Những Lời Dạy Vượt Thời Gian Của Ajahn Chah (Từ chương 41 đến chương 45)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 41

DHAMMA NATURE - BẢN CHẤT TỰ NHIÊN CỦA GIÁO PHÁP

Chương 42

THE TWO FACES OF REALITY - HAI MẶT CỦA HIỆN THỰC

Chương 43

THE TRAINING OF THE HEART - VIỆC TU TẬP CÁI TÂM

Chương 44

THE WAVE ENDS - QUESTIONS AND ANSWERS WITH AJAHN CHAH – SÓNG NGỪNG

Chương 45

DHAMMA FIGHTING - GIÁO PHÁP CHIẾN ĐẤU

***

Chương 41

DHAMMA NATURE - BẢN CHẤT TỰ NHIÊN CỦA GIÁO PHÁP

Sometimes, when a fruit tree is in bloom, a breeze stirs and scatters blossoms to the ground. Some buds remain and grow into a small green fruit. A wind blows and some of them, too, fall! Still others may become fruit or nearly ripe, or some even fully ripe, before they fall.

Đôi khi, cây đang ra hoa kết nhụy, một cơn gió nhẹ thổi qua, làm các nhụy hoa rụng xuống đất. Một số nhụy vẫn còn trên cây và sau đó lớn thành trái búp non xanh. Một con gió khác lại thổi qua, làm một số trái búp rụng xuống đất. Vẫn còn lại một số trái búp có thể lớn thành trái. Sau đó già và chín, trước khi cũng rụng xuống đất.

And so it is with people. Like flowers and fruit in the wind they, too, fall in different stages of life. Some people die while still in the womb, others within only a few days after birth. Some people live for a few years then die, never having reached maturity. Men and women die in their youth. Still others reach a ripe old age before they die.

Và con người cũng vậy. Cũng như nhụy hoa và trái cây sống trong những cơn gió, cũng rụng xuống một lúc nào đó trong cuộc đời. Một số người chết ngay khi còn trong bào thai của mẹ, một số khác chết yểu chỉ sau vài ngày được mẹ sinh ra. Một số người chỉ sống một số năm rồi chết trẻ, chưa kịp lớn lên. Nhiều đàn ông, đàn bà cũng chết trẻ. Nhưng vẫn có những người sống lâu đến lúc già yếu trước khi cũng chết.

When reflecting upon people, consider the nature of fruit in the wind: both are very uncertain.

This uncertain nature of things can also be seen in the monastic life. Some people come to the monastery intending to ordain but change their minds and leave, some with heads already shaved. Others are already novices, then they decide to leave. Some ordain for only one Rains Retreat then disrobe. Just like fruit in the wind - all very uncertain!

Khi quán chiếu về con người, hãy xem xét bản chất của trái cây trước những cơn gió: cả người và trái cây đều không chắc chắn; chẳng biết 'rụng' lúc nào.

Bản chất không-chắc-chắn của mọi thứ cũng có thể được nhìn thấy trong đời sống tu sĩ nơi chùa chiền tự viện. Một số người đến chùa với ý định thọ giới đi tu, nhưng rồi đổi ý quay về. Một số khác thì quyết tâm đi tu, cạo đầu sẵn trước khi đến chùa. Một số khác đã thành sa-di, nhưng vài năm lại quyết định bỏ tu. Một số chỉ thọ giới tu được một mùa An Cư (được một tuổi Hạ) rồi bỏ y, hoàn tục. Cũng giống như những nhụy hoa và trái búp trên cành—tất cả đều không chắc chắn!

Our minds are also similar. A mental impression arises, draws and pulls at the mind, then the mind falls - just like fruit.

The Buddha understood this uncertain nature of things. He observed the phenomenon of fruit in the wind and reflected upon the monks and novices who were his disciples. He found that they, too, were essentially of the same nature - uncertain! How could it be otherwise? This is just the way of all things.

Tâm của chúng ta cũng vậy. Một nhận thức của tâm (tưởng) khởi sinh, thúc kéo cái tâm, làm tâm ngã rụng—cũng như trái cây.

Phật đã hiểu biết rõ cái bản chất không chắc chắn của tất cả mọi thứ trên thế gian. Phật đã quan sát những hiện tượng trái cây trước gió và quán chiếu về tình trạng của các sa-di và Tỳ kheo là những đệ tử của Phật thời đó. Phật tìm thấy họ và trái cây về căn bản có chung bản chất—không chắc chắn! Mà làm sao khác nhau được? Bởi đó là bản chất của tất cả mọi thứ mọi sự trên thế gian.

Thus, for one who is practicing with awareness, it isn't necessary to have someone to advise and teach all that much to be able to see and understand. An example is the case of the Buddha who, in a previous life, was King Mahajanaka. He didn't need to study very much. All he had to do was observe a mango tree.

Do vậy, đối với ai đã biết tu tập với sự tỉnh-giác thì không cần thiết phải có người khác chỉ dạy nhiều nhiều đủ thứ thì mới có thể nhìn thấy và hiểu biết (sự thật). (Vì mọi sự chỉ dạy và hướng dẫn cũng chỉ là tương đối, chứ chúng cũng không phải là chắc-chắn). Ví dụ theo kinh điển, Đức Phật trong một kiếp trước là vị Vua Mahajanaka. Ông chẳng cần phải tu học gì nhiều hết. Tất cả những gì ông vua làm là ngồi quan sát một cây xoài.

One day, while visiting a park with his retinue of ministers, from atop his elephant, he spied some mango tees heavily laden with ripe fruit. Not being able to stop at that time, he determined in his mind to return later to partake of some. Little did he know, however, that his ministers, coming along behind, would greedily gather them all up; that they would use poles to knock them down, beating and breaking the branches and tearing and scattering the leaves.

Một ngày, khi đang đi thăm khu vườn cùng với đoàn tùy tùng của mình, từ trên ghế ngồi trên lưng voi, nhà vua để ý thấy có nhiều trái chín nằm bên trong những lá cây xoài. Nhưng không kịp dừng lại, nhà vua quyết định sẽ quay lại để hái vài trái ngon. Nhưng nhà vua không biết, những đại thần đi theo thấy xoài thì tham ăn, nên ngay sau đó đã đến hái sạch những trái xoài. Họ dùng sào móc để kéo giựt tất cả các nhánh xoài, làm lá cành rớt đầy xung quanh gốc xoài.

Returning in the evening to the mango grove, the king, already imagining in his mind the delicious taste of the mangoes, suddenly discovered that they were all gone, completely finished! And not only that, but the branches and leaves had been thoroughly thrashed and scattered.

Chiều đó nhà vua quay lại, tưởng tượng trong đầu về những trái xoài thơm ngọt. Nhưng nhà vua giựt mình nhìn thấy không còn trái xoài nào, là cành bị phá nát, rơi rớt đầy dưới đất.

The king, quite disappointed and upset, then noticed another mango tree nearby with its leaves and branches still intact. He wondered why. He then realized it was because that tree had no fruit. If a tree has no fruit nobody disturbs it and so its leaves and branches are not damaged. This lesson kept him absorbed in thought all the way back to the palace: ''It is unpleasant, troublesome and difficult to be a king. It requires constant concern for all his subjects. What if there are attempts to attack, plunder and seize parts of his kingdom?'' He could not rest peacefully; even in his sleep he was disturbed by dreams.

Nhà vua rất thất vọng và bực tức, nhưng rồi nhà vua nhìn sang cây xoài khác, lá và cành của nó vẫn còn nguyên vẹn. Ông thắc mắc. Rồi ông nhận ra vì nó không có trái. Nếu cây không có trái thì chẳng ai đụng đến, nên lá cành vẫn còn nguyên trên cây, tươi tốt. Bài học này làm cho nhà vua đắm chìm trong suy nghĩ trên suốt đoạn đường về. "Làm vua cũng không sướng, đầy phiền não và khó khăn. Lúc nào cũng phải để ý đến tất cả những thần dân. Điều gì xảy ra nếu một ngày họ sẽ cố tấn công, lật đổ, chiếm ngai vua?". Đó là điều làm các nhà vua không thể yên ngủ suốt đời; ngay cả khi ngủ cũng nằm mơ thấy mình có thể bị lật đổ bất cứ lúc nào.

He saw in his mind, once again, the mango tree without fruit and its undamaged leaves and branches. ''If we become similar to that mango tree'', he thought, ''our ''leaves'' and ''branches'', too, would not be damaged''.

In his chamber he sat and meditated. Finally, he decided to ordain as a monk, having been inspired by this lesson of the mango tree. He compared himself to that mango tree and concluded that if one didn't become involved in the ways of the world, one would be truly independent, free from worries or difficulties. The mind would be untroubled. Reflecting thus, he ordained.

Nhà vua lại tâm niệm, cây xoài không trái thì cành lá còn nguyên lành. "Nếu chúng ta cũng giống cây xoài đó, thì 'lá' và 'cành' của chúng ta sẽ không bị làm hại".

Nhà vua đã ngồi xuống và thiền trong phòng của mình. Cuối cùng nhà vua quyết định đi tu, nhân duyên từ bài học về cây xoài. Ông ví mình như cây xoài và kết luận rằng nếu một người trở nên không còn dính líu gì với những cách của thế gian, thì người ấy sẽ thực sự độc lập, tự do, không còn lo lắng hay bị khó khổ. Tâm sẽ không còn bị quấy nhiễu hay phiền não. Quán chiếu như vậy, nhà vua đi tu.

From then on, wherever he went, when asked who his teacher was, he would answer, ''A mango tree''. He didn't need to receive teaching all that much. A mango tree was the cause of his Awakening to the Opanayiko-Dhamma, the teaching leading inwards. And with this Awakening, he became a monk, one who has few concerns, is content with little, and who delights in solitude. His royal status given up, his mind was finally at peace.

Từ đó về sau, mỗi khi ông đến đâu người ta đều hỏi sư thầy của ông là ai, ông trả lời: "Một cây xoài". Ông không cần phải học hay được dạy nhiều nhiều đủ thứ về giáo lý. Một cây xoài là nguyên nhân của sự Thức Tỉnh (giác ngộ) đến Giáo Pháp hướng vào tâm mình (Opanayiko-Dhamma). Và nhờ sự Thức Tỉnh này, nhà vua đã trở thành thầy tu, không còn nhiều thứ lo lắng, sống giản dị, và sống lánh trần. Ngai vàng đã từ bỏ, tâm cuối cùng đã được bình an.

In this story the Buddha was a Bodhisatta who developed his practice in this way continuously. Like the Buddha as King Mahajanaka, we, too, should look around us and be observant because everything in the world is ready to teach us.

Chuyện theo kinh, kiếp đó Phật còn là một Bồ-tát tu tập theo cách đó một cách liên tục không ngừng. Cũng giống như nhà vua lúc đó, chúng ta nên biết nhìn và quan sát, bởi mọi thứ trên đời đều sẵn sàng dạy chúng ta.

With even a little intuitive wisdom, we will then be able to see clearly through the ways of the world. We will come to understand that everything in the world is a teacher. Trees and vines, for example, can all reveal the true nature of reality. With wisdom there is no need to question anyone, no need to study. We can learn from nature enough to be enlightened, as in the story of King Mahajanaka, because everything follows the way of truth. It does not diverge from truth.

Chỉ cần có một chút trí tuệ trực giác, chúng ta sẽ có thể nhìn thấu những đường lối của thế gian. Chúng ta sẽ đi đến hiểu rằng mỗi thứ trên thế gian đều là một người thầy của chúng ta. Với trí tuệ, không cần phải hỏi ai, không cần phải học. Chúng ta có thể học từ tự nhiên đủ để giác ngộ, giống như trong câu chuyện vị vua Mahajanaka, bởi mọi thứ đều đi theo đường lối của lẽ tự nhiên. Nó không sai lệch khỏi sự thật tự nhiên.

Associated with wisdom are self-composure and restraint which, in turn, can lead to further insight into the ways of nature. In this way, we will come to know the ultimate truth of everything being ''anicca-dukkha-anattā''. Take trees, for example; all trees upon the earth are equal, are One, when seen through the reality of ''anicca-dukkha-anattā''. First, they come into being, then grow and mature, constantly changing, until they die finally die as every tree must.

Đi cùng với trí tuệ là sự tự giác bản thân và kiềm chế bản thân, hai thứ đó có thể dẫn đến những trí tuệ minh sát nhìn thấu suốt hơn vào bên trong những đường lối của tự nhiên. Bằng cách này, chúng ta đi đến hiểu biết sự thật tuyệt đối của tất cả mọi thứ trên thế gian, đó là "vô thường—khổ— vô ngã" (anicca-dukkha-anattā'). Lấy ví dụ cây cối, tất cả cây cối trên trái đất đều như nhau, chỉ là Một, nếu ta nhìn thông qua cái thực tại "vô thường—khổ—vô ngã". Đầu tiên, chúng có mặt, sinh rồi trưởng, và già, thay đổi không ngừng, cuối cùng rồi cũng chết như tất cả các cây khác.

In the same way, people and animals are born, grow and change during their life-times until they eventually die. The multitudinous changes which occur during this transition from birth to death show the Way of Dhamma. That is to say, all things are impermanent, having decay and dissolution as their natural condition.

Cũng cách như vậy, người và thú vật được sinh ra, lớn lên và thay đổi không ngừng trong suốt thời gian sống cho đến lúc chết. Những thay đổi và biến đổi nhiều vô số kể xảy ra trong suốt tiến trình từ sinh đến chết cho thấy rõ Đường Lối của Giáo Pháp. Đường lối của tự nhiên, đó là lẽ thật, là chân lý. Nói cách khác, tất cả mọi thứ đều là vô thường, luôn thay đổi, đi đến hư hoại và tan rã, đó là đường lối tự nhiên của chúng.

If we have awareness and understanding, if we study with wisdom and mindfulness, we will see Dhamma as reality. Thus, we sill see people as constantly being born, changing and finally passing away. Everyone is subject to the cycle of birth and death, and because of this, everyone in the universe is as One being. Thus, seeing one person clearly and distinctly is the same as seeing every person in the world.

Nếu chúng ta có sự tỉnh giác và hiểu biết, nếu chúng ta tu học bằng trí tuệ và sự chánh niệm, thì chúng ta sẽ thấy được Giáo Pháp là thực tại. Vậy là, chúng ta nhìn thấy người người cứ liên tục được sinh ra, thay đổi liên tục, và cuối cùng chết đi. Tất cả mọi người đều bị dính vào vòng luân hồi sinh tử, và bởi lý do này, mọi người trong vũ trụ này là Một. Vậy là, xem xét và nhìn thấy một cách rõ rệt và riêng biệt một người thì cũng giống như xem xét và nhìn thấy mọi người trên thế gian.

In the same way, everything is Dhamma. Not only the things we see with our physical eye, but also the things we see in our minds. A thought arises, then changes and passes away. It is ''nāma dhamma'', simply a mental impression that arises and passes away. This is the real nature of the mind. Altogether, this is the noble truth of Dhamma. If one doesn't look and observe in this way, one doesn't really see! If one does see, one will have the wisdom to listen to the Dhamma as proclaimed by the Buddha.

Where is the Buddha?

The Buddha is in the Dhamma.

Where is the Dhamma?

The Dhamma is in the Buddha.

Right here, now!

Where is the Sangha?

The Sangha is in the Dhamma.

Tương tự ý nghĩa trên, tất cả mọi thứ đều là Giáo Pháp. Không phải chỉ riêng những thứ nhìn thấy được bằng mắt thường, mà bao gồm cả những thứ chúng ta nhìn thấy được bằng tâm, bằng 'con mắt' của tâm. Một ý nghĩ khởi sinh, rồi nó thay đổi và biến mất. Đó chỉ đơn giản là một nhận thức của tâm (tưởng), là một pháp của tâm (nāma dhamma'), khởi sinh và biến mất. Đó là bản tính đích thực của cái tâm. Nói tóm lại, đây là chân lý tuyệt đúng của Giáo Pháp. Nếu ta không nhìn và quan sát theo cách nhìn này, thì chúng ta không thực sự nhìn thấy sự thật!. Nếu ai nhìn thấy, người ấy sẽ có trí tuệ để lắng nghe Giáo Pháp mà Đức Phật đã nói:

Phật ở đâu?

Phật ở trong Giáo Pháp. Pháp ở đâu?

Pháp ở trong Phật. Ngay tại đây, bây giờ! Tăng ở đâu?

Tăng ở trong Giáo Pháp.

The Buddha, the Dhamma and the Sangha exist in our minds, but we have to see it clearly. Some people just pick this up casually saying, ''Oh! The Buddha, the Dhamma and the Sangha exist in my mind''. Yet their own practice is not suitable or appropriate. It is thus not befitting that the Buddha, the Dhamma and the Sangha should be found in their minds, namely, because the ''mind'' must first be that mind which knows the Dhamma.

Bringing everything back to this point of Dhamma, we will come to know that, in the world, truth does exist, and thus it is possible for us to practice to realize it.

Phật, Pháp, Tăng có mặt trong tâm chúng ta, nhưng chúng ta cần phải nhìn thấy Tam Bảo trong tâm một cách rõ ràng. Một số người chợt nói: "À, Phật, Pháp, Tăng có ở trong tâm tôi". Trong khi sự tu tập của họ còn chưa phù hợp hay đúng đắn, thì không thể nói Tam Bảo có mặt trong tâm họ, bởi cái "tâm" đó trước tiên phải là cái tâm hiểu biết Giáo Pháp trước.

Nói đi nói lại về điểm Giáo Pháp, chúng ta sẽ đi đến biết rằng, trên thế gian này chân lý có mặt, và do vậy chúng ta có thể tu tập và chứng ngộ chân lý đó.

For instance, ''nāma dhamma'', feelings, thoughts, imagination, etc., are all uncertain. When anger arises, it grows and changes and finally disappears. Happiness, too, arises, grows and changes and finally disappears. They are empty. They are not any ''thing''. This is always the way of all things, both mentally and materially. Internally, there are this body and mind. Externally, there are trees, vines and all manner of things which display this universal law of uncertainty.

Ví dụ những pháp của tâm (danh pháp, nāma dhamma), như những cảm giác, ý nghĩ, ý tưởng... đều là không chắc chắn. Khi sân giận khởi sinh, nó lớn lên và thay đổi và cuối cùng biến mất. Hạnh phúc cũng vậy, sướng khởi sinh, biến đổi, rồi biến mất. Chúng là sinh diệt. Chúng là trống không. Chúng chẳng phải là 'cái gì' cả. Đây chính là đường lối của tất cả mọi thứ thuộc vật chất và mọi sự thuộc tâm. Hướng về bên trong, có thân này và tâm này. Bên ngoài thì có cây cối, dây leo và tất cả đường lối sinh diệt của tất cả mọi thứ theo quy luật tự nhiên của vũ trụ. Đó là quy luật về sự không chắc-chắn, về sự sinh, trưởng, hoại, diệt.

Whether a tree, a mountain or an animal, it's all Dhamma, everything is Dhamma. Where is this Dhamma? Speaking simply, that which is not Dhamma doesn't exist. Dhamma is nature. This is called the ''Sacca Dhamma'', the True Dhamma. If one sees nature, one sees Dhamma; if one sees Dhamma, one sees nature. Seeing nature, one know the Dhamma.

Dù là cây, là núi, hay con vật, nó đều là Giáo Pháp, mọi thứ đều là Giáo Pháp. Giáo Pháp ở đâu? Nói ngay ra, cái gì không phải là Giáo Pháp thì không có mặt. Giáo Pháp là tự nhiên. Đây được gọi là Giáo Pháp Tuyệt Đối hay chân pháp (Sacca Dhamma). Nếu ai nhìn thấy tự nhiên, người đó thấy Giáo Pháp; ai nhìn thấy Giáo Pháp thì nhìn thấy tự nhiên. Nhìn thấy tự nhiên là hiểu biết Giáo Pháp.

And so, what is the use of a lot of study when the ultimate reality of life, in its every moment, in its every act, is just an endless cycle of births and deaths? If we are mindful and clearly aware when in all postures (sitting, standing, walking, lying), then self-knowledge is ready to be born; that is, knowing the truth of Dhamma already in existence right here and now.

Và do vậy, học nhiều giáo lý để làm gì trong khi thực tại rốt ráo của sự sống, trong từng giây phút, trong từng hành vi của nó, chỉ là một vòng luân hồi sinh tử bất tận? Nếu chúng ta chánh niệm và tỉnh giác rõ ràng khi đang ở trong mọi tư thế [ngồi, đứng, đi, nằm], thì sự tự-hiểu-biết sẵn sàng phát sinh; đó là, sự hiểu biết về sự thật Giáo Pháp đã có sẵn ngay tại đây và bây giờ.

At present, the Buddha, the real Buddha, is still living, for He is the Dhamma itself, the ''Sacca Dhamma''. And ''Sacca Dhamma'', that which enables one to become Buddha, still exists. It hasn't fled anywhere! It gives rise to two Buddhas: one in body and the other in mind.

Ngay trong hiện tại, Đức Phật, Phật đích thực, vẫn đang sống, bởi Phật chính là Giáo Pháp, là Chân Pháp (Sacca Dhamma'). Và Chân Pháp, là phương tiện giúp một người trở thành vị Phật, thì vẫn đang có mặt. Giáo Pháp chẳng bao giờ mất đi ở đâu! Giáo Pháp giúp khởi sinh ra hai loại Phật: Phật trong thân này và Phật trong tâm này.

''The real Dhamma'', the Buddha told Ananda, ''can only be realized through practice''. Whoever sees the Buddha, sees the Dhamma. And how is this? Previously, no Buddha existed; it was only when Siddhattha Gotama realized the Dhamma that he became the Buddha. If we explain it in this way, then He is the same as us. If we realize the Dhamma, then we will likewise be the Buddha. This is called the Buddha in mind or ''Nāma Dhamma''.

"Giáo Pháp đích thực chỉ có thể được chứng ngộ bằng việc tu tập", Đức Phật đã từng nói với ngài Ananda như vậy. Ai nhìn thấy Phật là nhìn thấy Giáo Pháp. Điều này nghĩa là sao? Trước kia chưa có vị Phật có mặt, trước đó chỉ có tu sĩ Cồ-đàm Tất-đạt-đa (Siddhattha Gotama) , và sau khi giác ngộ Giáo Pháp người ấy trở thành Phật. Nếu chúng ta lý giải theo cách này thì Phật cũng giống chúng ta. Khi chúng ta còn si mê, chúng ta còn là chúng sinh; khi chúng ta thức tỉnh và giác ngộ Giáo Pháp, chúng ta cũng thành Phật. Nên chỗ này được gọi là Phật ở trong tâm, hay Tâm Pháp (Nāma Dhamma).

We must be mindful of everything we do, for we become the inheritors of our own good or evil actions. In doing good, we reap good. In doing evil, we reap evil. All you have to do is look into your everyday lives to know that this is so. Siddhattha Gotama was enlightened to the realization of this truth, and this gave rise to the appearance of a Buddha in the world. Likewise, if each and every person practices to attain to this truth, then they, too, will change to be Buddha.

Chúng ta phải chánh niệm về mọi thứ chúng ta làm, bởi chúng ta là kẻ thừa tự của tất cả các nghiệp tốt và xấu của chúng ta. Làm điều tốt thiện, hưởng điều tốt thiện. Làm đều xấu ác, lãnh điều xấu ác. Tất cả mọi chuyện phải làm là quan sát tất cả mọi hành động của mình để hiểu biết về những nghiệp đang làm là gì. Đức Phật đã nhìn ra lẽ thật nhân duyên về nghiệp này, Phật giác ngộ về lẽ thật này và trở thành vị Phật. Tương tự vậy, nếu mỗi người cũng tu tập để chứng ngộ lẽ thật này, thì họ cũng thay đổi và có thể thành Phật.

Thus, the Buddha still exists. Some people are very happy saying, ''If the Buddha still exists, then I can practice Dhamma!'' That is how you should see it.

Vậy là, Phật vẫn đang có mặt. Một số người mừng rỡ: "Nếu Phật còn có mặt, tôi có thể tu tập Giáo Pháp!". Thực vậy, Phật vẫn luôn có mặt, Giáo Pháp vẫn luôn có mặt. Bạn hãy yên tâm và nên cố gắng tu tập để nhìn thấy điều đó.

The Dhamma that the Buddha realized is the Dhamma which exists permanently in the world. It can be compared to ground water which permanently exists in the ground. When a person wishes to dig a well, he must dig down deep enough to reach the ground water. The ground water is already there. He does not create the water, he just discovers it. Similarly, the Buddha did not invent the Dhamma, did not decree the Dhamma. He merely revealed what was already there. Through contemplation, the Buddha saw the Dhamma. Therefore, it is said that the Buddha was enlightened, for enlightenment is knowing the Dhamma. The Dhamma is the truth of this world. Seeing this, Siddhattha Gotama is called ''The Buddha''. And the Dhamma is that which allows other people to become a Buddha, ''One-who-knows'', one who knows Dhamma.

Giáo Pháp mà Đức Phật đã chứng ngộ là Giáo Pháp có mặt thường hằng trên thế gian. Có thể ví như nước ngầm luôn luôn có mặt bên dưới mặt đất. Khi một người bỏ công đào một cái giếng, anh ta phải đào đủ sâu để gặp được mạch nước. Mạch nước ngầm có sẵn ở đó. Anh ta không tự tạo ra nước, nhưng anh ta tìm ra nó. Tương tự vậy, Giáo Pháp đã luôn có mặt khắp thế gian, Phật không phải là người làm ra Giáo Pháp, những Phật đã tìm ra Giáo Pháp, Phật không chế phát hay đặt ra Giáo Pháp. Phật chỉ đơn giản tìm ra và chỉ ra Giáo Pháp đã có sẵn tự bao giờ. Về thực hành thì là, thông qua sự thiền tập Phật đã nhìn thấy những chân lý của Giáo Pháp. Do vậy, chúng ta nói rằng Đức Phật đã giác ngộ, bởi giác ngộ có nghĩa là nhìn thấy Giáo Pháp. Giáo Pháp là sự thật của thế gian này. Nhìn thấy sự thật thế gian, tu sĩ Cồ-đàm Tất-đạt-đa trở thành một vị Phật. Và Giáo Pháp là thứ giúp cho mọi người nhìn thấy để trở thành một vị Phật, thành một người-biết, thành "bậc Giác Ngộ": người hiểu biết Giáo Pháp.

If beings have good conduct and are loyal to the Buddha-Dhamma, then those beings will never be short of virtue and goodness. With understanding, we will see that we are really not far from the Buddha, but sitting face to face with him. When we understand the Dhamma, then at that moment we will see the Buddha.

Với sự hiểu biết, chúng ta thấy rằng chúng ta không thực sự quá cách xa Phật, nhưng chúng ta đây đang ngồi trực diện với Phật. Khi chúng ta hiểu biết Giáo Pháp thì lập tức chúng ta nhìn thấy Phật. (Cứ chịu khó tu tập Giáo Pháp rồi khi nhìn thấy Giáo Pháp sẽ nhìn thấy kết quả tu tập là nhìn thấy Phật).

If one really practices, one will hear the Buddha-Dhamma whether sitting at the root of a tree, lying down or in whatever posture. This is not something to merely think about. It arises from the pure mind. Just remembering these words is not enough, because this depends upon seeing the Dhamma itself, nothing other than this. Thus we must be determined to practice to be able to see this, and then our practice will really be complete. Wherever we sit, stand, walk or lie, we will hear the Buddha's Dhamma.

Nếu một người thực sự tu tập thì người ấy sẽ nghe thấy Phật-Pháp khi đang ngồi dưới gốc cây, khi đang nằm, hay khi đang ở trong tư thế nào. Đây không phải là cái mình nghĩ ra. Mà đó là cái khởi sinh từ cái tâm trong sạch. Nhưng không phải chỉ ghi nhớ đúng về điều này là đủ, bởi điều này có được hay không tùy thuộc vào sự tự mình nhìn thấy Giáo Pháp, chứ không phải là điều gì khác. Do vậy, chúng ta phải quyết tâm tu tập để có thể nhìn thấy Giáo Pháp, và sự tu tập của chúng sẽ đến lúc viên thành. Dù đang ngồi, đang đi, đang nằm, chúng ta sẽ nghe thấy Phật-Pháp.

In order to practice his teaching, the Buddha taught us to live in a quiet place so that we can learn to collect and restrain the senses of the eye, ear, nose, tongue, body and mind. This is the foundation for our practice since these are the places where all things arise, and only in these places. Thus we collect and restrain these six senses in order to know the conditions that arise there. All good and evil arise through these six senses. They are the predominant faculties in the body. The eye is predominant in seeing, the ear in hearing, the nose in smelling, the tongue in tasting, the body in contacting hot, cold, hard and soft, and the mind in the arising of mental impressions. All that remains for us to do is to build our practice around these points.

Để tu tập giáo lý này của Phật, Phật đã dạy chúng ta phải sống ở một nơi yên tĩnh để chúng ta có thể tu tập sự tập trung của tâm (định tâm) và kiềm chế những giác quan mắt, tai, mũi, miệng, thân và tâm. Đây là lý nền tảng để thực hành, bởi vì sao, bởi vì đó là những chỗ mà tất cả mọi sự khởi sinh, và chỉ tại những chỗ đó mà thôi. Vậy là, chúng ta hội tụ tâm (định tâm) và kiềm chế sáu giác quan (phòng hộ sáu căn) để biết điều kiện (duyên) khởi sinh ở đó. Mọi sự tốt xấu, thiện ác đều khởi sinh thông qua sáu giác quan này. Chúng là các cơ quan cảm giác đã có sẵn trong thân (từ khi sinh). Mắt có sẵn để nhìn, tai có sẵn để nghe, mũi để ngửi, miệng để nếm, thân để chạm xúc với nóng, lạnh, cững, mềm, sướng đau..., và tâm có mặt ngay trong sự khởi sinh của các nhận thức tâm (tâm tưởng). Tất cả có mặt ở đó để chúng ta thiết lập sự tu tập xung quanh những chỗ đó.

The practice is easy because all that is necessary has already been set down by the Buddha. This is comparable to the Buddha planting an orchard and inviting us to partake of its fruit. We, ourselves, do not need to plant one.

Việc tu tập là dễ nhìn thấy, bởi vì tất cả những điều cần tu (lẽ sinh diệt, lý tu tập, chỗ nền tảng, đối tượng tu tập) đã được Đức Phật thiết lập và truyền lại. Điều này cũng giống như Phật đã bỏ công trồng một vườn cây và mời chúng ta đến để bỏ thêm công ra hái trái, hưởng quả. Chúng ta không cần phải tự mình lập vườn cây nữa.

Whether concerning morality, meditation or wisdom, there is no need to create, decree or speculate, because all that we need to do is follow the things which already exist in the Buddha's teaching.

Cho dù là đức hạnh, thiền định hay trí tuệ (giới, định, tuệ), không cần phải tạo lập, chế tác, hay suy đoán, bởi vì những gì chúng ta cần làm là làm theo những điều mà Đức Phật đã dạy. (Phật đã làm ra con đường, và Phật đã đi hết con đường đó, và thành Phật. Và Phật chỉ lại con đường đó cho chúng ta. Con đường đó đã được chứng minh là con đường đúng đắn. Vậy là, chúng ta chỉ cần bước đi. Chúng ta không cần phải bỏ công sức, thời gian để phát quang hay tạo lập một con đường nào mới để đi thử. Cũng như công cộng đã tính, thử nghiệm và làm xong con đường chạy thẳng về nhà mình, vậy là mình cứ đi để về đến nhà. Tội gì cứ ngồi nghĩ đến việc tự mình làm con đường nào khác để đi lại. Làm sao làm nổi).

Therefore, we are beings who have much merit and good fortune in having heard the teachings of the Buddha. The orchard already exists, the fruit is already ripe. Everything is already complete and perfect. All that is lacking is someone to partake of the fruit, someone with faith enough to practice!

(Nhưng vì sao chúng ta có được sẵn cái vườn cây hay con đường đó?). Chúng ta là những chúng sinh có nhiều công đức và duyên lành được tái sinh làm người, được nghe những giáo lý của Phật. Vườn cây đã có sẵn, những trái quả đang chờ chúng ta bỏ phần công còn lại để hái và thụ hưởng. Mọi thứ đều đã đầy đủ và hoàn thiện bởi Phật. Chỉ thiếu là thiếu người chịu đi đến để hái vài trái ngon lành, thiếu những người có đủ lòng tin để bước vào đó, thiếu người có được lòng tin đó để tu tập theo Phật!

We should consider that our merit and good fortune are very valuable. All we need to do is look around to see how much other creatures are possessed of ill-fortune; take dogs, pigs, snakes and other creatures for instance. They have no chance to study Dhamma, no chance to know Dhamma, no chance to practice Dhamma. These are beings possessed of ill-fortune who are receiving karmic retribution. When one has no chance to study, to know, to practice Dhamma, then one has no chance to be free from Suffering.

Chúng ta nên biết những công đức và phúc lành được làm người trong kiếp này là vô cùng quý hiếm!. Chúng ta chỉ cần nhìn quanh và thấy những chúng sinh khác đang trong kiếp khổ đau, thấp hèn, ngu si. Hãy lấy những con chó, heo, trâu, bò, giòi, bọ và những súc sinh khác làm ví dụ. Chúng không có một cơ hội nào để học hay biết Giáo Pháp, không có cơ hội nào để tu tập Giáo Pháp. Đó là những chúng sinh mang nhiều nghiệp ác, đang chịu nghiệp quả xấu, nên đã bị tái sinh thành những loài thấp hèn, ngu si và đầy đau khổ như vậy. Khi chúng sinh không có cơ hội nào để học, biết, tu tập Giáp Pháp thì chúng sinh đó không có cơ hội nào để giải thoát khỏi Khổ Đau.

Là người, chúng ta không nên để mình sau này sẽ tái sinh thành loài súc sinh hay ngạ quỷ đầy khổ đau như vậy chỉ vì mình sống không có đạo đức, không giới hạnh và không kiềm chế. Đừng để mình bị rớt vào những cảnh giới tái sinh kinh khủng và khổ đau bất tận đó! Nói thẳng ra, ai trong chúng ta không có hy vọng đạt đến con đường dẫn đến sự Tự do, Giải thoát, đến Niết-bàn, thì người đó cũng không có hy vọng tu dưỡng đức hạnh. Đừng vội nghĩ chúng ta đã hết hy vọng. Chỉ cần nghĩ mình không có hy vọng bước vào con đường đạo để đi đến sự giải thoát, Niết-bàn, thì bạn đã tự mình để mình rớt vào những cảnh giới khổ đau bất tận như những con vật kia kia.

As human beings we should not allow ourselves to become victims of ill-fortune, deprived of proper manners and discipline. Do not become a victim of ill-fortune! That is to say, one without hope of attaining the path of Freedom to Nibbāna, without hope of developing virtue. Do not think that we are already without hope! By thinking in that way, we would then become possessed of ill-fortune the same as other creatures.

We are beings who have come within the sphere of influence of the Buddha. Thus we human beings are already of sufficient merit and resources. If we correct and develop our understanding, opinions and knowledge in the present, then it will lead us to behave and practice in such a way as to see and know Dhamma in this present life as human beings.

Chúng ta là những chúng sinh được tái sinh vào cõi này có sự có mặt và sự trợ giúp của Đức Phật. Nói vậy có nghĩa chúng ta được sinh vào cõi này trong kiếp này (sau muôn vàn kiếp không thể đếm được ở địa ngục, làm ma quỷ, làm súc sinh...) là đã có quá nhiều công đức, có thể nói là đã có đủ công đức và những tiềm năng (để tu hành, tu tập hướng về phía giải thoát khỏi vòng sinh tử). Nếu chúng ta tu sửa và phát triển sự hiểu biết, ý kiến, quan niệm (chánh kiến) và kiến thức (tri kiến) ngay bây giờ, thì mọi sự sẽ dẫn dắt chúng ta đến hành vi và tu tập theo một cách đúng đắn (chánh đạo) để nhìn thấy và hiểu biết Giáo Pháp ngay trong kiếp này, ngay trong kiếp quý hiếm nhất đang được làm người.

We are thus different from other creatures, beings that should be enlightened to the Dhamma. The Buddha taught that at this present moment, the Dhamma exists here in front of us. The Buddha sits facing us right here and now! At what other time or place are you going to look?

If we don't think rightly, if we don't practice rightly, we will fall back to being animals or creatures in Hell or hungry ghosts or demons. How is this? Just look in your mind. When anger arises, what is it? There it is, just look! When delusion arises, what is it? That's it, right there! When greed arises, what is it? Look at it right there!

Vậy thì, chúng ta mới là chúng sinh khác so với những chúng sinh khác. Chúng ta cần phải giác ngộ Giáo Pháp. Phật dạy rằng ngay trong phút giây này, Giáo Pháp đang có mặt ngay trước mắt chúng ta. Phật cũng đang ngồi trực diện với chúng ta ngay đây và bây giờ!. Vậy, còn chờ đến khi nào và đến chỗ nào khác thì các bạn mới muốn nhìn thấy?

Nếu ta không nghĩ đúng đắn thì ta không tu tập đúng đắn, chúng ta sẽ bị rớt xuống lại thành súc sinh, hoặc bị rớt vào địa ngục, thành ma trôi ngạ quỷ. Là sao? Chỉ cần nhìn vào tâm mình. Khi sự tức giận (sân) khởi sinh, đó là gì vậy? Đó chỉ là vậy, chỉ cần nhìn nó! Khi sự ngu mờ (si) khởi sinh, nó là gì vậy? Nó chỉ là nó, chỉ cần nhìn nó! Khi thèm muốn (tham) khởi sinh, nó là gì vậy? Nhìn vào nó!

By not recognizing and clearly understanding these mental states, the mind changes from being that of a human being. All conditions are in the state of becoming. Becoming gives rise to birth or existence as determined by the present conditions. Thus we become and exist as our minds condition us.

húng ta chỉ cần nhìn xem và nhận ra nó là gì; là tham, là sân, hay là si. Nếu ta không nhận ra và hiểu biết một cách rõ ràng những trạng thái tâm đó, thì tâm sẽ thay đổi từ cái tâm con người qua những tâm thức của cảnh giới khác. Tất cả mọi điều kiện đều ở trong trạng thái đang trở-thành (nghiệp hữu, sinh thành). (Ví dụ, tâm sân giận là điều kiện đang trở-thành trạng thái địa ngục của tâm. Tâm tham ăn, ích kỷ là điều kiện sinh-thành quỷ đói). Sự trở-thành tạo ra sự sinh hay sự hiện hữu được quyết định bởi chính những điều kiện (duyên) hiện tại. Do vậy, chúng ta trở thành (sinh thành) và có mặt (hiện hữu) theo như cách mà các tâm của chúng ta tạo ra chúng ta. Nói cách khác, các trạng thái tâm khác nhau của chúng ta là những điều kiện tạo ra sự sinh hay sự hiện hữu của chúng ta.

(Mọi chuyện đều ở chỗ trạng thái của tâm. Ví dụ, nếu sân giận khởi sinh, ta không nhìn xem và không biết nó, ta chạy theo trạng thái đó và dính vào đó, và tâm trạng đó đưa ta vào cảnh giới địa ngục. Ngay trong giây khắc sân giận, ta trở thành và sinh thành vào địa ngục. Nhưng nếu ta nhìn thấy nó là sân và buông bỏ nó, ta không bị trôi theo và không bị sinh vào địa ngục).



Chương 42

THE TWO FACES OF REALITY - HAI MẶT CỦA HIỆN THỰC

In our lives we have two possibilities: indulging in the world or going beyond the world. The Buddha was someone who was able to free himself from the world and thus realized spiritual liberation.

Trong đời chúng ta có hai khả năng: hưởng lạc trên thế gian và vượt lên khỏi thế gian. (Thế tục và siêu thế). Phật là người đã tự mình có thể giải thoát khỏi thế gian và vì vậy đã nhận ra con đường giải thoát tâm linh.

In the same way, there are two types of knowledge - knowledge of the worldly realm and knowledge of the spiritual, or true wisdom. If we have not yet practiced and trained ourselves, no matter how much knowledge we have, it is still worldly, and thus cannot liberate us.

Tương tự, có hai loại hiểu biết: sự hiểu biết thế tục và sự hiểu biết về tâm linh, đó là trí tuệ đích thực. Nếu chúng ta chưa tu tập và huấn luyện bản thân, thì dù chúng ta có được hiểu biết gì, đó cũng chỉ kiến thức thế tục, và loại kiến thức đó không giúp giải thoát chúng ta.

Think and really look closely! The Buddha said that things of the world spin the world around. Following the world, the mind is entangled in the world, it defiles itself whether coming or going, never remaining content. Worldly people are those who are always looking for something - who can never find enough. Worldly knowledge is really ignorance; it isn't knowledge with clear understanding, therefore there is never an end to it. It revolves around the worldly goals of accumulating things, gaining status, seeking praise and pleasure; it's a mass of delusion which has us stuck fast.

Hãy suy nghĩ và nhìn kỹ về điều này! Đức Phật nói rằng mọi thứ trên thế gian làm quay cuồng điên đảo thế gian. Nếu chạy theo thế gian, tâm sẽ bị dính mắc và điên đảo theo thế gian, nó tự làm ô nhiễm nó theo mọi hướng, chẳng bao giờ hài lòng hay bình an. Người thế tục luôn luôn tìm kiếm đủ thứ, đó là những người chẳng bao giờ thấy đủ. Kiến thức phàm tục thực sự chỉ là sự si mê vô minh; nó không phải là loại kiến thức với sự hiểu biết rõ ràng và đúng đắn (chánh kiến), do vậy nó chẳng đi đến đâu (về mặt giải thoát). Loại kiến thức đó chỉ dùng cho việc sinh tồn, chỉ để xoay sở những mục tiêu phàm tục như tích cóp của cải, để làm ra tiền bạc, để đạt đến chức vị, bằng cấp, danh vọng, để được khen ngợi và được hưởng dục lạc; đó chỉ là một đống si mê và vô minh cứ thúc giục chúng ta lăng xả vào đời sống phàm tục liên tục và liên tục.

Once we get something, there is jealousy, worry and selfishness. And when we feel threatened and can't ward it off physically, we use our minds to invent all sorts of devices, right up to weapons and even nuclear bombs, only to blow each other up. Why all this trouble and difficulty?

Ngay khi chúng ta đạt được thứ gì, lập tức có mặt sự ghen tỵ, lo lắng và ích kỷ. Và khi chúng ta cảm thấy bị đe dọa và không thể phòng hộ bằng tay chân, chúng ta dùng tâm trí để chế tạo ra đủ loại dụng cụ, vũ khí và thậm chí bom nguyên tử, đạn hạt nhân, chỉ để tàn sát lẫn nhau. Tại sao nhân loại chúng ta lại rơi vào cái vòng lẩn quẩn và khó khổ và bế tắc như vậy?

This is the way of the world. The Buddha said that if one follows it around there is no reaching an end.

Come to practice for liberation! It isn't easy to live in accordance with true wisdom, but whoever earnestly seeks the path and fruit and aspires to Nibbāna will be able to persevere and endure. Endure being contented and satisfied with little; eating little, sleeping little, speaking little and living in moderation. By doing this we can put an end to worldliness.

Đó là đường lối của thế gian. Thế gian cứ quay cuồng vì si mê, dục vọng và tranh chấp. Phật đã nói nếu ai cứ chạy theo thế gian quay cuồng thì chẳng biết khi nào mới kết thúc khổ đau.

Vậy sao không bước vào tu tập vì mục đích giải thoát! Không dễ gì sống theo sự hiểu biết (trí tuệ) đích thực, (vì sự thật phũ phàng về sự sống, về thế gian và về cái 'ta' dễ làm người ta hụt hẫng, bi quan và lo sợ). Nhưng những ai thiệt tâm đi tìm con đường đạo và đạo quả và nguyện hướng về phía Niết-bàn thì có thể chịu đựng, chịu khó và chịu nỗ lực tu hành. Đó là những người biết hài lòng và sống với những điều kiện giản dị, không ăn uống nhiều, không ngủ nhiều, không nói nhiều, và sống thanh đạm. Bằng cách sống như vậy, những người đó có thể chấm dứt những điều phàm tục.

If the seed of worldliness has not yet been uprooted, then we are continually troubled and confused in a never-ending cycle. Even when you come to ordain, it continues to pull you away. It creates your views, your opinions, it colors and embellishes all your thoughts - that's the way it is.

People don't realize! They say that they will get things done in the world. It's always their hope to complete everything. Just like a new government minister who is eager to get started with his new administration. He thinks that he has all the answers, so he carts away everything of the old administration saying, ''Look out! I'll do it all myself''. That's all they do, cart things in and cart things out, never getting anything done. They try, but never reach any real completion.

Nếu hạt giống (chủng tử) phàm tục chưa được bứng nhổ tận gốc thì chúng ta vẫn còn bị phiền khổ và ngu mờ trong vòng luân hồi sinh tử bất tận. Ngay cả đối với những những người xuất gia thọ giới vào tăng đoàn trở thành những tăng ni thoát tục, hạt giống phàm tục đó vẫn còn tiếp tục níu kéo, thúc đẩy bên trong họ. Chính nó tạo ra những ý kiến, cách nhìn, nó tô màu và thêm thắt vào trong mọi ý nghĩ của chúng ta—đó là đường lối của nó.

Người ta không nhận ra! Họ nói rằng họ sẽ hoàn thiện mọi thứ trên thế gian này. Họ luôn có kỳ vọng làm xong mọi thứ trên thế gian này. Cũng giống như một vị bộ trưởng (ở Thái Lan) mới nhậm chức luôn luôn nôn nóng bắt tay vào làm và làm mọi thứ với đội ngũ mới của ông. Ông ta nghĩ mình có thể đáp ứng và giải quyết được mọi vấn đề, vì vậy ông ta dẹp bỏ hết mọi thứ mà những người tiền nhiệm đã làm. Dẹp hết, tôi sẽ tự mình làm lại mọi thứ. Cứ như vậy, hết người này xuống đến người khác lên làm bộ trưởng, họ cứ bỏ cái này, đưa vào cái kia, sửa cái này, chỉnh cái khác. Rốt cuộc, chẳng ai trong họ làm xong mọi việc ở đó. Họ đã cố gắng, nhưng chẳng bao giờ hết việc, chẳng bao giờ mọi việc hoàn tất theo ý họ.

You can never do something which will please everyone - one person likes a little, another likes a lot; one like short and one likes long; some like salty and some like spicy. To get everyone together and in agreement just cannot be done.

All of us want to accomplish something in our lives, but the world, with all of its complexities, makes it almost impossible to bring about any real completion. Even the Buddha, born with all the opportunities of a noble prince, found no completion in the worldly life.

Bạn khó bao giờ có thể làm được cái gì làm hài lòng một ai. Chín người mười ý. Người thích ít, người thích nhiều; người thích ngắn, người thích dài; người thích mặn, người thích cay. Để gom mọi người lại với nhau để đồng ý đồng tình về một điều gì đó là điều không thể làm được.

Tất cả chúng ta đều muốn hoàn tất việc gì đó trong đời, nhưng thế gian, với tất cả mọi thứ phức tạp và phức hợp của nó, thì không dễ gì cho chúng ta hoàn tất sự nghiệp mà ta vẫn đang cố làm. Ngay cả Đức Phật đã được sinh ra với rất nhiều cơ hội và lợi thế là một thái tử, nhưng Phật đã nhận thấy không thể nào hoàn thiện một việc gì trong đời sống thế gian này.

The Trap of the Senses

The Buddha talked about desire and the six things by which desire is gratified: sights, sounds, smells, tastes, touch and mind-objects. Desire and lust for happiness, for suffering, for good, for evil and so on, pervade everything!

Đức Phật nói về dục vọng và sáu thứ làm dục vọng thỏa mãn, đó là: hình sắc, âm thanh, mùi hương, mùi vị, chạm xúc, và những đối tượng của tâm. (Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Dục vọng và tham muốn được sướng, được khổ, được tốt, xấu, và vân vân, nằm bên trong tất cả mọi sự!

Sights... there isn't any sight that's quite the same as that of a woman. Isn't that so? Doesn't a really attractive woman make you want to look? One with a really attractive figure comes walking along, ''sak, sek, sak, sek, sak, sek'', - you can't help but stare! How about sounds? There's no sound that grips you more than that of a woman. It pierces your heart! Smell is the same; a woman's fragrance is the most alluring of all. There's no other smell that's quite the same. Taste - even the taste of the most delicious food cannot compare with that of a woman. Touch is similar; when you caress a woman you are stunned, intoxicated and sent pinning all around.

Hình sắc... chẳng có gì sánh bằng hình sắc của một người phụ nữ. Không phải vậy sao? Không phải một người phụ nữ quyến rũ làm cho ta muốn nhìn ngắm hay sao? Một người phụ nữ với thân hình quyến rũ bước qua đẫy đà—bạn chẳng thể nào cưỡng lại không ngắm nhìn!. Còn âm thanh thì sao? Chẳng có thứ âm thanh nào làm xao động thân tâm mình bằng tiếng nói của một người phụ nữ. Nó đâm xuyên qua trái tim bạn! Mùi hương cũng vậy; mùi của một phụ nữ là lôi cuốn người ta nhất. Chẳng có mùi nào sánh được mùi hương của thân thể một phụ nữ. Mùi vị, mùi vị của những thức ăn thơm ngon nhất cũng không quyến rũ đàn ông bằng mùi vị của đàn bà. Chạm xúc còn hơn nữa; khi bạn chạm xúc với một phụ nữ, bạn sẽ bị kích thích, đầu óc bay bổng, quay cuồng, tim đập không kịp, tâm trí ngu mờ.

There was once a famous master of magical spells from Taxila in ancient India. He taught his disciple all his knowledge of charms and incantations. When the disciple was well-versed and ready to fare on his own, he left with this final instruction from his teacher, ''I have taught you all that I know of spells, incantations and protective verses. Creatures with sharp teeth, antlers or horns, and even big tusks, you have no need to fear. You will be guarded from all of these, I can guarantee that. However, there is only one thing that I cannot ensure protection against, and that is the charms of a woman. I can not help you here. There's no spell for protection against this one, you'll have to look after yourself''.

Xưa có một thầy bùa đến từ xứ Taxila thời Ấn Độ cổ xưa. Ông ta đã dạy tất cả mọi kiến thức, bí kíp hành nghề và thần chú cho người học trò của ông. Khi người học trò đã thông thuộc và sẵn sàng ra đường tự mình hành nghề, vị thầy căn dặn một điều cuối cùng: "Ta đã dạy cho anh tất cả mọi thứ ta biết về bùa giải và thần chú hộ mệnh. Khi gặp những loài vật có răng nanh, răng nhọn, ngà to, sừng cong... anh không cần phải sợ. Anh đã được hộ mệnh khỏi tất cả những loài nguy hiểm đó. Nhưng chỉ còn một thứ ta không bảo đảm anh đã được phòng hộ, đó là sắc đẹp của đàn bà. Ta không thể giúp gì được anh. Chẳng có thứ bùa giải hay thần chú nào có thể đối trị được sắc đẹp của phụ nữ, anh phải tự mình bảo trọng".

Mental objects arise in the mind. They are born out of desire: desire for valuable possessions, desire to be rich, and just restless seeking after things in general. This type of greed isn't all that deep or strong, it isn't enough to make you faint or lose control. However, when sexual desire arises, you're thrown off balance and lose your control. You would even forget those raised and brought you up - your own parents!

Những đối tượng của tâm khởi sinh trong tâm. Chúng phát sinh từ dục vọng: dục vọng được của cải giàu có, dục vọng có được danh vọng, được ăn ngon, được ngủ sướng, (bốn dạng dục vọng trong năm dạng ngũ dục "tài, sắc, danh, thực, thùy"), và vì vậy suốt đời cứ chạy theo tìm kiếm mọi thứ. (Người nghèo luôn khát vọng có được những thứ đó.Người giàu cũng không ngừng tìm kiếm tìm thêm những thứ đó cho đến phút gần chết). Nhưng những dạng dục vọng đó vẫn còn nhẹ đô, không sâu nặng, không mạnh bạo, không đủ làm bạn điên dại, quay cuồng và mất trí ngay. Chỉ có thứ dục vọng còn lại, đó là sắc dục hay tính dục, khi nó đã khởi lên, nó làm bạn mất phương hướng, mất cân bằng, mất lý trí, mà người ta hay gọi là si mê. Khi đã dính vào vòng ái dục, ta thậm chí không còn nhớ đến cha mẹ mình, những người đã có công nuôi dưỡng ta!

The Buddha taught that the objects of our senses are a trap - a trap of Māra. Māra should be understood as something which harms us. The trap is something which binds us, the same as a snare. It's a trap of Māra's, a hunter's snare, and the hunter is Māra.

Đức Phật dạy rằng những đối tượng của giác quan là cạm bẫy—cạm bẫy của ma vương Māra. Māra nên được hiểu là những thứ làm hại chúng ta. Cạm bẫy là trói buộc chúng ta, giống như một bẫy hầm, bẫy sập, bẫy lưới để bắt chết thú vật, chim, cá. Đó là bẫy của Ma Vương, bẫy của kẻ săn, và kẻ săn là Ma Vương.

If animals are caught in the hunter's trap, it's a sorrowful predicament. They are caught fast and held waiting for the owner of the trap. Have you ever snared birds? The snare springs and ''boop'' - caught by the neck! A good strong string now holds it fast. Wherever the bird flies, it cannot escape. It flies here and flies there, but it's held tight waiting for the owner of the snare. When the hunter comes along, that's it - the bird is struck with fear, there's no escape!

Nếu bị dính vào bẫy của kẻ săn thì đó là một tình cảnh đau thương. Thú vật, chim muông, cá tôm một khi đã dính bẫy dính lưới, không còn đường để sống thoát!. (Vì vậy Ma Vương cũng có nghĩa là hiện thân của sự chết chóc).

The trap of sights, sounds, smells, tastes, touch and mind-objects is the same. They catch us and bind us fast. If you attach to the senses, you're the same as a fish caught on a hook. When the fisherman comes, struggle all you want, but you can't get loose. Actually, you're not caught like a fish, it's more like a frog - a frog gulps down the whole hook right to its guts, a fish just gets caught in its mouth.

Cạm bẫy của những hình sắc, âm thanh, mùi hương, mùi vị, chạm xúc và những đối tượng của tâm cũng giống như vậy. Chúng bẫy dính ta và trói buộc ta ngay tức khắc. Nếu chúng ta dính vào các giác quan thì cũng giống như cá cắn câu biết đâu mà gỡ vậy. Khi người câu đến bắt, dù ta có cố vùng quẫy để thoát ra, ta vẫn không thể nào thoát khỏi được lưỡi câu hàm ếch. Thực ra thì ta không bị bắt như một con cá, mà giống như một con ếch. Cá chỉ bị mắc lưỡi câu ở miệng, nhưng ếch thì bị lưỡi câu móc xuống tận ruột gan. (Cá còn có khi vùng vẫy rách miệng và thoát khỏi lưỡi câu còn sống thêm một thời gian bị thương. Nhưng ếch thì vô phương thoát ra khỏi lưỡi câu, vì lưỡi câu nuốt vào đã móc sâu vài trong ruột, có vùng quẫy thì cũng đứt ruột chết ngay).

Anyone attached to the senses is the same. Like a drunk whose liver is not yet destroyed - he doesn't know when he has had enough. He continues to indulge and drink carelessly. He's caught and later suffers illness and pain.

Ai bị dính vào các giác quan đều giống vậy. Nhưng họ cứ nghĩ là chuyện nhỏ. Giống như người uống rượu có lá gan vẫn còn sống được ít lâu—nhưng người đó chẳng biết đến lúc gan sẽ bị sơ cứng, nên cứ tiếp tục nhậu nhẹt một cách bất cẩn, rồi đến lúc ngã bệnh và chết trẻ. Anh ta bị dính vào con ma rượu và sau đó là bệnh, đau và chết.

A man comes walking along a road. He is very thirsty from his journey and is craving for a drink of water. The owner of the water says, ''you can drink this water if you like; the color is good, the smell is good, the taste is good, but if you drink it you will become ill. I must tell you this beforehand, it'll make you sick enough to die or nearly die''. The thirsty man does not listen. He's as thirsty as a person after an operation who has been denied water for seven days - he's crying for water!

Một người đang đi trên đường, rất khát nước và đang thèm uống nước. Gặp người có nước nói với anh ta rằng: "anh có thể uống nước này nếu muốn, nước này màu trong sạch, mùi trong sạch, vị ngon sạch, nhưng uống vào sẽ bệnh. Tôi phải nói anh trước về điều này, uống vào sẽ bệnh thập tử nhất sinh đó". Người đàn ông đang khát chả thèm nghe. Cứ uống cho đã cơn khát. Anh ta đang khát còn hơn người bệnh bị mổ trong nhà thương đã nhiều ngày không được uống nước vậy, giờ người đó đang gào thét đòi uống nước!

It's the same with a person thirsting after the senses. The Buddha taught that they are poisonous - sights, sounds, smells, tastes, touch and mind-objects are poison; they are a dangerous trap. But this man is thirsty and doesn't listen; because of his thirst he is in tears, crying, ''Give me water, no matter how painful the consequences, let me drink!'' So he dips out a bit and swallows it down finding it very tasty. He drinks his fill and gets so sick that he almost dies. He didn't listen because of his overpowering desire.

Đó cũng giống như người khát dục, thèm muốn khoái lạc giác quan, chạy theo cảm giác của các giác quan. Phật đã dạy các giác quan (sáu căn) là những thứ độc hại—những hình sắc, âm thanh, mùi hương, mùi vị, chạm xúc và những đối tượng của tâm; chúng là những cạm bẫy nguy hại. Nhưng nếu người đang khát cháy và chả thèm lắng nghe nước đó là nguy hại; cũng giống như người bệnh kia đang gào thét "nước đâu, đưa nước đây, tôi uống xong chết cũng được!". Rồi họ cứ uống vào, từng hớp nhỏ, từng hớp lớn, cho đến khi "đã" cơn khát, họ bắt đầu dính bệnh dễ chết hơn sống. Họ không biết lắng nghe, không biết kiềm chế bởi vì sự thèm muốn đã áp đảo lý trí.

This is how it is for a person caught in the pleasures of the senses. He drinks in sights, sounds, smells, tastes, touch and mind-objects - they are all very delicious! So he drinks without stopping and there he remains, stuck fast until the day he dies.

Đó là cách một người sống trong từng giây phút hàng ngày bị dính vào cạm bẫy của khoái lạc giác quan. (Cái sướng của giác quan chỉ là cạm bẫy). Người đó uống với tất cả hình sắc, âm thanh, mùi hương, mùi vị, chạm xúc và những đối tượng của tâm—tất cả chúng đều quá ngon, quá sướng, quá "đã"!. Chúng ta cứ thèm muốn và uống vào những thứ đó một cách không ngừng, rồi đến một ngày chúng ta dính nặng bệnh (bệnh tham, sân, si càng trở nên nặng "đô"), hết thuốc chữa, và chúng ta chết. Mang theo cả những căn bệnh nan y đó. (Đời người là vậy. Sống và chết. Và mang theo một đống nghiệp và mầm bệnh (chủng tử) tham, sân, si, và tà kiến).

The Worldly Way and Liberation

Some people die, some people almost die - that's how it is to be stuck in the way of the world. Worldly wisdom seeks after the senses and their objects. However wise it is, it's only wise in a worldly sense. No matter how appealing it is, it's only appealing in a worldly sense. However much happiness it is, it's only happiness in a worldly sense. It isn't the happiness of liberation; it won't free you from the world.

Có người đã chết, những người khác rồi cũng chết—đó là cách mọi người bị dính kẹt trên thế gian này, đó là đường lối của thế gian. Trí khôn thế tục là để chạy theo những giác quan và những đối tượng giác quan. (Tiền tài, danh vọng, sắc dục, thức ăn và ngủ, để thỏa mãn nhu cầu khoái lạc của các giác quan). Tuy nhiên, dù khôn trí đến đâu thì đó cũng chỉ là trí khôn thế tục. Dù trí khôn đó có tinh diệu và hiểu quả đến đâu, thì nó vẫn là trí khôn của thế tục. Dù cho sướng khoái đến mức nào, thì những khoái lạc đó cũng chỉ là khoái lạc đó cũng là hạnh phúc phàm tục. Đó không phải là hạnh phúc của sự giải thoát; loại hạnh phúc đó không giúp ta giải thoát khỏi thế gian.

We have come to practice as monks in order to penetrate true wisdom, to rid ourselves of attachment. Practice to be free of attachment! Investigate the body, investigate everything around you until you become weary and fed up with it all and then dispassion will set in. Dispassion will not arise easily however, because you still don't see clearly.

Chúng tôi trở thành những tăng ni là để thâm nhập vào cái trí tuệ đích thực, để mong giải thoát chúng tôi khỏi những ràng buộc với thế gian ô trược này. Tu hành là để giải thoát khỏi sự ràng buộc đó!. Điều tra quán xét về thân, điều tra quán xét về mọi thứ xung quanh cho đến khi ta trở nên chán ngán và chán chường với tất cả mọi thứ và tâm bắt đầu từ bỏ, chán bỏ, và không còn mê đắm vào bất cứ thứ gì ở trên đời. Sự không còn tham đắm (vô tham, từ bỏ) sẽ không khởi sinh nếu tâm không nhìn thấy được bản chất giả tạm, giả lập, phù du, vô thường, khổ và vô ngã của tất cả mọi sự thể ở trên đời, kể cả thân và tâm của ta.

We come and ordain - we study, we read, we practice, we meditate. We determine to make our minds resolute but it's hard to do. We resolve to do a certain practice, we say that we'll practice in this way - only a day or two goes by, maybe just a few hours pass and we forget all about it. Then we remember and try to make our minds firm again, thinking, ''This time I'll do it right!'' Shortly after that we are pulled away by one of our senses and it all falls apart again, so we have to start all over again! This is how it is.

Chúng tôi đến đây và thọ giới vào tăng đoàn—chúng tôi học, chúng tôi đọc, chúng tôi tu tập, chúng tôi thiền. Chúng tôi đã quyết tâm làm cho tâm kiên định, nhưng điều này cũng không dễ làm. Chúng tôi quyết tâm tu tập một số phương pháp, chúng tôi tâm nguyện sẽ tu tập theo bài bản đó—nhưng chỉ sau vài ngày, thậm chí vài giờ, chúng tôi đã quên mất lời tâm nguyện đó. Rồi sau đó chúng tôi nhớ lại và tiếp tục cố gắng làm cho tâm vững chắc, chúng tôi nghĩ rằng "Đây là lúc phải tu tập rồi, còn chờ đến lúc nào nữa!". Nhưng liền sau đó, chúng tôi bị kéo đi bởi một giác quan nào đó, và tất cả kế hoạch tu tập đều bị "bể". Rồi chúng tôi bắt đầu trở lại từ đầu. Đó là cách mọi chuyện tu hành thường diễn ra. (Nên tôi đã nói đó là việc không dễ làm).

Like a poorly built dam, our practice is weak. We are still unable to see and follow true practice. And it goes on like this until we arrive at true wisdom. Once we penetrate to the truth, we are freed from everything. Only peace remains.

Cũng giống như con đập nước được xây sơ sài, sự tu hành của chúng tôi lúc đầu còn rất yếu. Chúng tôi vẫn không thể nhìn ra cách tu tập thực thụ để tu theo đó. Và cứ như vậy, chúng tôi cứ tu và chẳng đi đến đâu, tu rồi 'bể', tu đi, tu lại...cho đến khi chúng tôi đạt đến trí tuệ thực thụ. Nhưng khi đã đạt đến trí tuệ thực thụ, khi chúng tôi đã thâm nhập nhìn thấy vào sự thật thì chúng tôi mới được tự do và giải thoát khỏi mọi sự trên đời. Chỉ còn lại sự bình an.

Our minds aren't peaceful because of our old habits. We inherit these because of our past actions and thus they follow us around and constantly plague us. We struggle and search for a way out, but we're bound by them and they pull us back. These habits don't forget their old grounds. They grab onto all the old familiar things to use, to admire and to consume - that's how we live.

Tâm chúng ta không được bình an bởi do những thói tâm cố hữu của chúng ta. Chúng ta kế thừa những thói tâm (tập khí) bởi do những hành động (nghiệp) quá khứ, và vì vậy những thói tâm cứ theo chúng ta suốt đời, suốt kiếp, trong từng giây phút và phủ hại cả đời ta. Chúng ta cố chống chế và tìm cách thoát ra khỏi chúng, nhưng chúng ta bị trói chặt vào chúng và chúng cứ kéo giựt chúng ta. Những thói tâm đó không bao giờ quên căn cơ cố hữu của chúng. Chúng vớ lấy tất cả mọi thứ quen thuộc cố hữu để dùng, cứ theo thói xưa tật cũ đã nằm trong máu, chứng nào tật nấy—đó là cách chúng ta sống. (Chúng ta sống với những thói tâm, thói tật, tánh khí, khuynh hướng, tà kiến, tà chấp...đã được tích tụ từ trong nhiều kiếp quá khứ và một phần trước của kiếp sống này).

The sexes of man and woman - woman cause problems for men, men cause problems for women. That's the way it is, they are opposites. If men live together with men, then there's no trouble. If women live together with women, then there's no trouble. When a man sees a woman his heart pounds like a rice pounder, ''deung, dung, deung, dung, deung, dung''. What is this? What are those forces? It pulls and sucks you in - no one realizes that there's a price to pay!

Đàn ông và phụ nữ– phụ nữ làm khó khổ cho đàn ông, đàn ông làm khó khổ cho phụ nữ. Đó là đường lối của mối quan hệ nam giới và nữ giới, vì họ đối ngược với nhau. Nếu nam sống gần nam, có chuyện gì không. Nếu nữ sống gần nữ, có chuyện gì không. (Chắc cũng có đầy, nhưng có lẽ cũng ít chuyện hơn khi nam và nữ ở gần nhau). Khi một đàn ông nhìn thấy một phụ nữ, tim anh ta đập như cối giã gạo. Cái gì vậy? Tại sao có những xung lực đó? Rồi người nam đó dính vào luyến ái—nhưng không ai để ý cái giá phải trả sau đó suốt cả đời là gì!

It's the same in everything. No matter how hard you try to free yourself, until you see the value of freedom and the pain in bondage, you won't be able to let go. People usually just practice enduring hardships, keeping the discipline, following the form blindly and not in order to attain freedom or liberation. You must see the value in letting go of your desires before you can really practice; only then is true practice possible.

Điều này cũng tương tự với mọi thứ khác. Dù bạn có cố giải thoát mình như thế nào, bạn sẽ chẳng bao giờ làm được, cho đến khi nào bạn nhìn thấy rõ thế nào là sự khổ đau của sự ràng buộc và giá trị của sự tự do giải thoát. Người ta thường tu theo kiểu chịu khổ, cố giữ giới luật, làm theo rập khuôn một cách mù quáng và không đúng với mục đích theo hướng giải thoát. Trước hết, bạn phải nhìn thấy được giá trị của sự buông-bỏ những tham dục của mình trước khi bạn có thể bắt tay vào tu tập thực sự; chỉ có như vậy thì mới có một sự tu tập thực sự.

Everything that you do must be done with clarity and awareness. When you see clearly, there will no longer be any need for enduring or forcing yourself. You have difficulties and are burdened because you miss this point! Peace comes from doing things completely with your whole body and mind. Whatever is left undone leaves you with a feeling of discontent. These things bind you with worry wherever you go. You want to complete everything, but it's impossible to get it all done.

Mọi thứ làm phải được làm bằng một sự hiểu biết rõ ràng và sự tỉnh giác. Khi bạn nhìn thấy rõ ràng thì bạn không còn cần phải ép mình chịu khổ trong tu hành như vậy. Bạn gặp khó khăn và chịu khổ trong khi tu là do bạn không hiểu được lý tu hành chỗ này! Sự an lạc chỉ có khi đã làm một cách hoàn thiện mọi việc với thân và tâm của mình. Điều gì còn dang dở sẽ khiến cho bạn cảm thấy không hài lòng. Những điều đó cứ ràng buộc, làm bạn lo lắng mọi lúc mọi nơi. Bạn muốn hoàn thành mọi thứ, nhưng khó mà làm tất cả mọi thứ được hoàn thành.

Take the case of the merchants who regularly come here to see me. They say, ''Oh, when my debts are all paid and property in order, I'll come to ordain''. They talk like that but will they ever finish and get it all in order? There's no end to it. They pay up their debts with another loan, they pay off that one and do it all again. A merchant thinks that if he frees himself from debt he will be happy, but there's no end to paying things off. That's the way worldliness fools us - we go around and around like this never realizing our predicament.

Lấy ví dụ những người thương buôn hay đến gặp tôi. Họ nói với tôi: "À, khi nào nợ nần đã được trả hết và nhà cửa được đàng hoàng, con sẽ đi tu". Họ cứ nói vậy, nhưng biết bao giờ họ mới làm xong những điều đó một cách rốt ráo cho được? Chẳng bao giờ hết việc, chẳng bao giờ chấm dứt. Họ vay mượn để trả nợ, trả hết cái này, lại vay mượn và trả cho việc làm ăn khác, cứ liên tục như vậy, dễ gì thoát ra khỏi cái vòng làm ăn. (Những nhà kinh doanh cứ nghĩ khi nào hết nợ nần và hết việc, họ sẽ đi tu. Nhưng những nhà kinh doanh đang phát đạt cũng đâu có bao giờ ngừng lại để đi tu đâu. Họ thậm chí không muốn ngừng công việc một ngày. Nhiều người nằm trên giường bệnh chờ chết còn luyến tiếc duy nhất sự nghiệp đang phát đạt và dở dang. Lấy đâu ra chờ đến lúc họ trả hết nợ và kết thúc mọi việc để đi tu. Con người là vậy). Đó là đường lối thế gian cứ cám dỗ, lôi kéo, thúc giục ta. Chúng ta cứ đi trong cái vòng lẩn quẩn mà chẳng bao giờ nhận ra tình cảnh của mình.

Constant Practice

In our practice we just look directly at the mind. Whenever our practice begins to slacken off, we see it and make it firm - then shortly after, it goes again. That's the way it pulls you around. But the person with good mindfulness takes a firm hold and constantly re-establishes himself, pulling himself back, training, practicing and developing himself in this way.

Trong cách tu tập của chúng tôi, chúng tôi chỉ nhìn trực chỉ vào tâm. Khi nào sự tu tập bắt đầu chểnh mảng, chúng tôi nhìn tâm. Nhưng sau khi ổn định lại, sau một thời gian ngắn, việc tu tập cũng lại bị chểnh mảng. Đó là cách việc tu tập cứ kéo xô chúng tôi, lúc được lúc không, lúc tốt lúc xấu. Nhưng một người tu có sự chánh niệm tốt sẽ luôn luôn giữ chắc tâm, thường xuyên thiết lập bản thân mình hướng về việc tu tập nghiêm túc, kéo mình về lại mỗi khi bị chểnh mảng. Luyện tập, thực hành, tu tập và phát triển bản thân theo một cách kiên trì và đều đặn như vậy.

The person with poor mindfulness just lets it all fall apart, he strays off and gets side-tracked again and again. He's not strong and firmly rooted in practice. Thus he's continuously pulled away by his worldly desires - something pulls him here, something pulls him there. He lives following his whims and desires, never putting an end to this worldly cycle.

Người có chánh niệm yếu thì dễ buông xuôi, để mặt cho mọi sự chểnh mảng, người ấy luôn bị thất niệm, trầy trật, trật hướng khỏi con đường. Người ấy không mạnh mẽ để giữ chắc tâm theo hướng tu tập kiên trì. Người ấy dễ bị lôi kéo bởi những tham dục thế tục—thứ này cám dỗ, thứ kia lôi kéo anh ta khỏi sự tu tập. Người ấy tu, nhưng thực ra sống theo những dục vọng và thói tật của tâm mình, chẳng bao giờ chấm dứt được cái vòng luân hồi phàm tục.

Coming to ordain is not so easy. You must determine to make your mind firm. You should be confident in the practice, confident enough to continue practicing until you become fed up with both your like and dislikes and see in accordance with truth. Usually, you are dissatisfied with only your dislike, if you like something then you aren't ready to give it up. You have to become fed up with both your dislike and your likes, your suffering and your happiness.

Đi tu không phải là việc dễ làm. Bạn phải quyết tâm, làm cho tâm vững chắc. Bạn phải tin tưởng vào việc tu hành và kết quả tu hành. Phải có lòng tự tin vào việc tu tập, tự tin đủ để tiếp tục việc tu tập mỗi khi bị chểnh mảng, tu tập cho đến khi nào bạn nhìn thấy lẽ thực của mọi sự sống và bạn bắt đầu thấy chán ngán với tham và sân của mình, thấy chán chường với những cảm nhận thích/ghét, sướng/khổ...của tâm mình, và bắt đầu nhìn mọi thứ đúng như chúng đích thực là. Thường thì khi ta bất mãn với thứ ta không thích, nếu ta thích thứ gì thì ta không dễ gì buông bỏ nó. Nhưng ta đã tu tập đến mức tâm đã nhìn thấy bản chất thực sự của mọi thứ và của mọi cảm nhận của tâm, nhờ đó bạn trở nên chán chường và từ bỏ cả sự thích và không thích, cả sướng và khổ. Không thiên về bên nào.

You don't see that this is the very essence of the Dhamma! The Dhamma of the Buddha is profound and refined. It isn't easy to comprehend. If true wisdom has not yet arisen, then you can't see it. You don't look forward and you don't look back. When you experience happiness, you think that there will only be happiness. Whenever there is suffering, you think that there will only be suffering. You don't see that wherever there is big, there is small; wherever there is small, there is big. You don't see it that way. You see only one side and thus it's never-ending.

Quý vị chưa nhìn ra chính chỗ này là cốt lõi của Giáo Pháp! Giáo Pháp của Phật là thâm sâu và tinh tế. Mới nói ra thì không dễ hiểu ngay. Khi trí tuệ đích thực chưa khởi sinh, ta vẫn chưa thể nhìn thấy giáo pháp đó. Đừng nhìn tới, nhìn lui. Đừng nhìn này thành nọ, đừng phóng tâm này nọ. Khi trải nghiệm sướng, chỉ biết đó chỉ là sướng. Khi trải nghiệm khổ, chỉ cần biết đó chỉ là khổ. Đừng đánh giá hay "để tâm" theo một cảm nhận hay trạng thái nào cả. Bạn không biết rằng, mọi thứ chỉ là vậy, hễ có lớn là có nhỏ, có nhỏ là có lớn. Không cần phải bận tâm đối đãi. Bạn chỉ nhìn thấy một mặt của vấn đề, do vậy chẳng bao giờ chấm dứt được mọi sự trong tâm.

There are two sides to everything; you must see both sides. Then, when happiness arises, you don't get lost; when suffering arises, you don't get lost. When happiness arises, you don't forget the suffering, because you see that they are interdependent.

Mọi thứ đều có hai mặt; ta phải nhìn cả hai. Rồi, khi sướng khởi sinh, ta không bị lạc tâm; khi khổ khởi sinh, ta không bị lạc tâm. Khi sướng khởi sinh, ta không quên khổ, bởi vì sướng chỉ là mặt kia của khổ, chúng tương quan với nhau.

In a similar way, food is beneficial to all beings for the maintenance of the body. But actually, food can also be harmful, for example when it causes various stomach upsets. When you see the advantages of something, you must perceive the disadvantages also, and vice versa. When you feel hatred and aversion, you should contemplate love and understanding. In this way, you become more balanced and your mind becomes more settled.

Ví dụ, thức ăn là có lợi cho tất cả sinh vật để duy trì cơ thể và sự sống. Nhưng thực ra thức ăn cũng chính là nguồn độc hại, vì tất cả những bệnh tật cũng phần lớn do thức ăn mà ra. (Ăn ít cũng bệnh, ăn nhiều cũng bệnh. Ăn không đúng cách càng bệnh nhanh hơn, nặng hơn. Thực ra đa số những món ngon, béo, ngọt, cao lương mỹ vị thường là những món gây ra các bệnh nặng). Khi ta nhận biết sự thuận lợi của thứ gì, ta cũng nhận biết luôn sự khó khổ mà thứ đó mang lại, và ngược lại. Mọi thứ đều có hai mặt. Khi bạn đang thù ghét, sân hận, bạn nên quán niệm về tình thương, lòng từ bi và sự hiểu biết cùng là đồng loại. Theo cách như vậy, ta sẽ trở nên được cân bằng hơn, và tâm ta sẽ được an định hơn nhiều.

The Empty Flag

I once read a book about Zen. In Zen, you know, they don't teach with a lot of explanation. For instance, if a monk is falling asleep during meditation, they come with a stick and ''whack!'' they give him a hit on the back. When the erring disciple is hit, he shows his gratitude by thanking the attendant. In Zen practice one is taught to be thankful for all the feelings which give one the opportunity to develop.

Có lần tôi đọc một quyển sách của Thiền Tông. Trong Thiền Tông, họ không dạy bằng nhiều chữ nghĩa ngôn từ. (chủ trương bất lập văn tự). Chẳng hạn, khi một thiền sinh ngủ gục khi đang thiền, người thầy đến "quất" một roi xuống lưng. Khi thiền sinh ngủ gục bị đánh, anh ta nhận ra lỗi của mình, và cảm ơn người thầy hay người quản thiền đã đánh mình. Trong Thiền Tông, một người tu được dạy phải nên biết ơn với tất cả mọi cảm thọ vì chúng là cơ hội để mình tu tập tiến bộ.

One day there was an assembly of monks gathered for a meeting. Outside the hall a flag was blowing in the wind. There arose a dispute between two monks as to how the flag was actually blowing in the wind. One of the monks claimed that it was because of the wind while the other argued that it was because of the flag. Thus they quarreled because of their narrow views and couldn't come to any kind of agreement. They would have argued like this until the day they died. However, their teacher intervened and said, ''Neither of you is right. The correct understanding is that there is no flag and there is no wind''.

Một lần có một nhóm nhà sư đang ở trong thiền đường. Bên ngoài sảnh có một tấm phướn (cờ vải) đang bay phất phơ trong gió. Có hai nhà sư tranh luận với nhau, một nhà sư nói đó là do gió động, nhà sư kia thì nói là do phướn động. Họ cứ cãi nhau như vậy mà không ai chịu đồng ý với người kia. Họ bèn hỏi vị sư thầy (đó là Lục tổ Huệ Năng của Thiền Tông Trung Hoa), Huệ Năng liền nói: "Chẳng ai đúng cả. Không phải gió động cũng không phải phướn động, mà là tâm của hai thầy động thôi".

This is the practice, not to have anything, not to have the flag and not to have the wind. If there is a flag, then there is a wind; if there is a wind, then there is a flag. You should contemplate and reflect on this thoroughly until you see in accordance with truth. If considered well, then there will remain nothing. It's empty - void; empty of the flag and empty of the wind. In the great void there is no flag and there is no wind. There is no birth, no old age, no sickness or death. Our conventional understanding of flag and wind is only a concept. In reality there is nothing. That's all! There is nothing more than empty labels.

Đây là sự thực hành, không có gì cả, không có gió động cũng không có phướn động. Nếu có phướn thì có gió; nếu có gió thì có phướn. Chúng ta cần quán xét xuyên suốt điều này để nhìn thấy theo đúng như sự thật. Nếu quán xét một cách khéo léo, thì chẳng có gì cả. Tất cả là trống không—tính không; sự không có cờ và không có gió. Đó là cái tính không lớn lao không có cờ, không có gió. Không có sinh, không có già, không có bệnh, không có chết. Cách nhìn bình thường về phướn và gió chỉ là khái niệm. Hiện thực thì không có gì. Tất cả chỉ là vậy. Chẳng có gì ngoài tính không.

If we practice in this way, we will come to see completeness and all of our problems will come to an end. In the great void the King of Death will never find you. There is nothing for old age, sickness and death to follow. When we see and understand in accordance with truth, that is, with right understanding, then there is only this great emptiness. It's here that there is no more ''we'', no ''they'', no ''self'' at all.

Nếu chúng ta tu tập theo hướng như vậy, chúng ta sẽ đạt đến kết quả và tất cả mọi vấn đề khó khổ đều chấm dứt. Trong cái tính không tuyệt vời đó, Thần Chết sẽ không còn tìm ta nữa. Chẳng còn già, bệnh, chết theo ta nữa. Khi chúng ta nhìn thấy và hiểu rõ theo đúng sự thật, tức bằng chánh kiến, thì chỉ thấy mọi sự chỉ là sự trống không. Rằng không có cái "ta", "chúng ta", "họ", không còn cái "ngã" nào cả.

The Forest of the Senses

The world with its never-ending ways goes on and on. If we try to understand it all, it leads us only to chaos and confusion. However, if we contemplate the world clearly, then true wisdom will arise. The Buddha himself was one who was well-versed in the ways of the world. He had great ability to influence and lead because of his abundance of worldly knowledge. Through the transformation of his worldly mundane wisdom, He penetrated and attained to supermundane wisdom, making him a truly superior being.

Thế gian với những đường lối bất tận của nó cứ tiếp diễn và tiếp diễn. Nếu chúng ta cố hiểu tất cả thế gian thì điều đó chỉ làm chúng ta quẫn trí và ngu mờ thêm mà thôi. Tuy nhiên, nếu chúng ta quán xét thế gian một cách rõ ràng thì trí tuệ sẽ khởi sinh. Bản thân Đức Phật lịch sử là người hiểu rõ thế gian. Phật có nhiều khả năng ảnh hưởng và dẫn dắt người khác bằng kiến thức thế gian. Phật đã chuyển hóa kiến thức thế gian thành trí tuệ siêu thế, Phật đã thâm nhập và chứng ngộ trí tuệ siêu thế, để trở thành một người siêu xuất thực sự.

So, if we work with this teaching, turning it inwards for contemplation, we will attain to an understanding on an entirely new level. When we see an object, there is no object. When we hear a sound, the is no sound. In smelling, we can say that there is no smell. All of the senses are manifest, but they are void of anything stable. They are just sensations that arise and then pass away.

Vậy, nếu chúng ta tu tập theo giáo pháp của Phật, đưa giáo pháp vào bên trong để quán xét, thì chúng ta có thể đạt đến một sự hiểu biết hoàn toàn theo một mức độ mới. Khi chúng ta nghe âm thanh, không có âm thanh. Khi ngửi, chúng ta có thể nói không mùi hương. Tất cả các giác quan đều hiện diện, nhưng chúng không phải là thứ gì ổn định. Chúng chỉ là những cảm nhận khởi sinh và biến mất.

If we understand according to this reality, then the senses cease to be substantial. They are just sensations which come and go. In truth there isn't any ''thing''. If there isn't any ''thing'', then there is no ''we'' and no ''they''. If there is no ''we'' as a person, then there is nothing belonging to ''us''. It's in this way that suffering is extinguished. There isn't anybody to acquire suffering, so who is it who suffers?

Nếu chúng ta hiểu theo đúng hiện thực thì các giác quan không còn là thứ gì nữa. Chúng chỉ là những cảm nhận đến và đi, sinh và diệt. Thực ra, chúng chẳng là "thứ gì" cả. Nếu không có cái 'ta' nào như là một thực thể 'con người' cố định, thì chẳng có gì là thuộc cái 'ta' cả. Hiểu ra như vậy thì mọi sự khó khổ cũng đâu còn. Khổ cũng được diệt. Chẳng có 'ai' bị dính khổ, vậy thì đâu có cái 'ai' nào phải chịu khổ?

When suffering arises, we attach to the suffering and thereby must really suffer. In the same way, when happiness arises, we attach to the happiness and consequently experience pleasure. Attachment to these feelings gives rise to the concept of ''self'' or ''ego'' and thoughts of ''we'' and ''they'' continually manifest. Nah!! Here is where it all begins and then carries us around in its never-ending cycle.

Khi khổ khởi sinh, chúng ta dính theo sự khổ và do vậy chúng ta mới thực thụ bị khổ. Tương tự, khi sướng khởi sinh, chúng ta dính theo sự sướng và do đó chúng trải nghiệm sự sướng. Do sự dính chấp theo những cảm giác như vậy làm khởi sinh cái khái niệm về một cái 'ta' (ngã) và do đó những ý nghĩ về cái 'ta' (chúng ta, họ, anh kia, bà kia, ông A...) tiếp tục hiển hiện. Rắc rối là từ đó. Đó là nơi tất cả bắt đầu và rồi chúng mang chúng ta đi quay cuồng trong vòng luân hồi sinh tử bất tận. (Nếu không có khái niệm cái 'ta' (ngã kiến, ngã chấp) thì không có gì. Chính do có ý nghĩ cái 'ta' nên mới sinh ra mọi thứ cảm giác sướng, khổ, buồn, vui, nóng, lạnh, tranh đấu, tham, sân... Ngã kiến và ngã chấp chỉ là một sự si mê, ngu mờ mà thôi.)

So, we come to practice meditation and live according to the Dhamma. We leave our homes to come and live in the forest and absorb the peace of mind it gives us. We have fled in order to contend with ourselves and not through fear or escapism. But people who come and live in the forest become attached to living in it; just as people who live in the city become attached to the city. They lose their way in the forest and they lose their way in the city.

Do vậy, chúng tôi cần đến để thiền tập và sống theo Giáo Pháp. Chúng tôi rời bỏ nhà cửa, cha mẹ, anh em để vào sống trong rừng và tìm thấy sự bình an. Chúng tôi xuất gia đi tu là để hài lòng với bản thân mình, chứ không phải vì sợ hãi, sợ chết, hay vì trốn chạy. Nhưng một số người sống tu quen trong rừng và dần dà bị dính chấp theo lối sống trong rừng; cũng giống như những người ở phố thị thì bị dính theo lối sống phố thị. Họ đánh mất lối sống của mình theo phố thị khi ở phố thị, họ đánh mất lối sống của mình theo rừng khi ở trong rừng.

The Buddha praised living in the forest because the physical and mental solitude that it gives us is conducive to the practice for liberation. However, He didn't want us to become dependent upon living in the forest or get stuck in its peace and tranquillity. We come to practice in order for wisdom to arise. Here in the forest we can sow and cultivate the seeds of wisdom. Living amongst chaos and turmoil these seeds have difficulty in growing, but once we have learned to live in the forest, we can return and contend with the city and all the stimulation of the senses that it brings us. Learning to live in the forest means to allow wisdom to grow and develop. We can then apply this wisdom no matter where we go.

Đức Phật khen ngợi việc vô sống trong rừng vì đó là nơi yên tĩnh để dễ tu tập giải thoát. Tuy nhiên, Phật không phải muốn chúng ta bị dính hay phụ thuộc vào lối sống ở rừng, hoặc thậm chí bị dính hay tham đắm vào sự tĩnh lặng và bình an mà chúng ta có được khi ở trong rừng. Mục tiêu chúng ta đến đây là tu tập để trí tuệ khởi sinh. (Đó là mục tiêu của việc tu hành và thiền tập). Ở trong rừng này, chúng tôi có thể cày cấy, gieo trồng hạt giống trí tuệ. Sống ở nơi phố thị đông đúc ồn ào những hạt giống đó khó mọc lên được. Nhưng sau thời gian chúng tôi tu sống trong rừng, chúng tôi có thể trở lại phố thị và có thể sống hài lòng với cảnh trần ở đó và hài lòng với những kích thích giác quan khi ở đó. Sống tu trong rừng có nghĩa là làm cho trí tuệ khởi sinh và phát triển. Sau đó, chúng ta có thể dụng những trí tuệ đó ở bất cứ nơi đâu chúng ta đi đến.

When our senses are stimulated, we become agitated and the senses become our antagonists. They antagonize us because we are still foolish and don't have the wisdom to deal with them. In reality they are our teachers, but, because of our ignorance, we don't see it that way. When we lived in the city we never thought that our senses could teach us anything. As long as true wisdom has not yet manifested, we continue to see the senses and their objects as enemies. Once true wisdom arises, they are no longer our enemies but become the doorway to insight and clear understanding.

Thói thường, khi các giác quan bị kích thích chúng ta bị kích động và các giác quan trở thành những kẻ quấy động chúng ta. Chúng quấy động chúng ta vì chúng ta vẫn là những kẻ ngu và không có trí tuệ để xử lý chúng. Nhưng thực ra, chúng là những người thầy của chúng ta, nhưng, lại nữa, do chúng ta còn ngu si, nên chúng ta không nhìn thấy điều đó. Trước kia chúng tôi tu sống ở phố chợ nhưng chúng tôi chẳng nghĩ ra các giác quan có thể dạy chúng tôi. Khi đó trí tuệ vẫn chưa có nên chúng tôi cứ coi những giác quan và những đối tượng giác quan là những kẻ thù của chúng tôi, kẻ thù của người tu hành. Khi đã có trí tuệ, các giác quan không còn là kẻ thù của chúng tôi nữa, mà trở thành cánh cửa để đi đến trí tuệ minh sát và sự hiểu biết rõ ràng.

A good example is the wild chickens here in the forest. We all know how much they are afraid of humans. However, since I have lived here in the forest I have been able to teach them and learn from them as well. At one time I began throwing out rice for them to eat. At first they were very frightened and wouldn't go near the rice. However, after a long time they got used to it and even began to expect it. You see, there is something to be learned here - they originally thought that there was danger in the rice, that the rice was an enemy. In truth there was no danger in the rice, but they didn't know that the rice was food and so were afraid. When they finally saw for themselves that there was nothing to fear, they could come and eat without any danger.

Ví dụ về con gà rừng ở trong khu rừng này. Chúng ta đều biết gà rừng rất sợ người. Tuy nhiên sống lâu ở đây, tôi có thể dạy chúng và học được nhiều từ chúng. Lúc đầu tôi rãi gạo ra cho chúng ăn, chúng còn sợ và không dám đến gần. Sau này những con gà thấy quen và đến ăn và hằng ngày vẫn đến chờ để được rãi đồ ăn. Bạn thấy không, chúng ta học được điều ở đây—ban đầu gà tưởng gạo là thứ nguy hiểm với chúng. Thực tế thì không có nguy hiểm gì trong gạo hết. Sau này gà biết được nên đến ăn tự nhiên.

The chickens learn naturally in this way. Living here in the forest we learn in a similar way. Formerly we thought that our senses were a problem, and because of our ignorance in the proper use of them, they caused us a lot trouble. However, by experience in practice we learn to see them in accordance with truth. We learn to make use of them just as the chickens could use the rice. Then they are no longer opposed to us and problems disappear.

Gà rừng học cách như vậy một cách tự nhiên. Sống trong rừng chúng tôi cũng học cách như vậy. Trước kia chúng tôi nghĩ các giác quan là vấn đề khó khăn, và chúng tôi không biết cách dụng chúng, cho nên chúng mới quấy động chúng tôi. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm chúng tôi bắt đầu học cách sống thuận theo với lẽ thật. Chúng tôi học cách dụng theo các giác quan như cách những con gà học cách quen dần với gạo, với người. Khi các giác quan không còn đối nghịch với chúng tôi nữa thì vấn đề khó khăn không còn nữa.

As long as we think, investigate and understand wrongly, these things will oppose us. But as soon as we begin to investigate properly, that which we experience will bring us to wisdom and clear understanding, just as the chickens came to their understanding. In this way, we can say that they practiced ''vipassanā''. They know in accordance with truth, it's their insight.

Khi nào chúng ta còn nghĩ, suy xét, điều tra và hiểu biết một cách sai lạc, thì mọi sự sẽ đối nghịch với chúng ta. Nhưng khi chúng ta bắt đầu suy xét, điều tra một cách đúng đắn, thì sự trải nghiệm của ta sẽ mang lại trí tuệ và sự hiểu biết rõ ràng, cũng giống như những con gà rừng sau đó đã hiểu được sự thật về gạo, về người. Tu tập theo cách như vậy được gọi là sự "minh sát" (vipassanā). Chúng ta nhìn thấy và hiểu biết sự thật một cách rõ ràng, một cách minh bạch và minh mẫn, đó là trí tuệ minh sát của chúng ta. Những con gà hiểu ra sự thật về người, về gạo, đó là trí tuệ của chúng.

In our practice, we have our senses as tools which, when rightly used, enable us to become enlightened to the Dhamma. This is something which all meditator should contemplate. When we don't see this clearly, we remain in perpetual conflict.

Trong tu tập, chúng ta có các giác quan (sáu căn) làm công cụ, nếu biết dụng chúng một cách đúng đắn, trí tuệ sẽ khởi sinh và chúng ta trở nên giác ngộ Giáo Pháp. Đây là điều mà tất cả mọi thiền sinh phải nên tâm niệm. (Đây là lý tu hành). Nếu chúng ta không nhìn ra lý này, chúng ta cứ lẩn quẩn, loay hoay, xung khắc với sự tu hành của mình.

So, as we live in the quietude of the forest, we continue to develop subtle feelings and prepare the ground for cultivating wisdom. Don't think that when you have gained some peace of mind living here in the quiet forest that that's enough. Don't settle for just that! Remember that we have to cultivate and grow the seeds of wisdom.

Do vậy, chúng tôi sống ở nơi tĩnh mịch trong rừng núi, chúng tôi tiếp tục tu tập những cảm thọ vi tế và chuẩn bị nền tảng cho việc tu dưỡng trí tuệ. Đừng nghĩ rằng sống tu ở trong rừng tâm được bình an là đủ, là tu xong. Đó không phải là mục tiêu! Hãy luôn nhớ rằng mọi sự ta làm và tu tập là để gieo trồng những hạt giống trí tuệ.

As wisdom matures and we begin to understand in accordance with the truth, we will no longer be dragged up and down. Usually, if we have a pleasant mood, we behave one way; and if we have an unpleasant mood, we are another way. We like something and we are up; we dislike something and we are down. In this way we are still in conflict with enemies. When these things no longer oppose us, they become stabilized and balance out. There are no longer ups and downs or highs and lows. We understand these things of the world and know that that's just the way it is. It's just ''worldly dhamma''.

Khi trí tuệ chín muồi và ta bắt đầu hiểu biết theo đúng lẽ thật của thế giới thì ta sẽ không còn trồi lên hụp xuống theo mọi sự xảy ra trong sự sống của ta. Thói thường, khi ta có một trạng thái dễ chịu, chúng ta phản ứng theo một cách; khi chúng ta có một trạng thái khó chịu, chúng ta phản ứng theo một cách khác. Khi chúng ta thích cái gì, chúng ta vui lên; khi chúng ta không thích cái gì, chúng ta xìu xuống. Cứ như vậy, chúng ta cứ luôn xung khắc với những kẻ thù. Khi mọi thứ không còn đối nghịch với chúng ta, mọi thứ trở nên ổn định và cân bằng. Chẳng còn gì lên và xuống, vui và buồn, cao và thấp, thích hay ghét, sướng và khổ gì gì nữa. Chúng ta hiểu rõ những lẽ thực của thế giới và biết rõ đó chỉ là cách mọi thứ diễn ra theo tự nhiên. (Còn lên xuống, buồn vui, sướng khổ, thích ghét...chỉ là do cái cảm nhận của thân (thân thọ) và nhận thức của tâm (tâm tưởng) của chúng ta mà thôi). Đó chỉ là "pháp của thế gian".

''Worldly dhamma'' changes to become the ''path''. ''Worldly dhamma'' has eight ways; the ''path'' has eight ways. Wherever ''worldly dhamma'' exists, the ''path'' is to be found also. When we live with clarity, all of our worldly experience becomes the practicing of the ''eightfold path''. Without clarity, ''worldly dhamma'' predominates and we are turned away from the ''path''. When right understanding arises, liberation from suffering lies right here before us. You will not find liberation by running around looking elsewhere!

"Pháp thế gian" (dhamma) thay đổi để trở thành con đường "đạo". Pháp thế gian có tám cách. Con đường đạo (Bát chánh đạo) cũng có tám phần. Hễ khi nào còn những pháp thế gian thì vẫn còn có con đường đạo. Khi chúng ta sống với sự hiểu biết rõ ràng, thì tất cả mọi trải nghiệm thế tục của chúng ta trở thành sự thực hành của con đường tám phần (Bát chánh đạo) đó. Khi sự hiểu biết đúng đắn (chánh kiến) khởi sinh, sự giải thoát (khỏi khổ đau) đang nằm ngay trước mắt chúng ta. Chúng ta không thể nào tìm thấy sự giải thoát bằng cách chạy đi tìm kiếm chỗ kia chỗ nọ!

So don't be in a hurry and try to push or rush your practice. Do your meditation gently and gradually step by step. In regard to peacefulness, if you want to become peaceful, then accept it; if you don't become peaceful, then accept that also. That's the nature of the mind. We must find our own practice and persistently keep at it.

Do vậy, đừng cố hấp tấp hay cố ép sự tu tập của mình. Cứ thiền tập một cách nhẹ nhàng, từ từ, từng bước, từng bước. Đối với sự bình an, nếu bạn được bình an, chấp nhận nó. Nếu bạn không được bình an, chấp nhận nó. Đó là bản tính tự nhiên của tâm. Chúng ta phải tìm cách tu tập phù hợp cho mình và kiên trì thực hành theo đó.

Perhaps wisdom does not arise! I used to think, about my practice, that when there is no wisdom, I could force myself to have it. But it didn't work, things remained the same. Then, after careful consideration, I saw that to contemplate things that we don't have cannot be done. So what's the best thing to do? It's better just to practice with equanimity. If there is nothing to cause us concern, then there's nothing to remedy. If there's no problem, then we don't have to try to solve it. When there is a problem, that's when you must solve it, right there! There's no need to go searching for anything special, just live normally. But know what your mind is! Live mindfully and clearly comprehending. Let wisdom be your guide; don't live indulging in your moods. Be heedful and alert! If there is nothing, that's fine; when something arises, then investigate and contemplate it.

Thường thì trí tuệ không dễ khởi sinh!. Tôi đã thường nghĩ rằng, đối với sự tu tập của tôi, khi không phát sinh trí tuệ thì tôi có thể thúc ép mình tu tập để có đạt được trí tuệ. Nhưng điều đó không có tác dụng gì, vẫn không đạt được gì đâu. Sau đó, sau khi đã xem xét kỹ càng, tôi thấy rằng để quán xét về những thứ mình không có điều không thể làm. Vậy thì cách nào là tốt nhất? Cách tốt hơn là cứ tu tập với một sự buông xả, thư thái. Nếu chẳng có gì làm chúng ta lo lắng thì cũng chẳng có gì cần giải pháp. Nếu chẳng có khó khăn gì, chúng ta cũng chẳng cần phải giải quyết. Chỉ khi nào có vấn đề khó khăn, thì ta mới cần giải quyết nó! Đừng cố đi tìm thứ gì đặc biệt, mang nghĩa cao siêu to tát, chỉ cần sống một cách bình thường. Nhưng biết rõ tâm mình là gì!. Sống một cách chánh niệm, tỉnh giác và hiểu biết rõ ràng. Hãy để trí tuệ tự khởi sinh và dẫn dắt chúng ta, đừng dính sâu vào những trạng thái của mình. Luôn chú tâm và tỉnh giác!. Nếu chẳng có gì, tốt thôi; nếu có gì khởi sinh, quán xét và chánh niệm về nó.

Coming to the Center

Try watching a spider. A spider spins its web in any convenient niche and then sits in the center, staying still and silent. Later, a fly comes along and lands on the web. As soon as it touches and shakes the web, ''boop!'' - the spider pounces and winds it up in thread. It stores the insect away and then returns again to collect itself silently in the center of the web.

Thử quan sát con nhện. Con nhện giăng tơ thành mạng nhện và ngồi ở giữa trung tâm mạng nhện, yên lặng và bất động (tĩnh lặng và tĩnh tại). Lát sau có con ruồi bay qua và đậu lên mạng nhện. "Bụp!"– con nhện nhún mạng và cuộn dính con ruồi vào mạng nhện. Nó bắt dính con ruồi ở đó và tiếp tục quay lại trung tâm mạng nhện ngồi yên lặng và bất động.

Watching a spider like this can give rise to wisdom. Our six senses have mind at the center surrounded by eye, ear, nose, tongue and body. When one of the senses is stimulated, for instance, form contacting the eye, it shakes and reaches the mind. The mind is that which knows, that which knows form. Just this much is enough for wisdom to arise. It's that simple.

Quan sát con nhện làm vậy có thể làm khởi sinh trí tuệ trong ta. Sáu giác quan có tâm là trung tâm với mắt, tai, mũi, miệng, lưỡi và thân ở xung quanh. Khi một giác quan bị kích thích, ví dụ như khi có hình sắc tiếp xúc với mắt, nó kích hoạt và truyền đến tâm. Tâm là cái biết, là cái biết về hình sắc đó. Chỉ điều này cũng có thể khởi sinh trí tuệ. Đơn giản là vậy.

Like a spider in its web, we should live keeping to ourselves. As soon as the spider feels an insect contact the web, it quickly grabs it, ties it up and once again returns to the center. This is not at all different from our own minds. ''Coming to the center'' means living mindfully with clear comprehension, being always alert and doing everything with exactness and precision - this is our center. There's really not a lot for us to do; we just carefully live in this way. But that doesn't mean that we live heedlessly thinking, ''There is no need to do siting or walking meditation!'' and so forget all about our practice. We can't be careless! We must remain alert just as the spider waits to snatch up insects for its food.

Giống như con nhện trên mạng nhện, chúng ta phải sống giữ mình hướng vào chính mình. Ngay khi con nhện cảm giác một con côn trùng tiếp chạm vào mạng nhện, nó lập tức chụp bắt ngay, bắt kịp, và tiếp tục quay về ngồi giữa trung tâm mạng nhện. Cách đó cũng không hề khác cách cái tâm của chúng ta phản ứng. "Hướng về tâm" có nghĩa là sống một cách chánh niệm với sự hiểu biết rõ ràng, luôn luôn tỉnh thức và làm mọi thứ với một sự chính xác và đúng đắn—đây là trung tâm của chúng ta. Không cần phải làm gì nhiều; chúng ta chỉ cần cẩn thận sống theo cách như vậy. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là chúng ta sống 'vô tư', không để tâm, không chú tâm; không cần phải ngồi thiền hay đi thiền gì cả; và rồi quên hết việc tu tập của mình. Đó là sự chểnh mảng. Chúng ta không thể chểnh mảng! Chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức, giống như con nhện đợi bắt con mồi để làm thức ăn.

This is all that we have to know - sitting and contemplating that spider. Just this much and wisdom can arise spontaneously. Our mind is comparable to the spider, our moods and mental impressions are comparable to the various insects. That's all there is to it! The senses envelop and constantly stimulate the mind; when any of them contact something, it immediately reaches the mind. The mind then investigates and examines it thoroughly, after which it returns to the center. This is how we abide - alert, acting with precision and always mindfully comprehending with wisdom. Just this much and our practice is complete.

Đó là những gì chúng ta phải biết—ngồi và quán sát về con nhện. Chỉ cần như vậy trí tuệ cũng khởi sinh ngay. Tâm chúng ta có thể ví như con nhện; những trạng thái và tâm tưởng của chúng ta thì giống như những con côn trùng khác nhau. Tất cả chỉ là vậy!. Khi các giác quan 'chụp bắt' các đối tượng và liên tục kích thích cái tâm; khi bất kỳ giác quan nào tiếp xúc với thứ gì, nó liền lập tức truyền đến cái tâm. Rồi cái tâm điều tra, xem xét đối tượng đó một cách thấu suốt, sau đó tâm quay trở lại trung tâm. Đây là cách chúng ta sống (an trú)—tỉnh thức, hành động với một sự chính xác và luôn luôn hiểu biết một cách chánh niệm bằng trí tuệ. Chỉ cần như vậy và sự tu tập của chúng ta sẽ thành tựu.

This point is very important! It isn't that we have to do sitting practice throughout the day and night, or that we have to do walking meditation all day and all night long. If this is our view of practice, then we really make it difficult for ourselves. We should do what we can according to our strength and energy, using our physical capabilities in the proper amount.

Chỗ này rất quan trọng! Đó không phải là chúng ta phải ngồi thiền suốt ngày suốt đêm, hoặc phải đi thiền suốt ngày suốt đêm. Nếu hiểu như vậy thì bạn đã tự chuốc lấy khó khăn cho mình. Chúng ta cứ làm như có thể, tùy theo sức lực và năng lực của mình, dùng khả năng của mình một cách phù hợp.

It's very important to know the mind and the other senses well. Know how they come and how they go, how they arise and how they pass away. Understand this thoroughly! In the language of Dhamma we can also say that, just as the spider traps the various insects, the mind binds up the senses with anicca-dukkha-anattā (impermanence, unsatisfactoriness, not-self). Where can they go? We keep them for food, these things are stored away as our nourishment. That's enough; there's no more to do, just this much! This is the nourishment for our minds, nourishment for one who is aware and understanding.

Điều rất quan trọng là phải biết rõ về tâm và các giác quan của mình. Biết rõ cách nó sinh và diệt, cách nó đến và đi, cách nó khởi sinh và biến mất. Hiểu rõ điều này một cách thấu suốt! Theo ngôn ngữ của Giáo Pháp chúng ta cũng có thể nói rằng, giống như con nhện đang bẫy bắt những côn trùng khác nhau, tâm cũng đang trói buộc các giác quan bằng lý "vô thường-khổ-vô ngã" (anicca-dukkha-anattā). Chúng có thể chạy đâu? Chúng ta 'giữ' chúng để làm thức ăn, những thức ăn đó được giữ đó để làm thực dưỡng . Như vậy là đủ; không cần phải làm gì nữa, chỉ cần làm như vậy!.

(Ý là: chỉ cần hướng vào trung tâm, hướng về cái tâm của mình. Đối với mọi đối tượng kích thích các giác quan và các giác quan truyền kích thích về tâm, tâm chỉ cần 'bắt lấy' và quán xét bằng sự hiểu biết về lẽ thật "vô thường-khổ-vô ngã"; và sau đó tâm trở lại vị trí trung ương của mình trong sự tĩnh lặng và tĩnh tại. Cứ minh sát như vậy, giống như con nhện ở trung tâm mạng nhện đã làm).

Đây là cách nuôi dưỡng (thực dưỡng) cho cái tâm của chúng ta, là thực dưỡng cho người tỉnh giác và hiểu biết.

If you know that these things are impermanent, bound up with suffering and that none of it is you, then you would be crazy to go after them! If you don't see clearly in this way, then you must suffer. When you take a good look and see these things as really impermanent, even though they may seem worth going after, really they are not. Why do you want them when their nature is pain and suffering? It's not ours, there is no self, there is nothing belonging to us. So why are you seeking after them? All problems are ended right here. Where else will you end them?

Nếu chúng ta biết được mọi thứ đó đều là vô thường, đều bị trói chặt trong sự khổ và chẳng có thứ nào là 'ta' (vô thường, khổ và vô ngã), thì chúng ta có điên khùng mới còn chạy theo thứ đó nữa! Nếu chúng ta không thấy rõ bản chất của mọi thứ theo cách này, chúng ta còn bị khổ hoài. Khi chúng ta nhìn kỹ và nhìn thấy mọi thứ đích thực là vô thường, thì ngay cả chúng trông có vẻ chắc chắc, ngon lành, đáng chạy theo đi nữa, chúng đích thực không phải là như vậy. Sao chúng ta còn tham muốn những thứ đó trong khi ta đã biết rõ bản chất của chúng là khổ đau và đau khổ? Chúng không phải là 'ta', không phải là 'của ta', chẳng có gì thuộc về 'ta' hay 'của ta' gì hết. Vậy thì mình chạy theo chúng làm gì? Mọi khó khổ sẽ chấm dứt ở đây (khi chúng ta không còn chạy theo thứ gì ở thế gian nữa). Đây chính là chỗ kết thúc khổ. Chứ còn chỗ nào khác để làm việc này?

Just take a good look at the spider and turn it inwards, turn it back unto yourself. You will see that it's all the same. When the mind has seen anicca-dukkha-anattā, it lets go and releases itself. It no longer attaches to suffering or to happiness. This is the nourishment for the mind of one who practices and really trains himself. That's all, it's that simple! You don't have to go searching anywhere! So no matter what you are doing, you are there, no need for a lot of fuss and bother. In this way the momentum and energy of your practice will continuously grow and mature.

Chỉ cần nhìn vào con nhện và quay vào trong bên trong tâm mình. Khi tâm đã nhìn thấy bản tính vô thường-khổ-vô ngã, nó sẽ buông bỏ mọi thứ và giải tỏa chính nó. Nó không còn dính theo khổ hay sướng. Đây chính là thực dưỡng của cái tâm của người đang tu tập và đang thực sự huấn luyện tâm mình. Chỉ có vậy, đơn giản là vậy! Bạn không cần tìm kiếm ở nơi nào! Do vậy, dù bạn có đang làm gì, bạn đang ở đâu, không cần phải bận tâm này nọ. Bằng cách thực hành theo lý như vậy, động lực và năng lượng tu tập của bạn sẽ tiếp tục tăng trưởng và chín chắn.

Escape

This momentum of practice leads us towards freedom from the cycle of birth and death. We haven't escaped from that cycle because we still insist on craving and desiring. We don't commit unwholesome or immoral acts, but doing this only means that we are living in accordance with the Dhamma of morality: for instance, the chanting when people ask that all beings not be separated from the things that they love and are fond of. If you think about it, this is very childish. It's the way of people who still can't let go.

Động lực (cái đà) tu tập như vậy sẽ giúp chúng ta đi đến và đạt đến sự tự do giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Chúng ta hiện chưa thể thoát khỏi vòng sinh tử đó bởi vì chúng ta vẫn còn dính chấp vào tham muốn và dục vọng. Chúng ta không còn làm những việc bất thiện thất đức, nhưng như vậy thì chúng ta chỉ mới sống được đúng theo Giáo Pháp về mặt giới hạnh mà thôi. Ví dụ nhiều người vẫn còn tụng niệm cầu xin cho mình khỏi bị chia cách với những người mình yêu thương và những thứ gì yêu thích. Kiểu tụng niệm đó cứ như con nít. Đó là cách và ý của những người còn chưa chịu buông bỏ.

This is the nature of human desire - desire for things to be other than the way that they are; wishing for longevity, hoping that there is no death or sickness. This is how people hope and desire, then when you tell them that whatever desires they have which are not fulfilled cause suffering, it clobbers them right over the head. What can they say? Nothing, because it's the truth! You're pointing right at their desires.

Bản chất tham dục của con người là: muốn mọi thứ trở thành theo cách mình muốn chứ không muốn mọi thứ theo cách tự nhiên của chúng. Chúng ta cứ muốn được trường thọ, muốn không bị chết, muốn không bị bệnh: điều đó là trái với tự nhiện. Tự nhiên của sự sống là sinh, già, bệnh, chết. Đó, con người cứ kỳ vọng (ảo vọng) và tham muốn như vậy, cho đến khi mọi sự không diễn ra theo như ảo vọng và tham muốn của họ, họ trở nên khổ sở, sầu muộn, thậm chí điên tiếc. Họ có thể nói gì? Chẳng nói gì được, bởi đó là lẽ thật tự nhiên của mọi sự sống! Đó là sự thật. Chúng ta hãy chỉ thẳng vào cái tham muốn của con người.

When we talk about desires we know that everyone has them and wants them fulfilled, but nobody is willing to stop, nobody really wants to escape. Therefore our practice must be patiently refined down. Those who practice steadfastly, without deviation or slackness, and have a gentle and restrained manner, always persevering with constancy, those are the ones who will know. No matter what arises, they will remain firm and unshakable.

Khi nói về tham dục, chúng ta biết rằng ai cũng có những tham dục và muốn những tham dục đó được thỏa mãn. Nhưng chẳng có ai chịu dừng tham muốn, chẳng có ai muốn thoát khỏi những tham muốn đó. Do vậy, chúng ta phải cố tu tập từ từ từng bước để dần dần rửa sạch bớt những tham dục. Những người tu tập chuyên cần, đều đặn, liên tục, không thoái chí, không lạc lối, không chểnh mảng, và luôn giữ phong cách nhẹ nhàng và kiềm chế, luôn luôn vững tâm, đó là những người sẽ đi đến sự thấy biết và giác ngộ. Dù cho có chuyện gì khởi sinh, dù đang thăng trầm trong tám pháp thế gian, họ vẫn vững tâm và không bị lay chuyển.


Chương 43

THE TRAINING OF THE HEART - VIỆC TU TẬP CÁI TÂM

In the time of Ajahn Mun and Ajahn Sao life was a lot simpler, a lot less complicated than it is today. In those days monks had few duties and ceremonies to perform. They lived in the forests without permanent resting places. There they could devote themselves entirely to the practice of meditation.

Vào thời của các thiền sư Ajahn Mun và Ajahn Sao, cuộc sống giản đơn hơn nhiều, rất ít phức tạp hơn thời bây giờ. Vào thời đó, những nhà sư có rất ít phận sự và lễ nghi phải làm. Họ sống trong rừng, vừa tu vừa đi, không ở cố định lâu một nơi nào. (Giống như cách tăng đoàn thời Đức Phật). Nhờ vậy, họ có thể dành hết thời gian vào việc tu hành và thiền tập.

In those times one rarely encountered the luxuries that are so commonplace today, there simply weren't any. One had to make drinking cups and spittoons out of bamboo and lay people seldom came to visit. One didn't want or expect much and was content with what one had. One could live and breathe meditation!

Thời đó họ khó gặp những thứ tiện nghi xa xỉ như ngày nay, đơn giản là thời đó chẳng có gì. Mọi người đều phải tự chế cho mình từng cái ly uống nước, chén, đũa...và những Phật tử thí chủ cũng hiếm khi ghé đến thăm. Họ cũng chẳng trông đợi gì từ bên ngoài và họ rất hài lòng với những gì họ có. Người tu có thể sống, thở và thiền!

The monks suffered many privations living like this. If someone caught malaria and went to ask for medicine, the teacher would say, ''You don't need medicine! Keep practicing''. Besides, there simply weren't all the drugs that are available now. All one had were the herbs and roots that grew in the forest. The environment was such that monks had to have a great deal of patience and endurance; they didn't bother over minor ailments. Nowadays you get a bit of an ache and you're off to the hospital!

Các tu sĩ thời đó chịu đựng nhiều thứ khổ cực cho thân mình. Họ bị sốt rét và đến xin thuốc, sư phụ nói rằng: "Thầy không cần thuốc! Cứ lo tu đi". Nhưng, đơn giản thời đó cũng chẳng có thuốc thang gì như bây giờ. Họ chỉ có những rễ cây, lá cây trong rừng hái về làm thuốc để trị bệnh. Trong cảnh như vậy, người tu hành phải có nhiều sức kiên nhẫn và chịu đựng khó khổ; họ không để tâm đến những bệnh đau nếu chưa nặng. Còn bây giờ khi mới hơi bệnh chút xíu là các thầy đã vọt đến nhà thương ngay!

Sometimes one had to walk ten to twelve kilometers on almsround. You would leave as soon as it was light and maybe return around ten or eleven o'clock. One didn't get very much either, perhaps some glutinous rice, salt or a few chilis. Whether you got anything to eat with the rice or not didn't matter. That's the way it was. No one dared complain of hunger or fatigue; they were just not inclined to complain but learned to take care of themselves. They practiced in the forest with patience and endurance alongside the many dangers that lurked in the surroundings. There were many wild and fierce animals living in the jungles and there were many hardships for body and mind in the ascetic practice of the dhutanga or forest-dwelling monk. Indeed, the patience and endurance of the monks in those days was excellent because the circumstances compelled them to be so.

Thời gian đó, nhiều lúc họ phải đi bộ mười đến mười hai cây số để khất thực. Họ phải đi ngay khi trời rạng sáng và có thể trở về khoảng 11-12 giờ. Họ cũng chẳng khất thực được nhiều nhỏi thức ăn gì, chỉ vài miếng cơm, ít muối và ớt. Nhưng dù họ có khất thực được gì để ăn hay không, họ cũng vui lòng. Thời đó là như vậy. Không ai dám than phiền vì đói khát hay mệt mỏi; đơn giản là họ không còn thói quen hay khuynh hướng than phiền, nhưng chỉ lo học cách tự chăm sóc bản thân. Họ tu tập trong rừng với sự kiên trì và chịu đựng khó khổ cùng với những hiểm nguy rình rập xung quanh. Có nhiều loài thú hoang hung dữ trong rừng, nhiều khó khăn về thân và tâm trong việc tu theo khổ hạnh (giới đầu-đà, dhutanga) của những tu sĩ trong rừng. Thực vậy, sự kiên nhẫn và chịu đựng của những tu sĩ ngày đó thật xuất chúng bởi hoàn cảnh bắt buộc họ phải kham nhẫn như vậy.

In the present day, circumstances compel us in the opposite direction. In ancient times, one had to travel by foot; then came the oxcart and then the automobile. Aspiration and ambition increased, so that now, if the car is not air-conditioned, one will not even sit in it; impossible to go if there is no air-conditioning! The virtues of patience and endurance are becoming weaker and weaker. The standards for meditation and practice are lax and getting laxer, until we find that meditators these days like to follow their own opinions and desires. When the old folks talk about the old days, it's like listening to a myth or a legend. You just listen indifferently, but you don't understand. It just doesn't reach you!

Thời bây giờ, những hoàn cảnh thì bắt chúng ta theo hướng ngược lại. Thời xưa người ta đi chân trần; rồi đi bằng xe bò, rồi bây giờ thì đi bằng xe máy, xe hơi. Ý muốn và kỳ vọng tăng lên, đến nỗi bây giờ đi xe hơi không có máy lạnh người ta cũng không thèm đi, không thể đi được nếu không có máy lạnh! Đức hạnh kiên nhẫn và chịu khổ xưa kia bây giờ cứ yếu dần đi. Những chuẩn mực về thiền tập cũng càng ngày càng lỏng lẻo, ít nghiêm hơn, đến nỗi ngày nay nhiều người thiền cứ làm theo ý kiến và ý muốn của riêng mình. Khi những trưởng lão kể về cảnh tu hành ngày xưa, họ nghe cứ như nghe chuyện cổ tích hay thần thoại vậy. Họ nghe một cách hờ hững và họ chẳng hiểu gì. Những chuyện ngày xưa chẳng thấm vào tai người tu thời bây giờ!

As far as we should be concerned about the ancient monks' tradition, a monk should spend at least five years with his teacher. Some days you should avoid speaking to anyone. Don't allow yourself to speak or talk very much. Don't read books! Read your own heart instead. Take Wat Pah Pong for example. These days many university graduates are coming to ordain. I try to stop them from spending their time reading books about Dhamma, because these people are always reading books. They have so many opportunities for reading books, but opportunities for reading their own hearts are rare. So, when they come to ordain for three months following the Thai custom, we try to get them to close their books and manuals. While they are ordained they have this splendid opportunity to read their own hearts.

Nếu chúng ta muốn tu tập theo truyền thống của người xưa, mỗi tu sĩ phải ở học tu với sư phụ của mình ít nhất năm năm. Một số ngày phải im lặng, không nói chuyện với bất cứ ai. Đừng để mình mở miệng nói nhiều. Đừng đọc sách! Hãy đọc trái tim (tâm) mình. Ví dụ ở chùa Wat Pah Pong. Ngày nay có nhiều sinh viên đã học xong đại học đến đây xin thọ giới để tu. Tôi cố ngăn việc họ đã đến đây những cứ tiêu phí thời giờ vào việc đọc kinh sách giáo lý, họ cứ luôn luôn đọc kinh sách. Họ đã có quá nhiều cơ hội đọc sách, nhưng hiếm khi họ đọc cái tâm của mình. Vậy khi họ đến đây để tu theo truyền thống tu thiền của Thái Lan thì họ phải nên đóng hết sách vở, cẩm nang. Trong khi họ thọ giới để tu tập, họ có cơ hội tuyệt vời để đọc cái tâm mình.

Listening to your own heart is really very interesting. This untrained heart races around following its own untrained habits. It jumps about excitedly, randomly, because it has never been trained. Therefore train your heart! Buddhist meditation is about the heart; to develop the heart or mind, to develop your own heart. This is very, very important. This training of the heart is the main emphasis. Buddhism is the religion of the heart. Only this! One who practices to develop the heart is one who practices Buddhism.

Lắng nghe trái tim mình thật là một điều thú vị. (Thiền sư thường dùng nghĩa trái tim và tâm là một). Cái tâm chưa được tu tập cứ chạy lăng xăng, lòng vòng theo những thói quen (tập khí) chưa được tu sửa. Nó cứ động vọng, nhảy lên nhảy xuống, bởi vì nó chưa được tu tập. Vậy hãy tu tập cái tâm! Thiền Phật giáo là nhắm đến cái tâm; để tu dưỡng, phát triển cái tâm, tu dưỡng và phát triển cái tâm của chính mình. Điều này là rất quan trọng. Việc tu tập cái tâm là trọng tâm của đạo Phật. Đạo Phật là 'tôn giáo' của tâm. Chỉ có vậy! Người tu tập để phát triển tâm chính là người đang thực hành đạo Phật.

This heart of ours lives in a cage, and what's more, there's a raging tiger in that cage. If this maverick heart of ours doesn't get what it wants, it makes trouble. You must discipline it with meditation, with samādhi. This is called ''Training the Heart''. At the very beginning, the foundation of practice is the establishment of moral discipline (sīla). Sīla is the training of the body and speech. From this arises conflict and confusion. When you don't let yourself do what you want to do, there is conflict.

Tâm của chúng ta sống trong một hang động, và gì nữa trong hang động đó có một con cọp đói hung dữ. Cái tâm chưa thuần hóa của chúng ta khi không có được cái nó muốn, nó sẽ gây rối. Ta phải khép nó vào lỷ luật bằng việc thiền tập, bằng sự định tâm (samādhi). Việc này được gọi là "việc tu tập cái tâm". Lúc đầu, nền tảng tu tập là thiết lập giới hạnh đạo đức (sīla). Sīla là tu tập những hành vi và lời nói. Tu tập chánh nghiệp và chánh ngữ. Điều này làm sinh ra sự xung khắc và khó xử. Vì sao, bởi vì ta không để cho bản thân làm như theo những điều nó muốn làm và nói, nên xảy ra sự xung đột với bản thân.

Eat little! Sleep little! Speak little! Whatever it may be of worldly habit, lessen them, go against their power. Don't just do as you like, don't indulge in your thought. Stop this slavish following. You must constantly go against the stream of ignorance. This is called ''discipline''. When you discipline your heart, it becomes very dissatisfied and begins to struggle. It becomes restricted and oppressed. When the heart is prevented from doing what it wants to do, it starts wandering and struggling. Suffering (dukkha) becomes apparent to us.

Ăn ít! Ngủ ít! Nói ít! Bất cứ thứ gì thuộc những thói quen phàm tục thì đều bị hãm bớt lại, người tu cưỡng lại sức mạnh của những thói quen đó. Đừng cứ thích gì làm nấy, đừng chạy theo những ý nghĩ (ý hành) thúc giục này nọ. Đừng chạy theo nó một cách mù quáng và hèn hạ. Ta phải liên tục đi ngược lại dòng chảy si mê và ngu mờ đó. Việc này gọi là "kỹ luật" (kiêng cữ, kiềm chế, giới hạnh). Khi ta kiềm chế cái tâm, thường thì nó bất chấp và bắt đầu chống cự. Nó trở nên bị kiềm chế và đè nén. Khi tâm đang bị ngăn cản không cho làm những điều nó muốn thì nó bắt đầu lăng xăng và chống cự. Khổ (dukkha) có mặt rõ ràng đối với chúng ta trong từng giây phút.

This dukkha, this suffering, is the first of the four noble truths. Most people want to get away from it. They don't want to have any kind of suffering at all. Actually, this suffering is what brings us wisdom; it makes us contemplate dukkha. Happiness (sukha) tends to make us close our eyes and ears. It never allows us to develop patience. Comfort and happiness make us careless. Of these two defilements, Dukkha is the easiest to see. Therefore we must bring up suffering in order to put an end to our suffering. We must first know what dukkha is before we can know how to practice meditation.

Khổ này, dukkha này, là sự thật thứ nhất mà Phật đã chỉ ra. Đó là một chân lý. Hầu hết mọi người đều muốn tránh khổ. Họ không muốn khổ, không muốn bị khổ, không muốn gặp bất kỳ loại khổ nào. Đích thực thì chính sự khổ đau mới mang lại trí tuệ; nó làm cho ta quán xét và chánh niệm về khổ, về dukkha. Sướng (sukha) thì thường khiến ta nhắm mắt, đóng tai. Sướng không bao giờ giúp chúng ta tu dưỡng tính nhẫn nhục và chịu đựng. Nó chẳng bao giờ để ta tu tập tính kiên nhẫn. Tiện nghi và sướng khoái làm cho chúng ta thêm ỷ lại, bất cẩn, chểnh mảng, lạc lối. Trong hai thứ sướng khổ (dukkha và sukkha), dukkha là dễ nhìn thấy nhất. Do vậy, chúng ta phải đặt sự khổ lên trên để tu tập và chấm dứt khổ. Chúng ta cần phải biết rõ khổ, dukkha, là gì trước khi chúng ta bước vào tu tập thiền.

In the beginning you have to train your heart like this. You may not understand what is happening or what the point of it is, but when the teacher tells you to do something, then you must do it. You will develop the virtues of patience and endurance. Whatever happens, you endure, because that is the way it is. For example, when you begin to practice samādhi you want peace and tranquillity. But you don't get any. You don't get any because you have never practiced this way. Your heart says, ''I'll sit until I attain tranquillity''. But when tranquillity doesn't arise, you suffer. And when there is suffering, you get up and run away! To practice like this can not be called ''developing the heart''. It's called ''desertion''.

Trước tiên, chúng ta cần tu tập cái tâm theo cách như vầy. Bạn có thể chưa hiểu điều gì đang xảy ra hoặc chưa hiểu lý của việc mình tập làm, nhưng khi sư thầy nói bạn làm điều gì, bạn cứ nên làm theo. (Hãy tin vào sư thầy chỉ dạy về bước căn bản). Bạn sẽ tu dưỡng hạnh kiên nhẫn và chịu khó. Bất cứ điều gì xảy đến, bạn cứ chịu khó, bởi vì đó là cách nó diễn ra. Ví dụ, khi bạn bắt đầu tu tập sự định tâm (samādhi), bạn muốn đạt được sự tĩnh lặng và bình an. Nhưng bạn không làm được. Bạn không làm được gì bởi bạn chưa bao giờ thực tập theo cách đó. Tâm bạn nói rằng: "Tôi sẽ ngồi xuống thiền cho đến khi nào đạt đến sự tĩnh lặng". Nhưng rồi sự tĩnh lặng chẳng có được, bạn thấy khổ, vì thất vọng. Và khi thấy khổ, bạn đứng dậy và bỏ đi! Thực tập kiểu đó thì không thể gọi là "sự tu tập cái tâm". Đó là sự "bỏ cuộc".

Instead of indulging in your moods, you train yourself with the Dhamma of the Buddha. Lazy or diligent, you just keep on practicing. Don't you think that this is a better way? The other way, the way of following your moods, will never reach the Dhamma. If you practice the Dhamma, then whatever the mood may be, you keep on practicing, constantly practicing. The other way of self-indulgence is not the way of the Buddha. When we follow our own views on practice, our own opinions about the Dhamma, we can never see clearly what is right and what is wrong. We don't know our own heart. We don't know ourselves.

Thay vì si mê chạy theo những trạng thái khác nhau của mình, ta huấn luyện bản thân bằng Giáo Pháp của Đức Phật. Dù thấy lười biếng hay siêng năng, cứ tu tập tiếp. Đây là cách tốt hơn. Chứ cái cách chạy theo những trạng thái của thân tâm mình thì chẳng bao giờ tu tập gì được để đạt đến Giáo Pháp. Nếu ta tu tập Giáo Pháp thì dù thân tâm có đang ở trong trạng thái nào, ta cứ tu tập, tiếp tục tu một cách đều đặn. Cách bỏ mặc hay ngã theo những trạng thái của thân tâm không phải là cách của Phật. Khi chúng ta cứ chạy theo quan điểm và ý kiến riêng của mình về Giáo Pháp, thì chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy được rõ ràng điều gì là đúng, điều gì là sai. Ta không thấy biết về tâm. Ta không thấy biết về chính mình.Therefore, to practice following your own teachings is the slowest way. To practice following the Dhamma is the direct way. Lazy you practice; diligent you practice. You are aware of time and place. This is called ''developing the heart''.

Do vậy, nếu tu tập theo kiểu riêng, theo ý kiến riêng của mình, thì đó là cách chậm nhất. Tu tập theo Giáo Pháp là con đường trực chỉ nhanh nhất. Đang lười biếng, tu; đang thấy siêng, tu. Ta luôn tỉnh giác về thời gian và nơi chốn. Cách này được gọi là "sự tu tập cái tâm".

If you indulge in following your own views and try to practice accordingly, then you will start thinking and doubting a lot. You think to yourself, ''I don't have very much merit. I don't have any luck. I've been practicing meditation for years now and I'm still unenlightened. I still haven't seen the Dhamma''. To practice with this kind of attitude can not be called ''developing the heart''. It is called ''developing disaster''.

Nếu cứ chạy theo quan điểm và ý kiến riêng của mình và tu tập theo kiểu của mình, bạn sẽ đi đến nghĩ ngợi đủ thứ và nghi ngờ đủ kiểu. Bạn cứ nghĩ: "Chắc mình có ít công đức quá. Mình không chút vận may. Nên mình không tu được. Mình tu bao nhiêu năm rồi vẫn chưa giác ngộ được gì. Mình vẫn chưa nhìn thấy Giáo Pháp gì cả". Tu tập theo kiểu đó không thể gọi là "sự phát triển tâm". Đó chỉ là sự "phát triển tai nạn".

If, at this time, you are like this, if you are a meditator who still doesn't know, who doesn't see, if you haven't renewed yourself yet, it's because you've been practicing wrongly. You haven't been following the teachings of the Buddha. The Buddha taught like this: ''Ananda, practice a lot! Develop your practice constantly! Then all your doubts, all your uncertainties, will vanish''. These doubts will never vanish through thinking, nor through theorizing, nor through speculation, nor through discussion. Nor will doubts disappear by not doing anything. All defilements will vanish through developing the heart, through right practice only.

Nếu, bây giờ bạn như thế này, nhưng sau khi tu tập thiền tập bạn vẫn không biết gì, không nhìn thấy gì, không cải tạo được bản thân, thì đó là do bạn đã tu tập một cách sai lạc. Bạn không tu theo Giáo Pháp của Phật. (Nếu ai cũng tự mình tu được theo cách của mình thì Phật đã bỏ công sức 45 năm ra để giảng dạy Giáo Pháp để làm gì? Nếu ai cũng tự mình tu tập và giải thoát được thì họ cần gì phải theo đạo của Phật?. Và nếu đã tin Phật và theo đạo Phật, nhưng lại tu tập theo cách của riêng mình, thì điều đó là không hợp lý). Đức Phật đã dạy rằng: "Này Ananda, hãy tu tập nhiều! Tu tập một cách đều đặn! Sau đó mọi nghi ngờ, mọi điều không chắc chắn của mình sẽ biến mất". Những nghi ngờ sẽ không bao giờ biến mất bằng sự suy nghĩ, bằng sự lý giải lý thuyết, bằng sự phỏng đoán, hay bằng sự thảo luận. Những nghi ngờ cũng không biến mất bằng cách không làm gì cả. Tất cả mọi sự chướng ngại và ô nhiễm đều biến mất bằng sự tu tập và phát triển cái tâm, chỉ bằng sự tu tập đúng đắn.

The way of developing the heart as taught by the Buddha is the exact opposite of the way of the world, because his teachings come from a pure heart. A pure heart, unattached to defilements, is the Way of the Buddha and his disciples.

Cách tu tập và phát triển cái tâm mà Phật đã dạy là ngược lại hoàn toàn với cách của thế gian, bởi giáo lý của Phật là xuất phát từ một cái tâm tinh khiết và thanh tịnh. Một cái tâm tinh khiết, không còn dính ô nhiễm, là Con Đường của Phật và các vị thánh đệ tử.

If you practice the Dhamma, you must bow your heart to the Dhamma. You must not make the Dhamma bow to you. When you practice this way. suffering arises. There isn't a single person who can escape this suffering. So when you commence your practice suffering is right there.

Nếu bạn tu tập theo Giáo Pháp thì phải hướng tâm theo Giáo Pháp. Đừng hướng Giáo Pháp theo mình. Khi bắt đầu tu tập theo Giáo Pháp, khổ sẽ khởi sinh. Chẳng ai thoát khỏi khổ hết. Nên khi bạn bắt đầu tu tập, khổ đã có mặt ngay đó.

The duties of meditators are mindfulness, collectedness and contentment. These things stop us. They stop the habits of the hearts of those who have never trained. And why should we bother to do this? If you don't bother to train your heart, then it remains wild, following the ways of nature. It's possible to train that nature so that it can be used to advantage. This is comparable to the example of trees. If we just left trees in their natural state, then we would never be able to build a house with them. We couldn't make planks or anything of use in building a house. However, if a carpenter came along wanting to build a house, he would go looking for trees such as these. He would take this raw material and use it to advantage. In a short time he could have a house built.

Nhiệm vụ của người thiền là chú tâm chánh niệm, tập trung và hài lòng. Những điều này dừng chúng ta lại. Chúng dừng những thói quen của tâm của những người chưa tu tập trước đó. Nhưng tại sao chúng ta phải dừng những thói tâm lại? Vì nếu chúng ta không tu tập cái tâm, nó vẫn luôn hoang dại và chạy theo thói tâm tự nhiên của nó. (Lưu ý: những thói tâm tự nhiên cố hữu của cái tâm chưa được tu tập là khác với bản chất tự nhiên của chân tâm, "tâm xưa", tâm nguyên thủy, theo định nghĩa của Đức Phật. Bản chất của chân tâm là không có gì, trong sạch và sáng tỏ, không bị ô nhiễm, không có "thói tâm" nào hết. Còn thói tâm tự nhiên đang nói là những thói tâm (tập khí) của cái tâm của chúng ta, cái tâm chưa được tu tập). Chúng ta có thể thuần hóa những thói tâm tự nhiên đó và dùng nó vào việc có ích. Chỗ này có thể ví như các cây. Nếu chúng ta để các cây cối như chúng đang mọc tự nhiên ở trong rừng thì chúng ta không thể dụng chúng để xây nhà, làm cửa, làm vật dụng được. Chúng ta không thể biến chúng thành ván, thành thanh để xây nhà. Các thợ mộc thợ cưa phải chặt cây đem về đo đạc, cưa ra thành ván, thành thanh rồi mới xây nhà, đóng thành các đồ đạc. Sau đó, họ có thể xây nên ngôi nhà nhanh chóng.

Meditation and developing the heart are similar to this. You must take this untrained heart, the same as you would take a tree in its natural state in the forest, and train this natural heart so that it is more refined, so that it's more aware of itself and is more sensitive. Everything is in its natural state. When we understand nature, then we can change it, we can detach from it, we can let go of it. Then we won't suffer anymore.

Thiền và việc phát triển tâm cũng giống như vậy. Bạn phải lấy cái tâm chưa tu tập, giống như người ta lấy cây thô về, sau đó nắn sửa, huấn luyện cái tâm để nó được tinh tế hơn, giống như cưa gỗ thô thành những ván thành thanh tinh chế hơn, và sau đó dùng chúng một cách hữu dụng. Khi tâm được tu tập tinh tế hơn, nó sẽ càng tỉnh giác về nó hơn và nhạy bén (hiểu biết nhanh) hơn với mọi trạng thái khởi sinh trong nó. Mọi thứ đều ở trong trạng thái tự nhiên, thô sơ của nó. Chúng ta hiểu tự nhiên, rồi chúng ta thay đổi nó, và tách ly khỏi nó, chúng ta có thể buông bỏ nó. Rồi chúng ta không còn phải bị khổ nữa. (Chúng ta đã chỉnh sửa, thay đổi cái tâm tự nhiên thô sơ thành cái tâm tinh tế và nhạy bén, sau đó dụng nó để đối trị và hiểu biết mọi sự sinh diệt, và sau khi đã hiểu biết, ta có thể buông bỏ mọi sự, và ta không còn bị khổ vì ta không còn dính theo mọi sự nữa).

The nature of our heart is such that whenever it clings and grasps there is agitation and confusion. First it might wander over there, then it might wander over here. When we come to observe this agitation, we might think that it's impossible to train the heart and so we suffer accordingly. We don't understand that this is the way the heart is. There will be thought and feelings moving about like this even though we are practicing, trying to attain peace. That's the way it is.

Bản chất của tâm chúng ta là hễ khi nó chấp hay dính theo thứ gì thì sân si sẽ có mặt. Đầu tiên, nó cứ lăng xăng, chạy nhảy, chỗ này, chỗ nọ. Khi chúng ta quan sát về sự sân, chúng ta có thể nghĩ rằng khó mà điều phục cái tâm sân, nên chúng ta khổ. Chúng ta không hiểu cách của tâm. Chúng ta luôn có những ý nghĩ và cảm giác này nọ khi đang tu tập, khi đang cố đạt đến sự bình an. Đó là cách sẽ xảy ra khi bạn tu tập.

When we have contemplated many times the nature of the heart, then we will come to understand that this heart is just as it is and can't be otherwise. We will know that the heart's ways are just as they are. That's its nature. If we see this clearly, then we can detach from thoughts and feelings. And we don't have to add on anything more by constantly having to tell ourselves that ''that's just the way it is''. When the heart truly understands, it lets go of everything. Thinking and feeling will still be there, but that very thinking and feeling will be deprived of power.

Khi chúng ta quán xét nhiều lần về bản chất cái tâm, chúng ta sẽ đi đến hiểu rằng tâm này là như vậy, không thể khác đi được. Chúng ta sẽ biết đường lối của tâm chỉ là vậy, như nó là. Đó là bản chất của nó. Nếu chúng ta hiểu được như vậy, chúng ta không còn những ý nghĩ hay cảm giác này nọ về nó nữa (vì ta đã biết 'tẩy' nó chỉ là như vậy). Khi tâm thực sự hiểu biết, nó buông bỏ mọi sự. Những suy nghĩ và cảm giác thì có thể vẫn còn đó, nhưng những suy nghĩ và cảm giác đã bị tước đi sức mạnh, không còn ảnh hưởng gì đến tâm nữa.

This is similar to a child who likes to play and frolic in ways that annoy us, to the extent that we scold or spank him. We should understand that it's natural for a child to act that way. Then we could let go and leave him to play in his own way. So our troubles are over. How are they over? Because we accept the ways of children. Our outlook changes and we accept the true nature of things. We let go and our heart becomes more peaceful. We have ''right understanding''.

Điều này tương tự như một đứa trẻ thích chơi đùa nghịch ngợm, làm ta khó chịu đến mức ta có thể đánh đít hay la rầy nó. Chúng ta nên hiểu biết rằng chơi đùa là bản chất tự nhiên của trẻ con. (Nhiều phụ huynh xưa nay ít hiểu được như vậy). Nếu đã hiểu được vậy, chúng ta sẽ để yên cho trẻ chơi đùa theo tính của nó. Như vậy thì sự khó chịu của chúng ta cũng không còn. Tại sao không còn khó chịu? Bởi vì chúng ta đã chấp nhận tính cách tự nhiên của trẻ con. Cách nhìn của ta đã thay đổi và ta biết chấp nhận với bản chất tự nhiên của mọi sự trên đời. Chúng ta buông bỏ và tâm ta sẽ được bình an. Chúng ta đã có "sự hiểu biết đúng đắn" (chánh kiến).

If we have wrong understanding, then even living in a deep, dark cave would be chaos, or living high up in the air would be chaos. The heart can only be at peace when there is ''right understanding''. Then there are no more riddles to solve and no more problems to arise.

Nếu chúng ta có sự hiểu biết sai lầm (tà kiến) thì dù chúng ta có ở trong hang động sâu, tối, vắng tanh, thì tâm ta cũng động vọng và khổ như thường. Dù có sống trên mây trên trời thì cũng vậy. Tâm chỉ được bình an khi có "chánh kiến". Được vậy thì chẳng còn gì bí ẩn để giải quyết và chẳng còn gì khó khổ nữa.

This is the way it is. You detach. You let go. Whenever there is any feeling of clinging, we detach from it, because we know that that very feeling is just as it is. It didn't come along especially to annoy us. We might think that it did, but in truth it is just that way. If we start to think and consider it further, that too, is just as it is. If we let go, then form is merely form, sound is merely sound, odor is merely odor, taste is merely taste, touch is merely touch and the heart is merely the heart. It's similar to oil and water. If you put the two together in a bottle, they won't mix because of the difference in their nature.

Đây là cách tu hành. Đây là cách tâm sẽ được bình an! Bạn buông bỏ. Bạn đừng để tâm. Bạn tách ly. Khi có cảm giác dính chấp, ta tách ly khỏi nó, bởi chúng ta đã biết cái cảm giác đó chỉ là đơn giản là một cảm giác như nó là. Nó thực sự không xảy đến để quấy nhiễu chúng ta. Chúng ta cứ nghĩ cảm giác đó là quấy rầy, làm khổ, hay làm khó chịu chúng ta, nhưng thực sự thì nó chỉ là nó, nó chẳng làm gì cả. Nếu chúng ta có nghĩ này, nghĩ nọ, gán cho cảm giác đó là này là nọ, thì nó cũng chỉ là nó, chỉ là một cảm giác. Nhưng nếu chúng ta buông bỏ, thì hiện thực hình sắc chỉ là hình sắc, âm thanh chỉ là âm thanh, mùi hương chỉ là mùi hương, mùi vị chỉ là mùi vị, chạm xúc chỉ là chạm xúc, và tâm chỉ là tâm. Cũng giống như dầu và nước. Đổ hai thứ vào một chai, chúng không hòa tan lẫn nhau bởi vì tính chất của chúng khác nhau.

Oil and water are different in the same way that a wise man and an ignorant man are different. The Buddha lived with form, sound, odor, taste, touch and thought. He was an arahant (enlightened one), so He turned away from rather than toward these things. He turned away and detached little by little since He understood that the heart is just the heart and thought is just thought. He didn't confuse and mix them together.

Dầu và nước khác nhau giống như người ngu si và kẻ trí hiền khác nhau vậy. Phật đã sống với đủ các thứ hình sắc, âm thanh, mùi hương, mùi vị, chạm xúc và tâm ý. Phật là vị A-la-hán đầu tiên [bậc giác ngộ], nên Phật sống quay lưng lại với mọi thứ chứ không ngã theo (chạy theo, dính, chấp theo) mọi thứ. Phật quay lưng và tách ly từng chút, từng chút từ khi Phật đã hiểu được tâm chỉ là tâm, ý nghĩ chỉ là ý nghĩ như chúng là. Phật không lẫn lộn hay hòa trộn những thứ đó với nhau. (Như người ta không lẫn lộn dầu và nước).

The heart is just the heart; thoughts and feelings are just thoughts and feelings. Let things be just as they are! Let form be just form, let sound be just sound, let thought be just thought. Why should we bother to attach to them? If we think and feel in this way, then there is detachment and separateness. Our thoughts and feelings will be on one side and our heart will be on the other. Just like oil and water - they are in the same bottle but they are separate.

Tâm chỉ là tâm; ý nghĩ (hành) và cảm giác (thọ) chỉ là ý nghĩ và cảm giác. Cứ để mọi thứ tự nhiên như nó chúng là! Cứ để hình sắc chỉ là hình sắc, âm thanh chỉ là âm thanh, ý nghĩ chỉ là ý nghĩ, cảm giác chỉ là cảm giác. Việc gì ta phải dính mắc vào chúng? Nếu chúng ta biết nghĩ và cảm giác theo cách như vậy, thì sẽ tạo ra sự tách ly, sự quay lưng, sự buông bỏ với mọi thứ. Những ý nghĩ và cảm giác của chúng ta để một bên và tâm chúng ta để một bên. Giống như dầu và nước—dù có tiếp xúc nhau trong cùng một chai, nhưng dầu là dầu, nước là nước. Dầu mặc kệ nước dù nước (có trong, có đục, có chua, có mặn, có thơm, có ngon) như thế nào.

The Buddha and his enlightened disciples lived with ordinary, unenlightened people. They not only lived with these people, but they taught these ordinary, unenlightened, ignorant ones how to be noble, enlightened, wise ones. They could do this because they knew how to practice. They knew that it's a matter of the heart, just as I have explained.

Đức Phật và những thánh đệ tử đã giác ngộ của Phật thời đó đã sống chung với những người bình thường, phàm phu, chưa giác ngộ. Họ không những đã sống chung với mọi người phàm phu mà họ còn chỉ dạy cho những người phàm phu ngu tối cách (tu tập) để trở thành người thánh thiện, hiền trí và giác ngộ. Phật và các thánh đệ tử làm được như vậy vì họ đã biết rõ cách tu tập. Họ biết rõ mọi chuyện chỉ là vấn đề tâm, mọi khó khổ đều nằm chỗ tâm, như tôi đã nói nhiều lần với quý vị.

So, as far as your practice of meditation goes, don't bother to doubt it. If we run away from home to ordain, it's not running away to get lost in delusion. Nor out of cowardice or fear. It's running away in order to train ourselves, in order to master ourselves. If we have understanding like this, then we can follow the Dhamma. The Dhamma will become clearer and clearer. The one who understands the Dhamma, understands himself; and the one who understands himself, understands the Dhamma. Nowadays, only the sterile remains of the Dhamma have become the accepted order. In reality, the Dhamma is everywhere. There is no need to escape to somewhere else. Instead escape through wisdom. Escape through intelligence. Escape through skill. don't escape through ignorance. If you want peace, then let it be the peace of wisdom. That's enough!

Do vậy, dù bạn đã tu tập đến đâu, đừng để tâm nghi ngờ về điều đó. Dù chúng ta có bỏ nhà xuất gia chạy đến chùa để tu, thì việc đó không nên là sự chạy trốn để bị lạc vào sự ngu mờ, ngu si. Cũng không nên là vì sợ chết hay sợ sệt gì đó mà bỏ nhà đi tu. Sự bỏ nhà đi tu là để tu sửa cái tâm, để huấn luyện cái tâm, để có thể làm chủ được chính mình. Nếu hiểu như vậy thì mới nên đi tu, thì mới có thể tu tập theo Giáo Pháp. Giáo Pháp sẽ càng ngày càng rõ ràng hơn. Người hiểu biết Giáo Pháp, thì hiểu biết chính mình; người hiểu biết chính mình, thì hiểu biết Giáo Pháp. Thời nay, thấy thì chỉ có những điển tích (kinh điển) vô tri vô giác của Giáo Pháp trở thành những quy tắc được chấp nhận. Nhưng đúng thực thì Giáo Pháp có mặt khắp nơi (chứ không phải chỉ ở trong kinh điển hay theo kinh điển). Không cần phải trốn chạy đến nơi nào khác. Thay vì vậy, nên trốn chạy bằng trí tuệ. Trốn chạy bằng trí khôn. Trốn chạy bằng kỹ năng tu tập thiện xảo. Đừng chạy trốn bằng sự ngu si, vô minh. Nếu bạn muốn bình an, thì đó nên là sự bình an từ trí tuệ. Như vậy là đủ!

Whenever we see the Dhamma, then there is the right way, the right path. Defilements are just defilements, the heart is just the heart. Whenever we detach and separate so that there are just these things as they really are, then they are merely objects to us. When we are on the right path, then we are impeccable. When we are impeccable, there is openness and freedom all the time.

Khi chúng ta nhìn thấy Giáo Pháp thì sẽ có con đường đúng đắn, có chánh đạo. Những ô nhiễm chỉ là những ô nhiễm. Khi chúng ta quay lưng, tách ly khỏi chúng, thì những ô nhiễm chỉ là những ô nhiễm, như chúng đích thực là, lúc đó chúng chỉ đơn thuần là những đối tượng đối với chúng ta mà thôi. Khi chúng ta ở trên đường chánh đạo, chúng ta khó bị lầm lẫn hay dính nhiễm, ta đi thênh thang và tự do mọi lúc mọi nơi.

The Buddha said, ''Listen to me, Monks. You must not cling to any dhammas''. What are these dhammas? They are everything; there isn't anything which is not dhamma. Love and hate are dhammas, happiness and suffering are dhammas, like and dislike are dhammas; all of these things, no matter how insignificant, are dhammas. When we practice the Dhamma, when we understand, then we can let go. And thus we can comply with the Buddha's teaching of not clinging to any dhammas.

Phật dạy: "Này các Tỳ kheo. Các thầy đừng dính vào bất kỳ pháp nào". Ở đây các pháp (dhamma) nghĩa là gì?. Các pháp là tất cả mọi hiện tượng, mọi thứ, mọi sự thể; không có thứ gì không phải là pháp. Yêu và ghét là các pháp, sướng và khổ là các pháp, thích và ghét là các pháp; tất cả mọi sự, tất cả mọi thứ, dù có nghĩa hay vô nghĩa, đều là các pháp. Khi chúng ta tu tập Giáo Pháp, khi chúng ta hiểu biết, thì chúng ta buông bỏ. Và như vậy chúng ta có thể tu theo giáo lý của Phật là không dính chấp vào bất kỳ pháp nào.

All conditions that are born in our heart, all conditions of our mind, all conditions of our body, are always in a state of change. The Buddha taught not to cling to any of them. He taught his disciples to practice in order to detach from all conditions and not to practice in order to attain to any more.

Tất cả mọi trạng thái đều sinh ra từ tâm này của chúng ta, đó là những trạng thái của tâm, chúng luôn luôn ở trong trạng thái biến đổi. Đức Phật dạy không dính vào bất kỳ trạng thái nào trong đó. Phật dạy các học trò phải tách ly, quay lưng lại, không dính chấp vào tất cả những trạng thái đó và không tu tập (với mục đích, với tham chấp) để đạt đến bất kỳ trạng thái nào trong đó.

If we follow the teachings of the Buddha, then we are right. We are right but it is also troublesome. It's not that the teachings are troublesome, but it's our defilements which are troublesome. The defilements wrongly comprehended obstruct us and cause us trouble. There isn't really anything troublesome with following the Buddha's teaching. In fact we can say that clinging to the path of the Buddha doesn't bring suffering, because the path is simply ''let go'' of every single dhamma!

Nếu chúng ta tu theo lời dạy của Phật, chúng ta đi đúng. Chúng ta đi đúng đắn nhưng cũng sẽ gặp rắc rối. Không phải giáo lý của Phật là sai, là gây rắc rối, nhưng những ô nhiễm của chúng ta gây rắc rối, trở ngại. Những ô nhiễm chưa được nhìn thấy một cách đúng đắn, những ô nhiễm từ lâu làm mờ mắt tâm ta, mới gây ra rắc rối cho chúng ta. Rắc rối từ ô nhiễm của chúng ta chẳng liên quan gì đến giáo lý của Phật. (Mà giáo lý của Phật là để dạy cách xử lý và tu sửa và tiêu diệt những ô nhiễm đó). Chúng ta có thể nói như vầy, nếu bạn dính líu vào con đường đạo của Phật thì không gây ra khổ, bởi con đường đạo đó đơn giản là sự "buông bỏ" tất cả mọi thứ, tất cả mọi sự, tất cả mọi trạng thái, tất cả mọi pháp!

For the ultimate in the practice of Buddhist meditation, the Buddha taught the practice of ''letting go''. Don't carry anything around! Detach! If you see goodness, let it go. If you see rightness, let it go. These words, ''let go'', do not mean that we don't have to practice. It means that we have to practice following the method of ''letting go'' itself. The Buddha taught us to contemplate all dhammas, to develop the path through contemplating our own body and heart. The Dhamma isn't anywhere else. It's right here! Not someplace far away. It's right here in this very body and heart of ours.

Tận cùng ý nghĩa rốt ráo của việc tu tập thiền Phật giáo, Phật đã dạy đó là tu tập sự "buông bỏ". Đừng dính thứ gì. Đừng mang thứ gì! Tách ly! Buông bỏ!. Thấy điều gì sai, buông bỏ. Thấy điều gì đúng, buông bỏ. Thấy tốt, buông bỏ. Chữ "buông bỏ" không có nghĩa là chỉ buông bỏ chứ không tu tập gì. Buông bỏ đâu dễ làm như bạn nghĩ. Buông bỏ đòi hỏi một sự tu tập cả đời. Nó có nghĩa là ta phải tu tập theo phương pháp "buông bỏ". Đức Phật đã dạy bài bản rằng chúng ta phải quán xét về tất cả mọi pháp (dhamma) để phát triển con đường đạo bằng cách quán xét (xem xét, điều tra, tìm hiểu, quán chiếu, quán niệm đều có một nghĩa thực hành ở đây) về thân và tâm của chúng ta. Giáo Pháp là ngay ở chỗ này, không phải ở đâu xa. Nó ở ngay đây!. (Tu tập theo Phật Pháp là quán xét ngay bên trong thân và tâm của mình để nhìn thấy sự thật của mọi sự sống). Nó ở ngay bên trong cái thân này và tâm này của chúng ta.

Therefore a meditator must practice with energy. Make the heart grander and brighter. Make it free and independent. Having done a good deed, don't carry it around in your heart, let it go. Having refrained from doing an evil deed, let it go. The Buddha taught us to live in the immediacy of the present, in the here and now. Don't lose yourself in the past or the future.

Do vậy, các thiền sinh phải tu tập một cách nhiệt thành. Làm cho tâm mở rộng hơn và sáng tỏ hơn. Làm cho tâm được tự do và độc lập. Làm một việc thiện (công đức), đừng mang nó theo trong tâm. Kiêng cữ né tránh được việc ác, đừng mang theo việc đó trong tâm. Buông bỏ hết. Phật dạy chúng ta sống ngay trong giây phút hiện tại, ngay bây giờ và tại đây. Đừng để mình lạc vào quá khứ hay tương lai.

The teaching that people least understand and which conflicts the most with their own opinions, is this teaching of ''letting go'' or ''working with an empty mind''. This way of talking is called ''Dhamma language''. When we conceive this in worldly terms, we become confused and think that we can do anything we want. It can be interpreted this way, but its real meaning is closer to this: It's as if we are carrying a heavy rock. After a while we begin to feel its weight but we don't know how to let it go. So we endure this heavy burden all the time. If someone tells us to throw it away, we say, ''If I throw it away, I won't have anything left!'' If told of all the benefits to be gained from throwing it away, we wouldn't believe them but would keep thinking, ''If I throw it away, I will have nothing!'' So we keep on carrying this heavy rock until we become so weak and exhausted that we can no longer endure, then we drop it.

Giáo lý mà người ta ít hiểu biết nhất, làm đối nghịch với ý kiến của nhiều người nhất, có lẽ là giáo lý về sự "buông bỏ", tức là sự "làm bằng một cái tâm trống rỗng". Nói như vầy là nói theo "ngôn ngữ Giáo Pháp". Nói theo cách thông thường thì như vầy: giống ta mang vác một tảng đá nặng. Sau một lúc thấy mệt nhưng không biết cách buông bỏ nó. Vì vậy, cứ chịu đựng gánh nặng đó cả đời. Nếu ai đó kêu ta bỏ nó đi, ta lại nói nếu bỏ đi thì ta chẳng có gì. Nếu ai đó phân tách chỉ ra cho ta những lợi lạc có được sau khi 'giục' bỏ tảng đá đó đi, ta vẫn không chịu tin, cứ nghĩ rằng "nếu giục tảng đá đi, ta chẳng còn có gì". Vậy là ta cứ mang vác gánh nặng đó cả đời cho đến khi ta mệt, yếu, bệnh và kiệt sức, không còn chịu được nữa, thì lúc đó mới chịu buông bỏ nó.

Having dropped it, we suddenly experience the benefits of letting go. We immediately feel better and lighter and we know for ourselves how much of a burden carrying a rock can be. Before we let go of the rock, we couldn't possibly know the benefits of letting go. So if someone tells us to let go, an unenlightened man wouldn't see the purpose of it. He would just blindly clutch at the rock and refuse to let go until it became so unbearably heavy that he just had to let go. Then he can feel for himself the lightness and relief and thus know for himself the benefits of letting go. Later on we may start carrying burdens again, but now we know what the results will be, so we can now let go more easily. This understanding that it's useless to carry burdens around and that letting go brings ease and lightness is an example of knowing ourselves.

Nêu chịu buông bỏ nó, ta sẽ lập tức trải nghiệm một cảm giác dễ chịu và giải thoát tuyệt vời, đó là những lợi lạc có được từ sự buông bỏ. Lập tức cảm thấy nhẹ hơn, tốt hơn, nhìn ra sự mang vác gánh nặng đó là khổ sở như thế nào. Trước khi quăng bỏ tảng đá có lẽ ta chưa biết được những lợi lạc của việc quăng bỏ nó đi. Do vậy, nếu có ai khuyên ta buông bỏ, một kẻ ngu si chưa giác ngộ như ta có thể sẽ không nghe theo, vì không nhìn ra sự lợi lạc của việc buông bỏ. Ta cứ mù quáng và cố chấp mang vác những gánh nặng suốt đời, cho đến khi nó quá nặng không còn chịu được nữa, ta mới chịu buông bỏ. (Còn tốt hơn một số người vẫn không chịu buông bỏ thứ gì ngay cả khi đang nằm chờ chết trong phút chốc trên gường bệnh).

Nhiều gánh nặng ta cứ cố chấp mang vác cho đến khi kiệt sức mới chịu buông bỏ, thì dù đã muộn, nhưng ta vẫn trải nghiệm được sự lợi lạc và tự do sau khi buông bỏ nó. (Trễ vẫn còn hơn không). Đó là kinh nghiệm ta cần phải học. Lần sau, khi ta phải gánh vác những gánh nặng khác, ta hãy nhớ lại kinh nghiệm đó, và nhờ đó ta có thể quyết định buông bỏ sớm hơn, dễ hơn.

Our pride, our sense of self that we depend on, is the same as that heavy rock. Like that rock, if we think about letting go of self-conceit, we are afraid that without it, there would be nothing left. But when we can finally let it go, we realize for ourselves the ease and comfort of not clinging.

Cái tự ngã, cái cảm nhận về cái 'ta' của chúng ta, cũng giống như tảng đá nặng đó. (Phật cũng nói đó là một trong những cái gông cùm ta mang suốt đời, suốt bao đời, cho đến khi giác ngộ mới hết). Cũng như tảng đá, khi chúng ta nghĩ mình phải 'giục bỏ' cái tự ngã là 'ta', là cái 'của ta', thì mình sẽ còn gì cả. (Người đời sợ mình sẽ không còn một cái 'ta' hay một 'linh hồn ta' trong thân thể này, và nếu vậy thì mình là 'ai' bây giờ. Phật đã không trả lời thẳng câu hỏi này). Nhưng nếu chúng ta chịu buông bỏ cái 'ta', chúng ta sẽ lập tức trải nghiệm một sự nhẹ nhàng, thanh thản, hạnh phúc có được từ sự buông bỏ đó; giống như sự nhẹ nhàng, sảng khoái và sung sướng sau khi đã bỏ đi tảng đá nặng. Đó là niềm hạnh phúc có được từ sự từ bỏ, từ bỏ sự dính chấp.

In the training of the heart, you mustn't cling to either praise or blame. To just want praise and not to want blame is the way of the world. The Way of the Buddha is to accept praise when it is appropriate and to accept blame when it is appropriate. For example, in raising a child it's very good not to just scold all the time. Some people scold too much. A wise person knows the proper time to scold and the proper time to praise. Our heart is the same. Use intelligence to know the heart. Use skill in taking care of your heart. Then you will be one who is clever in the training of the heart. And when the heart is skilled, it can rid us of our suffering. Suffering exists right here in our hearts. It's always complicating things, creating and making the heart heavy. It's born here. It also dies here.

Khi tu tập cái tâm, bạn không nên dính chấp vào những điều khen chê. Thế gian ai cũng muốn được khen và muốn không bị chê. Cách của đạo của Phật là chấp nhận khen nếu đó là phù hợp, chấp nhận chê nếu đó là đúng. Ví dụ, khi nuôi dạy trẻ con, tốt nhất là đừng chửi mắng con nhiều. Nhiều người cứ chửi mắng rổn rảng cả ngày. Bậc hiền trí thì biết lúc nào nên la rầy, lúc nào nên khen. Tâm chúng ta cũng vậy. Hãy dùng trí khôn để biết tâm. Dùng kỹ năng thiện khéo để chăm sóc tâm. Thì sau đó bạn sẽ trở thành người khôn khéo trong việc chăm dạy tâm. Và khi tâm được khôn khéo, nó có thể trừ bỏ những khổ đau cho chúng ta. Khổ đau nằm ngay bên trong tâm này của chúng ta. Những khổ đau là phức tạp, nó tạo ra những trạng thái tâm và làm cho tâm nặng nề. Khổ đau sinh ra từ trong tâm này. Nó cũng chết tại trong tâm này. Diệt trừ khổ là diệt trừ tại tâm này.

The way of the heart is like this. Sometimes there are good thoughts, sometimes there are bad thoughts. The heart is deceitful. Don't trust it! Instead look straight at the conditions of the heart itself. Accept them as they are. They're just as they are. Whether it's good or evil or whatever, that's the way it is. If you don't grab hold of these conditions, then they don't become anything more or less than what they already are. If we grab hold we'll get bitten and will then suffer.

Cách của tâm là như vầy. Lúc có ý nghĩ tốt, lúc có ý nghĩ xấu. Lúc nghĩ này, lúc nghĩ nọ. Bản chất của tâm là đánh lừa. Đừng tin vào nó!. Thay vì vậy, ta chỉ cần nhìn thẳng vào những trạng thái của tâm. Cứ nhận biết những trạng thái đó như chúng là. Dù nó có tốt, xấu, hay gì gì đi nữa, đó là cách của nó, nó là vậy. Nếu ta chấp nê hay dính líu theo những trạng thái tâm đó, chúng sẽ trở thành này nọ, nhiều hơn, ít hơn, tốt hơn, xấu hơn, dễ chịu hơn, khó chịu hơn... hơn là mức độ đích thực như-chúng-là của chúng. Nếu chúng ta dính chấp vào chúng, ta cứ như bị cắn và do vậy ta cảm thấy khổ. (Ví như con chó nhà bên cứ sủa, ta không cần để ý nó làm gì. Nhưng nếu chúng ta không bỏ qua, cứ lắng nghe và bực tức, ta sẽ khổ vì nó. Mặc dù nó không hề biết hay cố ý làm ta khổ. Khổ là do ta dính chấp vào tiếng sủa của nó).

With ''right view'' there's only peace. Samādhi is born and wisdom takes over. Wherever you may sit or lie down, there is peace. There is peace everywhere, no matter where you may go.

Nếu có cách nhìn đúng (chánh kiến) thì chỉ có sự bình an. Rồi chánh định (samādhi) được sinh ra và trí tuệ có mặt. Dù ta đang ngồi hay nằm, luôn có sự bình an. Bình an khắp nơi, dù ta đang ở đâu.

So today you have brought your disciples here to listen to the Dhamma. You may understand some of it, some of it you may not. In order for you to understand more easily, I've talked about the practice of meditation. Whether you think it is right or not, you should take and contemplate it.

Do vậy hôm nay các vị đệ tử đến đây để nghe Giáo Pháp. Các vị có thể hiểu ít nhiều, có cái chưa hiểu. Để các vị hiểu dễ dàng hơn, tôi nói về việc tu tập thiền. Dù bạn có nghĩ thiền là đúng hay sai, bạn hãy nên thử tập và suy xét về nó.

As a teacher myself, I've been in a similar predicament. I, too, have longed to listen to Dhamma talks because, wherever I went, I was giving talks to others but never had a chance to listen. So, at this time, you really appreciate listening to a talk from a teacher. Time passes by so quickly when you're sitting and listening quietly. You're hungry for Dhamma so you really want to listen. At first, giving talks to others is a pleasure, but after awhile, the pleasure is gone. You feel bored and tired. Then you want to listen. So when you listen to a talk from a teacher, you feel much inspiration and you understand easily. When you are getting old and there's hunger for Dhamma, its flavor is especially delicious.

Là một người thầy, tôi cũng đã từng ở trong hoàn cảnh của các bạn. Tôi cũng thèm nghe Giáo Pháp, vì tôi đi đâu cũng giảng về Giáo Pháp nhưng tôi không có cơ hội nghe Giáo Pháp. Do vậy, giờ quý vị thực sự lắng nghe từ một sư thầy. Thời gian qua nhanh khi quý vị đang ngồi và nghe. Quý vị đói Giáo Pháp nên quý vị muốn nghe. Trước tiên, nói Giáo Pháp (pháp thí) cho người khác là một niềm vui, nhưng ngay sau đó, niềm vui cũng không còn. Vì thấy quý vị bắt đầu mệt mỏi và chán. Khi quý vị thực sự muốn nghe thì quý vị mới dễ nghe và dễ hiểu những lời giảng. Khi nào già đi, người ta thường thèm nghe Giáo Pháp hơn, vì của nó lúc đó thấm hơn, ngon hơn.

Being a teacher of others you are an example to them, you're a model for other bhikkhus. You're an example to your disciples. You're an example to everybody, so don't forget yourself. But don't think about yourself either. If such thoughts do arise, get rid of them. If you do this then you will be one who knows himself.

Khi làm một sư thầy, các thầy làm gương của họ, làm người tu hành gương mẫu cho những tăng ni và Phật tử khác. Các thầy là tấm gương của các học trò đệ tử của mình. Lúc đó, các thầy không còn nghĩ về mình nữa. Các thầy làm gương cho mọi người noi theo, vì vậy đừng quên chính mình. Đừng nghĩ gì cho mình, nhưng đừng quên chính mình. (Đừng nghĩ mình là sư thầy, là tấm gương, là cao tăng. Chỉ cần đừng quên chính mình thì mình sẽ tự trở thành người chân tu và là tấm gương cho các Phật tử noi theo). Nếu những ý nghĩ mình là này là nọ có khởi sinh, bỏ qua nó. Nếu làm như vậy, các thầy sẽ trở thành người hiểu biết đúng về mình.

There are a million ways to practice Dhamma. There's no end to the things that can be said about meditation. There are so many things that can make us doubt. Just keep sweeping them out, then there's no more doubt! When we have right understanding like this, no matter where we sit or walk, there is peace and ease. Wherever we may meditate, that's the place you bring your awareness. Don't hold that one only meditates while sitting or walking. Everything and everywhere is our practice. There's awareness all the time. There is mindfulness all the time. We can see birth and death of mind and body all the time and we don't let it clutter our hearts. Let it go constantly. If love comes, let it go back to its home. If greed comes, let it go home. If anger comes, let it go home. Follow them! Where do they live? Then escort them there. Don't keep anything. If you practice like this then you are like an empty house. Or, explained another way, this is an empty heart, a heart empty and free of all evil. We call it an ''empty heart'', but it isn't empty as if there was nothing, it's empty of evil but filled with wisdom. Then whatever you do, you'll do with wisdom. You'll think with wisdom. You'll eat with wisdom. There will only be wisdom.

Có cả triệu cách để tu tập Giáo Pháp. Nói về thiền tập thì nói không bao giờ hết (vì đó chỉ là mượn ngôn ngữ để giảng bày, chứ đâu phải đích thực là sự tu tập và nhìn thấy đâu mà nó đơn giản). Có quá nhiều điều khi nói bằng lời có thể làm chúng ta nghi ngờ. Cứ dẹp sạch hết mọi điều, lúc đó bạn sẽ hết nghi ngờ! Khi bạn hiểu được nguyên lý chỗ này, tức hiểu biết đúng đắn nguyên lý chỗ này, thì dù bạn đang ngồi hay đi, bạn vẫn có sự bình an. Khi bạn ngồi thiền, đó là lúc là nơi mang lại sự tỉnh giác của bạn. Nhưng không phải chỉ có lúc ngồi thiền, mọi chỗ mọi lúc đều là nơi tu tập. Sự tỉnh giác có thể có mặt mọi lúc và trong mọi tư thế. Sự chánh niệm cũng vậy. Chúng ta có thể thấy rõ mọi sự sinh-diệt của thân và tâm mọi lúc, và chúng ta không tích giữ chúng lại trong tâm. Bỏ qua, liên tục buông bỏ mọi thứ sinh-diệt. Nếu thương đến, cứ quay về lại tâm. Nếu tham đến, cứ quay lại tâm. Nếu sân đến, cứ quay lại tâm. Nếu chúng đi, cứ tiễn chúng đi, không giữ lại gì hết. Quay về lại tâm. Nhìn mọi sự đến, quay về lại nhà. Nhìn mọi sự đi, quay về lại nhà. Cứ tu như vậy, rồi bạn sẽ trở thành một ngôi nhà trống không. Hoặc nói theo cách khác, đây là cái tâm trống không, một cái tâm trống không và không còn một thứ ô nhiễm, bất thiện nào. Chúng ta gọi là một "cái tâm trống không", nhưng nó không phải là trống không theo nghĩa là "không có gì", nó trống không theo nghĩa là "không còn chút ô nhiễm nào", nhưng chứa đầy trí tuệ. Như vậy bạn làm gì, bạn làm với trí tuệ. Bạn nghĩ bằng trí tuệ. Ở đó chỉ có trí tuệ.

This is the teaching for today and I offer it to you. I've recorded it on tape. If listening to Dhamma makes your heart at peace, that's good enough. You don't need to remember anything. Some may not believe this. If we make our heart peaceful and just listen, letting it pass by but contemplating continuously like this, then we're like a tape recorder. After some time when we turn on, everything is there. Have no fear that there won't be anything. As soon as you turn on your tape recorder, everything is there.

Đây là giáo lý hôm nay tôi nói với các thầy. Tôi có thu âm lại trong băng ghi âm. Nếu việc nghe Giáo Pháp giúp tâm bạn thấy bình an, như vậy cũng đủ rồi. Các thầy không cần phải nhớ lấy điều gì cả. Một số các thầy có thể không tin những giáo lý này. Nếu các thầy muốn làm cho tâm bình an, chỉ cần lắng nghe, nghe xong cứ để mọi điều trôi qua, đừng cố nghiền ngẫm, suy gẫm, ôn nhớ những điều lý thuyết, nếu làm vậy thì chẳng khác gì cái băng ghi âm. Khi nào cần, cứ bật lên lại, mọi thứ vẫn còn đó (không cần phải liên tục ôn nhớ, chạy theo tất cả những gì đã nghe). Đừng sợ lâu ngày sẽ không có gì trong băng. Khi nào cần bật lên, mọi thứ đã ở trong đó.

I wish to offer this to every bhikkhu and to everyone. Some of you probably know only a little Thai, but that doesn't matter. May you learn the language of the Dhamma. That's good enough!

Tôi muốn gửi bài giáo lý này đến các vị Tỳ kheo và mọi người. Một số các thầy ở đây chỉ biết sơ sơ tiếng Thái mà tôi đang nói, nhưng điều đó không sao. Các thầy có thể học được ngôn ngữ của Giáo Pháp. Như vậy là đủ rồi!.



Chương 44

THE WAVE ENDS - QUESTIONS AND ANSWERS WITH AJAHN CHAH 

– SÓNG NGỪNG

Question:

There are those periods when our hearts happen to be absorbed in things and become blemished or darkened, but we are still aware of ourselves; such as when some form of greed, hatred, or delusion comes up. Although we know that these things are objectionable, we are unable to prevent them from arising. Could it be said that even as we are aware of them, this is providing the basis for increased clinging and attachment and maybe is putting us further back to where we started from?

Answer:

That's it! One must keep knowing them at that point, that's the method of practice.

Câu hỏi:

Có những giai đoạn khi tâm của chúng ta vẫn còn ô nhiễm hay tăm tối, nhưng chúng ta vẫn ý thức được về chính mình; chẳng hạn như khi những dạng tham, sân, hay si khởi lên. Mặc dù chúng ta biết những dạng đó là đáng bị loại bỏ, nhưng chúng ta không có khả năng ngăn phòng chúng khởi sinh. Có thể nói như vầy không: ngay cả khi chúng ta ý thức biết rõ về chúng, nhưng điều đó vẫn tạo cơ sở để gia tăng những dính chấp và ràng buộc, và có thể đẩy lùi chúng ta trở lại từ chỗ bắt đầu?

Trả lời:

Đúng vậy! Người tu cần biết rõ chúng ngay chỗ đó, đó là cách tu tu tập.

Q:

I mean that simultaneously we are both aware of them and repelled by them, but lacking the ability to resist them, they just burst forth.

Câu hỏi:

Ý con là trong cùng một lúc chúng ta vừa ý thức (tỉnh giác) về chúng ngay khi bị chúng tấn công, nhưng ta thiếu khả năng chống lại chúng, chúng cứ bùng lên.

A:

By then, it's already beyond one's capability to do anything. At that point one has to readjust oneself and then continue contemplation. Don't just give up on them there and then. When one sees things arise in that way one tends to get upset or feel regret, but it is possible to say that they are uncertain and subject to change. What happens is that one sees these things are wrong, but one is still not ready or able to deal with them. It's as if they are independent entities, the leftover karmic tendencies that are still creating and conditioning the state of the heart. One doesn't wish to allow the heart to become like that, but it does and it indicates that one's knowledge and awareness is still neither sufficient nor fast enough to keep abreast of things.

Vào lúc này thì đã quá khả năng của người tu. Ngay chỗ đó, người tu phải điều chỉnh lại chính mình và tiếp tục quán niệm. Đừng đầu hàng chúng ngay tại đó. Khi người tu thấy chúng khởi sinh như vậy, người tu thường có xu hướng thất vọng hay tiếc bỏ, nhưng có thể nói rằng chúng là không chắc chắn, và luôn biến đổi. Điều xảy ra là người tu nhìn thấy những dạng (tham, sân, si) đó là sai, nhưng người tu vẫn chưa sẵn sàng hoặc chưa có khả năng để xử lý chúng. Trông có vẻ như chúng là những thực thể độc lập, những hơi hướng tàn dư của nghiệp vẫn còn đang tạo tác và tác động trạng thái tâm. Người tu không mong muốn tâm mình bị như vậy, nhưng tâm vẫn còn bị (tạo tác) và điều đó cho thấy rằng sự hiểu biết (tri kiến) và khả năng ý thức (tỉnh giác) của người tu vẫn còn chưa đủ hoặc chưa đủ nhanh để bắt kịp mọi sự diễn ra.
One must practice and develop mindfulness as much as one can in order to gain a greater and more penetrating awareness. Whether the heart is soiled or blemished in some way, it doesn't matter, whatever comes up one should contemplate the impermanence and uncertainty of it. By maintaining this contemplation at each instant that something arises, after some time one will see the impermanent nature inherent in all sense objects and mental states. Because one sees them as such, gradually they will lose their importance and one's clinging and attachment to that which is a blemish on the heart will continue to diminish. Whenever suffering arises one will be able to work through it and readjust oneself, but one shouldn't give up on this work or set it aside.

Người tu cần phải tập luyện và phát triển khả năng chánh niệm càng nhiều càng tốt để đạt đến một sự tỉnh giác lớn mạnh hơn và xuyên thấu hơn. Dù cho tâm có còn bị dính dơ hay ô nhiễm cách nào đó, khi có gì khởi sinh người tu phải quán niệm về sự vô thường và sự không chắc chắn của nó. Bằng cách duy trì sự quán niệm ngay khoảng khắc mọi sự khởi sinh, thì sau đó một chốc người tu sẽ thấy được cái bản chất vô thường cố hữu bên trong tất cả mọi đối tượng giác quan và mọi trạng thái của tâm. Bởi nhờ người tu đã nhìn thấy chúng đúng thực là vậy, cho nên người tu không còn coi trọng chúng, và nhờ đó sự dính mắc và ràng buộc theo chúng [vốn là sự ô nhiễm trong tâm] sẽ dần dần biến giảm. Khi có khổ khởi sinh, người tu sẽ khả năng xử lý nó đến cuối cùng và điều chỉnh lại mình, chứ không nên đầu hàng hay gác bỏ việc đó qua một bên.

One must keep up a continuity of effort and try to make one's awareness fast enough to keep in touch with the changing mental conditions. It could be said that so far one's development of the Path still lacks sufficient energy to overcome the mental defilements. Whenever suffering arises the heart becomes clouded over, but one must keep developing that knowledge and understanding of the clouded heart; that is what one reflects on.

Người tu phải duy trì một sự liên tục nỗ lực và cố tập luyện cho được một sự tỉnh- giác đủ nhanh bén để theo kịp những trạng thái thay đổi liên tục của tâm. Ngay câu hỏi này có thể nói rằng: đến lúc này sự tu tập phát triển con đường Đạo của người tu vẫn còn thiếu năng lượng để vượt qua những ô nhiễm của tâm. Khi nào khổ khởi sinh, tâm liền bị che mờ, nhưng người tu phải duy trì phát triển sự-biết và sự-hiểu về cái tâm đang bị che mờ đó; đó là chỗ người tu cần phải suy xét quán chiếu.
One must really take hold of it and repeatedly contemplate that this suffering and discontentment is just not a sure thing. It is something that is ultimately impermanent, unsatisfactory, and not-self. Focusing on these three characteristics, whenever these conditions of suffering arise again one will know them straightaway, having experienced them before.

Người tu cần phải nắm vững chỗ này và liên tục quán niệm rằng sự khổ và sự bất toại nguyện chỉ là những điều không chắc chắn. Cuối cùng rồi chúng cũng chỉ đích thực là vô thường, khổ, và vô ngã. Tập trung vào ba đặc tính này, hễ khi nào những trạng thái khổ khởi sinh trở lại, người tu biết rõ chúng ngay, nhờ đã trải nghiệm và hiểu biết rõ về chúng trước đó.
Gradually, little by little, one's practice should gain momentum and as time passes, whatever sense objects and mental states arise will lose their value in this way. One's heart will know them for what they are and accordingly put them down. Having reached the point where one is able to know things and put them down with ease, they say that the path has matured internally and one will have the ability to swiftly bear down upon the defilements. From then on there will just be the arising and passing away in this place, the same as waves striking the seashore. When a wave comes in and finally reaches the shoreline, it just disintegrates and vanishes; a new wave comes and it happens again - the wave going no further than the limit of the shoreline. In the same way, nothing will be able to go beyond the limits established by one's own awareness.

Dần dà, từng chút từng bước, sự tu tập của một người sẽ đạt đến cái đà, và mỗi thời gian trôi qua, bất cứ những đối tượng giác quan và trạng thái tâm nào khởi sinh đều sẽ bị mất giá trị theo cách như vậy. (Người tu bắt kịp mọi sự, nhìn thấy chúng và buông bỏ; không còn coi chúng là thứ gì quan trọng hay giá trị nữa). Tâm của người tu sẽ hiểu biết chúng đích thực là gì, và do vậy buông bỏ chúng. Sau khi đã đạt đến trình độ mà người tu có thể hiểu biết mọi sự và buông bỏ chúng dễ dàng, ta có thể nói rằng con đường đạo đã chín chắn từ bên trong, và người tu sẽ có khả năng xử lý thuận lợi những ô nhiễm trong tâm. Kể từ lúc đó chỉ còn lại sự khởi sinh và biến diệt ngay tại chỗ này, giống như những cơn sóng vỗ lên bờ rồi biến mất. Khi sóng biển khởi sinh và vỗ lên bờ, nó tan rã và biến mất; con sóng mới lại khởi lên xô vào bờ và tan rã biến mất – sóng chỉ là vậy, nó xô đến đường bờ và tan biến, nó đâu vượt qua khỏi bờ biển. Tương tự như vậy, chẳng có gì còn có thể vượt qua những giới hạn đã được thiết lập bởi sự tỉnh giác của người tu lúc này.
That's the place where one will meet and come to understand impermanence, unsatisfactoriness and not-self. It is there that things will vanish - the three characteristics of impermanence, unsatisfactoriness and not self are the same as the seashore, and all sense objects and mental state that are experiences go in the same way as the waves. Happiness is uncertain, it's arisen many times before. Suffering is uncertain, it's arisen many times before; that's the way they are. In one's heart one will know that they are like that, they are ''just that much''. The heart will experience these conditions in this way and they will gradually keep losing their value and importance. This is talking about the characteristics of the heart, the way it is, it is the same for everybody, even the Buddha and all his disciples were like this.

Đó là chỗ nơi người tu sẽ gặp và đi đến hiểu biết cái lẽ vô thường, khổ, và vô ngã. Đó là chỗ mọi thứ biến mất – ba đặc tính vô thường, khổ, và vô ngã giống như bờ biển, và tất cả mọi đối tượng giác quan và trạng thái tâm thì giống như những con sóng vậy. Sướng là không chắc chắn, nó đã khởi sinh quá nhiều trước giờ. Khổ là không chắc chắn, nó đã khởi sinh quá nhiều trước giờ; chúng chỉ là vậy. Trong tâm người tu người tu biết rõ chúng chỉ là như vậy, cùng lắm chúng chỉ là "vậy thôi". Tâm hiểu và nó sẽ trải nghiệm những tình trạng đó theo cách như vậy, và nhờ đó mọi thứ dần dần mất đi giá trị của chúng; tâm không còn coi trọng chúng là 'gì' nữa, tâm biết rõ chúng chỉ là thứ sinh-diệt, là thứ có rồi mất mà thôi. Đây là đang nói về những tính chất của cái tâm trong giai đoạn này, cách của cái tâm trong giai đoạn này; những đặc tính này của tâm trong giai đoạn này của mọi người tu là tương tự như nhau, ngay cả Phật và các vị thánh đệ tử cũng vậy.
If one's practice of the Path matures it will become automatic and it will no longer be dependent on anything external. When a defilement arises, one will immediately be aware of it and accordingly be able to counteract it. However, that stage when they say that the Path is still not mature enough nor fast enough to overcome the defilements is something that everybody has to experience - it's unavoidable. But it is at that point where one must use skillful reflection. Don't go investigating elsewhere or trying to solve the problem at some other place. Cure it right there. Apply the cure at that place where things arise and pass away. Happiness arises and then passes away, doesn't it? Suffering arises and then passes away, doesn't it? One will continuously be able to see the process of arising and ceasing, and see that which is good and bad in the heart. These are phenomena that exist and are part of nature. Don't cling tightly to them or create anything out of them at all.
If one has this kind of awareness, then even though one will be coming into contact with things, there will not be any noise. In other words, one will see the arising and passing away of phenomena in a very natural and ordinary way. One will just see things arise and then cease. One will understand the process of arising and ceasing in the light of impermanence, unsatisfactoriness, and not-self.

Nếu sự tu tập con đường Đạo đã chính chắn, thì nó sẽ tự động diễn tiến như vậy, và nó không còn tùy thuộc tùy duyên theo bất cứ thứ gì từ bên ngoài. Khi có ô nhiễm nào khởi sinh, người tu lập tức tỉnh giác về nó và do vậy có thể xử lý nó ngay. Tuy nhiên, như chỗ câu hỏi ở đây, giai đoạn khi sự tu tập của người tu chưa đủ chín chắn hoặc chưa đủ nhanh nhạy để vượt qua những ô nhiễm là giai đoạn người tu nào cũng phải trải qua – đó là đoạn đường không thể tránh được. Nhưng ngay chỗ đó người tu cần phải dùng sự suy xét quán chiếu một cách khôn khéo. Đừng có đi suy xét điều tra ở chỗ nào khác hoặc cố giải quyết vấn đề ở chỗ khác. Điều trị ngay chỗ đó. Áp dụng trị liệu vào ngay chỗ mọi sự khởi sinh và biến qua. Sướng khởi sinh và biến qua, đúng không? Khổ khởi sinh và biến qua, đúng không? Người tu sẽ tiếp tục có khả năng nhìn thấy cái tiến trình sinh-diệt, và nhìn thấy thứ tốt và thứ xấu trong tâm này. Đây là những hiện tượng xảy ra và chúng là một phần của tự nhiên. Đừng dính theo chúng, đừng tạo tác điều gì vì chúng. Nếu người tu có được loại tỉnh-giác như vậy thì dù có đụng chạm thứ này thứ nọ cũng chẳng gây ra tiếng ồn nào trong tâm. Nói cách khác, người tu sẽ thấy rõ sự sinh-diệt của mọi hiện tượng theo đường lối tự nhiên và bình thường của chúng. Người tu chỉ còn nhìn thấy mọi thứ khởi lên rồi biến mất. Người tu sẽ nhìn thấy tiến trình sinh-diệt dưới ánh sáng của lẽ vô thường, khổ, và vô ngã.
The nature of the Dhamma is like this. When one can see things as ''just that much'', then they will remain as ''just that much''. There will be none of that clinging or holding on - as soon as one becomes aware of attachment it will disappear. There will be just the arising and ceasing and that is peaceful. That it's peaceful is not because one doesn't hear anything; there is the hearing, but one understands the nature of it and doesn't cling or hold on to anything. This is what they mean by peaceful - the heart is still experiencing sense objects, but it doesn't follow or get caught up in them. A division is made between the heart sense objects and the defilements. When one's heart comes into contact with a sense object and there is an emotional reaction of liking, this gives rise to defilement; but if one understands the process of arising and ceasing, then there is nothing that can really arise from it - it will end just there.

Bản chất tự nhiên của Giáo Pháp là như vậy. Khi người tu có thể nhìn thấy mọi thứ "chỉ là vậy thôi" (chỉ là thứ sinh và diệt thôi), thì họ sẽ giữ tâm mình "bình thản như thường vậy thôi". Sẽ không còn dính chấp hay nắm giữ bất cứ sự gì – ngay khi người tu tỉnh giác về một sự dính chấp nào đó, nó tự biến mất ngay. Chỉ còn có sự sinh và diệt, và điều đó thật sự bình an. Điều đó bình an không phải là do không nghe thấy thứ gì; vẫn có sự nghe thấy, nhưng người tu hiểu được bản chất của nó và không còn dính chấp hay nắm giữ bất cứ điều gì. Đây chính là ý nghĩa của sự bình an – tâm vẫn còn trải nghiệm những đối tượng giác quan, nhưng nó không còn chạy theo, không còn dính mắc theo chúng. Có một sự phân cách tách biệt giữa những đối tượng giác quan và những ô nhiễm. Thường thì, khi tâm tiếp xúc với một đối tượng giác quan, có phản ứng thích thì làm khởi sinh sự ô nhiễm; nhưng nếu người tu hiểu biết rõ cái tiến trình khởi sinh-diệt (sự khởi lên và biến mất của sự thích đó), thì đâu còn gì thực sự phát sinh từ trải nghiệm đó – nó sẽ chấm dứt ngay tại đó. (Có sinh thì có diệt ngay đó).

Q:

Does one have to practise and gain samādhi before one can contemplate the Dhamma?

Câu hỏi:

Người tu có cần tu tập để chứng đắc trạng thái định (samādhi) trước khi có thể quán niệm về Giáo Pháp?

A:

Here one can say that's correct from one point of view, but talking about it from the aspect of practice, then paññā has to come first, but following the conventional framework it has to be sīla, samādhi and then paññā. If one is truly practising the Dhamma, then paññā comes first. If paññā is there from the beginning, it means that one knows that which is right and that which is wrong; and one knows the heart that is calm and the heart that is disturbed and agitated. Talking from the scriptural basis, one has to say that the practice of restraint and composure will give rise to a sense of shame and fear of any form of wrong doing that potentially may arise. Once one has established the fear of that which is wrong and one is no longer acting or behaving wrongly, then that which is a wrong will not be present within one. When there is no longer anything wrong present within, this provides the conditions from which calm will arise in its place. That calm forms a foundation from which samādhi will grow and develop over time.

Trả lời:

Ở đây, tùy theo mỗi cách nhìn, người ta có thể nói như vậy là đúng; nhưng nếu nói từ thực tế tu tập, thì phần trí tuệ (paññā) phải đi trước. Nhưng trước giờ theo khuôn khổ truyền thừa kinh điển thì trật tự là Giới, Định, rồi mới đến Tuệ (sīla, samādhi, và paññā). Nếu ai thực sự tu tập từ ban đầu thì trí tuệ (paññā) phải đi trước. Nếu có trí tuệ ngay từ lúc đầu thì có nghĩa là người tu biết được điều đúng và điều sai; và người tu biết được tâm tĩnh lặng là gì và tâm bị động vọng là gì. Nếu nói theo cơ sở kinh điển, ta có thể nói rằng việc tu tập giới hạnh và tính tự trọng sẽ làm khởi sinh loại cảm giác xấu- hỗ và sợ-sệt khi làm bất cứ điều gì sai trái bất thiện. Một khi một người đã thiết lập trong tâm sự sợ-sệt và xấu-hỗ khi làm điều xấu ác và người ấy không còn dính vào điều xấu ác nữa, thì sự xấu ác không còn có mặt bên trong người ấy nữa. Khi không còn sự xấu ác bên trong, điều này sẽ tạo các điều kiện khởi sinh sự tĩnh lặng bên trong tâm. Sự tĩnh lặng đó tạo thành một nền tảng cho sự định tâm (samādhi) khởi sinh và phát triển theo thời gian.
When the heart is calm, that knowledge and understanding which arises from within that calm is called vipassanā. This means that from moment to moment there is a knowing in accordance with the truth, and within this are contained different properties. If one was to set them down on paper they would be sīla, samādhi and paññā. Talking about them, one can bring them together and say that these three dhammas form one mass and are inseparable. But if one was to talk about them as different properties, then it would be correct to say sīla, samādhi and paññā.

Khi tâm được tĩnh lặng, thì sự-thấy và sự-biết khởi sinh từ bên trong sự tĩnh lặng đó được gọi là trí tuệ minh sát (vipassanā). Trí tuệ minh sát có nghĩa là trong từng khoảng khắc trôi qua luôn có một sự thấy biết theo đúng lẽ sự thật, và bên trong trí tuệ minh sát này có chứa những phần tính chất khác nhau. Nếu chúng ta liệt kê ra giấy thì chúng sẽ gồm cả ba phần Giới, Định, và Tuệ (sīla, samādhi, paññā) trong đó. Khi nói về chúng, chúng ta có thể gom chúng lại và nói rằng cả ba phần pháp (dhamma) này tạo thành một và không thể tách rời nhau. Nếu chúng ta nói về chúng như ba loại tính chất khác nhau thì cũng đúng, nếu nói đó là ba phần Giới, Định, và Tuệ (sīla, samādhi, paññā). (Tùy theo cách tổng hợp hay phân tách ra mà thôi. Nếu tổng hợp, chúng chỉ là một, chỉ khác nhau công đoạn trước sau. Nếu phân tách, chúng được gọi là ba phần hay ba mảng như vậy).
However, if one was acting in an unwholesome way, it would be impossible for the heart to become calm. So it would be most accurate to see them as developing together and it would be right to say that this is the way that the heart will become calm. Talking about the practice of samādhi, it involves preserving sīla, which includes looking after the sphere of one's bodily actions and speech, in order not to do anything which is unwholesome or would lead one to remorse or suffering. This provides the foundation for the practice of calm and once one has a foundation in calm this in turn provides a foundation which supports the arising of paññā.
In formal teaching they emphasize the importance of sīla. Ādikalyāna, majjhekalyāna, pariyosānakalyāna - the practice should be beautiful in the beginning, beautiful in the middle and beautiful in the end. This is how it is. Have you ever practised samādhi?

Tuy nhiên, nếu người tu vẫn còn hành vi bất thiện thì hầu như người đó không thể làm cho tâm tĩnh lặng. Bởi vậy, cách đúng đắn nhất là nhìn thấy chúng (ba phần) cùng phát triển với nhau, và sẽ đúng đắn khi nói rằng đây là cách để làm tâm tĩnh lặng. Khi ta nói về phần tu định (samādhi), nó liên quan đến việc giữ giới hạnh (sīla)—đó là việc kiêng giữ những hành vi của thân, như lời nói và hành động, để tránh làm tránh dính vào những điều bất thiện, hoặc tránh làm những điều dẫn đến bất an và khổ đau. Điều này tạo nên một nền tảng cho việc tu tập định (samādhi); và khi người tu đã có được nền tảng định thì đến lượt nó sẽ tạo một nền tảng hỗ trợ cho việc khởi sinh trí tuệ (paññā).

Khi dạy chính thức, người xưa nhấn mạnh tầm quan trọng của giới hạnh (sīla). Như câu: Ādikalyāna, majjhekalyāna, pariyosānakalyāna: sự tu tập đẹp đẽ từ phần đầu, đẹp đẽ ở phần giữa, và đẹp đẽ ở phần cuối. Như vậy đó. Bạn đã từng tu tập thiền định chưa?

Q:

I am still learning. The day after I went to see Tan Ajahn at Wat Keu-an my aunt brought a book containing some of your teaching for me to read. That morning at work I started to read some passages which contained questions and answers to different problems. In it you said that the most important point was for the heart to watch over and observe the process of cause and effect that takes place within. Just to watch and maintain the knowing of the different things that come up.
That afternoon I was practising meditation and during the sitting, the characteristics that appeared were that I felt as though my body had disappeared. I was unable to feel the hands or legs and there were no bodily sensations. I knew that the body was still there, but I couldn't feel it. In the evening I had the opportunity to go and pay respects to Tan Ajahn Tate and I described to him the details of my experience. He said that these were the characteristics of the heart that appear when it unifies in samādhi, and that I should continue practising. I had this experience only once; on subsequent occasions I found that sometimes I was unable to feel only certain areas of the body, such as the hands, whereas in other areas there was still feeling. Sometimes during my practice I start to wonder whether just sitting and allowing the heart to let go of everything is the correct way to practice; or else should I think over and occupy myself with the different problems or unanswered questions concerning the Dhamma, which I still have.

Câu hỏi:

Con vẫn còn đang học hỏi. Sau ngày con đến gặp thầy Tan Ajahn Tate ở chùa Wat Keu-an, dì của con có đưa cho con một quyển sách dạy về các giáo lý để con đọc. Sáng hôm sau đi làm con có giở ra đọc mấy đoạn bao gồm những vấn đáp về những vấn đề khác nhau. Trong đó thầy có nói rằng, điều quan trọng nhất là tâm theo dõi và quan sát tiến trình nhân quả diễn ra bên trong. Chỉ cần quan sát và duy trì sự- biết về mọi sự đang khởi sinh. Chiều hôm sau con ngồi tập thiền và trong khi đang ngồi, có những đặc tính xuất hiện làm con cảm thấy như thể thân của mình đã biến mất. Con không thể cảm giác các tay và chân, không còn một cảm nhận gì về thân cả. Con biết rằng thân vẫn còn ở đó, nhưng con không cảm giác được nó. Chiều đó con có cơ hội gặp thầy Tan Ajahn Tate và con tả lại những chi tiết trải nghiệm đó. Thầy ấy nói rằng đó là những đặc tính tâm thể hiện khi nó hợp nhất trong trạng thái định (samādhi), và rằng con nên tiếp tục tu tập. Nhưng con chỉ có trải nghiệm này một lần đó thôi; còn sau này con chỉ thấy rằng con chỉ không thể cảm giác một số phần của thân, chẳng hạn như tay, còn những phần khác con vẫn cảm giác được. Đôi khi trong lúc đang tập thiền con bắt đầu tự hỏi: liệu chỉ ngồi và buông bỏ hết tất cả mọi thứ có phải là cách tu đúng đắn hay không?; hay vẫn còn cách khác để tu tập?

A:

It's not necessary to keep going over or adding anything on at this stage. This is what Tan Ajahn Tate was referring to; one must not repeat or add on to that which is there already. When that particular kind of knowing is present, it means that the heart is calm and it is that state of calm which one must observe. Whatever one feels, whether it feels like there is a body or a self or not, this is not the important point. It should all come within the field on one's awareness. These conditions indicate that the heart is calm and has unified in samādhi.

Trả lời:

Không cần thiết phải đi xa hơn hay làm thêm điều gì ở giai đoạn này. Đây là điều thầy Tan Ajahn Tate đang nói tới; người tu không nên lặp lại hoặc làm thêm thứ gì trên cái đã sẵn có. Khi một sự-biết có mặt, điều đó có nghĩa là tâm được tĩnh lặng, và đó là trạng thái tĩnh lặng mà người tu cần phải quan sát. Dù người tu cảm giác gì, dù cảm giác như có một thân, hay cảm giác có một cái 'ta', hay cảm giác như không có thân hoặc không có cái 'bản thân mình' nào cả, điều đó không quan trọng. Tất cả cần phải nên xuất hiện bên trong phạm vi quan sát của sự tỉnh-giác của người tu. Những điều kiện nư vậy có nghĩa tâm được tĩnh lặng và đã hợp nhất trong định (samādhi).
When the heart has unified for a long period, for a few times, then there will be a change in the conditions and they say that one withdraws. That state is called appanā samādhi (absorption) and having entered the heart will subsequently withdraw.

Khi tâm đã hợp nhất trong một thời gian lâu, được vài lần, rồi sau đó sẽ có sự thay đổi trong các điều kiện, và người ta thường nói rằng lúc đó người tu đã rút lui. Trạng thái này được gọi là trạng thái định sâu (appanā samādhi), và sau khi đã nhập vào trạng thái định sâu thì tâm sẽ rút lui.

In fact, although it would not be incorrect to say that the heart withdraws, it doesn't actually withdraw. Another way is to say that it flips back, or that it changes, but the style used by most teachers is to say that once the heart has reached the state of calm, then it will withdraw. However, people can get caught up in disagreements over the use of language. It can cause difficulties and one might start to wonder, ''how on earth can it withdraw? This business of withdrawing is just confusing!'' It can lead to much foolishness and misunderstanding just because of the language.

Thực ra, không chính xác khi nói rằng tâm rút lui, nó không thực sự rút ra. Một cách nói khác là nó bật trở ra, hoặc là nó thay đổi, nhưng hầu hết các sư thầy đều nói theo kiểu là ngay sau khi tâm đã nhập vào trạng thái định sâu thì nó sẽ rút ra. Tuy nhiên đến giờ vẫn còn nhiều người tranh cãi về cách dùng ngôn từ để diễn tả chỗ này. Chính điều này gây nhiều khó hiểu và người tu thường hay thắc mắc: "Làm sao nó có thể rút lui? Cái sự 'rút lui' nghe thiệt khó hiểu!". Điều đó có thể dẫn tới sự mù mờ hoặc hiểu lầm, bởi do ngôn từ diễn tả mà thôi.
What one must understand is that the way to practice is to observe these conditions with sati-sampajañña. In accordance with the characteristic of impermanence, the heart will turn about and withdraw to the level of upacāra samādhi (access concentration). If it withdraws to this level then one can gain knowledge and understanding, because at the deeper level there is not knowledge and understanding. If there is knowledge and understanding at this point it will resemble sankhārā (thinking).

Điều mà người tu phải nên hiểu là cách thực tập, cách thực tập là quan sát những điều kiện (tình trạng) diễn ra bằng sự chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng (sati-sampajañña). Theo tính chất của vô thường, tâm sẽ chuyển hướng và rút lui về mức (trạng thái) cận định (upacāra samādhi). Nếu tâm rút lui đến mức cận định thì người tu có thể đạt đến sự-biết và sự-hiểu, bởi ở trong mức (trạng thái) định sâu hơn thì không có (không còn) sự-biết và sự-hiểu. Nếu có sự-biết và sự-hiểu tại thời điểm này thì nó giống như sự-nghĩ, tức tâm hành (sankhārā).
It will be similar to two people having a conversation and discussing the Dhamma together. One who understands this might feel disappointed that their heart is not really calm, but in fact this dialogue takes place within the confines of the calm and restraint which has developed. These are the characteristics of the heart once it has withdrawn to the level of upacāra - there will be the ability to know about and understand different things.

Nó sẽ giống như cảnh hai người đang đối thoại và thảo luận về Giáo Pháp với nhau. Người tu nào hiểu được chỗ này có lẽ thấy thất vọng rằng tâm không thực sự tĩnh lặng, nhưng thực đúng thì sự đối thoại đó đang diễn ra bên trong phạm vi của sự tĩnh lặng và giới hạnh đã được tu tập trước đó. Có những đặc tính của tâm, ngay sau khi nó rút lui về trạng thái cận định (upacāra) – nó sẽ có khả năng biết và hiểu nhiều điều khác nhau.
The heart will stay in this state for a period and then it will turn inwards again. In other words, it will turn and go back into the deeper state of calm as it was before; or it is even possible that it might obtain purer and calmer levels of concentrated energy than was experienced before. If it does reach such a level of concentration, one should merely note the fact and keep observing until the time when the heart withdraws again. Once it has withdrawn one will be able to develop knowledge and understanding as different problems arise. Here is where one should investigate and examine the different matters and issues which affect the heart in order to understand and penetrate them. Once these problems are finished with, then the heart will gradually move inwards towards the deeper level of concentration again. The heart will stay there and mature, freed from any other work or external impingement. There will just be the one-point knowing and this will prepare and strengthen one's mindfulness until the time is reached to re-emerge.

Tâm sẽ ở trong trạng thái này trong một khoảng thời gian và sau đó nó lại chuyển hướng trở lại vào bên trong. Nói cách khác, tâm sẽ tiến nhập lại vào trạng thái định sâu giống như nó đã từng nhập vào trước đó; hoặc thậm chí sau mỗi lần rút ra và nhập vào trạng thái định như vậy, tâm có thể đạt đến những mức định lực tinh khiết hơn và tĩnh lặng hơn nhiều so với trước đó. Nếu tâm đã đạt đến một mức độ định như vậy, người tu chỉ cần ghi nhận sự thật đó và liên tục quán sát cho đến lúc tâm lại rút lui ra. Ngay sau mỗi lần tâm rút lui, người tu có khả năng phát triển sự-hiểu và sự-biết khi có những vấn đề khác nhau khởi sinh. Đây là chỗ người tu phải điều tra và xem xét mọi sự và mọi vấn đề khác nhau tác động đến tâm để hiểu được và thâm nhập được những vấn đề đó. Một khi đã làm xong với những vấn đề đó, tâm sẽ lại từ từ tiến lại vào bên trong và đạt đến những mức độ định sâu hơn nữa. Tâm sẽ ở trong trạng thái đó và chín muồi, tự do hoàn toàn khỏi mọi việc và tất cả mọi tác động bên ngoài. Lúc này chỉ còn lại một sự-biết nhất-điểm, và điều này sẽ sẵn sàng làm mạnh mẽ thêm sự chánh-niệm của người tu... cho đến một lúc nào đó tâm lại nổi lên (rút ra lại).
These conditions of entering and leaving will appear in one's heart during the practice, but this is something that is difficult to talk about. It is not harmful or damaging to one's practice. After a period the heart will withdraw and the inner dialogue will start in that place, taking the form of sankhārā or mental formations conditioning the heart. If one doesn't know that this activity is sankhārā, one might think that it is paññā, or that paññā is arising. One must see that this activity is fashioning and conditioning the heart and the most important thing about it is that it is impermanent. One must continually keep control and not allow the heart to start following and believing in all the different creations and stories that it cooks up. All that is just sankhārā, it doesn't become paññā.

Những tình trạng tiến vào và rút ra sẽ xuất hiện trong tâm người tu trong khi đang thiền tập, nhưng đây là điều rất khó nói. Điều này không hề có hại hay gây hại gì cho sự thiền tập của người tu. Sau một lúc tâm sẽ rút ra và sự đối thoại bên trong bắt đầu xảy ra dưới cái dạng tâm hành (sankhārā) tác động cái tâm. Nếu người tu không biết rằng đây là hoạt động của tâm hành (sankhārā), thì người ấy có thể nghĩ rằng đó là trí tuệ (paññā), có thể cho rằng đó là trí tuệ (paññā) đang khởi sinh. Người tu phải nhìn ra hoạt động này chỉ là các điều kiện tạo tác cái tâm, và điều quan trọng nhất là nhìn ra được nó (hoạt động đó) chỉ là vô thường. Người tu tiếp tục làm chủ và không để cho tâm chạy theo hay tin vào những sự tạo tác và những câu chuyện của nó. Tất cả chúng chỉ là những tâm hành tạo tác (sankhārā), nó không trở thành trí tuệ (paññā) đâu.
The way paññā develops is when one listens and knows the heart as the process of creating and conditioning takes it in different directions and then reflects on the instability and uncertainty of this. The realization of its impermanence will provide the cause by which one can let go of things at that point. Once the heart has let go of things and put them down at that point, it will gradually become more and more calm and steady. One must keep entering and leaving samādhi like this and paññā will arise at that point. There one will gain knowledge and understanding.

Cách trí tuệ (paññā) phát triển là khi người tu lắng nghe và hiểu biết cái tâm trong khi tiến trình tạo tác và điều kiện đang diễn ra theo đủ hướng khác nhau; và rồi người tu biết suy xét về sự bất ổn định và không chắc chắn của tiến trình tạo tác đó. Sự nhận biết về tính vô thường của nó sẽ tạo nguyên nhân làm người tu có thể buông bỏ tất cả mọi thứ mọi sự khởi sinh ngay tại đó. Một khi tâm đã buông bỏ mọi thứ mọi sự ngay tại đó, tâm sẽ càng thêm tĩnh lặng và vững vàng hơn. Người tu phải liên tục tiến vào và thoát ra khỏi trạng thái định sâu (samādhi) như vậy và trí tuệ (paññā) sẽ khởi sinh ngay tại đó. Ngay tại đó người tu sẽ đạt được sự- biết và sự-hiểu.
As one continues to practice, many different kinds of problems and difficulties will tend to arise in the heart; but whatever problems the world, or even the universe might bring up, one will be able to deal with them all. One's wisdom will follow them up and find answers for every question and doubt.

Rồi khi người tu tiếp tục thiền tập, nhiều loại vấn đề và khó khăn đều có xu hướng khởi sinh trong tâm; nhưng dù thế giới có những vấn đề khó khăn nào, hoặc thậm chí vũ trụ có dịch chuyển, người tu vẫn có khả năng xử lý mọi vấn đề khó khăn đó. Trí tuệ của người tu sẽ theo sát những vấn đề đó và nó sẽ tự tìm ra những câu trả lời cho từng nghi vấn và nghi ngờ.

Wherever one meditates, whatever thoughts come up, whatever happens, everything will be providing the cause for paññā to arise. This is a process that will take place by itself, free from external influence. Paññā will arise like this, but when it does, one should be careful not to become deluded and see it as sankhārā. Whenever one reflects on things and sees them as impermanent and uncertain, then one shouldn't cling or attach to them in any way. If one keeps developing this state, when paññā is present in the heart, it will take the place of one's normal way of thinking and reacting and the heart will become fuller and brighter in the centre of everything. As this happens - one knows and understands all things as they really are - one's heart will be able to progress with meditation in the correct way and without being deluded. That is how it should be.

Mỗi khi người tu thiền tập, mỗi ý nghĩ khởi lên, mỗi điều gì xảy ra, thì mọi thứ đó đều tạo nhân cho trí tuệ (paññā) khởi sinh. Đây là tiến trình tự nó diễn ra chứ không phải do tác động từ bên ngoài. Trí tuệ (paññā) sẽ khởi sinh như vậy, nhưng khi nó khởi sinh người tu phải thận trọng đừng để bị ngu mờ và coi nó như tâm hành tạo tác (sankhārā). Đó là trí tuệ, không phải sự tạo tác. Khi người tu quán chiếu về mọi thứ và nhìn thấy chúng là vô thường và không chắc chắn, thì người tu không dính theo chúng theo bất cứ cách gì. Nếu người tu cứ liên tục phát triển trạng thái này, lúc đó trí tuệ paññā có mặt trong tâm, thì điều đó sẽ thay thế cái lối nghĩ và lối phản ứng thông thường của người tu; và tâm sẽ trở nên đầy hơn và sáng tỏ hơn ngay giữa trung tâm của mọi sự diễn ra. Khi điều này xảy ra – người tu biết rõ và hiểu rõ tất cả mọi thứ mọi sự đúng như chúng thực là – tâm người tu sẽ có khả năng thiền tiến một cách đúng đắn và không còn ngu mờ gì nữa. Đó là cách mọi sự nên diễn tiến.



Chương 45

DHAMMA FIGHTING - GIÁO PHÁP CHIẾN ĐẤU

Fight greed, fight aversion, fight delusion... these are the enemy. In the practice of Buddhism, the path of the Buddha, we fight with Dhamma, using patient endurance. We fight by resisting our countless moods.

Đánh tham, đánh sân, đánh si... ba thứ đó là kẻ thù. Trong việc tu tập của đạo Phật, con đường của Phật, chúng ta chiến đấu bằng Giáo Pháp, dùng sự chịu khó kiên nhẫn. Chúng ta chiến đấu bằng việc chống lại vô số những trạng thái (thân và tâm) của ta.

Dhamma and the world are interrelated. Where there is Dhamma there is the world, where there is the world there is Dhamma. Where there are defilements there are those who conquer defilements, who do battle with them. This is called fighting inwardly. To fight outwardly people take hold of bombs and guns to throw and to shoot; they conquer and are conquered. Conquering others is the way of the world. In the practice of Dhamma we don't have to fight others, but instead conquer our own minds, patiently enduring and resisting all our moods.

Giáo Pháp và thế gian liên quan với nhau. Chỗ nào có Giáo Pháp là có thế giới, chỗ nào có thế giới là có Giáo Pháp. Ở đâu có các ô nhiễm bất tịnh thì ở đó có người chinh phục những ô nhiễm bất tịnh, có người chiến đấu với chúng. Đây được gọi là cuộc chiến bên trong ta. Chiến đấu bên ngoài thì người ta dùng gươm đao súng đạn, họ chinh phục và bị chinh phục. Chinh phục thắng thua với người khác, đó là thói sống của thế gian, là chuyện dài của thế sự. Còn tu hành thì chúng ta không cần chiến đấu với ai hết, chỉ cần chinh phục cái tâm của mình, chịu khó kiên nhẫn và chống lại những trạng thái (thân và tâm) của ta.

When it comes to Dhamma practice we don't harbor resentment and enmity amongst ourselves, but instead let go of all forms of ill-will in our own actions and thoughts, freeing ourselves from jealousy, aversion and resentment. Hatred can only be overcome by not harboring resentment and bearing grudges.

Khi đã bước vào tu tập, chúng ta không còn chất chứa những sân giận hay thù ghét lẫn nhau, thay vì vậy chúng ta dẹp bỏ tất cả mọi dạng ác ý trong những hành động và ý nghĩ của chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tị, thù hằn, ác ý. Sự thù ghét chỉ hết nếu không còn chấp chứa tính nóng nảy và bực tức.

Hurtful actions and reprisals are different but closely related. Actions once done are finished with, there's no need to answer with revenge and hostility. This is called ''action'' (kamma). ''Reprisal'' (vera) means to continue that action further with thoughts of ''you did it to me so I'm going to get you back.'' There's no end to this. It brings about the continual seeking of revenge, and so hatred is never abandoned. As long as we behave like this the chain remains unbroken, there's no end to it. No matter where we go, the feuding continues.

Những hành động nguy hại và sự trả thù là khác nhau, nhưng chúng liên quan nhau. Những hành động đã làm, đã xảy ra thì đã xong, không cần thiết phải đáp lại bằng sự trả đũa, trả thù và bạo lực. Chỗ này là nghiệp (kamma). Sự trả thù (vera) nghĩa là tiếp tục cái nghiệp đó bằng ý nghĩ "người làm ta vậy thì ta sẽ trả đũa lại". Nghĩ như vậy nên chẳng bao giờ kết thúc thù hận. Điều đó chỉ khiến hai bên luôn luôn tìm cách trả thù nữa, và mối hận thù cứ kéo dài không ngơi. Dù đi đâu vẫn mang theo mối oán thù đó theo.

The supreme teacher taught the world, he had compassion for all worldly beings. But the world nevertheless goes on like this. The wise should look into this and select those things which are of true value. The Buddha had trained in the various arts of warfare as a prince, but he saw that they weren't really useful, they are limited to the world with its fighting and aggression.

Vị thầy tối cao (Đức Phật) chỉ lo dạy thế gian với lòng đại bi dành cho tất cả mọi chúng sinh. Còn thế gian thì cứ tiếp diễn như vậy. Người khôn trí nên nhìn kỹ về vấn đề này và nên chọn làm những điều có giá trị thực sự. Khi còn là thái tử Phật đã tập luyện nhiều môn chiến đấu, nhưng Phật đã nhìn thấy những thứ võ biền đó thực sự không hữu ích, chúng chỉ có giá trị trong thế gian đầy tranh đấu và hung tàn.

Therefore, in training ourselves as those who have left the world, we must learn to give up all forms of evil, giving up all those things which are the cause for enmity. We conquer ourselves, we don't try to conquer others. We fight, but we fight only the defilements; if there is greed, we fight that; if there is aversion, we fight that; if there is delusion, we strive to give it up.

Để tu tập bản thân mình thành những người xuất thế gian, chúng ta phải biết dẹp bỏ tất cả mọi tính cách ác tâm, dẹp bỏ tất cả mọi thói tâm là nguyên nhân gây ra thù hận. Cứ chiến đấu chinh phục bản thân mình, đừng cố chiến đấu với người khác. Chúng ta chiến đấu nhưng là chiến đấu với những ô nhiễm trong tâm ta; nếu có tham, ta chiến đấu; nếu có sân, ta chiến đấu; nếu có si, ta cố gắng dẹp bỏ.

This is called ''Dhamma fighting.'' This warfare of the heart is really difficult, in fact it's the most difficult thing of all. We become monks in order to contemplate this, to learn the art of fighting greed, aversion and delusion. This is our prime responsibility.

Đây được gọi là "Giáo Pháp chiến đấu". Cuộc chiến của tâm thực sự là khó khăn, đúng thực là cuộc chiến khó khăn nhất. Chúng ta trở thành tu sĩ để suy xét việc này, để học cái binh pháp chiến đấu với tham, sân, và si. Đây là trách nhiệm hệ trọng nhất của chúng ta.

This is the inner battle, fighting with defilements. But there are very few people who fight like this. Most people fight with other things, they rarely fight defilements. They rarely even see them.

The Buddha taught us to give up all forms of evil and cultivate virtue. This is the right path. Teaching in this way is like the Buddha picking us up and placing us at the beginning of the path. Having reached the path, whether we walk along it or not is up to us. The Buddha's job is finished right there. He shows the way, that which is right and that which is not right. This much is enough, the rest is up to us.

Đây là cuộc chiến bên trong, chiến đấu với những thứ ô nhiễm trong tâm. Nhưng ít ai biết và chịu chiến đấu với chính mình như vậy. Ai cũng thích chiến đấu với người ngoài, họ chẳng hề biết chiến đấu với những thói hư tật xấu của chính mình. Thậm chí họ cũng chẳng nhìn thấy những thói tâm ô nhiễm của mình.

Phật dạy chúng ta dẹp bỏ tất cả mọi tính ác và tu dưỡng đức hạnh. Đây là con đường đúng đắn. Chỉ dạy như vậy chẳng khác nào Phật đã "ẳm" chúng ta đi đến đặt xuống nơi bắt đầu con đường. Sau khi đã đến con đường, việc bước đi hay không là tùy chúng ta. Công việc của Phật tới đó là hết. Phật đã chỉ ra con đường, chỉ về những điều đúng đắn và những điều không đúng đắn. Sự chỉ dạy tới đó là đủ, phần việc còn lại là của chúng ta.

Now, having reached the path we still don't know anything, we still haven't seen anything, so we must learn. To learn we must be prepared to endure some hardship, just like students in the world. It's difficult enough to obtain the knowledge and learning necessary for them to pursue their careers. They have to endure. When they think wrongly or feel averse or lazy they must force themselves before they can graduate and get a job. The practice for a monk is similar. If we determine to practice and contemplate, then we will surely see the way.

Bây giờ, sau khi đến được đầu đường, chúng ta vẫn chưa biết được gì, chưa nhìn thấy được gì, do vậy chúng ta cần phải học hỏi. Để học hỏi chúng ta cần phải chịu khó chịu khổ, cũng giống như mọi học trò trên đời. Họ cũng phải chịu khó chịu khổ mới học hỏi được những kiến thức giúp sinh sống được bằng nghề nghiệp. Họ phải chịu khổ. Khi họ nghĩ sai hoặc thấy chán hoặc thấy lười biếng, họ phải thúc giục bản thân mình chịu khó học thì mới học ra trường và xin được việc làm. Sự tu tập của các tu sĩ cũng vậy. Nếu chúng ta đã quyết tâm tu hành và chánh niệm, thì chắc chắn chúng ta sẽ nhìn thấy con đường.

Ditthi-māna is a harmful thing. Ditthi means ''view'' or ''opinion.'' All forms of view are called ditthi: seeing good as evil, seeing evil as good... any way whatsoever that we see things. This is not the problem. The problem lies with the clinging to those views, called māna; holding on to those views as if they were the truth. This leads us to spin around from birth to death, never reaching completion, just because of that clinging. So the Buddha urged us to let go of views.

Ditthi-māna: là điều nguy hại. Ditthi có nghĩ là "cách nhìn" hay "quan điểm" (kiến chấp). Tất cả mọi dạng quan điểm đều được gọi là ditthi: nhìn tốt thành xấu, nhìn ác thành thiện... nhìn theo cách nào đó. Đây chưa phải là vấn đề. Vấn đề là sự dính chấp vào những cách nhìn đó, được gọi là māna; sự cố chấp về những quan điểm đó, coi chúng là sự thật. Chính sự dính chấp dẫn chúng ta bị cuốn xoáy trong vòng luân hồi sinh tử bất tận, chỉ là do những dính chấp đó. Do vậy, Phật nói chúng ta phải dẹp bỏ tất cả những quan điểm (thành kiến, thiên kiến, tà kiến, cách nhìn, quan niệm...) của mình.

If many people live together, as we do here, they can still practice comfortably if their views are in harmony. But even two or three monks would have difficulty if their views were not good or harmonious. When we humble ourselves and let go of our views, even if there are many of us, we come together at the Buddha, Dhamma and Sangha.

Nhiều người sống cùng nhau, ví dụ như các thầy ở trong chùa này, họ vẫn có thể cùng tu tập một cách thỏa mái nếu quan điểm của họ là hòa hợp với nhau. Nhưng thực sự đôi lúc chỉ vài ba Tỳ kheo là đã xung khắc lẫn nhau, quan điểm của họ không hợp nhau. Nếu chúng ta biết khiêm nhường và dẹp bỏ các kiến chấp của mình thì dù có đông người như số chúng ta đang trong chùa này, chúng ta vẫn có thể cùng tu tập bên cạnh Tam Bảo.

It's not true to say that there will be disharmony just because there are many of us. Just look at a millipede. A millipede has many legs, doesn't it? Just looking at it you'd think it would have difficulty walking, but actually it doesn't. It has its own order and rhythm. In our practice it's the same. If we practice as the Noble Sangha of the Buddha practiced, then it's easy. That is, supatipanno - those who practice well; ujupatipanno - those who practice straightly; ñāyapatipanno - those who practice to transcend suffering, and sāmıcipatipanno - those who practice properly. These four qualities, established within us, will make us true members of the Sangha. Even if we number in the hundreds or thousands, no matter how many we are, we all travel the same path. We come from different backgrounds, but we are the same. Even though our views may differ, if we practice correctly there will be no friction. Just like all the rivers and streams which flow to the sea... once they enter the sea they all have the same taste and color. It's the same with people. When they enter the stream of Dhamma, it's the one Dhamma. Even though they come from different places, they harmonize, they merge.

Nếu nói vì quá đông người nên mới xảy ra bất hòa bất đồng. Thử nhìn con rết. Con rết có bao nhiêu chân? Mới nghe hay mới nhìn chúng ta tưởng nó rất khó đi, những thực tế thì nó đi dễ dàng. Nó đi theo trật tự và nhịp điệu riêng của nó. Trong sự tu tập của chúng ta thì cũng vậy. Nếu chúng ta tu tập như cách Thánh Tăng đoàn của Đức Phật tu thời đó thì mọi sự sẽ dễ dàng. Đó là những người tu một cách thiện giỏi (supatipanno); những người tu một cách chánh trực (ujupatipanno); những người tu để chuyển hóa khổ (ñāyapatipanno); và những người tu một cách đúng đắn, hòa hợp (sāmıcipatipanno). Đây là bốn phẩm hạnh, được thiết lập bên trong chúng ta, làm cho chúng ta trở thành thành viên của Tăng đoàn (Sangha). Dù chúng ta có mấy trăm hay mấy ngàn người, dù có gì đi nữa, tất cả chúng ta đều đang đi cùng một con đường. Chúng ta xuất thân khác nhau, nhưng chúng ta là như nhau. Ngay cả ý kiến của chúng ta khác nhau, nhưng nếu chúng ta biết tu tập một cách đúng đắn thì chúng ta cũng không va chạm nhau. Cũng như tất cả mọi sông suối đều chảy ra biển... khi đã ra đến biển, tất cả đều có mùi vị và màu sắc như nhau. Mọi người đều như vậy. Khi họ bước vào Giáo Pháp, họ là một với Giáo Pháp. Cho dù họ xuất thân từ những nơi khác nhau, nhưng nếu họ hòa hợp thì họ hòa nhập với nhau.

But the thinking which causes all the disputes and conflict is ditthi-māna. Therefore the Buddha taught us to let go of views. Don't allow māna to cling to those views beyond their relevance.

Nhưng, nguyên nhân gây ra tất cả mọi xung đột và bất hòa chính là do sự dính chấp vào các quan điểm, là do ditthi–māna. Vì vậy Phật đã dạy chúng ta dẹp bỏ mọi quan điểm này nọ. Đừng để cho māna dính nhiều vào những quan điểm.

The Buddha taught the value of constant sati, recollection. Whether we are standing, walking, sitting or reclining, wherever we are, we should have this power of recollection. When we have sati we see ourselves, we see our own minds. We see the ''body within the body,'' ''the mind within the mind.'' If we don't have sati we don't know anything, we aren't aware of what is happening.

Đức Phật chỉ ra giá trị của việc chánh niệm liên tục (sati): chú tâm, thường biết.Dù ta đang ngồi, đang đứng, đang đi, hay đang nằm, dù đang làm gì, chúng ta phải có năng lực chánh niệm. Khi chúng ta có chánh niệm chúng ta nhìn thấy mình, chúng ta nhìn thấy tâm mình. Chúng ta nhìn thấy "thân bên trong thân ", "tâm bên trong tâm". Còn nếu chúng ta không có chánh niệm, chúng ta chẳng biết gì, chúng ta không ý thức gì về mọi sự đang diễn ra.

So sati is very important. With constant sati we will listen to the Dhamma of the Buddha at all times. This is because ''eye seeing forms'' is Dhamma; ''ear hearing sounds'' is Dhamma; ''nose smelling odors'' is Dhamma; ''tongue tasting flavors'' is Dhamma; ''body feeling sensations'' is Dhamma; when impressions arise in the mind, that is Dhamma also. Therefore one who has constant sati always hears the Buddha's teaching. The Dhamma is always there. Why? Because of sati, because we are aware.

Do vậy chánh niệm (sati) là rất quan trọng. Với sự chánh niệm thường trực, chúng ta sẽ lắng nghe theo Giáo Pháp của Đức Phật mọi lúc mọi nơi. Điều này là bởi cái "mắt nhìn những hình sắc" là Giáo Pháp; "tai nghe những âm thanh" là Giáo Pháp; "mũi ngửi những mùi hương" là Giáo Pháp; "lưỡi nếm những mùi vị" là Giáo Pháp, "thân nếm trải/cảm giác những cảm nhận" là Giáo Pháp; khi những nhận thức khởi lên trong tâm, đó cũng là Giáo Pháp. Do vậy, ai có sự chánh niệm thường trực thì luôn nghe thấy Giáo Pháp của Phật. Giáo Pháp vẫn luôn ở đó. Tại sao? Bởi nhờ có chánh niệm, bởi nhờ chúng ta ý thức rõ, thường biết, luôn tỉnh giác.

Sati is recollection, sampajañña is self-awareness. This awareness is the actual Buddho, the Buddha. When there is sati-sampajañña, understanding will follow. We know what is going on. When the eye sees forms: is this proper or improper? When the ear hears sound: is this appropriate or inappropriate? Is it harmful? Is it wrong, is it right? And so on like this with everything. If we understand we hear the Dhamma all the time.

Sati là nhớ, niệm. Sampajañña là rõ biết về mình, tỉnh giác về mình. Sự rõ biết hay tỉnh giác là Phật tâm, là Phật.

Khi nào có sự chánh-niệm và sự hiểu biết rõ ràng [rõ-biết] về mình (sati–sampajañña) thì thí tuệ hiểu biết sẽ theo sau. Khi mắt nhìn thấy hình sắc (thì khởi tâm): thứ này hợp hay không hợp? Khi tai nghe âm thanh: thứ này hợp hay không hợp? Nó có hại không? Nó sai hay đúng? Và cứ như vậy, ta cứ luôn khởi tâm này nọ với mọi thứ. Nếu chúng ta hiểu biết Giáo Pháp, chúng ta nghe thấy Giáo Pháp mọi lúc mọi nơi.

So let us all understand that right now we are learning in the midst of Dhamma. Whether we go forward or step back, we meet the Dhamma - it's all Dhamma if we have sati. Even seeing the animals running around in the forest we can reflect, seeing that all animals are the same as us. They run away from suffering and chase after happiness, just as people do. Whatever they don't like they avoid; they are afraid of dying, just like people. If we reflect on this, we see that all beings in the world, people as well, are the same in their various instincts. Thinking like this is called ''bhāvanā'', seeing according to the truth, that all beings are companions in birth, old age, sickness and death. Animals are the same as human beings and human beings are the same as animals. If we really see things the way they are our mind will give up attachment to them.

Vậy chúng ta hãy hiểu rằng ngay bây giờ chúng ta đang học giữa Giáo Pháp. Dù chúng ta đi tới hay bước lùi, chúng ta đều gặp Giáo Pháp—tất cả đều là Giáo Pháp, nếu chúng ta có sự chánh niệm. Ngay khi thấy một con vật trong rừng chúng ta có thể suy xét, quán chiếu và nhìn ra mọi loài thú đều giống như chúng ta. Chúng cũng chạy trốn khó khổ và chạy theo khoái sướng, cũng giống hệt như chúng ta. Cái gì không thích chúng tránh né; chúng cũng sợ chết, y hệt như con người. Nếu chúng ta quán xét về điều này, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả mọi sinh vật trên thế gian, kể cả con người, đều giống như nhau, mặc dù những bản năng khác nhau. Nghĩ theo cách này được gọi là tu dưỡng tâm, là thiền (bhāvanā), là nhìn thấy đúng như sự thật: rằng tất cả mọi loài đều là bạn đồng hành trên cùng chiếc xuồng 'sinh, lão, bệnh, tử'. Những loài vật cũng như loài người và loài người cũng như loài vật. Nếu chúng ta thực sự nhìn thấy bản chất sinh diệt mọi loài đúng như chúng là, thì tâm chúng ta sẽ dẹp bỏ sự ràng buộc vào chúng. (Tâm lý học Phật giáo là ngay chỗ này. Ta tu tập thiền quán để nhìn thấy cái bản chất sinh diệt vô thường của sự sống của chúng ta. Giống như chúng ta quán xét nhìn thấy bản chất tầm thường ở ngoài đời của một nghệ sĩ thần tượng của ta, lúc đó ta đâu còn mến phục người đó nữa).

Therefore it is said we must have sati. If we have sati we will see the state of our own mind. Whatever we are thinking or feeling we must know it. This knowing is called Buddho, the Buddha, the one who knows... who knows thoroughly, who knows clearly and completely. When the mind knows completely we find the right practice.

Do vậy nên nói rằng chúng ta phải có sự chánh niệm. Nếu có chánh niệm, chúng ta sẽ nhìn thấy trạng thái của tâm mình. Dù ta đang nghĩ gì hay cảm giác gì, ta phải biết về nó. Sự biết này được gọi là Phật tâm, là Phật, là cái 'người biết'... biết một cách thấu suốt, biết một cách rõ ràng và hoàn toàn. Khi tâm biết một cách hoàn toàn thì chúng ta tìm ra cách tu tập đúng đắn.

So the straight way to practice is to have mindfulness, sati. If you are without sati for five minutes you are crazy for five minutes, heedless for five minutes. whenever you are lacking in sati you are crazy. So sati is essential. To have sati is to know yourself, to know the condition of your mind and your life. This is to have understanding and discernment, to listen to the Dhamma at all times. After leaving the teacher's discourse, you still hear the Dhamma, because the Dhamma is everywhere.

Do vậy, cách thẳng thắn nhất để tu tập là phải có sự chánh niệm, sati!. (Điều kiện cần là phải có sự chánh niệm). Nếu bạn không có chánh niệm năm phút thì (tâm) bạn điên đảo năm phút đó, vì bạn đã thất niệm trong năm phút. Hễ khi nào thiếu chánh niệm thì (tâm) bạn điên đảo. Do vậy, chánh niệm là không thể thiếu! Có chánh niệm là biết về mình, biết về trạng thái của tâm và sự sống của mình. Đây là điều kiện để có được sự hiểu biết và khả năng nhận định, để lắng nghe Giáo Pháp mọi lúc mọi nơi. Sau khi rời khỏi bài giảng của người thầy, bạn vẫn còn nghe thấy Giáo Pháp, bởi Giáo Pháp có mặt khắp nơi.

So therefore, all of you, be sure to practice every day. Whether lazy or diligent, practice just the same. Practice of the Dhamma is not done by following your moods. If you practice following your moods then it's not Dhamma. Don't discriminate between day and night, whether the mind is peaceful or not... just practice.

Do vậy, tất cả các thầy phải chắc chắn tu tập mỗi ngày. Dù cảm thấy lười biếng hay siêng năng, vẫn tu tập đều đặn như vậy. Tu tập theo Giáo Pháp không phải là chạy theo những trạng thái tâm của mình. Nếu tu mà chạy theo các trạng thái tâm thì đó là không đúng Giáo Pháp. Đừng phân biệt ngày và đêm, dù tâm có bình an hay không, dù cảm thấy ra sao... vẫn cứ tu tập.

It's like a child who is learning to write. At first he doesn't write nicely - big, long loops and squiggles - he writes like a child. After a while the writing improves through practice. Practicing the Dhamma is like this. At first you are awkward... sometimes calm, sometimes not, you don't really know what's what. Some people get discouraged. Don't slacken off! You must persevere with the practice. Live with effort, just like the schoolboy: as he gets older he writes better and better. From writing badly he grows to write beautifully, all because of the practice from childhood.

Giống như đứa bé đang tập viết. Đầu tiên nó không viết được đẹp- nó uốn đường cong, nắn vòng tròn, nguệch ngoạc, siêu vẹo, to tướng- nó viết như...con nít. Nhưng sau ít lâu, chữ viết của nó khá hơn nhờ luyện tập. Tu tập cũng vậy. Lúc đầu ai cũng thấy khó khăn, lúng túng; có lúc có tĩnh lặng, nhiều lúc không; thực sự chẳng biết gì là gì cả. Nhiều người nản chí ngay từ đầu. Đừng nản chí! Các thầy phải cố gắng tu. Sống bằng nỗ lực, giống như đứa học trò trẻ kia: từ từ rồi nó cũng lớn lên và nó viết chữ đẹp hơn và đẹp hơn thôi. Ai cũng vậy. Từ chỗ tập viết, viết xấu, rồi đến lúc viết được, rồi viết đẹp... tất cả đều nhờ sự tập luyện mà thôi.

Our practice is like this. Try to have recollection at all times: standing, walking, sitting or reclining. When we perform our various duties smoothly and well, we feel peace of mind. When there is peace of mind in our work it's easy to have peaceful meditation, they go hand in hand. So make an effort. You should all make an effort to follow the practice. This is training.

Sự tu tập của chúng ta cũng vậy. Tức là phải cố gắng có được sự chánh niệm mọi lúc mọi nơi: khi đang đứng, đang ngồi, đang đi hay đang nằm. Khi chúng ta sống đàng hoàng và ta làm mọi phận sự khác nhau một cách êm xuôi thì tâm ta cảm thấy bình an. Khi tâm bình an trong công việc thì dễ có được sự thiền bình an. Hai cái đi song hành với nhau. Vì vậy hãy cố gắng. Cố theo việc tu tập liên tục. Đây là sự tập luyện.



Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro