta quán chiếu chúng, chúng ta hòa nhập với chúng và nhận biết chúng.

However, usually we tend to start fighting with them, because right from the beginning we're determined to calm the mind. As soon as we sit the thoughts come to bother us. As soon as we set up our meditation object our attention wanders, the mind wanders off after all the thoughts, thinking that those thoughts have come to disturb us, but actually the problem arises right here, from the very wanting.

Tuy nhiên, thông thường chúng ta có xu hướng bắt đầu chiến đấu với các suy nghĩ, bởi vì ngay từ đầu chúng ta đã quyết tâm làm dịu tâm. Ngay khi chúng ta ngồi, những suy nghĩ đến làm phiền chúng ta. Ngay khi chúng ta thiết lập đối tượng thiền, sự chú ý của chúng ta lang thang, tâm lang thang sau tất cả những suy nghĩ, nghĩ rằng những suy nghĩ đó đã đến quấy rầy chúng ta, nhưng thực sự vấn đề phát sinh ngay tại đây, từ chính mong muốn.

If we see that the mind is simply behaving according to its nature, that it naturally comes and goes like this, and if we don't get over-interested in it, we can understand its ways as much the same as a child. Children don't know any better, they may say all kinds of things. If we understand them we just let them talk, children naturally talk like that. When we let go like this there is no obsession with the child. We can talk to our guests undisturbed, while the child chatters and plays around. The mind is like this. It's not harmful unless we grab on to it and get obsessed over it. That's the real cause of trouble.

Nếu chúng ta thấy rằng tâm chỉ đơn giản là hành xử theo bản chất của nó, rằng nó tự nhiên đến và đi như thế này, và nếu chúng ta không quá quan tâm đến nó, chúng ta có thể hiểu cách thức của nó giống như một đứa trẻ. Trẻ em không biết gì hơn, chúng có thể nói tất cả mọi thứ. Nếu chúng ta hiểu chúng, chúng ta cứ để chúng nói, trẻ con tự nhiên nói như vậy. Khi chúng ta buông bỏ như thế này thì không còn nỗi ám ảnh với đứa trẻ. Chúng ta có thể nói chuyện với khách của chúng ta mà không bị quấy rầy, trong khi đứa trẻ nói chuyện và chơi xung quanh. Tâm là như thế này. Nó không có hại trừ khi chúng ta bám lấy nó và bị ám ảnh bởi nó. Đó là nguyên nhân thực sự của rắc rối.

When pīti arises one feels an indescribable pleasure, which only those who experience it can appreciate. Sukha (pleasure) arises, and there is also the quality of one-pointedness. There are vitakka, vicāra, pīti, sukha and ekaggatā. These five qualities all converge at the one place. Even though they are different qualities they are all collected in the one place, and we can see them all there, just like seeing many different kinds of fruit in the one bowl. Vitakka, vicāra, pīti, sukha and ekaggatā - we can see them all in the one mind, all five qualities. If one were to ask, ''How is there vitakka, how is there vicāra, how are there pīti and sukha?...'' it would be difficult to answer, but when they converge in the mind we will see how it is for ourselves.

Khi pīti phát sinh, người ta cảm thấy một niềm vui không thể diễn tả, mà chỉ những người trải nghiệm nó mới có thể đánh giá cao. Sukha (lạc) phát sinh, và cũng có phẩm chất của một điểm. Có vitakka, vicāra, pīti, sukha và ekaggatā. Năm phẩm chất này đều hội tụ tại một nơi. Mặc dù chúng là những phẩm chất khác nhau, nhưng tất cả chúng đều được thu thập ở một nơi, và chúng ta có thể thấy tất cả chúng ở đó, giống như nhìn thấy nhiều loại trái cây khác nhau trong một bát. Vitakka, vicāra, pīti, sukha và ekaggatā - chúng ta có thể thấy tất cả chúng trong một tâm, tất cả năm phẩm chất. Nếu người ta hỏi, "Làm thế nào có vitakka, làm thế nào có vicāra, làm thế nào có pīti và sukha?... Sẽ rất khó để trả lời, nhưng khi chúng hội tụ trong tâm, thì chúng ta sẽ tự mình thấy chúng ra sao.

At this point our practice becomes somewhat special. We must have recollection and self-awareness and not lose ourselves. Know things for what they are. These are stages of meditation, the potential of the mind. Don't doubt anything with regard to the practice. Even if you sink into the earth or fly into the air, or even ''die'' while sitting, don't doubt it. Whatever the qualities of the mind are, just stay with the knowing. This is our foundation: to have sati, recollection, and sampajañña, self-awareness, whether standing, walking, sitting, or reclining. Whatever arises, just leave it be, don't cling to it. Be it like or dislike, happiness or suffering, doubt or certainty, contemplate with vicāra and gauge the results of those qualities. Don't try to label everything, just know it. See that all the things that arise in the mind are simply sensations. They are transient. They arise, exist and cease. That's all there is to them, they have no self or being, they are neither ''us'' nor ''them.'' They are not worthy of clinging to, any of them.

Tại thời điểm này, sự thực hành của chúng ta trở nên hơi đặc biệt. Chúng ta phải có hồi ức và tự nhận thức và không đánh mất chính mình. Biết mọi thứ cho những gì họ đang có. Đây là những giai đoạn thiền định, tiềm năng của tâm. Đừng nghi ngờ bất cứ điều gì liên quan đến thực hành. Ngay cả khi bạn chìm xuống đất hoặc bay lên không trung, hoặc thậm chí "chết" trong khi ngồi, đừng nghi ngờ điều đó. Bất kể phẩm chất của tâm là gì, chỉ cần ở lại với sự hiểu biết. Đây là nền tảng của chúng ta: có sati, chánh niệm và sampajañña, tự nhận thức, cho dù đứng, đi, ngồi hay ngả lưng. Bất cứ điều gì phát sinh, chỉ cần để nó như vậy, đừng bám víu vào nó. Dù thích hay không thích, hạnh phúc hay đau khổ, nghi ngờ hay chắc chắn, hãy quán chiếu với vicāra và đánh giá kết quả của những phẩm chất đó. Đừng cố gắng dán nhãn mọi thứ, chỉ cần biết nó. Hãy thấy rằng tất cả những điều phát sinh trong tâm chỉ đơn giản là cảm giác. Chúng chỉ là thoáng qua. Chúng phát sinh, tồn tại và chấm dứt. Đó là tất cả những gì có đối với chúng, chúng không có bản ngã hay bản thể, chúng không phải là "chúng ta" hay "họ". Chúng không xứng đáng để bám víu, bất kỳ ai trong số chúng.

When we see all rūpa and nāma4 in this way with wisdom, then we will see the old tracks. We will see the transience of the mind, the transience of the body, the transience of happiness, suffering, love and hate. They are all impermanent. Seeing this, the mind becomes weary; weary of the body and mind, weary of the things that arise and cease and are transient. When the mind becomes disenchanted it will look for a way out of all those things. It no longer wants to be stuck in things, it sees the inadequacy of this world and the inadequacy of birth. When the mind sees like this, wherever we go, we see aniccam (transience), dukkham (imperfection) and anattā (ownerlessness). There's nothing left to hold on to. Whether we go to sit at the foot of a tree, on a mountain top or into a valley, we can hear the Buddha's teaching. All trees will seem as one, all beings will be as one, there's nothing special about any of them. They arise, exist for a while, age and then die, all of them.

Khi chúng ta nhìn thấy tất cả rūpa và nāma4 theo cách này với trí tuệ, thì chúng ta sẽ thấy những dấu vết cũ. Chúng ta sẽ thấy sự thoáng qua của tâm, sự thoáng qua của thân, sự thoáng qua của hạnh phúc, đau khổ, yêu và ghét. Tất cả đều vô thường. Nhìn thấy điều này, tâm trở nên nhàm chán; Nhám chán với thân và tâm, nhàm chán với những điều phát sinh và chấm dứt và thoáng qua. Khi tâm trở nên thất vọng, nó sẽ tìm cách thoát khỏi tất cả những điều đó. Nó không còn muốn bị mắc kẹt trong mọi thứ, nó thấy sự bất xứng của thế giannày và sự bất xứng của sự sinh ra. Khi tâm nhìn thấy như thế này, bất cứ nơi nào chúng ta đi, chúng ta thấy aniccam (vô thường), dukkham (không hoàn hảo) và anattā (vô ngã). Không còn gì để níu kéo. Cho dù chúng ta ngồi dưới chân cây, trên đỉnh núi hay vào thung lũng, chúng ta có thể nghe lời dạy của Đức Phật. Tất cả các cây sẽ dường như là một, tất cả chúng sinh sẽ là một, không có gì đặc biệt cả. Chúng sinh khởi, tồn tại trong một thời gian, già đi rồi chết đi, tất cả chúng.

We thus see the world more clearly, seeing this body and mind more clearly. They are clearer in the light of transience, clearer in the light of imperfection and clearer in the light of ownerlessness. If people hold fast to things they suffer. This is how suffering arises. If we see that body and mind are simply the way they are, no suffering arises, because we don't hold fast to them. Wherever we go we will have wisdom. Even seeing a tree we can consider it with wisdom. Seeing grass and the various insects will be food for reflection. When it all comes down to it they all fall into the same boat. They are all Dhamma, they are invariably transient. This is the truth, this is the true Dhamma, this is certain. How is it certain? It is certain in that the world is that way and can never be otherwise. There's nothing more to it than this. If we can see in this way then we have finished our journey.

Do đó, chúng ta nhìn thế gianrõ ràng hơn, nhìn thấy thân và tâm này rõ ràng hơn. Chúng rõ ràng hơn trong ánh sáng của sự vô thường, rõ ràng hơn trong ánh sáng của sự không hoàn hảo và rõ ràng hơn trong ánh sáng của sự vô chủ. Nếu mọi người giữ chặt những thứ họ phải chịu đựng. Đây là cách đau khổ phát sinh. Nếu chúng ta thấy rằng thân và tâm chỉ đơn giản là như vậy, thì không có đau khổ nào phát sinh, bởi vì chúng ta không bám chặt vào chúng. Bất cứ nơi nào chúng ta đi, chúng ta sẽ có trí tuệ. Ngay cả khi nhìn thấy một cái cây, chúng ta có thể xem xét nó với trí tuệ. Nhìn thấy cỏ và các loài côn trùng khác nhau sẽ là thức ăn để phản ánh. Khi tất cả rơi xuống nó, tất cả họ đều rơi vào cùng một cảnh ngộ. Tất cả chúng đều là Dhamma, chúng luôn luôn vô thường. Đây là sự thật, đây là Pháp chân chính, điều này là chắc chắn. Làm thế nào là nó chắc chắn? Chắc chắn rằng thế gianlà như vậy và không bao giờ có thể khác. Không có cách nào khác đi. Nếu chúng ta có thể nhìn theo cách này thì chúng ta đã kết thúc cuộc hành trình của mình.

In Buddhism, with regard to view, it is said that to feel that we are more foolish than others is not right; to feel that we are equal to others is not right; and to feel that we are better than others is not right... because there isn't any ''we.'' This is how it is, we must uproot conceit. This is called lokavidū - knowing the world clearly as it is. If we thus see the truth, the mind will know itself completely and will sever the cause of suffering. When there is no longer any cause, the results cannot arise. This is the way our practice should proceed.

Trong Phật giáo, liên quan đến quan điểm, người ta nói rằng cảm thấy rằng chúng ta ngu ngốc hơn những người khác là không đúng; cảm thấy rằng chúng ta bình đẳng với người khác là không đúng; và cảm thấy rằng chúng ta tốt hơn những người khác là không đúng ... Bởi vì không có bất kỳ "chúng ta" nào. Nó là như vậy, chúng ta phải nhổ tận gốc sự tự phụ. Điều này được gọi là lokavidū - biết thế gian rõ ràng như nó là. Nếu chúng ta nhìn thấy sự thật, tâm sẽ biết chính nó hoàn toàn và sẽ cắt đứt nguyên nhân của đau khổ. Khi không còn nguyên nhân, kết quả không thể phát sinh. Đây là cách thực hành của chúng ta nên tiến hành.

The basics which we need to develop are: firstly, to be upright and honest; secondly, to be wary of wrong-doing; thirdly, to have the attribute of humility within one's heart, to be aloof and content with little. If we are content with little in regards to speech and in all other things, we will see ourselves, we won't be drawn into distractions. The mind will have a foundation of sīla, samādhi, and paññā.

Những điều cơ bản mà mình phải phát triển là: thứ nhất, ngay thẳng và trung thực; thứ hai, cảnh giác với những việc làm sai trái; Thứ ba, có thuộc tính khiêm nhường trong lòng, xa cách và hài lòng với sự thiểu dục. Nếu chúng ta hài lòng với sự thiểu dục đến lời nói và trong tất cả những thứ khác, chúng ta sẽ thấy chính mình, chúng ta sẽ không bị lôi kéo vào những phiền nhiễu. Tâm sẽ có một nền tảng của sīla, samādhi và paññā.

Therefore cultivators of the path should not be careless. Even if you are right don't be careless. And if you are wrong, don't be careless. If things are going well or you're feeling happy, don't be careless. Why do I say ''don't be careless''? Because all of these things are uncertain. Note them as such. If you get peaceful just leave the peace be. You may really want to indulge in it but you should simply know the truth of it, the same as for unpleasant qualities.

Do đó, người tu luyện con đường không nên bất cẩn. Ngay cả khi bạn đúng, đừng bất cẩn. Và nếu bạn sai, đừng bất cẩn. Nếu mọi thứ đang diễn ra tốt đẹp hoặc bạn cảm thấy hạnh phúc, đừng bất cẩn. Tại sao tôi nói ''đừng bất cẩn''? Bởi vì tất cả những điều này đều không chắc chắn. Lưu ý chúng như vậy. Nếu bạn cảm thấy an bình, chỉ cần rời khỏi sự an bình. Bạn có thể thực sự muốn thưởng thức nó nhưng bạn chỉ cần biết sự thật của nó, giống như đối với những cảm thọ khó chịu.

This practice of the mind is up to each individual. The teacher only explains the way to train the mind, because that mind is within each individual. We know what's in there, nobody else can know our mind as well as we can. The practice requires this kind of honesty. Do it properly, don't do it half-heartedly. When I say ''do it properly,'' does that mean you have to exhaust yourselves? No, you don't have to exhaust yourselves, because the practice is done in the mind. If you know this then you will know the practice. You don't need a whole lot. Just use the standards of practice to reflect on yourself inwardly.

Việc thực hành tâm này tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Vị thầy chỉ giải thích cách rèn luyện tâm, bởi vì tâm đó ở trong mỗi cá nhân. Chúng ta biết những gì trong đó, không ai khác có thể biết rõ tâm của chúng ta tốt như chúng ta có thể. Việc thực hành đòi hỏi loại trung thực này. Làm đúng cách, đừng làm nửa vời. Khi tôi nói "hãy làm điều đó một cách đúng đắn", điều đó có nghĩa là bạn phải vắt kiệt sức? Không, bạn không cần phải kiệt sức, bởi vì việc thực hành được thực hiện trong tâm. Nếu bạn biết điều này thì bạn sẽ biết cách thực hành. Bạn không cần nhiều. Chỉ cần sử dụng các tiêu chuẩn thực hành để suy ngẫm về tự thân bên trong.

Now the Rains Retreat is halfway over. For most people it's normal to let the practice slacken off after a while. They aren't consistent from beginning to end. This shows that their practice is not yet mature. For instance, having determined a particular practice at the beginning of the retreat, whatever it may be, then we must fulfill that resolution. For these three months make the practice consistent. You must all try. Whatever you have determined to practice, consider that and reflect whether the practice has slackened off. If so, make an effort to re-establish it. Keep shaping up the practice, just the same as when we practice meditation on the breath. As the breath goes in and out the mind gets distracted. Then re-establish your attention on the breath. When your attention wanders off again bring it back once more. This is the same. In regard to both the body and the mind the practice proceeds like this. Please make an effort with it.

Bây giờ đã là giữa mùa an cư. Đối với hầu hết mọi người, việc để việc thực hành chậm lại sau một thời gian là điều bình thường. Chúng không nhất quán từ đầu đến cuối. Điều này cho thấy thực hành của họ vẫn chưa trưởng thành. Chẳng hạn, khi đã xác định một pháp tu cụ thể vào lúc bắt đầu nhập thất, bất kể nó có thể là gì, thì mình phải hoàn thành quyết tâm đó. Trong ba tháng này, hãy làm cho việc thực hành nhất quán. Tất cả các bạn phải cố gắng. Bất cứ điều gì bạn đã quyết tâm thực hành, hãy xem xét điều đó và phản ánh liệu việc thực hành có giảm bớt hay không. Nếu vậy, hãy nỗ lực để thiết lập lại nó. Hãy tiếp tục định hình việc thực hành, giống như khi chúng ta thực hành thiền về hơi thở. Khi hơi thở đi vào và ra, tâm bị phân tâm. Sau đó thiết lập lại sự chú ý của bạn vào hơi thở. Khi sự chú ý của bạn đi lang thang một lần nữa, hãy mang nó trở lại một lần nữa. Điều này cũng giống nhau. Liên quan đến cả thân và tâm, việc thực hành tiến hành như thế này. Hãy nỗ lực với nó.

Given at Wat Pah Pong during the rains retreat, 1977

Được đưa ra tại Wat Pah Pong trong cuộc rút lui mưa, 1977


Chương 27

TRAINING THIS MIND – TU TẬP TÂM NÀY

Training this mind... actually there's nothing much to this mind. It's simply radiant in and of itself. It's naturally peaceful. Why the mind doesn't feel peaceful right now is because it gets lost in its own moods. There's nothing to mind itself. It simply abides in its natural state, that's all. That sometimes the mind feels peaceful and other times not peaceful is because it has been tricked by these moods. The untrained mind lacks wisdom. It's foolish. Moods come and trick it into feeling pleasure one minute and suffering the next. Happiness then sadness. But the natural state of a person's mind isn't one of happiness or sadness. This experience of happiness and sadness is not the actual mind itself, but just these moods which have tricked it. The mind gets lost, carried away by these moods with no idea what's happening. And as a result, we experience pleasure and pain accordingly, because the mind has not been trained yet. It still isn't very clever. And we go on thinking that it's our mind which is suffering or our mind which is happy, when actually it's just lost in its various moods.

Tu tập tâm thực ra là... chẳng làm gì nhiều đối với tâm này. Đơn giản là nó tự sáng tỏ bên trong và tự chiếu sáng nó. Về bản chất tự nhiên, nó là bình an. Lý do tâm không cảm thấy bình an ngay lúc này là do nó bị trôi lạc theo/vào những trạng thái của chính nó. Đó không phải là bản thân nó tạo tác gì cho nó cả. Đó là nó chỉ đơn thuần an trú vào bản tính tự nhiên của nó, chỉ là vậy thôi. Có lúc tâm thấy bình an, có lúc tâm thấy không bình an, thì chỉ là do nó bị đánh lừa bởi những trạng thái đó của nó. Cái tâm chưa được tu tập thì thiếu trí tuệ. Nó ngu mờ. Những trạng thái (sướng, khổ, vui, buồn...) xảy đến và đánh lừa nó chạy theo những sự sướng, khổ, khổ, sướng, vui, buồn...trong từng giây khắc. Vui rồi buồn. Buồn rồi vui. Nhưng trạng thái tự nhiên của cái tâm nguyên thủy (chân tâm) thì không phải là vui hay buồn gì cả. Cái trải nghiệm vui, trải nghiệm buồn đó không phải là cái tâm nguyên thủy, mà đó chỉ là những trạng thái đã đánh lừa nó. Tâm bị lạc mất, bị kéo đi bởi những trạng thái đó, nhưng nó không hề biết chuyện gì đang xảy ra với nó. Và kết quả là, chúng ta cảm nhận sướng và cảm nhận khổ theo nó, bởi do cái tâm chưa được tu tập. Nó vẫn chưa được khôn ngoan. Và chúng ta cứ liên tục nghĩ rằng đó là tâm ta đang sướng hoặc tâm ta đang khổ, nhưng đích thực chỉ là cái tâm đó đang bị lạc mất theo những trạng thái sướng, khổ...khác nhau mà thôi.

The point is that really this mind of ours is naturally peaceful. It's still and calm like a leaf that is not being blown about by the wind. But if the wind blows then it flutters. It does that because of the wind. And so with the mind it's because of these moods - getting caught up with thoughts. If the mind didn't get lost in these moods it wouldn't flutter about. If it understood the nature of thoughts it would just stay still. This is called the natural state of the mind. And why we have come to practice now is to see the mind in this original state. We think that the mind itself is actually pleasurable or peaceful. But really the mind has not created any real pleasure or pain. These thoughts have come and tricked it and it has got caught up in them. So we really have to come and train our minds in order to grow in wisdom. So that we understand the true nature of thoughts rather than just following them blindly.

The mind is naturally peaceful. It's in order to understand just this much that we have come together to do this difficult practice of meditation.

Điểm cần ghi nhớ, bản chất tự nhiên đích thực của tâm chúng ta là bình an. (Giống như bản chất tự nhiên của một trái banh là nổi và ở yên trên mặt nước. Nhưng nó luôn bị trăm chìm, ngàn nổi, lênh đênh, nhấp nhô, trôi dạt liên tục là do bởi tác động bên ngoài của gió, sóng, nước, dòng chảy). Nó vốn là tĩnh tại và tĩnh lặng giống như một chiếc lá không bị thổi bởi gió. Nhưng khi gió thổi thì nó phất phơ, động đậy. Và tâm giống như vậy, nó động vọng là do những trạng thái—nó dính theo những ý nghĩ. Nếu tâm không bị dính theo (chạy theo) những trạng thái đó thì nó không bị động vọng, phất phơ này nọ, theo những trạng thái đó. Nếu tâm "hiểu biết" được bản chất (sinh diệt) đích thực của các ý nghĩ, thì nó sẽ ở yên, nó sẽ không dính mắc theo chúng. Trạng thái tự nhiên nguyên thủy của tâm là bình lặng. Và lý do tu tập của chúng ta là làm sao để có thể nhìn thấy tâm ở trong trạng thái bình lặng tự nhiên nguyên thủy vốn có của nó. Chúng ta nghĩ rằng tâm tự nó thực sự thấy sướng, thấy khổ, thấy khoái, thấy đau, thấy vui, thấy buồn. Nhưng, thực sự thì tâm không tạo ra bất kỳ sự sướng, khổ, vui, buồn... nào cả. Những ý nghĩ (vọng tưởng) đã khởi lên và đánh lừa tâm và tâm bị dính theo chúng. Do vậy, chúng ta thực sự phải tu sửa và huấn luyện cái tâm để nó phát huy trí tuệ. Phát huy trí tuệ để ta hiểu rõ bản chất đích thực của các ý nghĩ (nhận thức, vọng tưởng) thay vì cứ chạy theo chúng một cách ngu mờ, mù quáng.

Tâm này về bản chất là bình an. Hiểu rõ về lẽ thực này để chúng ta cùng nhau thực hiện việc tu thiền khó khăn này một cách đúng lý.


Chương 28

TRANQUILLITY AND INSIGHT - VỀ THIỀN TẬP

To calm the mind means to find the right balance. If you try to force your mind too much it goes too far; if you don't try enough it doesn't get there, it misses the point of balance.

Làm cho tâm tĩnh lặng là tìm ra điểm cân-bằng đúng đắn. Nếu chúng ta quá cố thúc cái tâm, nó sẽ đi lố điểm cân bằng đó; nhưng nếu chúng ta cố gắng không đủ, thì nó sẽ không tới được điểm cân bằng đó.

Normally the mind isn't still, it's moving all the time. We must strengthen the mind. Making the mind strong and making the body strong are not the same. To make the body strong we have to exercise it, to push it, in order to make it strong, but to make the mind strong means to make it peaceful, not to go thinking of this and that. For most of us the mind has never been peaceful, it has never had the energy of samādhi, so we must establish it within a boundary. We sit in meditation, staying with the 'one who knows'.

Thông thường, tâm của chúng ta (người phàm) là không tĩnh tại và tĩnh lặng, nó cứ động vọng, lăng xăng mọi lúc mọi nơi. Chúng ta phải làm cho tâm mạnh mẽ. Làm cho tâm mạnh và làm cho thân mạnh là không giống nhau. Để làm cho thân mạnh ta phải tập thể dục, gồng gánh, vận động để kết quả làm cho nó mạnh chắc hơn. Nhưng làm cho tâm mạnh có nghĩa là làm cho nó bình an, chứ không phải đi suy nghĩ này nọ. Đối với hầu hết kẻ phàm phu như chúng ta, tâm đã chưa từng được bình an, nó cũng chưa bao giờ có được năng lực tập trung (định tâm, samādhi), do vậy chúng ta phải thiết lập nó ở trong một giới hạn. Chúng ta ngồi thiền, ở cùng với cái "người biết".

If we force our breath to be too long or too short, we're not balanced, the mind won't become peaceful. It's like when we first start to use a pedal sewing machine. At first we just practise pedalling the machine to get our coordination right, before we actually sew anything. Following the breath is similar. We don't get concerned over how long or short, weak or strong it is, we just note it. We simply let it be, following the natural breathing.

Nếu chúng ta cố ép hơi thở quá dài hay quá ngắn, chúng ta mất cân bằng, tâm sẽ không được bình an. Giống như khi chúng ta bắt đầu đạp bàn đạp máy may. Đầu tiên chúng ta phải thử, nhấp, nhịp sao cho bắt nhịp được với đà của bàn đạp, sau khi nhịp và đà đã hòa hợp cân bằng chúng ta mới có thể may đồ thẳng thớm một cách nhẹ nhàng. Theo dõi hơi thở cũng vậy. Chúng ta không quan tâm nó ngắn hay dài, yếu hay mạnh ra sao, chỉ cần nhận biết nó. Đơn giản là cứ để mặc nó, chỉ cần nhận biết theo nhịp thở tự nhiên của nó.

When it's balanced, we take the breathing as our meditation object. When we breathe in, the beginning of the breath is at the nose-tip, the middle of the breath at the chest and the end of the breath at the abdomen. This is the path of the breath. When we breathe out, the beginning of the breath is at the abdomen, the middle at the chest and the end at the nose-tip. Simply take note of this path of the breath at the nosetip, the chest and the abdomen, then at the abdomen, the chest and the tip of the nose. We take note of these three points in order to make the mind firm, to limit mental activity so that mindfulness and self-awareness can easily arise.

Khi nào được cân bằng, chúng ta lấy hơi thở làm đối tượng thiền của ta. Khi thở vào, điểm bắt đầu hơi thở là ngay chóp mũi, điểm giữa là ngay giữa ngực và điểm cuối là ở bụng. Đây là con đường hơi thở vào. Khi chúng ta thở ra, chỗ bắt đầu là bụng, chỗ giữa là giữa ngực, và chỗ cuối là ngay chóp mũi. Cứ đơn thuần nhận biết hơi thở ở chóp mũi, giữa ngực và bụng (theo hơi thở vào), rồi từ bụng, đến chỗ giữa ngực và chóp mũi (theo hơi thở ra). Chúng ta chú tâm nhận biết ba điểm tiếp xúc này của hơi thở để làm cho tâm mạnh vững, làm hạn chế các hành vi khác của tâm, nhờ đó sự chú tâm chánh-niệm và sự tự-tỉnh giác có thể khởi sinh và phát huy dễ dàng.

When our attention settles on these three points, we can let them go and note the in and out breathing, concentrating solely at the nose-tip or the upper lip, where the air passes on its in and out passage. We don't have to follow the breath, just to establish mindfulness in front of us at the nose-tip, and note the breath at this one point - entering, leaving, entering, leaving.

Khi sự chú tâm đã an trú được vào ba điểm này, lúc đó chúng ta không cần chú tâm vào chúng nữa, mà chỉ cần nhận biết sự vào và sự ra của hơi thở, tập trung sự chú tâm vào duy nhất nơi chóp mũi (hoặc điểm giữa môi trên), nơi mà luồng hơi thở đi vào và đi ra. Chúng ta không cần theo hơi thở xuống ngực và bụng như lúc đầu, lúc này chỉ cần thiết lập sự chú tâm chánh niệm vào duy nhất chóp mũi trước mặt ta, và nhận biết hơi thở tại một điểm duy nhất này. Đi vào, đi ra, đi vào, đi ra.

There's no need to think of anything special, just concentrate on this simple task for now, having continuous presence of mind. There's nothing more to do, just breathing in and out.

Soon the mind becomes peaceful, the breath refined. The mind and body become light. This is the right state for the work of meditation.

Không cần phải nghĩ đến điều gì đặc biệt. Lúc này chỉ tập trung vào công việc đơn giản này, duy trì sự có mặt liên tục của tâm. Không cần phải làm gì thêm nữa, chỉ đơn giản thở vào, thở ra.

Khi tâm trở nên tĩnh lặng, hơi thở được tinh lọc. Tâm và thân trở nên nhẹ nhàng. Đây là trạng thái đúng của tiến trình thiền tập.

When sitting in meditation the mind becomes refined, but whatever state it's in we should try to be aware of it, to know it. Mental activity is there together with tranquillity. There is vitakka. Vitakka is the action of bringing the mind to the theme of contemplation. If there is not much mindfulness, there will be not much vitakka. Then vicāra, the contemplation around that theme, follows. Various weak mental impressions may arise from time to time but our self-awareness is the important thing-whatever may be happening we know it continuously. As we go deeper we are constantly aware of the state of our meditation, knowing whether or not the mind is firmly established. Thus, both concentration and awareness are present.

Khi ngồi thiền tâm trở nên được thanh lọc, nhưng dù tâm có ở trong trạng thái nào thì chúng ta vẫn cứ chú tâm và tỉnh giác vào nó, vẫn liên tục nhìn nó, biết nó. Hành vi của tâm đang ở đó, cùng với sự tĩnh lặng. Có vitakka, được gọi là tầm (HV). Vitakka là hành động đưa tâm (hướng tâm) vào đề mục để quán xét (đề mục thiền, đối tượng thiền). Nếu không có đủ sự chú tâm chánh niệm thì không có nhiều vitakka. Rồi có vicāra, được gọi là tứ (HV). Vicara là quán xét xung quanh đề mục đó. Nhiều loại nhận thức (tâm tưởng) yếu mờ khác nhau có thể vẫn còn tiếp tục khởi sinh lúc này lúc khác, nhưng sự tự-tỉnh-giác (sampajanna) là cái quan trọng—nhờ nó, mỗi thứ gì đang diễn ra chúng ta đều biết rõ về thứ đó một cách liên tục. Khi chúng ta tu tập sâu hơn, chúng ta sẽ thường trực tỉnh giác về trạng thái thiền của chúng ta, biết rõ tâm có được thiết lập một cách vững chắc hay không. Do vậy, sự tập trung (định) và sự tỉnh giác (chánh niệm) đều có mặt.

To have a peaceful mind does not mean that there's nothing happening, mental impressions do arise. For instance, when we talk about the first level of absorption, we say it has five factors. Along with vitakka and vicāra, pīti (rapture) arises with the theme of contemplation and then sukha (happiness). These four things all lie together in the mind established in tranquillity. They are as one state.

Có một cái tâm bình an không có nghĩa là không có gì đang diễn ra, những tâm tưởng (nhận thức) vẫn khởi sinh trong đó. Ví dụ, khi chúng ta nói về mức độ bình an thứ nhất của tâm (tầng thiền định thứ nhất), chúng ta nói nó có năm yếu tố. Cùng với vitakka (tầm) và vicāra (tứ), có yếu tố pīti (hỷ) khởi sinh trên nền tảng quán niệm và rồi có yếu tố sukha (lạc). Tất cả bốn yếu tố này nằm trong một cái tâm đã được thiết lập trong sự tĩnh lặng. Chúng chỉ như là "một" trạng thái.

The fifth factor is ekaggatā or one-pointedness. You may wonder how there can be one-pointedness when there are all these other factors as well. This is because they all become unified on that foundation of tranquillity. Together they are called a state of samādhi. They are not everyday states of mind, they are factors of absorption. There are these five characteristics, but they do not disturb the basic tranquillity. There is vitakka, but it does not disturb the mind; vicāra, rapture and happiness arise but do not disturb the mind. The mind is therefore as one with these factors. The first level of absorption is like this.

Yếu tố thứ năm là ekaggatā (sự nhất-điểm). Bạn có thể thắc mắc làm sao chúng ta có được sự hội tụ nhất-điểm của tâm trong khi trong tâm cũng đang có bốn yếu tố kia. Điều này là do bởi tất cả chúng đã hợp nhất với nhau trên nền tảng sự tĩnh lặng. Tất cả chúng hợp lại được gọi là một trạng thái định-tâm (samādhi). Năm yếu tố đó không phải là những trạng thái tâm thường ngày của chúng ta, chúng là những yếu-tố của trạng thái tầng thiền định. Có năm yếu tố (đặc tính) đó, nhưng chúng không quấy nhiễu nền tảng tĩnh lặng. Có vitakka (tầm) kéo tâm đến đối tượng (đề mục) quán niệm, nhưng nó không làm quấy nhiễu tâm. Có vicara (tứ) quán niệm xung quanh đối tượng quán niệm, và có yếu tố hoan hỷ (hỷ) và hạnh phúc (lạc) khởi sinh, nhưng chúng không quấy nhiễu tâm. Vì vậy, tâm là "một" với những yếu tố này. Tầng thiền định (jhana) bình an thứ nhất là như vậy.

We don't have to call it first jhāna, second jhāna, third jhāna and so on, let's just call it 'a peaceful mind'. As the mind becomes progressively calmer it will dispense with vitakka and vicāra, leaving only rapture and happiness. Why does the mind discard vitakka and vicāra? This is because, as the mind becomes more refined, the activities of vitakka and vicāra are too coarse to remain. At this stage, as the mind leaves off vitakka and vicāra, feelings of great rapture can arise, tears may gush out. But as the samādhi deepens rapture, too, is discarded, leaving only happiness and one-pointedness, until finally even happiness goes and the mind reaches its greatest refinement. There are only equanimity and one-pointedness, all else has been left behind. The mind stands unmoving

Chúng ta không cần phải gọi tên là các tầng nhất thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền... chỉ đơn giản gọi nó là "một cái tâm bình an". Khi tâm càng lúc càng tĩnh lặng hơn nó sẽ buông bỏ vitakha và vicara (tầm và tứ), chỉ còn lại yếu tố piti và sukha (hỷ và lạc). Tại sao tâm dẹp bỏ tầm và tứ? Bởi khi tâm càng được thanh lọc tinh-tế hơn, những hành vi tầm và tứ trở nên quá thô-tế đối với tâm. (Đường lối của thiền định là từ từ đi đến một cái tâm thanh lọc hơn và tinh tế hơn!). Ở giai đoạn thiền này, khi tâm dẹp bỏ tầm và tứ, những cảm giác hân hoan tột cùng (hỷ) có thể khởi sinh, nước mắt có thể chảy dài vì mừng vui. Nhưng đến khi tâm càng đạt định thâm sâu hơn, thì yếu tố hoan hỷ (hỷ) này cũng bị dẹp bỏ, chỉ còn lại yếu tố hạnh phúc (lạc) và sự nhất-điểm của tâm. Rồi cuối cùng tâm cũng dẹp bỏ luôn yếu tố hạnh phúc (lạc), chỉ còn lại một cái tâm được thanh lọc tinh-tế nhất. Trạng thái tâm lúc này chỉ còn có hai yếu tố là sự buông-xả (upekkha) và sự nhất-điểm (ekaggata). Tất cả các yếu tố khác đều đã bị dẹp bỏ. Tâm tĩnh tại, bất động.

Once the mind is peaceful this can happen. You don't have to think a lot about it, it just happens by itself when the causal factors are ripe. This is called the energy of a peaceful mind. In this state the mind is not drowsy; the five hindrances, sense desire, aversion, restlessness, dullness and doubt, have all fled.

But if mental energy is still not strong and mindfulness weak, there will occasionally arise intruding mental impressions. The mind is peaceful but it's as if there's a 'cloudiness' within the calm. It's not a normal sort of drowsiness though, some impressions will manifest - maybe we'll hear a sound or see a dog or something. It's not really clear but it's not a dream either. This is because these five factors have become unbalanced and weak.

Một khi tâm bình an thì điều đó (sự bất động của tâm) có thể xảy ra. Ta không cần nghĩ nhiều về điều đó, nó tự xảy ra khi những yếu tố nhân duyên chín muồi. Đây được gọi là năng lượng của một cái tâm bình an. Trong trạng thái này tâm không bị đờ đẫn, ngu mờ; năm chướng ngại [tham, sân, bất an và lo lắng, đờ đẫn và ngu mờ, và nghi ngờ] đều đã biến mất. Nhưng nếu năng lượng không đủ mạnh và sự chánh niệm còn yếu, thì nhiều lúc sẽ khởi sinh những nhận thức (tâm tưởng) gây phiền não. Tâm thì bình an nhưng dường như nó vẫn còn "một lớp mờ mờ" bên trong sự tĩnh lặng. Nhưng đó cũng không phải là sự đờ đẫn hay buồn ngủ thông thường, mà đó là một số tâm tưởng sẽ hiện lên– có thể ta sẽ nghe thấy một âm thanh hoặc nhìn thấy một con chó hay thứ gì đó. Nó không rõ ràng, nhưng đó cũng không phải trạng thái giấc mơ. Điều này là do năm yếu tố nói trên đã bị mất cân bằng và yếu đi.

The mind tends to play tricks within these levels of tranquillity. 'Imagery' will sometimes arise when the mind is in this state, through any of the senses, and the meditator may not be able to tell exactly what is happening. ''Am I sleeping? No. Is it a dream? No, it's not a dream...'' These impressions arise from a middling sort of tranquillity; but if the mind is truly calm and clear we don't doubt the various mental impressions or imagery which arise. Questions like, ''Did I drift off then? Was I sleeping? Did I get lost?...'' don't arise, for they are characteristics of a mind which is still doubting. ''Am I asleep or awake?''... Here, the mind is fuzzy. This is the mind getting lost in its moods. It's like the moon going behind a cloud. You can still see the moon but the clouds covering it render it hazy. It's not like the moon which has emerged from behind the clouds clear, sharp and bright.

Tâm có xu hướng giở trò giả-thật bên trong những tầng tĩnh lặng. Khi tâm ở trong trạng thái này, những tâm ảnh (nimitta) nhiều lúc khởi sinh thông qua bất kỳ giác quan nào đó, và người thiền không thể nào nhận ra chính xác thứ gì đang diễn ra. "Ta đang ngủ? Không. Đó là mơ? Không, đó không phải là mơ...". Những nhận thức (tưởng) này khởi sinh ngay giữa sự tĩnh lặng; nhưng nếu tâm thực sự tĩnh lặng và trong suốt thì chúng ta sẽ không nghi ngờ hay đặt câu hỏi gì về những tâm tưởng hay tâm ảnh đó khi chúng khởi sinh. Những câu hỏi như "Ta đang bị trôi? Ta đang ngủ hay sao? Ta đang bị lạc tâm?..." sẽ không khởi lên, bởi vì những câu hỏi đó là đặc điểm của một cái tâm vẫn còn đang nghi ngờ. Câu hỏi "Tôi đang ngủ hay tỉnh thức"... là tâm đang còn bối rối, ngu mờ. Đó là cái tâm đang bị lạc lối bên trong chính nó. Nó giống như mặt trăng đi vào sau đám mây. Ta vẫn còn nhìn thấy trăng nhưng mây đã làm nó mờ đi. Nó không giống mặt trăng thoát ra khỏi đám mây mù, sáng rõ và tỏa sáng. Khi tâm được bình an và được thiết lập vững chắc trong sự chánh-niệm và sự hiểu-biết-rõ-ràng thì ta sẽ không còn nghi ngờ hay băn khoăn gì về những hiện tượng khác nhau khởi sinh trong tâm. Tâm sẽ thực sự vượt trên những chướng ngại. Ta sẽ thấy biết một cách rõ rệt mỗi sự xảy ra trong tâm như nó là. Ta không còn nghi ngờ nghi vấn bởi vì tâm đang trong suốt và sáng tỏ. Cái tâm đạt đến trạng thái định (samadhi) là như vậy đó.

When the mind is peaceful and established firmly in mindfulness and self-awareness, there will be no doubt concerning the various phenomena which we encounter. The mind will truly be beyond the hindrances. We will clearly know everything which arises in the mind as it is. We do not doubt because the mind is clear and bright. The mind which reaches samādhi is like this. Some people find it hard to enter samādhi because they don't have the right tendencies. There is samādhi, but it's not strong or firm. However, one can attain peace through the use of wisdom, through contemplating and seeing the truth of things, solving problems that way. This is using wisdom rather than the power of samādhi. To attain calm in practice, it's not necessary to be sitting in meditation, for instance. Just ask yourself, ''Eh, what is that?... '' and solve your problem right there! A person with wisdom is like this. Perhaps he can't really attain high levels of samādhi, although there must be some, just enough to cultivate wisdom. It's like the difference between farming rice and farming corn.

One can depend on rice more than corn for one's livelihood. Our practice can be like this, we depend more on wisdom to solve problems. When we see the truth, peace arises.

Một số người thấy khó đạt định bởi vì họ không có những khuynh hướng đúng đắn. Họ có định, nhưng nó không mạnh, không chắc. Tuy nhiên, một người có thể đạt sự bình an bằng cách dùng trí tuệ, bằng cách suy xét (quán xét, quán niệm) và nhìn thấy sự-thật của mọi sự. Đây là cách dùng trí-tuệ (minh sát) thay vì định-lực (thiền định). Chẳng hạn, không cần thiết phải ngồi xuống thiền thì mới có được sự tĩnh lặng trong tu hành. Chỉ cần hỏi chính mình "Đây là gì"...và suy xét và giải quyết vấn đề ngay tại đó!. Một người có trí tuệ là như vậy. Người ấy không cần phải có định lực cao sâu, mặc dù cần phải có một mức định lực nào đó: chỉ cần một mức định lực cần thiết đủ để phát triển trí tuệ. Điều đó giống như việc trồng lúa và trồng bắp vậy. Người ta có thể cần ăn gạo nhiều hơn ăn bắp. (Có nơi trồng nhiều bắp, có nơi họ trồng chủ lực nhiều lúa hơn, vì họ ăn nhiều gạo hơn). Sự tu tập của chúng ta cũng vậy: chúng ta có thể dựa chủ lực vào trí-tuệ (hơn là định-lực) để giải quyết những vấn đề. Khi ta nhìn thấy sự thật, thì sự bình an sẽ khởi sinh.

The two ways are not the same. Some people have insight and are strong in wisdom but do not have much samādhi. When they sit in meditation they aren't very peaceful. They tend to think a lot, contemplating this and that, until eventually they contemplate happiness and suffering and see the truth of them. Some incline more towards this than samādhi. Whether standing, walking, sitting or lying, enlightenment of the Dhamma can take place. Through seeing, through relinquishing, they attain peace. They attain peace through knowing the truth, through going beyond doubt, because they have seen it for themselves.

Hai cách tu tập là không giống nhau. Một số người có trí tuệ minh sát và mạnh về trí tuệ, nhưng họ không có nhiều định lực. Khi họ ngồi thiền họ không được bình an cho lắm. Họ thường nghĩ nhiều, quán sát cái này, suy xét cái kia...cho đến cuối cùng, họ quán xét một cách rõ ràng về sự khổ và sướng, và họ nhìn thấy sự thật bên trong chúng. Một số nghiêng về cách tu tập này hơn là thiền định. Khi đang đứng, đang đi, đang ngồi hay đang nằm, sự giác ngộ có thể xảy ra. Bằng việc nhìn-thấy, bằng việc buông-bỏ, họ đạt đến sự bình an. Đạt đến sự bình an thông qua sự thấy biết sự thật, thông qua sự vượt qua nghi ngờ; họ vượt qua nghi ngờ bởi do họ đã tự thân nhìn thấy sự thật cho chính mình.

Other people have only little wisdom but their samādhi is very strong. They can enter very deep samādhi quickly, but not having much wisdom, they cannot catch their defilements, they don't know them. They can't solve their problems.

Một số người ít trí tuệ nhưng họ có khả năng định-tâm rất mạnh. Họ có thể nhập định sâu một cách nhanh chóng, nhưng không có nhiều trí tuệ, họ không bắt kịp những ô nhiễm của họ (khi chúng khởi sinh trong tâm), họ không biết về chúng. Nên họ không giải quyết được những vấn đề.

But regardless of whichever approach we use, we must do away with wrong thinking, leaving only right view. We must get rid of confusion, leaving only peace.

Either way we end up at the same place. There are these two sides to practice, but these two things, calm and insight, go together. We can't do away with either of them. They must go together.

Nhưng dù chúng ta có thiền theo bất cứ cách nào, điều quan trọng của thiền là dẹp bỏ những cách nghĩ sai lầm (tà kiến), để còn lại cách nhìn đúng đắn (chánh kiến). Chúng ta cần loại bỏ sự bất ổn, để còn lại sự bình an!

Thực ra, cách tu nào cũng dẫn đến một nơi. Đó chỉ là hai-mặt của việc tu tập, nhưng hai thứ đó, định và tuệ, đi chung với nhau. Chúng ta không thể tu cái này và bỏ cái kia. Thiệt là không có chuyện như vậy. Định và tuệ phải đi chung với nhau. (Đó là lẽ tự nhiên của việc thiền tập đúng đắn).

That which 'looks over' the various factors which arise in meditation is sati, mindfulness. This sati is a condition which, through practice, can help other factors to arise. Sati is life. Whenever we don't have sati, when we are heedless, it's as if we are dead. If we have no sati, then our speech and actions have no meaning. Sati is simply recollection. It's a cause for the arising of self-awareness and wisdom. Whatever virtues we have cultivated are imperfect if lacking in sati. Sati is that which watches over us while standing, walking, sitting and lying. Even when we are no longer in samādhi, sati should be present throughout.

Cái đang quan sát những thứ khác nhau khởi sinh trong tâm trong khi ngồi thiền thì được gọi là sự chánh-niệm (sati). Sự chánh niệm này là điều kiện, thông qua tiến trình tu tập, giúp cho những yếu tố khác khởi sinh. Chánh niệm là sống. Khi chúng ta không có chánh niệm, chúng ta vô tâm, buông thả thì cũng giống như ta đang chết. Nếu chúng ta không có chánh niệm, lời nói và hành động của chúng ta không có ý nghĩa. Chánh niệm đơn giản chỉ là sự nhớ, niệm, hằng nhớ, thường nhớ. Nó là nguyên nhân làm khởi sinh sự-hiểu-biết rõ-ràng (sự tự-tỉnh-giác) và trí tuệ. Những đức hạnh chúng ta đã tu tập cũng không hoàn hảo nếu thiếu sự chánh niệm. Chánh niệm là cái quan sát chúng ta khi ta đang đứng, đang đi, đang ngồi, và đang nằm. Ngay cả khi ta không còn ở trong chánh định (đã thoát ra khỏi trạng thái định samadhi, đã ra khỏi tầng thiền định jhana), thì sự chánh niệm cũng phải nên có mặt xuyên suốt.

Whatever we do we take care. A sense of shame will arise. We will feel ashamed about the things we do which aren't correct. As shame increases, our collectedness will increase as well. When collectedness increases, heedlessness will disappear. Even if we don't sit in meditation, these factors will be present in the mind.

Bất cứ điều gì ta làm, ta phải quan tâm. Một cảm nhận hổ thẹn (do thấy mình sai trái) sẽ khởi sinh. Chúng ta sẽ thấy hổ thẹn về những điều mình làm là không đúng. Khi sự hổ thẹn tăng lên thì niệm nhớ cũng tăng lên. Khi sự chánh niệm tăng lên thì sự vô tâm vô ý thức sẽ bớt đi. Ngay cả khi chúng ta không đang ngồi thiền, những yếu tố này vẫn có mặt trong tâm.

And this arises because of cultivating sati. Develop sati! This is the quality which looks over the work we are doing in the present. It has real value. We should know ourselves at all times. If we know ourselves like this, right will distinguish itself from wrong, the path will become clear, and cause for all shame will dissolve. Wisdom will arise.

Và điều này khởi sinh nhờ có tu tập chánh niệm (sati). Hãy tu tập sự chánh niệm! Đây chính là cái quan sát việc chúng ta đang làm trong hiện tại. Chánh niệm có giá trị đích thực. Chúng ta cần biết rõ chính mình trong suốt thời gian. Nếu chúng ta hiểu biết rõ chính mình theo cách này, sự đúng-phải sẽ vượt lên trên sự sai-trái, chánh sẽ vượt trội trên tà, con đường đạo sẽ trở nên rõ ràng, và nguyên nhân của tất cả mọi sự hổ thẹn (thấy mình sai trái) sẽ tan mất. Trí tuệ sẽ khởi sinh.

We can bring the practice all together as morality, concentration and wisdom. To be collected, to be controlled, this is morality. The firm establishing of the mind within that control is concentration. Complete, overall knowledge within the activity in which we are engaged is wisdom. The practice in brief is just morality, concentration and wisdom, or in other words, the path. There is no other way.

Chúng ta sẽ gom tất cả mọi việc tu hành theo công thức của Phật: tu dưỡng đức hạnh, thiền định, trí tuệ [giới, định, tuệ]. Để tập trung, tự trọng, tự cân nhắc, tự kiểm soát, thì tu tập giới hạnh đạo đức. Để cho tâm được thiết lập vững chắc trong sự kiểm soát đó, thì tu tập sự định tâm, tức thiền định. Để được hoàn thiện, để có sự hiểu biết bao trùm bên trong mọi hành vi mình đang làm, thì tu tập trí tuệ. Nói tóm lại, tu hành bao gồm giới, định, tuệ; hoặc nói cách khác, đó là con đường đạo (Bát Chánh Đạo). Không có con đường nào khác.  


Chương 29

THE PATH IN HARMONY - CON ĐƯỜNG HÒA HỢP

Today I would like to ask you all. ''Are you sure yet, are you certain in your meditation practice?'' I ask because these days there are many people teaching meditation, both monks and lay people, and I'm afraid you may be subject to wavering and doubt. If we understand clearly, we will be able to make the mind peaceful and firm.

Hôm nay, tôi muốn hỏi tất cả quý vị: "Quý vị đã chắc chưa, quý vị đã chắc chắn về việc tu thiền chưa?". Tôi hỏi vậy bởi thời bây giờ có nhiều thầy dạy thiền, có thầy là nhà sư và có thầy người tại gia, và tôi sợ rằng quý vị sẽ luôn lung lạc hoặc hoài nghi. Chúng ta phải hiểu rõ thì mới có thể làm cho tâm bình an và vững mạnh.

You should understand the eightfold path as morality, concentration and wisdom. The path comes together as simply this. Our practice is to make this path arise within us.

When sitting meditation we are told to close the eyes, not to look at anything else, because now we are going to look directly at the mind. When we close our eyes, our attention comes inwards. We establish our attention on the breath, centre our feelings there, put our mindfulness there. When the factors of the path are in harmony we will be able to see the breath, the feelings, the mind and mental objects for what they are. Here we will see the 'focus point', where samādhi and the other factors of the path converge in harmony.

Chúng ta hiểu rõ con đường tám phần (Bát Chánh Đạo) là bao gồm ba mảng: giới, định, tuệ. Tất cả con đường đơn giản là vậy. Việc tu tập của chúng ta là làm sao cho con đường đạo đó khởi sinh bên trong ta.

Khi ngồi thiền, chúng ta được dạy là nhắm mắt lại, không nhìn ngó thứ gì khác, bởi lúc này chúng ta đang nhìn một cách trực tiếp vào cái tâm. Khi chúng ta nhắm mắt, sự chú tâm của chúng ta hướng vào trong. Chúng ta thiết lập sự chú tâm vào hơi-thở, tập trung tất cả cảm giác của ta vào đó, hướng sự chánh niệm của ta vào đó. Khi những yếu tố của con đường đạo hòa hợp với nhau thì chúng ta có thể nhìn thấy hơi thở, những cảm giác, tâm và những đối tượng của tâm 'đúng như chúng là'. Ở đây chúng ta nhìn thấy "điểm tập trung" (tiêu điểm), nơi mà sự định tâm (samādhi) và những yếu tố khác của con đường hội tụ về lại nhau một cách hòa hợp.

When we are sitting in meditation, following the breath, think to yourself that now you are sitting alone. There is no-one sitting around you, there is nothing at all. Develop this feeling that you are sitting alone until the mind lets go of all externals, concentrating solely on the breath. If you are thinking, ''This person is sitting over here, that person is sitting over there,'' there is no peace, the mind doesn't come inwards. Just cast all that aside until you feel there is no-one sitting around you, until there is nothing at all, until you have no wavering or interest in your surroundings.

Khi chúng ta ngồi thiền, theo dõi theo hơi thở, hãy tự nghĩ rằng ngay lúc này mình đang ngồi một mình. Không có ai đang ngồi quanh ta, chẳng có gì cả. Phát huy cái cảm giác rằng ta đang ngồi một mình cho đến khi tâm buông bỏ hết mọi thứ bên ngoài, tập trung duy nhất vào hơi thở. Nếu bạn cứ nghĩ: "Người này đang ngồi đây, người kia đang ngồi kia" thì không có được bình an, tâm không hướng vào trong. Chỉ cần dẹp mọi thứ đó qua một bên cho đến khi bạn cảm thấy không-ai ngồi quanh bạn, cho đến khi không-có-gì xung quanh bạn, cho đến khi bạn không còn lăng xăng hay để ý những thứ xung quanh.

Let the breath go naturally, don't force it to be short or long or whatever, just sit and watch it going in and out. When the mind lets go of all external impressions, the sounds of cars and such will not disturb you. Nothing, whether sights or sounds, will disturb you, because the mind doesn't receive them. Your attention will come together on the breath.

Cứ để hơi thở tự nhiên, đừng bắt nó thở dài hay ngắn hay gì gì đó, chỉ ngồi và quan sát hơi thở đi vào và đi ra. Khi tâm buông bỏ tất cả mọi nhận thức bên ngoài, thì tiếng xe chạy hay âm thanh khác cũng không còn quấy nhiễu ta. Không còn gì, dù là hình sắc hay âm thanh, còn quấy nhiễu ta nữa, bởi tâm không còn tiếp nhận chúng. Sự chú tâm của ta sẽ hội tụ nơi hơi thở.

If the mind is confused and won't concentrate on the breath, take a full, deep breath, as deep as you can, and then let it all out till there is none left. Do this three times and then re-establish your attention. The mind will become calm.

It's natural for it to be calm for a while, and then restlessness and confusion may arise again. When this happens, concentrate, breathe deeply again, and then reestablish your attention on the breath. Just keep going like this. When this has happened many times you will become adept at it, the mind will let go of all external manifestations. External impressions will not reach the mind. Sati will be firmly established.

Nếu tâm còn bị rối và không thể tập trung vào hơi thở, hãy hít vào thật sâu, sâu đến mức có thể, rồi thở ra hết cho đến khi không còn gì. Làm như vậy ba lần, rồi thiết lập lại sự chú tâm. Tâm sẽ trở nên yên lặng.

Tâm được yên lặng trong một chốc lát là chuyện bình thường; nhưng rồi nó lại lăng xăng và rối động trở lại. Lúc này, ta lại tập trung, hít thật sâu lại như trước, rồi thiết lập sự chú tâm vào lại hơi thở. Cứ làm như vậy, cứ luyện tập như vậy. Tập luyện như vậy nhiều lần bạn sẽ trở nên thông thạo với cách đó, tâm sẽ buông bỏ mọi thứ bên ngoài. Những nhận thức bên ngoài không thể chạm đến tâm nữa. Lúc này sự chánh niệm (sati) đã được thiết lập vững vàng.

As the mind becomes more refined, so does the breath. Feelings will become finer and finer, the body and mind will be light. Our attention is solely on the inner, we see the in-breaths and out-breaths clearly, we see all impressions clearly. Here we will see the coming together of morality, concentration and wisdom. This is called the path in harmony. When there is this harmony our mind will be free of confusion, it will come together as one. This is called samādhi.

Khi tâm càng được thanh lọc tinh tế hơn, thì hơi thở cũng trở nên tinh tế hơn. Những cảm giác sẽ dần dần trở nên tinh nhẹ hơn, thân và tâm sẽ thấy nhẹ hơn. Sự chú tâm của ta chỉ hướng vào bên trong, ta nhìn thấy hơi thở-vào và hơi thở ra một cách rõ rệt, ta nhìn thấy tất cả mọi nhận thức một cách rõ rệt. Lúc này ta sẽ nhìn thấy sự hòa hợp của giới, định, tuệ. Đây được gọi là con đường hòa hợp. Khi có sự hòa hợp này, tâm của ta sẽ không còn bối rối, nó sẽ hợp nhất thành một. Đây được gọi là sự định-tâm (samādhi).

After watching the breath for a long time, it may become very refined; the awareness of the breath will gradually cease, leaving only bare awareness. The breath may become so refined it disappears! Perhaps we are 'just sitting', as if there is no breathing at all. Actually there is breathing, but it seems as if there's none. This is because the mind has reached its most refined state, there is just bare awareness. It has gone beyond the breath. The knowledge that the breath has disappeared becomes established. What will we take as our object of meditation now? We take just this knowledge as our object, that is, the awareness that there's no breath.

Sau khi quan sát hơi thở một lúc lâu, hơi thở sẽ trở nên rất tinh tế; dần dần sẽ không còn sự tỉnh giác vào hơi thở, mà chỉ còn lại đơn thuần một sự tỉnh giác thuần túy. Hơi thở có thể trở nên rất vi tế gần như biến mất! Dường như chúng ta 'chỉ đang ngồi' đó chứ không có hơi thở nào hết. Thực là, hơi thở vẫn có đó, nhưng nó quá vi tế, quá nhẹ như thể nó không còn nữa. Điều này là do tâm đã đạt đến trạng thái tinh tế nhất, chỉ còn có một sự thuần tỉnh giác. Nó đã vượt qua hơi thở. Sự-biết rằng hơi thở đã biến mất đã được thiết lập. Vậy thì lấy gì để làm đối tượng thiền lúc này? Chúng ta lấy ngay sự-biết đó làm đối tượng thiền, đó là sự-biết hay sự tỉnh-giác rằng hơi thở đã biến mất.

Unexpected things may happen at this time; some people experience them, some don't. If they do arise, we should be firm and have strong mindfulness. Some people see that the breath has disappeared and get a fright, they're afraid they might die. Here we should know the situation just as it is. We simply notice that there's no breath and take that as our object of awareness.

Một số điều bất ngờ có thể xảy ra trong lúc này; chúng có thể xảy ra đối với một số người, nhưng có thể không xảy ra đối với người khác. Nếu chúng xảy đến, ta phải có sự chánh niệm vững chắc và mạnh mẽ. Một số người thiền khi thấy hơi thở biến mất liền hoảng sợ, họ sợ rằng mình đã chết. Chúng ta cần hiểu biết rõ tình huống này như nó là: đó chỉ là điều tự nhiên chứ không phải chết chóc gì hết. Chúng ta chỉ cần nhận biết rằng hơi thở không còn và lấy sự-biết đó làm đối tượng chú tâm tỉnh giác của chúng ta

This, we can say, is the firmest, surest type of samādhi: there is only one firm, unmoving state of mind. Perhaps the body will become so light it's as if there is no body at all. We feel like we're sitting in empty space, completely empty. Although this may seem very unusual, you should understand that there's nothing to worry about. Firmly establish your mind like this.

Chúng ta có thể nói chính đây là loại định (samādhi) chắc chắn nhất, vững chắc nhất: chỉ có duy nhất một trạng thái tâm vững chắc và bất động. Có lẽ lúc này thân cũng trở nên rất nhẹ nhàng như thể không có thân nào hết vậy. Chúng ta cảm giác như mình đang ngồi trên chân không, hoàn toàn trống không. Mặc dù cảm giác này là lạ thường, nhưng chỉ cần biết rằng điều đó không có gì phải lo lắng. Thiết lập tâm một cách vững chắc như vậy.

When the mind is firmly unified, having no sense impressions to disturb it, one can remain in that state for any length of time. There will be no painful feelings to disturb us. When samādhi has reached this level, we can leave it when we choose, but if we come out of this samādhi, we do so comfortably, not because we've become bored with it or tired. We come out because we've had enough for now, we feel at ease, we have no problems at all.

Khi tâm được hợp nhất một cách vững chắc, không còn nhận thức giác quan nào quấy nhiễu tâm nữa, người thiền có thể duy trì trạng thái định-tâm đó bao nhiêu lâu tùy theo ý mình. Không còn những cảm giác đau khổ quấy nhiễu chúng ta. Khi sự định-tâm (samādhi) đã đạt đến mức này, chúng ta có thể thoát ra khỏi nó vào một thời điểm mà mình đã chọn. Nhưng chúng ta thoát ra khỏi trạng thái định-tâm (samādhi) (tức tầng thiền định jhana) là thoát ra một cách sảng khoái, hạnh phúc, chứ không phải bởi vì chúng ta thấy chán chê nó hoặc vì mệt mỏi. Chúng ta thoát ra vì chúng ta đã nhập định đủ trong giờ thiền này, chúng ta cảm thấy sảng khoái và thư thái, chúng ta không bị chút khó khổ nào hết.

If we can develop this type of samādhi, then if we sit, say, thirty minutes or an hour, the mind will be cool and calm for many days. When the mind is cool and calm like this, it is clean. Whatever we experience, the mind will take up and investigate. This is a fruit of samādhi.

Morality has one function, concentration has another function and wisdom another. These factors are like a cycle. We can see them all within the peaceful mind. When the mind is calm it has collectedness and restraint because of wisdom and the energy of concentration. As it becomes more collected it becomes more refined, which in turn gives morality the strength to increase in purity. As our morality becomes purer, this will help in the development of concentration. When concentration is firmly established it helps in the arising of wisdom. Morality, concentration and wisdom help each other, they are inter-related like this.

Nếu chúng ta phát triển loại định này thì khi ta ngồi thiền, ví dụ 30 phút hay 1 tiếng, tâm sẽ được mát mẻ và yên tĩnh trong suốt mấy ngày sau. Khi tâm đã được mát mẻ và yên tĩnh như vậy, thì nó là sạch sẽ. Bất cứ thứ gì ta trải nghiệm, tâm sẽ lập tức nhận biết và điều tra về thứ đó. Đây là kết quả của sự định-tâm (samādhi).

Giới hạnh có một chức năng, thiền định có chức năng khác, và trí tuệ có chức năng khác. Ba yếu tố này giống như một vòng tròn. Chúng ta có thể nhìn thấy tất cả chúng bên trong một cái tâm bình an. Khi tâm được tĩnh lặng, nó có được sự hội-tụ và sự kiềm-chế nhờ có trí tuệ và năng lượng định tâm. Khi tâm càng được hội tụ (gom lại) hơn, thì nó càng trở nên tinh tế hơn, nhờ đó nó càng quay lại hỗ trợ sức mạnh cho giới hạnh tăng lên trong sự tinh khiết. Khi giới hạnh được tinh khiết (trong sạch) hơn, nó lại giúp phát triển sự tập trung và định tâm. Khi sự định-tâm được thiết lập một cách vững chắc, nó sẽ giúp làm khởi sinh ra trí tuệ. Giới, định, tuệ trợ giúp lẫn nhau, chúng liên quan tương tức với nhau như vậy.

In the end the path becomes one and functions at all times. We should look after the strength which arises from the path, because it is the strength which leads to insight and wisdom.

Cuối cùng, con đường đạo trở thành một và vận hành suốt mọi lúc mọi nơi. Chúng ta nên chú ý giữ gìn cái sức mạnh có được từ con đường đạo đó (tức sức mạnh của định, chánh định), bởi vì đó là sức mạnh dẫn đến sự thâm nhập minh sát và trí tuệ.

On Dangers Of Samādhi

Samādhi is capable of bringing much harm or much benefit to the meditator, you can't say it brings only one or the other. For one who has no wisdom it is harmful, but for one who has wisdom it can bring real benefit, it can lead to insight.

Sự định-tâm (samādhi) có khả năng làm hại hay làm lợi cho người thiền, chúng ta không thể nói nó chỉ toàn có hại hoặc chỉ toàn có lợi. Đối với những người không có trí, nó là có hại. Nhưng đối với người có trí, nó thực sự có lợi, vì nó sẽ dẫn đến trí tuệ minh sát.

That which can possibly be harmful to the meditator is absorption samādhi (jhāna), the samādhi with deep, sustained calm. This samādhi brings great peace. Where there is peace, there is happiness. When there is happiness, attachment and clinging to that happiness arise. The meditator doesn't want to contemplate anything else, he just wants to indulge in that pleasant feeling. When we have been practising for a long time we may become adept at entering this samādhi very quickly. As soon as we start to note our meditation object, the mind enters calm, and we don't want to come out to investigate anything. We just get stuck on that happiness. This is a danger to one who is practising meditation.

Sự nguy hại có thể đối với người thiền chính là khi thâm nhập vào trạng thái định sâu [tầng thiền định, jhāna], lúc này định (samādhi) rất sâu và kéo dài. Loại định sâu này (tầng thiền định) mang lại sự bình an lớn lao, tuyệt trần. Khi có sự bình an thì có hạnh phúc (lạc). Nhưng khi có hạnh phúc thì dễ khởi sinh sự tham đắm và dính mắc vào đó. Người thiền không còn muốn suy xét (quán niệm) về bất kỳ điều gì khác, người thiền chỉ muốn đắm mình vào cái cảm giác sướng khoái dễ chịu ngất ngây đó. Khi chúng ta đã tu tập lâu năm, chúng ta có thể thành thạo với việc nhập định một cách rất nhanh chóng. Ngay khi chúng ta bắt đầu nhận biết đối tượng thiền của ta, tâm nhập vào tĩnh lặng, và chúng ta không còn muốn thoát ra để điều tra suy xét (quán xét, quán chiếu, quán niệm) về bất kỳ điều gì nữa. Chúng ta bị dính kẹt vào 'cảnh giới' hỷ lạc ngất ngây đó. Đây là chỗ nguy hại đối với những ai đang thiền tập ở giai đoạn đó.

We must use upacāra samādhi: Here, we enter calm and then, when the mind is sufficiently calm, we come out and look at outer activity. Looking at the outside with a calm mind gives rise to wisdom. This is hard to understand, because it's almost like ordinary thinking and imagining. When thinking is there, we may think the mind isn't peaceful, but actually that thinking is taking place within the calm. There is contemplation but it doesn't disturb the calm. We may bring thinking up in order to contemplate it. Here we take up the thinking to investigate it, it's not that we are aimlessly thinking or guessing away; it's something that arises from a peaceful mind. This is called 'awareness within calm and calm within awareness'. If it's simply ordinary thinking and imagining, the mind won't be peaceful, it will be disturbed. But I am not talking about ordinary thinking, this is a feeling that arises from the peaceful mind. It's called 'contemplation'. Wisdom is born right here.

Chúng ta cần phải dùng trạng thái cận-định (upacāra samādhi): Ở đây, khi ta nhập định, và rồi khi tâm đã đủ định sâu, chúng ta thoát ra và quan sát và xem xét hoạt động bên ngoài. Nhìn xem hoạt động bên ngoài (với cái tâm đạt định sâu) sẽ làm khởi sinh ra trí tuệ. Chỗ này hơi khó hiểu, bởi vì hành động đó trông giống như sự hướng ngoại, giống như sự nghĩ suy này nọ, giống như sự vọng tưởng thường ngày của cái tâm bình thường của chúng ta. Khi có suy nghĩ hay ý nghĩ, chúng ta có thể cho rằng tâm không được bình an, (về lý là vậy), nhưng thực ra sự suy nghĩ đó đang nằm trong một sự tĩnh lặng, nằm trong trạng thái định. Có sự quán xét, nhưng nó không làm quấy nhiễu trạng thái định. Chúng ta có thể đưa ý nghĩ (tư tưởng) lên để điều tra suy xét nó, đó không phải là sự nghĩ ngợi vô mục đích hay chỉ là sự nghĩ đoán này nọ. Mà đó chính là "sự tỉnh giác bên trong sự tĩnh lặng và sự tĩnh lặng nằm trong sự tỉnh giác". (Sự rõ biết trong định, định với sự rõ biết). Nếu đó là sự nghĩ suy và vọng tưởng bình thường thì tâm đâu có được bình an như vậy, nó sẽ bị quấy nhiễu và động vọng ngay. Nhưng ở đây tôi đang không nói về sự suy nghĩ bình thường, mà về một cảm giác khởi sinh từ cái tâm bình an đó. Đây được gọi là "sự quán xét' (suy xét, quán chiếu). Trí tuệ khởi sinh ở đây, ngay chỗ sự quán-xét này.

So, there can be right samādhi and wrong samādhi. Wrong samādhi is where the mind enters calm and there's no awareness at all. One could sit for two hours or even all day but the mind doesn't know where it's been or what's happened. It doesn't know anything. There is calm, but that's all. It's like a well-sharpened knife which we don't bother to put to any use. This is a deluded type of calm, because there is not much self-awareness. The meditator may think he has reached the ultimate already, so he doesn't bother to look for anything else. Samādhi can be an enemy at this level. Wisdom cannot arise because there is no awareness of right and wrong.

Như vậy, trạng thái đạt định có thể là định đúng đắn (chánh định) hoặc có thể là định sai lạc (tà định). Định sai lạc có nghĩa là tâm tiến vào nhập định và không còn sự tỉnh giác rõ biết nào hết. Người thiền có thể ngồi đó nhập định 2 tiếng đồng hồ hoặc cả ngày, nhưng tâm chẳng biết nó đang ở đâu hoặc điều gì đang xảy ra. Nó chẳng biết gì hết. Có sự tĩnh lặng, có định, nhưng tất cả chỉ có vậy. Điều đó cũng giống như ta có một con dao đã được mài luyện sắc bén và cứng chắc nhưng ta chẳng biết dùng nó để cắt gọt thứ gì hữu ích. Đây là loại định ngu mờ, chìm đắm, nó không có nhiều sự tự-tỉnh-giác, không có sự rõ-biết (sampajanna). Người thiền có thể (sau đó) nghĩ rằng mình đã đạt đến sự tột cùng, nên người thiền 'không thèm' nhìn xem hay xem xét bất kỳ thứ gì khác nữa. Tầng thiền định này có thể trở thành một kẻ thù của mình mà người đó không hay. Trí tuệ không thể nào khởi sinh bởi đâu có sự tỉnh-giác hay rõ-biết về cái đúng, cái sai.

With right samādhi, no matter what level of calm is reached, there is awareness. There is full mindfulness and clear comprehension. This is the samādhi which can give rise to wisdom, one cannot get lost in it. Practisers should understand this well. You can't do without this awareness, it must be present from beginning to end. This kind of samādhi has no danger.

You may wonder: where does the benefit arise, how does the wisdom arise, from samādhi? When right samādhi has been developed, wisdom has the chance to arise at all times. When the eye sees form, the ear hears sound, the nose smells odours, the tongue experiences taste, the body experiences touch or the mind experiences mental impressions - in all postures - the mind stays with full knowledge of the true nature of those sense impressions, it doesn't follow them.

Định đúng đắn (chánh định) là định có đi kèm sự tỉnh giác, sự rõ-biết. Chánh định là có đầy đủ sự chánh niệm (sati) và sự hiểu biết rõ ràng (sự rõ biết, sự tự tỉnh giác, sampajanna). Nếu là chánh đinh thì dù là định-sâu ở mức nào cũng luôn có sự tỉnh giác. Chánh định là luôn có đầy đủ sự chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng. Đây là loại định có khả năng làm khởi sinh trí tuệ, người thiền không thể bị 'chìm đắm' hay bị 'lạc hồn' trong đó. Người thiền tập nên hiểu rõ chỗ này. Bạn không làm gì được nếu không có sự tỉnh giác, sự tỉnh giác này phải có mặt từ ngay lúc đầu cho đến cuối. Loại định này thì không có nguy hại.

Quý vị có thể thắc mắc: ích lợi là chỗ nào?, làm sao trí tuệ có thể khởi sinh từ trạng thái đạt định đó? Khi chánh định đã được phát triển, thì trí tuệ luôn có cơ hội khởi sinh. Khi mắt nhìn thấy hình sắc, tai nghe âm thanh, mùi ngửi mùi hương, lưỡi nếm mùi vị, thân đụng chạm xúc, hoặc tâm trải nghiệm những nhận thức thuộc tâm – trong mọi tư thế – thì tâm luôn an trú với một sự hiểu-biết đầy đủ về bản chất đích thực của các nhận thức giác quan (tưởng) đó, nhưng nó không chạy theo những nhận thức hay tâm tưởng đó.

When the mind has wisdom it doesn't 'pick and choose.' In any posture we are fully aware of the birth of happiness and unhappiness. We let go of both of these things, we don't cling. This is called right practice, which is present in all postures. These words 'all postures' do not refer only to bodily postures, they refer to the mind, which has mindfulness and clear comprehension of the truth at all times. When samādhi has been rightly developed, wisdom arises like this. This is called 'insight', knowledge of the truth.

Khi tâm có trí tuệ, nó không còn 'chọn lấy' này nọ, (tức không còn chạy theo thứ này thứ nọ, nhận khổ, nhận sướng, thích, ghét...). Khi đó, trong bất kỳ tư thế nào, ta cũng hoàn toàn rõ-biết về sự khởi sinh của sướng và khổ. Đây được gọi là sự tu tập đúng đắn, sự rõ-biết có mặt trong tất cả mọi tư thế. Chữ "tất cả mọi tư thế" không chỉ dùng để chỉ các tư thế của thân, mà ở đây chỉ luôn về tâm, cái tâm có sự chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng về sự thật mọi lúc, mọi nơi. Khi định được tu tập và phát triển một cách đúng đắn, trí tuệ khởi sinh như vậy. Đây được gọi là 'trí tuệ minh sát', 'trí tuệ thâm nhập', là sự hiểu-biết về sự thật.

There are two kinds of peace - the coarse and the refined. The peace which comes from samādhi is the coarse type. When the mind is peaceful there is happiness. The mind then takes this happiness to be peace. But happiness and unhappiness are becoming and birth. There is no escape from samsāra here because we still cling to them. So happiness is not peace, peace is not happiness.

Có hai loại bình an—loại thô tế và loại vi tế. Loại bình an có được từ trạng thái định là loại còn thô tế. Khi tâm được bình an thì khởi sinh niềm hỷ lạc, hạnh phúc. Rồi tâm coi sự hạnh phúc đó là sự bình an. Nhưng hạnh phúc và không hạnh phúc, sướng và khổ chính là sự trở-thành và sự sinh. (Còn đối đãi sướng-khổ là còn sự trở thành và sự sinh, theo lý của vòng Duyên Khởi). Do vậy, ngày đó vẫn còn chưa thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử (samsāra), bởi chúng ta vẫn còn dính chấp vào sướng-khổ. Do vậy, hạnh phúc đó không phải là bình an, và sự bình an kiểu đó chưa phải là hạnh phúc đích thực.

The other type of peace is that which comes from wisdom. Here we don't confuse peace with happiness; we know the mind which contemplates and knows happiness and unhappiness as peace. The peace which arises from wisdom is not happiness, but is that which sees the truth of both happiness and unhappiness. Clinging to those states does not arise, the mind rises above them. This is the true goal of all Buddhist practice.

Loại bình an khác là loại bình an có được từ trí tuệ. Khi có trí tuệ, chúng ta không nhầm lẫn giữa yếu tố hạnh phúc (lạc) với sự bình an; chúng ta rõ biết về cái tâm quán sát và rõ biết về bản chất sướng khổ thì mới là sự bình an. Sự bình an khởi sinh từ trí tuệ không phải là hạnh phúc, nhưng chính cái nhìn thấy sự thật về sướng khổ mới là sự bình an. (Cái đó là cái tâm thấy-biết). Sự dính mắc vào sướng khổ không còn khởi sinh, vì cái tâm thấy biết đã vượt lên trên sự dính mắc đối đãi đó. Đây mới chính là mục tiêu đích thực của việc thiền tập, của Thiền Phật giáo.


Chương 30

RIGHT VIEW - THE PLACE OF COOLNESS - CHÁNH KIẾN – NƠI MÁT LÀNH

The practice of Dhamma goes against our habits, the truth goes against our desires, so there is difficulty in the practice. Some things which we understand as wrong may be right, while the things we take to be right may be wrong. Why is this? Because our minds are in darkness, we don't clearly see the Truth. We don't really know anything and so are fooled by people's lies. They point out what is right as being wrong and we believe it; that which is wrong, they say is right, and we believe that. This is because we are not yet our own masters. Our moods lie to us constantly. We shouldn't take this mind and its opinions as our guide, because it doesn't know the truth.

Việc tu tập Giáo Pháp là đi ngược lại với những thói quen (thói tâm) của chúng ta, đó là sự thật thì đi ngược lại với ý muốn (tham muốn, dục vọng) của chúng ta, do vậy rất khó tu tập. Có. những thứ chúng ta hay nghĩ là sai thì nó lại là đúng, có thứ ai cũng nghĩ là đúng thì là sai. Tại sao có điều này? Bởi tâm chúng ta vẫn còn trong bóng tối, chúng ta không thấy được Sự Thật. Chúng ta không biết rõ sự thật, nên thường thì chúng ta cũng bị lừa bởi những lời nói dối của người đời. Người đời thường nói sai thành đúng, và chúng ta nghe theo; họ nói đúng thành sai, và chúng ta tin theo. Bởi chúng ta chưa phải là người thầy của chính mình. Những trạng thái thì giả lừa chúng ta liên tục. Chúng ta không nên lấy tâm này và những ý kiến của nó (tâm ý) hướng dẫn chúng ta, bởi tâm này vẫn chưa hiểu biết sự thật.

Some people don't want to listen to others at all, but this is not the way of a man of wisdom. A wise man listens to everything. One who listens to Dhamma must listen just the same, whether he likes it or not, and not blindly believe or disbelieve. He must stay at the half-way mark, the middle point, and not be heedless. He just listens and then contemplates, giving rise to the right results accordingly.

Nhiều người không bao giờ muốn nghe người khác, nhưng đó không phải là cách của một người trí khôn. Người khôn ngoan lắng nghe mọi thứ. Ai muốn lắng nghe Giáo Pháp thì phải biết lắng nghe mọi thứ dù đó là thứ mình thích hay không thích, và khi lắng nghe chứ không mù quáng tin theo hay không tin theo. Khi nghe chúng ta nên đứng giữa lằn đúng-sai, đừng vội ngã theo bên nào. Hãy lắng nghe và suy xét, điều tra giúp làm khởi sinh ra sự nhận biết đúng đắn.

A wise man should contemplate and see the cause and effect for himself before he believes what he hears. Even if the teacher speaks the truth, don't just believe it, because you don't yet know the truth of it for yourself.

Một người khôn ngoan thì nên suy xét chánh niệm và tự mình nhìn thấy sự nhân-quả trước khi tin vào điều mình đã nghe. Ngay cả khi người thầy nói sự thật, đừng vội tin ngay, bởi ta chưa tự thân trải nghiệm hay hiểu biết về vấn đề đó.

It's the same for all of us, including myself. I've practised before you, I've seen many lies before. For instance, ''This practice is really difficult, really hard.'' Why is the practice difficult? It's just because we think wrongly, we have wrong view.

Tất cả chúng ta đều vậy, cả tôi cũng vậy. Tôi tu tập trước quý vị, tôi nhìn thấy trước nhiều điều giả lừa. Ví dụ như câu người ta hay nói "Tu kiểu này rất khó, thật là khó". Tại sao khó? Chỉ là tại vì chúng ta nghĩ nó khó, chúng ta có cách nhìn sai lầm.

Previously I lived together with other monks, but I didn't feel right. I ran away to the forests and mountains, fleeing the crowd, the monks and novices. I thought that they weren't like me, they didn't practise as hard as I did. They were sloppy. That person was like this, this person was like that. This was something that really put me in turmoil, it was the cause for my continually running away. But whether I lived alone or with others, I still had no peace. On my own I wasn't content, in a large group I wasn't content. I thought this discontent was due to my companions, due to my moods, due to my living place, the food, the weather, due to this and that. I was constantly searching for something to suit my mind.

Trước kia tôi sống chúng với các tăng khác, tôi không cảm thấy ổn. Tôi bỏ đi vô rừng và lên núi, xa lánh khỏi chỗ đông người, cách xa các tăng và sa-di. Tôi nghĩ rằng họ không giống tôi, họ không tu tập siêng năng bằng tôi. Họ trì trệ. Người này như vầy, người kia như vậy. Tôi cứ nghĩ trong đầu như vậy nên lúc nào cũng rối tung, lúc nào cũng muốn trốn chạy khỏi họ. Nhưng dù tôi có sống với họ hay sống một mình, tôi cũng chẳng được bình an. Sống với đông người tôi không vừa lòng, sống một mình tôi cũng không vừa lòng. Tôi nghĩ sự bất mãn này là do họ, do những trạng thái của tôi, do nơi tôi ở, do thức ăn, do thời tiết, do này, do nọ. Tôi cứ liên tục đi tìm chỗ nào đó cho vừa lòng mình.

As a dhutanga monk, I went travelling, but things still weren't right. So I contemplated, ''What can I do to make things right? What can I do?'' Living with a lot of people I was dissatisfied, with few people I was dissatisfied. For what reason? I just couldn't see it. Why was I dissatisfied? Because I had wrong view, just that; because I still clung to the wrong Dhamma. Wherever I went I was discontent, thinking, ''Here is no good, there is no good...'' on and on like that. I blamed others. I blamed the weather, heat and cold, I blamed everything! Just like a mad dog. It bites whatever it meets, because it's mad. When the mind is like this our practice is never settled. Today we feel good, tomorrow no good. It's like that all the time. We don't attain contentment or peace.

Là một khất sĩ khổ hạnh (dhutanga) nay đây mai đó, tôi cứ tiếp tục đi, nhưng mọi sự vẫn không ổn, vẫn không an lòng. Do vậy tôi đã suy xét: "Tôi có thể làm gì để mọi sự vừa lòng?" Sống với nhiều người tôi cũng không thấy ổn, sống một mình cũng không dễ chịu. Ý do là sao? Tôi không nhìn ra lý do. Tại sao tôi luôn bất mãn? Bởi vì tôi có cách nhìn sai lạc, chỉ vậy thôi. (Mọi thứ điều do cách nhìn). Bởi tôi vẫn còn dính vào những pháp sai lệch. Đi đâu tôi cũng không vừa lòng, cứ nghĩ: "Ở đây không tốt, ở đó không tốt...", vân vân và vân vân. Tôi trách người. Trách trời mưa, trời nắng. Trách trời nóng, trời lạnh. Trách đủ thứ! Cứ như con chó khùng. Nó gặp đâu cắn đó, vì nó khùng. Khi tâm chúng ta như vậy thì sự tu hành của chúng ta chẳng bao giờ ổn thỏa. Hôm nay thấy tốt, ngày mai thấy không tốt. Cứ nắng mưa như vậy suốt ngày này ngày khác. Cứ như vậy chúng ta chẳng bao giờ có được sự hài lòng hay bình an.

The Buddha once saw a jackal, a wild dog, run out of the forest where he was staying. It stood still for a while, then it ran into the underbrush, and then out again. Then it ran into a tree hollow, then out again. Then it went into a cave, only to run out again. One minute it stood, the next it ran, then it lay down, then it jumped up. That jackal had mange. When it stood the mange would eat into its skin, so it would run. Running it was still uncomfortable, so it would stop. Standing was still uncomfortable, so it would lie down. Then it would jump up again, running into the underbrush, the tree hollow, never staying still.

Có lần Phật nhìn thấy một con chó rừng. Nó chạy ra khỏi rừng, đứng lại, rồi chạy vào lùm cây, rồi chạy ra lại, đứng lại, rồi lại chạy vào hang đất, rồi lại chạy ra đứng, đứng rồi lại nằm xuống, nằm xuống rồi lại bật dậy, rồi chạy đi, chạy lại, chạy ra, chạy vô, không một chút ngừng nghỉ. Con chó bị ghẻ lở đang ăn sâu vào da thịt của nó, nên nó rất khó chịu, đau nhức, ngứa ngáy, quá khổ sở. Do vậy nên nó đứng, đi, nằm, ngồi, chạy, lũi vô hang...đều thấy khó chịu và khổ sở.

The Buddha said, ''Monks, did you see that jackal this afternoon? Standing it suffered, running it suffered, sitting it suffered, lying down it suffered. In the underbrush, a tree hollow or a cave, it suffered. It blamed standing for its discomfort, it blamed sitting, it blamed running and lying down; it blamed the tree, the underbrush and the cave. In fact the problem was with none of those things. That jackal had mange. The problem was with the mange.''

Phật nói rằng: "Này các Tỳ kheo, các thầy có thấy con chó rừng buổi chiều nay không? Đứng nó bị khổ sở, ngồi nó bị khổ sở, chạy nó bị khổ sở, nằm nó bị khổ sở. Dù ở trong rừng, dưới bụi cây, trong hang đất nó đều khổ sở. Nó bực tức vì đứng làm nó đau khổ, nó bực tức vì ngồi làm nó đau khổ, nó bực tức vì chạy và vì nằm làm nó đau khổ; nó tức cái cây, cái bụi và hang đất. Thực ra vấn đề vấn đề không ở chỗ những thứ đó. Mà do con chó bị ghẻ lở. Vấn đề khó khổ là chỗ ghẻ lở".

We monks are just the same as that jackal. Our discontent is due to wrong view. Because we don't exercise sense restraint we blame our suffering on externals. Whether we live at Wat Pah Pong, in America or in London we aren't satisfied. Going to live at Bung Wai or any of the other branch monasteries we're still not satisfied. Why not? Because we still have wrong view within us. Wherever we go we aren't content.

Chúng ta là những người đi tu cũng như con chó rừng. Sự bất hài lòng, sự bất mãn, sự khó ở của chúng ta chỉ là do cách nhìn của chúng ta mà thôi. Bởi chúng ta chưa tu tập kiềm chế các giác quan, nhưng cứ đi đỗ thừa cho những thứ bên ngoài. Dù chúng ta đang sống ở chùa Wat Pah Pong này, sống ở Mỹ hay ở Anh thì chúng ta cũng không vừa lòng. Dù có đi đến ở chi nhánh nào của Wat Pah Pong thì chúng ta cũng không thấy ổn để tu. Bởi chúng ta vẫn còn cách nhìn sai lạc trong tâm. Dù có đi đâu cũng thấy không ổn, cũng bất mãn, chán chường nơi đó.

But just as that dog, if the mange is cured, is content wherever it goes, so it is for us. I reflect on this often, and I teach you this often, because it's very important. If we know the truth of our various moods we arrive at contentment. Whether it's hot or cold we are satisfied, with many people or with few people we are satisfied. Contentment doesn't depend on how many people we are with, it comes only from right view. If we have right view then wherever we stay we are content.

Như con chó, nếu chỗ ghẻ lở được trị lành thì nó sẽ hài lòng khi đứng, đi, chạy, nằm; chúng ta cũng tương tự vậy, nếu có cách nhìn đúng đắn thì ở, đi, hay đến đâu ta cũng hài lòng, vui sống. Tôi đã suy xét về điều này rất nhiều và đã chỉ rất nhiều cho quý vị, bởi chỗ này rất quan trọng cho cuộc sống tu hành. Nếu chúng ta hiểu biết các sự thật khác nhau, chúng ta sẽ đi đến hài lòng. Dù nóng hay lạnh chúng ta cũng hài lòng, dù ở với nhiều người hay ít người chúng ta vẫn hài lòng. Sự hài lòng không tùy thuộc vào bao nhiêu người xung quanh, mà tùy thuộc vào cách nhìn đúng đắn của chúng ta. Nếu chúng ta có chánh kiến thì dù ở đâu chúng ta cũng biết hài lòng.

But most of us have wrong view. It's just like a maggot - a maggot's living place is filthy, its food is filthy...but they suit the maggot. If you take a stick and brush it away from its lump of dung, it'll struggle to crawl back in. It's the same when the Ajahn teaches us to see rightly. We resist, it makes us feel uneasy. We run back to our 'lump of dung' because that's where we feel at home. We're all like this. If we don't see the harmful consequences of all our wrong views then we can't leave them, the practice is difficult. So we should listen. There's nothing else to the practice.

If we have right view wherever we go we are content. I have practised and seen this already. These days there are many monks, novices and lay people coming to see me. If I still didn't know, if I still had wrong view, I'd be dead by now! The right abiding place for monks, the place of coolness, is just right view itself. We shouldn't look for anything else.

Nhưng hầu hết chúng ta đều có tà kiến. Giống như con giòi—nơi nó sống là bẩn thỉu, thứ nó ăn là bẩn thỉu... nhưng nơi đó và thứ đó lại thích hợp với nó. Nếu chúng ta lấy cây hất nó ra khỏi đống phân cứt bẩn thỉu đó, nó sẽ cố hết sức để bò trở lại đống phân đó. Cũng giống như khi các sư thầy dạy chúng ta cách nhìn đúng đắn, thanh tịnh. Chúng ta thấy khó nghe, thấy ngược ngạo, cảm thấy khó chịu. Chúng ta cứ muốn quay lại với 'đống phân' cố hữu của mình, bởi vì chúng ta đã quen với những điều chấp thủ. Tất cả chúng ta đều là vậy. Chừng nào chúng ta chưa nhìn ra những hậu quả của những cách nhìn sai lầm (tà kiến) thì chúng ta càng khó rời bỏ chúng, và sự tu tập sẽ còn rất khó khăn.

Nơi an trú đúng đắn của các tu sĩ, nơi mát lành, chính là chỗ chánh kiến. Chúng ta không nên tìm kiếm chỗ khác.

So even though you may be unhappy it doesn't matter, that unhappiness is uncertain. Is that unhappiness your 'self? Is there any substance to it? Is it real? I don't see it as being real at all. Unhappiness is merely a flash of feeling which appears and then is gone. Happiness is the same. Is there a consistency to happiness? Is it truly an entity? It's simply a feeling that flashes suddenly and is gone. There! It's born and then it dies. Love just flashes up for a moment and then disappears. Where is the consistency in love, or hate, or resentment? In truth there is no substantial entity there, they are merely impressions which flare up in the mind and then die. They deceive us constantly, we find no certainty anywhere. Just as the Buddha said, when unhappiness arises it stays for a while, then disappears. When unhappiness disappears, happiness arises and lingers for a while and then dies. When happiness disappears, unhappiness arises again...on and on like this.

Do vậy, ngay cả khi các thầy không vui thì cũng chẳng sao, sự không vui đâu có chắc chắn. Sự bất hạnh đâu phải là 'ta'? Đâu phải bất hạnh là thứ bất thay đổi? Đâu phải nó là thực tại cố định? Tôi không thấy nó là gì cả. Cảm giác không vui hay bất hạnh chỉ là một sự thoáng qua và biến mất. Hạnh phúc cũng vậy, cũng chỉ là thoáng qua và phù du. Cảm giác hạnh phúc đâu có gì là bền chắc? Nó đâu phải là một thực thể hay một thực tại cố định đâu? Nó chỉ đơn giản là cảm giác có đó và biến mất. Tình yêu thương cũng khởi lên rồi biến mất. Đâu có gì chắc chắn hay ổn định trong cảm giác yêu thương, ghét bỏ hay thù hận? Không có cảm giác nào là một thứ bất biến và chắc chắn hết, nó chỉ là những cảm tưởng phát sinh trong tâm và sau đó tắt đi. Chúng liên tục giả lừa chúng ta, thực ra mọi thứ đều không có gì chắc chắn. Giống như Phật đã nói, cảm giác bất hạnh khởi sinh trong chốc lát, sau đó nó cũng biến đi. Khi bất hạnh biến mất thì cảm giác hạnh phúc khởi sinh, rồi sau đó cũng biến mất. Khi hạnh phúc biến đi, cảm giác bất hạnh lại khởi sinh... và cứ như vậy. (Vui buồn, sướng khổ, vừa lòng bất mãn, thích chán... liên tục liên tục trong tâm chúng ta trong suốt thời gian sống).

In the end we can say only this - apart from the birth, the life and the death of suffering, there is nothing. There is just this. But we who are ignorant run and grab it constantly. We never see the truth of it, that there's simply this continual change. If we understand this then we don't need to think very much, but we have much wisdom. If we don't know it, then we will have more thinking than wisdom - and maybe no wisdom at all! It's not until we truly see the harmful results of our actions that we can give them up. Likewise, it's not until we see the real benefits of practice that we can follow it, and begin working to make the mind 'good'.

Rốt cuộc chúng ta có thể nói rằng—ngoài sự khổ của "sinh, sống, già, chết" ra, chẳng có gì khác. Chỉ như vậy. Sự sống chỉ có như vậy. Nhưng chúng ta là những kẻ ngu mờ vô minh cứ liên tục chạy theo theo bám víu vào sự "sinh, già, bệnh chết" đó. Chúng ta chưa nhìn thấy sự thật của nó, đó là nó luôn luôn thay đổi. Nếu chúng ta chỉ cần hiểu được lẽ thật này thì chúng ta đâu cần phải suy nghĩ nhiều, và chúng ta có được nhiều trí tuệ. (Nếu hiểu được mọi thứ đều luôn thay đổi, ta đâu cần phải bực bội, khó ở, bất hạnh ở bất cứ nơi nào). Nếu chúng ta không hiểu lẽ thật đó, thì chúng ta chỉ liên tục có toàn những suy nghĩ chứ không có trí tuệ– và có lẽ chẳng có chút trí tuệ nào cả! Không có trí tuệ gì nếu chúng ta vẫn chưa nhìn thấy những hậu quả nguy hại từ những hành động sống (nghiệp) của chúng ta từ trước đến nay. Tương tự, chẳng có trí tuệ gì cho đến khi chúng ta nhìn thấy những kết quả lợi lạc của việc tu tập và từ đó bắt đầu hướng tâm theo hướng 'tốt thiện'.

If we cut a log of wood and throw it into the river, and that log doesn't sink or rot, or run aground on either of the banks of the river, that log will definitely reach the sea. Our practice is comparable to this. If you practise according to the path laid down by the Buddha, following it straightly, you will transcend two things. What two things? Just those two extremes that the Buddha said were not the path of a true meditator - indulgence in pleasure and indulgence in pain. These are the two banks of the river. One of the banks of that river is hate, the other is love. Or you can say that one bank is happiness, the other unhappiness. The 'log' is this mind. As it 'flows down the river' it will experience happiness and unhappiness. If the mind doesn't cling to that happiness or unhappiness it will reach the 'ocean' of Nibbāna. You should see that there is nothing other than happiness and unhappiness arising and disappearing. If you don't 'run aground' on these things then you are on the path of a true meditator.

Nếu chúng ta chặt khúc cây và quăng xuống sông, khúc cây đó không bị chìm, không bị mục, không bị dạt vào hai bên bờ, mà nó chắc chắn sẽ trôi ra biển. Sự tu tập của chúng ta có thể so với điều này. Nếu chúng ta tu tập theo lời hướng dẫn của Đức Phật, tu tập theo đạo một cách chính thẳng, thì chúng ta có thể vượt qua hai điều. Hai điều là gì? Đó là hai cực đoan mà Phật đã dạy là không phải cách của người tu thiền đúng đắn. Hai cực đoan đó là chạy theo dục lạc và dấn thân vào hành xác khổ hạnh. Hai đó như hai bờ sông. Bên lở, bên bồi. Một bên dòng chảy thích, một bên dòng chảy ghét. Một bên là vui sướng khoái lạc, một bên là khổ hạnh hành xác. 'Khúc gỗ' là tâm này. Khi nó 'trôi theo dòng sông' nó 'dạt' qua bên lở bên bồi, nó trải nghiệm sướng và khổ. Nhưng nếu tâm không dính vướng vào bên sướng hay bên khổ thì nó sẽ đi ra được 'biển lớn' Niết-bàn. Quý vị nên nhìn ra rằng: chẳng có gì khác ngoài sự khổ và sướng khởi sinh và biến mất. Nếu quý vị không dính chấp sướng khổ, thì quý vị đang đi đúng đắn trên con đường đạo, đang là một người tu thiền đích thực.

This is the teaching of the Buddha. Happiness, unhappiness, love and hate are simply established in nature according to the constant law of nature. The wise person doesn't follow or encourage them, he doesn't cling to them. This is the mind which lets go of indulgence in pleasure and indulgence in pain. It is the right practice. Just as that log of wood will eventually flow to the sea, so will the mind which doesn't attach to these two extremes inevitably attain peace.

Đây là giáo lý của Đức Phật. Sướng, khổ, thích, ghét... đơn giản được thiết lập trong tự nhiên theo quy luật thường hằng của tự nhiên. Người có trí không dính theo những sự sướng, khổ, thích, ghét...đó; người ấy không dính mắc vào chúng. Đây chính là tâm buông bỏ mọi tham thích về khoái lạc và ý muốn về khổ hạnh. Không chạy theo cực đoan sướng, cũng không chạy theo cực đoan hành khổ. Đây là cách tu tập đúng đắn. Cũng giống như khúc gỗ không bị vướng vào bên bồi và bên lỡ để cuối cùng trôi ra biển lớn, khi tâm này không bị dính mắc vào hai cực đoan sướng và khổ thì chắc chắn sẽ đạt đến bình an.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro