150 NGÀY TRƯỚC KHI HÀNH HÌNH

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

6 GIỜ TỐI

Màn đêm vừa mới chớm buông, hắn cũng chưa hẳn đã gọi là già. Có điều không gian thì thấm đượm sự ngọt ngào trong hắn thì cáu bẳn. Cái cáu bẳn đó người ta có thể thấy từ xa vì nó sưng xỉa trên khuôn mặt hắn. Cái cáu bẳn đó là một trong những trạng thái giận dữ bị kìm nén, bị dồn ép trong khi nó vẫn không ngừng rộp lên từng giờ. Cái cáu bẳn đó cũng là một điều đáng xấu hổ vì nó lạc điệu hoàn toàn với những gì đang diễn ra xung quanh. Nó như một vết rách trên bức tranh phong cảnh.

Tối đó là một tối tháng năm, giờ đó là giờ tụ tập. Vào giờ này đến nửa dân số ở thành phố này, miễn là dưới ba mươi tuổi, đều đã chải chuốt đầu tóc, nạp thêm tiền vào ví rồi tất tả ngược xuôi để đến kịp chỗ hẹn. Nửa dân số còn lại, cũng dưới ba mươi tuổi, đã trang điểm xong, không quên khoác thêm lên người một cái gì đó đặc biệt, rồi cũng nhanh chóng đến chỗ hẹn. Nhìn đi đâu hay chỗ nào thì ta cũng thấy hai nửa thành phố này đang tìm tới nhau. Ở mọi góc phố, trong các nhà hàng hay quán bar, bên ngoài hiệu thuốc, bên trong sảnh khách sạn, bên dưới biển hiệu các cửa hàng nữ trang, hay ở bất kỳ chỗ nào mà các cặp đôi chưa bị cặp đôi nào khác chiếm mất. Và ta có thể nghe thấy những câu thoại cũ rích đã được dùng từ xửa từ xưa như, "Giờ em mới đến được, anh đợi lâu chưa?" hay "Em trông đẹp lắm. Mình đi đâu nhỉ?"

Hôm đó là một buổi tối như vậy. Bầu trời phía tây tô một chút ráng đỏ, như thể mặt trời cũng đang hối hả cuộc hẹn của chính mình, và trước khi đi còn kịp cài lại hai ngôi sao lấp lánh như kim cương trên tấm áo choàng buổi tối.

Biển hiệu đèn nê-ông trên phố bắt đầu nháy mắt làm duyên với những vị khách qua đường, những chiếc taxi bấm còi gọi khách, tất cả mọi người đều đang tập trung đi tới nơi dành cho mình. Không gian lúc này không chỉ là không khí, mà nó có mùi vị sâm-panh, phảng phất hương nước hoa, rõ rệt đến nỗi nếu khách qua đường không biết cách tránh thì chắc chắn nó sẽ xộc thẳng vào khứu giác, thậm chí là trái tim của họ.

Hắn cứ đi như thế, đẩy cái bộ mặt sưng xỉa ra phía trước, làm xấu cả một khung cảnh trữ tình. Người ta khó tránh đưa mắt nhìn theo khi hắn bước qua, trong lòng tự hỏi nguyên nhân gì mà ra nông nỗi, mà khiến hắn có cái thái độ khó ưa nổi đó. Chẳng phải là do sức khỏe rồi. Ai mà đi theo kịp nhịp bước của hắn thì mặt cũng phải đỏ lựng cho xem. Cũng chẳng thể là do hoàn cảnh kinh tế. Quần áo hắn mang trên người rõ ràng là hàng đắt tiền, không phải là đồ giả hay đồ nhái. Cũng không phải là do hắn đã có tuổi. Nếu ai đó nói ra con số ba mươi về tuổi của hắn thì đó hẳn là số tháng chứ không phải năm. Hắn sẽ trông sáng sủa gấp đôi nếu hắn cho những bộ phận trên mặt một cơ hội không bị làm nhăn nhúm. Người ta có thể dễ dàng thấy được cơ sở cho nhận định đó tại những vùng da phía bên ngoài, xa tâm điểm của sự cau có.

Hắn cứ thế sải bước, đeo trên mặt cái vẻ hậm hực không giải tỏa được, hai mép trễ xuống khiến viền môi trở thành một nửa hình ê-líp, như một cái móng ngựa dính vào phía dưới mũi. Chiếc áo choàng hắn khoác trên tay nảy lên nảy xuống theo mỗi nhịp bước. Hắn có đội mũ, nhưng chiếc mũ lại bị ngả quá đà ra phía gáy, vết lõm trên thân mũ cũng lại không đúng chỗ, chắc hắn đã tiện tay bóp mà cũng không buồn chỉnh lại. Lý do duy nhất, có lẽ vậy, khiến đôi giày của hắn không tóe lửa trên vỉa hè là vì có lót bằng đế cao su.

Nơi hắn tới có vẻ như không phải là nơi hắn có ý định ngay trong đầu từ trước, minh chứng bằng việc hắn phanh gấp tại đúng nơi đó. Khó có thể kiếm được từ nào khác để diễn tả việc hắn dừng bước tại chỗ đó, giống như đột nhiên chân hắn bị cứng lại, khóa chặt, khiến hắn phải đứng im một chỗ. Có vẻ như hắn cũng chẳng buồn để ý tới chỗ đó nếu như biển hiệu không đột nhiên lóe sáng đúng lúc hắn bước qua. Biển hiệu có chữ Anselmo màu đỏ rực, tỏa chiếu nhuộm tất cả những ai đi qua quãng vỉa hè đó như những người vừa bị phủ một lọ tương cà chua lên quần áo.

Hắn chuyển hướng, rõ ràng là do một cơn bộc phát nào đó, đi thẳng vào bên trong. Đó là một căn phòng thuôn dài, có trần khá thấp, cách mặt phố khoảng ba đến bốn bậc thang. Nơi này không hẳn là một quán lớn, và tại thời điểm này, cũng không đông khách. Khung cảnh bên trong trông khá dịu mắt; ánh sáng vừa đủ, màu vàng nhạt, được chiếu bằng đèn hắt trần. Hai bên có hai dãy bàn được gá lên tường bằng giá sắt. Hắn không để mắt tới chỗ đó mà đi thẳng tới quầy bar có hình bán nguyệt, đối diện với cửa vào, tận cuối phòng. Hắn cũng không để mắt xem người ở quầy là ai, hay thậm chí xem có ai đang ở quầy hay không. Hắn lẳng chiếc áo khoác lên một chiếc ghế, sau đó đặt mũ lên trên, rồi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Thái độ này cho thấy hắn đã quyết ở đó cả đêm.

Một bóng áo trắng mờ mờ xuất hiện ngay phía trước tầm mắt đang nhìn xuống của hắn. Bóng trắng nói, "Chào ông, ông dùng gì?"

"Một ly Scotch," hắn nói, "thêm một ít nước nữa. Thế nào gọi là ít thì mặc xác ông."

Ly nước chẳng hề được đụng tới sau khi chiếc ly được mang ra cùng với nó đã rỗng không.

Chắc hẳn trong tiềm thức, lúc ngồi xuống, hắn đã nhận thấy có một bát đựng bánh hay đại loại gì đó tương tự ở phía bên tay phải, nên hắn thò tay sang phía đó mà không phải nhìn. Tay hắn hạ xuống, không phải chạm vào một cái gì đó sần sùi như bánh mà vào một bề mặt mềm mại di chuyển rất nhanh.

Hắn ngoảnh đầu sang nhìn, rụt tay lại để tránh bàn tay đã tới đích là cái bát bánh trước. "Xin lỗi," hắn lầm bầm trong cổ họng, "cô lấy trước đi."

Hắn lại quay mặt về chỗ cũ, tiếp tục bận tâm tới việc của hắn như trước. Rồi hắn quay sang, nhìn người phụ nữ lần thứ hai. Hắn cứ thế nhìn tiếp, không bị gì khác làm ngắt quãng, tất nhiên là vẫn bằng ánh mắt tính toán và do dự.

Điều lạ lùng ở người phụ nữ này là chiếc mũ. Chiếc mũ trông giống như một quả bí ngô, cả về hình dáng, kích thước lẫn màu sắc. Một màu da cam cháy rừng rực, tới mức có thể khiến người nhìn lóa mắt. Chiếc mũ dường như làm cả quầy bar sáng lên, như thể nó là một chiếc đèn lồng người ta hay treo trong các bữa tiệc. Mọc ra từ chính giữa chóp mũ là một cọng lông vũ mỏng và dài, hiên ngang như một cái râu của côn trùng. Trong một nghìn người phụ nữ thì may ra mới có một người đủ dũng khí đội mũ màu đó. Người phụ nữ này dám đội, và hợp với màu đó. Cô ta khiến người ta ngạc nhiên, nhưng là thú vị chứ không phải là nực cười. Phần còn lại của cô ta thì bị ẩn đi với gam màu đen, gần như là vô hình phía sau sự nổi bật của chiếc mũ. Có lẽ đó là biểu hiện của một dấu hiệu phóng túng nào đó ở cô ta. Có lẽ tâm trạng đi kèm với biệu hiện đó là, 'Tôi đã đội mũ này lên thì các người phải cẩn thận đấy. Cái gì tôi cũng chơi hết.'

Lúc này, người phụ nữ đang nhấm nháp chiếc bánh, cố gắng thể hiện rằng không để ý tới cái nhìn xăm xoi của hắn. Cô ta ngừng cắn, đó là dấu hiệu duy nhất rằng có biết hắn đã rời khỏi chỗ ngồi, bước qua và đang đứng bên cạnh.

Cô ta hơi nghiêng đầu một chút, thái độ lắng nghe, dường như muốn nói, 'Anh muốn nói gì thì cứ nói đi, tôi không cản đâu. Còn sau đó thì tùy thuộc vào điều anh nói ra thế nào thì tính tiếp.'

Điều hắn nói ra đi thẳng vào vấn đề. "Tối nay cô có kế hoạch gì chưa?"

"Có và không." Cách cô ta trả lời rất nhẹ nhàng, nhưng cũng không cho thấy tín hiệu khích lệ. Không có nụ cười nào đánh tín hiệu mời gọi cả. Cô ta cư xử khéo léo, cho thấy dù cô ta thế nào đi nữa thì cũng không phải hạng rẻ tiền.

Phía hắn cũng không phát ra tín hiệu nào thúc giục cả. Hắn nói tiếp với bẻ bàng quan, "Nếu cô có hẹn rồi thì cứ nói, tôi sẽ không làm phiền cô nữa."

"Anh không làm phiền tôi – cho tới lúc này." Cô ta, bằng cách nào đó, thể hiện được rất rõ ý của mình: quyết định của tôi hiện tại vẫn để ngỏ.

Hắn ngước nhìn chiếc đồng hồ treo trên quầy ba, đối diện cả hai người. "Bây giờ đã hơn sáu giờ rồi."

Cô ta cũng nhìn lên theo. "Đúng vậy." Lời tán thành ở mức trung lập.

Trong lúc đó thì hắn rút ví, lấy ra một chiếc phong bì dài và nhỏ. Hắn mở phong bì, lại lấy trong đó ra hai miếng giấy bìa cứng màu vàng nhạt, xòe chúng như xòe bài. "Tôi có một đôi vé hạng nhất xem nhạc kịch tại rạp Casino. Hàng ghế AA, cạnh lối đi. Cô có muốn đi cùng tôi không?"

"Lời mời của anh đường đột quá." Người phụ nữ chuyển hướng nhìn từ đôi vé lên khuôn mặt hắn.

"Tôi thấy cần phải đường đột." Hắn gầm gừ nho nhỏ. Hắn cũng chẳng hề nhìn người phụ nữ mà hắn chỉ nhìn cặp vé với vẻ bực tức. "Nếu cô đã có hẹn trước rồi thì cứ nói, tôi sẽ tìm người khác đi xem cùng tôi cũng được."

Một thoáng quan tâm xuất hiện trong mắt người phụ nữ. "Vậy ra anh bắt buộc dùng tới hai vé này bằng mọi giá?"

"Vấn đề nguyên tắc mà thôi," hắn vẫn đáp bằng giọng hậm hực.

"Như thế rất dễ làm người ta nhầm lẫn với một cách làm quen thô lỗ đấy," cô ta nói. "Lý do tôi không tưởng nhầm như vậy là vì lời đề nghị rất cộc lốc, không hề có rào đón gì. Tôi thấy ý nghĩa thực sự đúng như những gì anh nói."

"Đúng như cô nghĩ." Mặt hắn vẫn đầy những nhét nhăn nhúm.

Người phụ nữ đã hơi xoay người sang phía hắn. Cách chấp nhận lời mời của cô ta là một lời nhận xét, "Trước tới nay tôi vẫn muốn làm một việc gì đó thế này. Có lẽ giờ là đúng dịp rồi. Cơ hội này – theo đúng bản chất của nó – có lẽ sẽ rất lâu nữa mới lại có."

Hắn đỡ người phụ nữ xuống khỏi ghế. "Ta phải thống nhất với nhau một chuyện, trước khi đi, nhé? Để đến khi xong xuôi thì mọi thứ sẽ đơn giản hơn."

"Còn tùy xem điểm thống nhất là gì."

"Chúng ta chỉ là hai người đi cùng nhau tối hôm nay. Hai người ăn tối cùng nhau, xem kịch cùng nhau. Không tên, không địa chỉ, không có những thông tin cá nhân thừa thãi. Chỉ là..."

Người phụ nữ tiếp lời, "... là hai người đi xem kịch cùng nhau, đi cùng nhau một buổi tối. Tôi thấy như thế là hợp lý thôi, hay nói đúng hơn là cần thiết. Cứ như vậy đi. Làm thế thì cũng đỡ phải e dè hơn, cũng tránh được phải nói dối nữa." Cô ta đưa tay ra cho hắn. Hai người bắt tay thống nhất về ý đó. Lần đầu tiên, người phụ nữ cười – nụ cười có thể nói là dễ mến nhưng cũng không quá ngọt ngào.

Hắn ra dấu gọi nhân viên quầy, định thanh toán đồ uống cho cả hai người.

"Tôi đã trả tiền phần tôi rồi, trước khi anh tới cơ," người phụ nữ nói. "Tôi vẫn đang uống dở ly đó thôi."

Nhân viên quầy móc trong túi ra tập giấy nhỏ, ghi bằng bút chì 'Scotch – 60' lên trên cùng, xé tờ giấy ra rồi đưa cho hắn.

Hắn thấy rằng tập giấy đó có đánh số thứ tự, hắn cũng thấy nhân viên quầy đã ghi vào đó một con số tròn trịa màu đen – 75 - ở góc trên. Hắn cười, đưa trả lại cho nhân viên quầy, kèm theo số tiền tương ứng, rồi quay người đi ra sau người phụ nữ.

Cô ta lúc này đã đi trước ra phía cửa. Một cô gái trẻ ngồi cùng bạn trai ở bàn cạnh tường liền ngoái lại, tròn mắt nhìn theo chiếc mũ rực rỡ khi nó lướt qua. Hắn, đi đằng sau, vừa kịp nhìn thấy hành động đó.

Ra đến bên ngoài, cô ta nói với hắn, cũng là đặt câu hỏi. "Giờ tôi sẽ theo anh."

Hắn ngoắc tay gọi một chiếc taxi đang đợi cách đó một quãng. Một chiếc lướt tới, dù cái ngoắc tay không dành cho nó, cố gắng chen ngang bắt khách. Chiếc taxi kia, vì bức xúc, lập tức chồm lên chiếm vị trí tiên phong, nhưng không tránh khỏi có chút va chạm nhẹ khiến đầu xe bị đối thủ cạnh tranh làm cho bị móp. Cho đến lúc xung đột giữa hai chiếc xe đã trở nên êm thấm hơn và người tài xế của chiếc taxi được ngoắc gọi đã hạ hỏa đến mức đủ để quay sang tiếp khách thì người phụ nữ đã vào trong xe.

Còn hắn thì đợi một lát ở cạnh ghế của lái xe để thông báo nơi đến, "Maison Blanche," rồi mới theo cô ta vào xe ngồi.

Đèn trong xe vẫn sáng, họ kệ nó sáng như vậy. Có lẽ là họ cho rằng việc tắt đèn đi là thể hiện một điều gì đó thân mật mà cả hai người bọn họ đều thấy dịp này là không phù hợp.

Hắn nghe thấy cô ta khẽ cười khúc khích, nhìn theo hướng mắt thì cũng cười theo, tỏ ý đồng tình. Ảnh trên bằng lái của tài xế taxi thì hiếm khi được coi là mẫu mực về vẻ đẹp khi chụp ảnh chân dung, nhưng ảnh của người này lại tiến thêm một bậc vì nó trông giống như một bức biếm họa với đôi tai vểnh, cằm dài nghều và đôi mắt trố lồi. Cái tên được in kèm trên đó cũng ngắn một cách khác thường: Al Alp.

Tâm trí hắn ghi nhận điều này, nhưng rồi lại bỏ qua.

Maison Blanche là một nhà hàng dành cho những bữa ăn thân mật, đồng thời cũng rất nổi tiếng về chất lượng tuyệt hảo của đồ ăn. Đây là một trong những nơi ngay cả một tiếng suỵt cũng là lớn, ngay cả trong những giờ đông khách nhất. Ở đây không được phép phát nhạc hay bất kỳ một cái gì khác có thể làm hỏng mục đích duy nhất của nó.

Tại tiền sảnh, người phụ nữ tách khỏi hắn. "Có lẽ tôi phải đi sửa chữa lại những tác động của thời gian. Anh đừng đợi ở đây. Cứ vào trong, ngồi trước đi nhé. Tôi sẽ vào sau."

Khi cánh cửa phòng vệ sinh mở ra trước mặt cô ta, hắn thấy cô ta đưa tay lên phía chiếc mũ, dường như định cởi mũ ra. Cánh cửa đóng lại trước khi cô ta hoàn tất động tác này.

Hắn đoán già đoán non rằng việc này chẳng qua là do dũng khí của người phụ nữ này đã có một chút giảm sút, thế nên cô ta phải tách ra, bỏ cả mũ ra nữa, để rồi giản dị hơn khi bước vào trong sau hắn, tránh lôi kéo quá mức những đôi mắt tò mò.

Một tay bồi bàn, có lẽ là bồi trưởng, chào hắn ngay ở cửa phòng. "Bàn một chỗ, thưa ông?"

"Không, tôi đã đặt bàn cho hai người." Rồi hắn nói tên, "Scott Henderson."

Cái tên đó có trong danh sách. "Đúng rồi." Người bồi bàn nhìn chéo qua vai vị khách. "Ông chỉ đi một mình chăng, ông Henderson?"

"Không phải," Henderson phủ nhận.

Hắn chỉ thấy còn một bàn trống. Bàn này nằm ở vị trí đặc biệt là trong một khoảng không gian ăn vào bức tường do đó nếu muốn nhìn thấy người ngồi tại bàn đó thì chỉ có thể đứng từ đằng trước vì ba phía đều đã ngăn với các bàn khác.

Khi người phụ nữ xuất hiện tại lối vào phòng ăn, cô ta không còn đội mũ nữa, và hắn thực sự ngạc nhiên về tác động của chiếc mũ đối với cô ta từ trước tới lúc này. Ở cô ta có một cái gì đó đơn điệu. Sự rực rỡ đã không còn; tác động từ cá tính lúc này mờ nhạt và yếu ớt. Cô ta đơn giản là một người phụ nữ mặc đồ đen, tóc màu nâu sẫm, là một cái gì đó chắn ngang tầm mắt – thế thôi. Không hẳn giản dị, không hẳn xinh đẹp, không cao, không gầy, không quê mùa, cũng không lạc mốt; chẳng có gì nổi bật, mọi thứ như không có màu sắc, chỉ là một người mang đặc điểm của phụ nữ như mọi người trên phố. Một con số không. Mà cũng có thể là một tập hợp các yếu tố.

Không có cái đầu nào ngoái lại rồi tiếp tục ngoái lại lâu hơn cần thiết dù chỉ một giây, cũng không có cái đầu nào ngoái lại rồi lại phải ngoái lại lần nữa để khẳng định điều mình thấy.

Tay bồi trưởng, do lúc này đang bận rộn với một đĩa salad, nên không thể chỉ đường cho cô ta. Henderson đứng lên để cô ta biết hắn ở đâu. Cô ta không bước thẳng tới qua giữa phòng, hắn có để ý, mà lại ý tứ đi lòng vòng ở hai bên, quãng đường dài hơn nhưng cũng kín đáo hơn.

Chiếc mũ được chuyển từ trên tay người phụ nữ sang mặt chiếc ghế thứ ba tại bàn họ ngồi, được che một phần bằng chiếc khăn trải bàn, có lẽ là để khỏi bị dây bẩn.

"Anh có hay đến đây không?" cô ta hỏi.

Hắn cố tình làm như không nghe thấy.

"Xin lỗi," cô ta nói nhẹ nhàng, "chuyện đó liên quan tới hoạt động cá nhân của anh mất rồi."

Người bồi bàn của họ có một nốt ruồi trên cằm. Hắn thấy khó có thể mà không nhìn thấy nốt ruồi đó.

Hắn gọi món cho hai người, không hỏi ý kiến người phụ nữ đi cùng. Còn cô ta thì chăm chú lắng nghe, đến khi hắn gọi món xong thì còn tặng cho hắn một cái nhìn mến mộ.

Câu chuyện khởi đầu khá khó khăn, cũng bởi vì có rào cản lớn về phía người phụ nữ khi lựa chọn chủ đề để nói cũng như thái độ khó chịu của chính hắn. Cũng như đàn ông nói chung, hắn hầu như để người phụ nữ tùy nghi mở đầu câu chuyện, chẳng mấy khi hắn chủ động nói trước. Mặc dù bề ngoài hắn cũng tỏ vẻ đang lắng nghe lời cô ta nói, nhưng thực ra phần lớn thì tâm trí hắn đang lang thang đâu đó. Thỉnh thoảng hắn cũng nỗ lực đưa tâm trí trở lại với thực tại một cách khó khăn khi mà sự sao nhãng trở nên rõ ràng, rất có thể sẽ biến thành thái độ bất lịch sự nếu không kịp kìm hãm.

"Cô không muốn cởi găng tay ra sao?" hắn nói một lúc nào đó. Đôi găng tay màu đen, cũng như những phần khác trên trang phục của người phụ nữ, tất nhiên là trừ cái mũ. Đeo găng tay dự tiệc coctail, tiệc đứng thì cũng không bị coi là dị hợm, nhưng nó khiến người ta lóng ngóng khi phải cầm dĩa để xiên một miếng chanh trên đĩa như cô ta đang làm lúc này.

Người phụ nữ lập tức tháo găng tay bên phải. Găng tay bên trái thì tháo ra chậm rãi hơn, có vẻ như cô ta vẫn có ý định giữ nó trên tay trước khi có quyết định cuối cùng là nó nên đi theo chiếc kia.

Hắn cố gắng không nhìn vào vệt nhẫn cưới trên tay mà hướng ánh mắt sang một cái gì đó khác. Nhưng hắn biết là cô ta biết là hắn đã nhìn thấy.

Cô ta là người dễ tiếp chuyện, mặc dù không phải thật sự đặc sắc. Cô ta đủ tinh tế để tránh không nói tới những chuyện tầm thường hay nhỏ nhặt: thời tiết, tựa báo, mấy món ăn trên bàn.

"Cái bà diễn viên người Nam Mỹ trong buổi diễn lát mình đi xem ấy, tên là Mendoza ấy, tôi đã có dịp xem một lần rồi, khoảng một năm trước. Lúc đó bà ta hầu như nói không có âm hưởng ngoại quốc. Thế mà càng diễn nhiều ở đây thì tiếng Anh của bà ta lại càng dở đi thì phải, nói càng ngày càng nặng. Thêm một mùa diễn nữa thì bà ta sẽ chỉ còn nói được tiếng Tây Ban Nha thôi."

Hắn đáp lại cô ta bằng một nửa nụ cười. Cô ta là người có giáo dục, hắn thấy được điều đó. Chỉ có người có giáo dục đường hoàng mới có thể làm được những gì cô ta làm hôm nay mà không bị bẽ mặt hay chuyển sang một hướng hoàn toàn khác. Cô ta giữ được phong thái cân bằng giữa một bên là đoan trang và một bên là buông thả. Và đó, nếu như cô ta nghiêng dù chỉ một chút thôi về một bên nào đó thì cô ta sẽ có nét đáng nhớ, dễ nhớ hơn nhiều.

Nếu như cô ta được giáo dục ít đi một chút thì hẳn cô ta sẽ có những thái độ xuồng xã, ham hố hay tham lam. Nếu như được giáo dục tốt hơn một chút thì sự thông minh, lanh lợi cũng sẽ được thể hiện rõ hơn – như thế thì đáng nhớ nhơn. Dù nghiêng về thái cực nào đi nữa thì như thế cũng sẽ tốt hơn là đung đưa ở giữa như hiện giờ.

Đến cuối bữa, hắn thấy cô ta quan sát chiếc cà-vạt hắn đang đeo. Hắn nhìn xuống như dò hỏi. "Màu có vấn đề ư?" hắn gợi ý. Chiếc cà-vạt đó là loại đơn sắc, không có chút họa tiết nào.

"Không, đẹp, đứng riêng nó thì đẹp," cô ta vội trấn an. "Có điều tôi thấy không hợp – có mỗi chiếc cà-vạt là không hợp tông với trang phục của anh. Xin lỗi nhé, tôi không có ý định chỉ trích gì đâu."

Hắn nhìn xuống một lần nữa, lúc này cũng có chút tò mò, như thể chính hắn đến giờ cũng mới để ý xem là mình đeo cà-vạt nào. Người phụ nữ có thể thấy hắn khá ngạc nhiên khi thấy màu sắc của nó. Hắn gỡ gạc phần lạc điệu mà cô ta mới chỉ ra đó bằng cách ấn chiếc khăn tay đang thò ra trên túi áo tụt hẳn vào trong.

Hắn châm thuốc cho cả hai người. Hắn và người phụ nữ tiếp tục ngồi đó uống cognac một lúc, sau đó cùng nhau đi ra.

Ra đến tiền sảnh – đến tận phần mái kính bên ngoài – thì cô ta mới lại đội chiếc mũ da cam lên đầu. Cô ta lại trở nên sinh động, lại có điểm đáng nhớ. Hiệu ứng chiếc mũ tạo ra được với người phụ nữ này thật là tuyệt vời, hắn thầm nghĩ, giống như người ta bật điện cho đèn chùm trên trần sáng lên vậy.

Một người khổng lồ, cao gần hai mét, đang đứng giữ cửa tại nhà hát ra mở cửa taxi cho họ khi chiếc xe tấp vào lề. Đôi mắt của anh ta như lồi ra một cách hài hước khi chiếc mũ lướt qua ngay bên dưới mắt. Ông ta có cặp ria trắng to, cong như ngà voi, trông giống như một bức ảnh minh họa về người gác cổng nhà hát trên tạp chí New Yorker. Cặp mắt lồi đó đảo từ phải sang trái khi người đội mũ bước xuống xe, đi qua trước mặt. Henderson có nhận thấy tình tiết ngộ nghĩnh này, nhưng chỉ thoáng chốc là lại quên ngay. Quên như những việc chẳng cần gì phải nhớ vậy.

Đại sảnh nhà hát lúc này hoàn toàn trống trải – dấu hiệu cho thấy họ đến muộn tới mức nào. Ngay cả người soát vé cũng không còn ở vị trí làm việc ở cửa nữa. Một bóng người đen đen không rõ mặt xuất hiện chắn ngang luồng sáng từ sân khấu, chắc đó là nhân viên hướng dẫn, đến bên họ ngay khi họ bước qua cửa, xem vé bằng đèn pin, sau đó dẫn họ men theo lối đi, dùng đèn pin tạo thành một hình trái xoan trắng trên nền, chỉ cho họ tới chỗ ngồi.

Họ ngồi ngay hàng đầu tiên. Hơi quá gần. Sân khấu như nhòe đi trước mắt họ với màu da cam, trước khi mắt họ quen dần với những gì được bố trí cận cảnh.

Cả hai kiên nhẫn theo dõi tất cả những tình tiết trên sân khấu, hết cảnh này tới cảnh khác, hòa quện vào nhau với sự ảnh hưởng rõ rệt từ nghệ thuật điện ảnh. Người phụ nữ có lúc mở to mắt thưởng thức, có lúc lại bật cười thành tiếng. Trong khi đó thì hắn chỉ có thể miễn cưỡng cười theo như để hoàn thành nghĩa vụ. Tiếng nhạc ồn ào kết hợp với màu sắc rực rỡ từ ánh đèn sân khấu đạt đến cao trào, tấm màn rủ được hạ xuống, báo hiệu giờ tạm nghỉ đã tới.

Đèn trong rạp hát bật sáng, mọi người xung quanh lục đục đứng dậy rồi đi ra ngoài.

"Cô ra làm điếu thuốc không?" hắn hỏi.

"Cứ ngồi ở đây đi. Ta đâu có ngồi lâu bằng họ đâu chứ." Cô ta dựng cổ áo khoác thẳng lên phía sau gáy. Nhà hát lúc này cũng khá ngột ngạt, nên động thái vừa rồi, theo hắn nghĩ, là để khiến cô ta càng ít bị trông thấy càng tốt.

"Có thấy cái tên nào anh quen không?" cô ta nói nhỏ, kèm theo một nụ cười.

Hắn nhìn xuống, thấy ngón tay đang bận rộn gập góc phía bên phải của từng trang chương trình biểu diễn, bắt đầu từ phía trang cuối. Tất cả các trang lúc này đều đã bị gập, tạo thành những hình tam giác nhỏ chồng lên nhau ở góc. "Tôi hay làm thế này, thành thói quen rồi, nhiều năm rồi. Tôi nghĩ nếu cô gọi là thành tật rồi thì cũng được. Nhiều lúc tôi còn không biết tôi đang táy máy như thế."

Cánh cửa sập nhỏ dưới sân khấu bật mở, từ đó đi lên là dàn nhạc, vào vị trí, sẵn sàng cho phần hai buổi diễn. Người đánh trống là người ở vị trí gần họ nhất, chỉ cách có một thanh chắn. Anh ta trông như một con chuột cả chục năm chưa được ra ngoài hít không khí trong lành. Da mặt bám căng trên xương gò má, tóc bị vuốt bẹp như thể người ta đang đội mũ chùm tóc trong buồng tắm, chẻ ngôi ở giữa. Anh ta có một bộ ria mép nhỏ, nhìn qua khiến người khác tưởng nhầm là vết bẩn dưới mũi.

Anh ta lúc đầu không nhìn xuống phía khán giả mà chỉ bận bịu chỉnh ghế, buộc cái gì đó cho chặt trên bộ trống. Sau đó, khi đã bắt đầu rảnh rang, anh ta chợt phát hiện ra người phụ nữ và chiếc mũ đặc biệt.

Rõ ràng cái anh ta nhìn thấy có một tác động thị giác rõ rệt. Khuôn mặt đờ đẫn, thiếu tinh lực của anh ta đột nhiên đông cứng như bị thôi miên. Miệng anh ta khẽ mở, như miệng cá, và cứ mở như vậy. Thỉnh thoảng anh ta cũng cố gắng không tròn mắt nhìn người phụ nữ đó, nhưng cô ta đã choán hết tâm trí anh ta rồi, nên việc xao nhãng nhìn chỉ là thoáng chốc, cặp mắt anh ta lại trở về vị trí quan sát như cũ.

Henderson cũng để ý tới việc này một lúc với vẻ quan tâm xen lẫn thú vị. Nhưng đến khi thấy cái nhìn chăm chú đó bắt đầu khiến cô ta bắt đầu không còn thoải mái thì hắn quyết định phải ngăn lại ngay bằng cách trợn mắt đáp trả tay trống, khiến anh ta phải quay trở lại với đống nhạc cụ rồi không quay sang nữa. Nhưng rõ ràng là dù cho anh ta đã quay đi chỗ khác, nhưng anh ta vẫn không ngừng nghĩ về người phụ nữ này, chỉ cần xét từ cái cổ cứng đờ, nganh ngảnh của anh ta lúc này.

"Hình như tôi gây chú ý quá," người phụ nữ khúc khích cười.

"Tay trống này sẽ không còn chơi hay như lúc trước được nữa đâu," hắn nhận xét.

Những hàng ghế phía sau họ lại bắt đầu kín chỗ. Đèn trong nhà hát giảm ánh sáng, rèm được kéo lên và đoạn mở đầu cho phần hai bắt đầu. Hắn lại tiếp tục vừa xem vừa nghịch mép các trang chương trình đã bị gập thành hình tam giác.

Khoảng giữa phần hai của vở kịch thì tới một đoạn cao trào, sau đó cả dàn nhạc không còn chơi nữa. Trên sân khấu lúc này vang lên tiếng trống nhỏ tum tum và tiếng lạo xạo, tiếp theo là sự xuất hiện của ngôi sao lớn nhất của đêm diễn, Estela Mendoza, nữ diễn viên nhạc kịch gốc Nam Mỹ.

Người phụ nữ bên cạnh hắn cựa quậy khá mạnh trước khi chính hắn phát hiện ra nguyên nhân của việc đó. Hắn nhìn cô có vẻ không hiểu, rồi lại nhìn lên sân khấu.

Hai người phụ nữ lúc này đều đã nhận ra tình huống trớ trêu mà nam giới không thể theo kịp được trong nhận thức. Một tiếng thì thầm tới tai hắn. "Nhìn mặt bà ta kìa. May mà có đèn rọi sáng, chứ không bà ta dễ giết tôi lắm."

Ngọn lửa căm hận là thứ chẳng khó khăn gì có thể thấy được trong cặp mắt đen láy của người nghệ sĩ trên sân khấu, lấn át cả nụ cười thường trực trên môi của bà ta khi cặp mắt đó dừng ở chiếc mũ trông giống hệt chiếc mũ mà bà ta đang đội, ở cạnh hắn, ngay tại hàng thứ nhất, nơi người nghệ sĩ đó chẳng thể không trông thấy.

"Giờ thì tôi hiểu người ta lấy cảm hứng cho tác phẩm này của tôi từ đâu rồi," người phụ nữ cạnh hắn buồn rầu lẩm bẩm.

"Nhưng có gì mà phải bực đến thế? Tôi nghĩ có khi bà ấy còn thích là đằng khác."

"Ôi, đàn ông các anh sao mà hiểu được chứ. Nữ trang giống cũng được, răng vàng giống cũng được, nhưng mũ mà giống thì không được. Nhất là lúc này lại là tiết mục gây chú ý nhất của bà ta nữa, tiết mục bà ta tạo nên tên tuổi. Có khi là ăn cắp bản quyền rồi, tôi chắc là bà ta không đời nào cho phép..."

"Cũng có thể là đạo ý tưởng."

Hắn xem phần biểu diễn với sự hứng thú chỉ được cải thiện một chút ít, nếu như trước đó với hắn thì mọi điều chẳng có gì đáng bận tâm.

Thứ nghệ thuật của bà ta thật đơn giản. Nghệ thuật thực sự vốn như vậy. Và nhiều lúc để thành công thì cũng chỉ cần đơn giản. Bà ta hát bằng tiếng Tây Ban Nha, nhưng hắn thấy ngay cả khi nghe bằng thứ ngôn ngữ đó thì lời hát hẳn cũng chẳng mấy ý nghĩa gì. Lời hát nghe như 'Chica chica bum bum. Chica chica bum bum'. Cứ thế lặp đi lặp lại.

Người nghệ sĩ vừa hát vừa đảo mắt qua lại sang hai bên, lắc hông nhịp nhàng theo từng bước đi trên sân khấu, tay không quên ném những bông hoa nhỏ từ một cái giỏ bà ta mang bên mình xuống chỗ các nữ khán giả.

Đến khi đoạn điệp khúc trên đã được lặp lại tới hai lần thì tất cả những khán giả nữ ở hai, ba hàng ghế đầu đều đã có một món quà nho nhỏ trong tay. Ngoại trừ người phụ nữ đi cùng với Henderson.

"Bà ta cố tình lờ tôi đi để trả đũa cho vụ cái mũ đấy," cô ta thì thầm. Và thực tế cũng cho thấy mỗi lần cái bóng mềm mại vừa đi vừa gõ đế giày trên sân khấu kia lướt qua vị trí quan sát thuận tiện thì sự thù địch như điện giật từ cặp mắt trang điểm kỹ càng kia lại hướng tới đúng vị trí của nữ khán giả trên hàng ghế đầu.

"Tôi gọi bà ta cho anh xem," cô ta nói nhỏ, chỉ đủ cho hắn nghe thấy. Dứt lời, cô ta chụm tay lại, để ngay trước mặt, hòng thu hút sự chú ý.

Nhưng hành động đó bị phớt lờ.

Cô ta vẫn chụm tay, nhưng lần này là vươn cả cánh tay ra, và cứ giữ như khẩn cầu.

Cặp mắt trên sân khấu có vẻ thoáng tròn hơn, nhưng lấy lại đường nét thông thường rất nhanh, hướng về phía khác.

Đột nhiên người phụ nữ đi cùng Henderson búng tay khá to, không thể lẫn được. Một tiếng tách khô khốc, đủ để át cả tiếng nhạc. Cặp mắt trên sân khấu vòng trở lại, ngọn lửa lại bùng lên như muốn thiêu đốt kẻ thách thức. Một bông hoa nữa bay xuống hàng ghế bên dưới, nhưng vẫn không phải dành cho cô ta.

"Khi người ta cố tình chơi tôi thì tôi biết ngay," hắn nghe thấy tiếng người phụ nữ thầm thì. Nhưng trước khi hắn hiểu được hết ý của câu nói đó thì cô ta đã đứng dậy, ngay giữa đám khán giả, miệng cười như hoa, tỏ rõ thái độ muốn có phần cho mình.

Trong khoảnh khắc đó, giữa hai người tồn tại một khoảng lặng mênh mông. Nhưng cán cân quá thiên lệch. Người nghệ sĩ, nói cho cùng, đang phải chịu áp lực quá lớn từ vị khán giả này, vì bà ta phải bằng mọi giá duy trì được cái ảo ảnh về sự ngọt ngào và quyến rũ đối với những khán giả còn lại.

Việc người phụ nữ cạnh Henderson đứng lên còn gây ra một tác động không lường trước khác. Khi người nghệ sĩ trên sân khấu chầm chậm từng bước quay trở lại, thì đèn rọi vẫn tiếp tục ngoan ngoãn dõi theo bước chân bà ta, chếch xuống, rồi bất ngờ chiếu thẳng vào phần đầu và vai của người khán giả đang đứng thẳng, chắn trước dàn nhạc. Sự giống nhau của hai chiếc mũ lập tức bị phát hiện và nó lập tức tạo ra những làn sóng liên tiếp những lời bình phẩm rầm rì lan dần ra bên ngoài, giống như khi người ta ném một viên sỏi xuống ao nước lặng.

Người nghệ sĩ chịu thua, chịu thua ngay lập tức, để chấm dứt sự so sánh đáng xấu hổ này. Một bông hoa có phần héo úa được ném ra, tạo thành một đường cong nhỏ qua ánh đèn rọi. Bà ta khỏa lấp thiếu sót đó bằng một nụ cười buồn, như thể muốn nói, 'Tôi bỏ qua cô ư? Tha lỗi cho tôi, tôi đâu có ý như vậy.' Nhưng phía sau đó, ta có thể thấy được một cơn bão biển miền nhiệt đới đang hoành hành.

Người bạn đồng hành của Henderson khéo léo bắt lấy món quà và ngồi lại xuống ghế, trên môi cũng có một nụ cời rạng rỡ. Chỉ có hắn mới đọc được những từ thực sự phát ra từ đó, "Cám ơn, cám ơn... con điếm Latinh." Hắn như thấy bị nghẹn trong cổ.

Người nghệ sĩ bại trận chầm chậm thoái lui vào hậu trường với những bước đi không đều, cùng lúc với tiếng nhạc tắt dần như tiếng còi tàu mỗi lúc một xa.

Trong hậu trường, dù chỉ thoáng qua, nhưng người ta có thể thấy khá rõ rằng khi khán giả vẫn còn đang vỗ tay rộn ràng bên ngoài, hai cánh tay áo sơ-mi lực lưỡng, hẳn là của người phụ trách sân khấu, phải cản người nghệ sĩ đang cố gắng quay trở lại sân khấu một lần nữa – chắc là định cúi chào thêm mấy cái mà thôi. Hai bàn tay của người nghệ sĩ bị giữ chặt ở bên sườn, do bị kiềm chế trong gọng kìm của người đàn ông không rõ mặt kia, đã co lại thành hình nắm đấm và đang vùng vẫy quyết liệt. Nhưng lúc đó đèn sân khấu đã tắt, chuẩn bị cho màn diễn tiếp theo.

Khi đã hết màn diễn cuối, họ đứng lên ra về, hắn quẳng tờ chương trình vào trong ô để rác của chiếc ghế hắn vừa ngồi. Hắn lại một lần nữa ngạc nhiên khi thấy cô ta cúi xuống nhặt, xếp cùng vào tờ chương trình cầm trên tay. "Để lưu ký ức," cô ta nói.

"Tôi không ngờ cô cũng đa cảm thế," hắn vừa nói vừa tiến tới đi sát ngay sau cô ta trên lối đi.

"Không phải đa cảm đâu, thật đấy. Thực ra... thỉnh thoảng tôi có rà lại những phút bốc đồng, thiếu kiểm soát của mình. Giữ lại những thứ như thế này sẽ có ích cho tôi."

Thiếu kiểm soát ư? Chắc là vì cô ta đã đi cùng với hắn cả buổi tối cho dù trước đó chưa hề gặp, hắn nghĩ vậy. Hắn nhún vai – dĩ nhiên là trong lòng, không thể hiện ra ngoài.

Khi họ chen trong đám đông nhộn nhạo ngoài cửa rạp về phía một chiếc taxi thì lại có một sự có nho nhỏ xảy ra. Lúc này họ đã gọi được taxi rồi, nhưng chưa kịp vào xe thì có một người hành khất mù bước tới, nấn ná ở bên cạnh người phụ nữ, không nói gì nhưng dứ dứ chiếc bát trước mặt. Điếu thuốc cháy dở trên tay cô ta bị rơi, có thể là do lỗi của chính người hành khất hoặc là do bị những người khác xung quanh xô đẩy, và nó lại rơi thẳng vào chiếc bát đó. Henderson trông thấy, nhưng cô ta thì không. Trước khi hắn kịp can thiệp thì con người tội nghiệp kia đã thò tay vào trong bát tìm vận may, để rồi phải chịu đau đớn mà rụt tay lại.

Henderson nhanh chóng dụi tắt điếu thuốc, đặt tờ một đô-la vào tay người hành khất để bù đắp. "Xin lỗi anh bạn, không phải cố ý đâu," hắn thầm thì. Thấy rằng kẻ bị nạn kia vẫn đau đớn thổi phù phù vào đầu ngón tay tấy đỏ, hắn rút một đô-la nữa cho người hành khất, đơn giản là vì việc đó rất dễ bị hiểu nhầm là một hành động chơi xỏ, xấu xa, mà về phía hắn thì thấy rõ cô ta không hề có ý định như vậy.

Hắn và người phụ nữ chui vào xe, rồi xe chạy đi. "Thật là đáng thương, nhỉ?" cô ta chỉ nói có thế.

Lúc này hắn vẫn chưa nói điểm đến cho lái xe.

"Mấy giờ rồi nhỉ?" cô ta hỏi.

"Gần mười hai giờ kém mười lăm."

"Hay là ta quay lại quán Anselmo, chỗ gặp lúc đầu ý. Uống ở đó một chút rồi chia tay. Anh đi đường anh, tôi đường tôi. Như thế là trọn một vòng tròn rồi."

Vòng tròn thì thường trống rỗng ở giữa, hắn nghĩ vậy, nhưng hắn thấy nếu nói ra thì quả là bất lịch sự.

Quầy bar lúc này còn đông khách hơn lúc sáu giờ. Thế nhưng gã vẫn kiếm được một chiếc ghế cho cô bạn đồng hành ở góc cuối, sát vào tường, còn gã thì chấp nhận đứng bên cạnh.

"Bây giờ," cô ta nói, nâng chiếc ly chỉ khoảng hai xăng-ti-mét phía trên mặt quầy, mắt nhìn nó chăm chú, "nâng cốc và chào vĩnh biệt. Rất vui có dịp gặp anh."

"Cám ơn cô đã có lời như vậy."

Họ uống; hắn uống cạn, còn cô ta chỉ uống một phần. "Tôi sẽ ở lại đây một lúc nữa," cô ta nói như đuổi khéo, rồi chìa tay ra. "Chúc anh ngủ ngon... và cả may mắn nữa."

Họ bắt tay chóng vánh, giống như những người chỉ quen nhau chóng vánh. Sau đó, khi hắn chuẩn bị quay đi, cô ta khẽ nheo mắt như thể trầm tư. "Giờ anh đã giải tỏa được rồi, sao anh không về làm lành với cô ấy đi?"

Hắn có phần kinh ngạc.

"Anh tưởng cả tối nay tôi không hiểu gì hay sao?" cô ta nói nhỏ.

Sau câu nói đó, họ chia tay. Hắn đi ra phía cửa, còn người phụ nữ quay trở lại với ly rượu. Chương sách ngắn ngủi về họ đã hết.

Hắn có nhìn lại khi đến cửa bên ngoài, hắn vẫn thấy cô ta ngồi đó, tít phía tường bên trong, mép ngoài cùng của quầy bar, đầu cúi xuống trầm tư, có thể là đang vờn chân đế chiếc ly. Chiếc mũ da cam rực rỡ lúc này tạo thành một vùng hình chữ V nằm giữa hai vai của hai người xuất hiện phía sau lưng cô.

Đó là điều cuối cùng, cái màu da cam rực rỡ của chiếc mũ nhòe dần sau làn khói thuốc và bóng người, phía cuối căn phòng sau lưng hắn, như một giấc mơ, như thể khung cảnh đó chẳng hề có thực, chưa hề có thực.


NỬA ĐÊM

Mười phút sau, cách đó tám khu nhà và một đường thẳng – hai đường thẳng: một đường thẳng dài bảy khu nhà rồi sau đó là một đường thẳng tiếp về bên trái – hắn ra khỏi taxi khi xe táp vào góc đường cạnh một khu chung cư.

Hắn bỏ số tiền lái xe trả lại vào trong túi, rồi lấy chìa khóa riêng ra mở cửa tiền sảnh, sau đó bước vào trong.

Trong sảnh, có một người đàn ông đang lững thững chờ ai đó. Ông ta không ngồi mà đi hết góc này tới góc kia, chỗ này tới chỗ kia, giống như người ta hay làm khi đợi ở sảnh. Ông ta không sống ở tòa nhà này; Henderson chưa gặp ông ta bao giờ. Ông ta cũng chẳng phải đang đợi thang máy vì đèn báo không sáng, thang máy vẫn nằm yên đâu đó ở các tầng phía trên.

Henderson bước qua ông ta mà không nhìn lần thứ hai, tự bấm nút gọi thang máy xuống.

Người đàn ông giờ đã dừng lại trước một bức tranh trên tường, có vẻ quan sát nó một cách quá kỹ lưỡng hơn mức nó đáng được hưởng. Ông ta đang quay lưng lại phía Henderson. Thực ra có vẻ như ông ta đang cố tình tỏ ra là không biết có ai khác ở trong sảnh.

Chắc tay này có lương tâm tội lỗi gì đó, Henderson thầm nhủ. Bức tranh đó có gì đáng quan tâm tới mức đó đâu. Chắc tay này đang đợi ai trên kia xuống – đang đợi người mà tay này không có quyền được đưa đi chơi giờ này.

Nhưng rồi Henderson lại nghĩ: nhưng mà quan tâm làm gì chứ, có gì liên quan tới mình đâu?

Thang máy xuống tới nơi, hắn bước vào. Cánh cửa bằng đồng nặng nề khép lại. Hắn bấm nút số sáu, hàng trên cùng. Gian sảnh như tụt xuống, chỉ còn thoáng thấy qua ô kính nhỏ hình thoi gắn trên cánh cửa khoang thang máy. Nhưng cũng vừa lúc đó thì hắn trông thấy người-xem-tranh, rõ ràng là đã mất kiên nhẫn vì phải đợi lâu nên đã bước nhanh tới phía chiếc điện thoại. Vẫn lại là một hành động hắn thấy chẳng cần để tâm làm gì.

Đến tầng sáu, hắn ra ngoài, bắt đầu lục tìm chìa khóa nhà. Lối đi hoàn toàn yên tĩnh; không hề có một âm thanh nhỏ nào xung quanh hắn, trừ tiếng lách cách của mấy đồng xu lẻ trong túi hắn khi hắn tìm kiếm chìa khóa.

Hắn cắm chìa khóa, cánh cửa nằm ngay bên phải thang máy, rồi mở cửa ra. Trong nhà đèn tắt, mọi thứ tối đen như mực. Thấy cảnh này, vì một lý do nào đó, hắn gầm gừ bực tức như không tin nổi vào mắt mình.

Hắn bật công tắc đèn, gian phòng nhỏ lập tức sáng bừng trước mắt hắn. Nhưng bóng đèn đó chỉ đủ sáng cho đúng căn phòng ngoài này mà thôi. Phía phòng trong trước mặt hắn, cách đó một khung cửa cong cong, vẫn tối đen như cũ, hoàn toàn không thể nhìn thấy gì.

Hắn đóng cửa lại, quẳng cả mũ lẫn áo lên một chiếc ghế trong phòng. Sự yên lặng và bóng tối kéo dài dường như làm gã khó chịu. Vẻ cau có bắt đầu tái hiện trên gương mặt gã – chính cái vẻ cau có lộ liễu hắn mang ra đường vào lúc sáu giờ tối.

Hắn gọi một cái tên, hướng về phía không gian đen kịt ở phòng trong, cách cái vòm cửa. "Marcella!" Hắn gọi như ra lệnh, không hề có một chút nhẹ nhàng, thân thiện nào.

Bóng tối không trả lời.

Hắn sải bước tiến vào, vẫn giữ cái giọng cộc cằn, trịnh thượng như trước. "Thôi đi, đừng giở trò nữa! Tôi thừa biết cô còn thức. Cô lại định vờ vĩnh với ai đây chứ? Tôi thấy đèn phòng ngủ còn sáng lúc ở dưới phố ấy. Dậy đi, thế này chẳng ăn thua gì đâu."

Sự yên lặng không đáp trả.

Hắn bước dấn tới trong bóng tối, hướng về một điểm trên tường mà hắn đã thuộc nằm lòng. Giọng hắn lúc này đã có phần dịu đi rồi. "Trước lúc tôi về thì cô vẫn còn thức. Cô vừa nghe thấy tôi về là cô lại ngủ say. Như thế càng làm cho mọi thứ khó khăn thêm thôi."

Tay hắn vươn ra, dò dẫm ở phía trước. Một tiếng tách vang lên trước khi tay hắn chạm được vào cái gì đó. Ánh sáng đến bất ngờ khiến hắn giật mình; sáng nhanh quá, trước dự định của hắn.

Hắn nhìn về phía trước cánh tay, thấy một đoạn nữa mới tới công tắc đèn; hắn còn chưa chạm tới mà. Nhưng từ chỗ công tắc có một bàn tay mới rụt lại, thoái lui dọc theo bức tường. Mắt hắn đuổi theo, dọc theo cánh tay, chếch lên, bắt gặp một gương mặt đàn ông.

Hắn kinh ngạc, hơi ngoái nhìn thì lại thấy một người khác đang đứng quan sát hắn từ phía đó. Hắn lại ngoái nhìn tiếp, xa hơn, gần như quay hẳn lại đằng sau, thì thấy có một người thứ ba đứng ngay sau lưng hắn. Cả ba người đứng đó như ba bức tượng, không cử động, tạo thành một vòng bán nguyệt quây quanh hắn.

Hắn đứng chết trân, quá đỗi ngạc nhiên, giữa ba người đàn ông này một lúc – không ai nói một lời nào – rồi hắn đảo mắt quanh phòng, tìm kiếm những đường nét, những vật quen thuộc để xem hắn có vào đúng chỗ hay không, để xem có phải hắn đã vào đúng nhà hay không.

Hắn dừng mắt tại cái đèn màu xanh đặt trên bàn cạnh tường. Đèn của hắn. Hắn thấy một chiếc ghế thấp đứng tựa trong góc phòng. Ghế của hắn. Hắn thấy một quyển album ảnh mở dựng đứng trên nóc một cái tủ thấp. Một bức ảnh về một khuôn mặt xinh đẹp, mắt to, mái tóc dày và quăn. Một bức ảnh khác là ảnh của chính hắn.

Hai khuôn mặt đang thờ ơ nhìn sang hai hướng đối diện nhau.

Thế nghĩa là hắn đã về đúng nhà rồi.

Hắn là người nói trước. Có vẻ như những người kia không có ý định nói gì. Có vẻ như họ có ý định cứ đứng thế mà nhìn hắn cả đêm. "Mấy người làm gì trong nhà tôi thế?" hắn gằn giọng.

Họ không trả lời.

"Các người là ai?"

Họ không trả lời.

"Các người muốn gì ở đây? Các người vào bằng cách nào?" Hắn lại gọi tên cô, lần này với thái độ bề trên, như thể yêu cầu cô giải thích về sự hiện diện của những kẻ lạ này. Hắn ngoái nhìn về cánh cửa khi gọi cô – đó là cánh cửa duy nhất trên tường ngoài vòm cửa hắn vừa đi qua – nhưng cánh cửa vẫn đóng. Đóng im ỉm, giấu giếm điều gì đó bí mật.

Họ nói gì đó. Hắn quay ngay về phía họ. "Ông là Scott Henderson?" Vòng vây quanh hắn lúc này đã thu nhỏ lại một chút.

"Đúng, đó là tên tôi." Hắn lại quay về cánh cửa kia, nhưng nó vẫn đóng. "Sao, có chuyện gì?"

Họ tiếp tục, với ý đồ rõ ràng là hỏi những câu hỏi họ muốn chứ không trả lời câu hỏi của hắn.

"Và ông sống ở đây, đúng không?"

"Đương nhiên là tôi sống ở đây."

"Và ông là chồng của Marcella Henderson, đúng vậy không?"

"Đúng! Còn các ông mau nói cho tôi biết chuyện này là thế nào."

Một trong ba người làm một động tác gì đó với lòng bàn tay – động tác này hắn nhất thời không lĩnh hội được, mà chỉ về sau – khi mọi chuyện đã rõ ràng – hắn mới hiểu.

Hắn định bước về phía cánh cửa đóng im ỉm đó, nhưng thấy rằng một trong ba người đã chắn trước mặt. "Cô ấy đâu? Cô ấy ra ngoài rồi ư?"

"Cô ấy không ra ngoài đâu, ông Henderson," một trong ba người nói khá nhỏ.

"Nếu cô ấy ở trong đó thì sao không ra đây?" Giọng hắn lúc này đã lại khá lớn. "Các người nói đi chứ? Nói đi!"

"Cô ấy không ra ngoài này được, ông Henderson."

"Chờ chút, ông vừa cho tôi xem cái gì ấy nhỉ? Phù hiệu cảnh sát à?"

"Bình tĩnh lại nào, ông Henderson."

Họ đang biểu diễn một màn ca múa tập thể vụng về với bốn nghệ sĩ. Hắn nhích một chút là họ cũng nhích cùng hắn. Hắn lại về chỗ cũ thì họ cũng lại bám theo hắn.

"Bình tĩnh cái gì? Tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra ở đây. Có cướp hay gì? Hay có tai nạn? Cô ấy bị đâm xe à? Buông tay ra, để tôi vào trong đó."

Nhưng họ có ba đôi tay, còn hắn chỉ có một. Hắn gỡ được một đôi thì hai đôi kia đã nắm lấy hắn ở chỗ khác. Chẳng mấy chốc hắn đã ở vào trạng thái kích động không kiểm soát được nữa. Sắp chuyển sang giai đoạn ẩu đả. Tiếng thở dồn dập của cả bốn người lúc này phủ đầy căn phòng yên tĩnh.

"Các người không được phép làm thế này với tôi. Đây là nhà tôi. Các người có quyền gì mà bắt vợ tôi ở trong phòng..."

Bất ngờ, họ ngừng. Người ở giữa ra hiệu gì đó với người ở gần cửa nhất, thể hiện sự nuông chiều miễn cưỡng. "Thôi được rồi. Để ông ta vào, Joe."

Cánh tay đang ấn cản hắn ngay lập tức rút lại, khiến hắn suýt nữa mất thăng bằng khi mở cửa, đi vào trong, loạng choạng một, hai bước đầu tiên.

Một căn phòng xinh xắn, thanh lịch. Căn phòng của tình yêu. Mọi thứ đều có màu chủ đạo là xanh dương và bạc, kèm theo là mùi hương thơm nhè nhẹ trong không khí mà hắn rất quen. Một con búp bê mặc váy xòe màu xanh dương đang ngồi trên chiếc bàn trang điểm, hình như đang nhìn hắn với ánh mắt đầy vẻ kinh hoàng và vô vọng. Một trong hai chiếc que thủy tinh trong suốt dùng để đỡ vải lụa xanh bao đèn giờ rơi gãy trên lòng con búp bê. Hai chiếc giường đều phủ vải xa-tanh màu xanh. Một chiếc thì phẳng lỳ như mặt băng, còn chiếc kia tạo thành một hình người đang nằm. Có ai đó đang ngủ, hoặc có ai đó đang ốm. Người đó bị phủ kín hoàn toàn từ đầu tới chân, chỉ có một hai lọn tóc xoăn thò ra ở phía trên, trông như những đám bọt bằng đồng thau.

Hắn khựng lại. Khuôn mặt hắn dần trở nên trắng bệch. "Cô ấy... cô ấy làm gì thế này! Ôi trời ơi..." Hắn kinh hoàng chuyển sang nhìn cái bàn nhỏ đặt giữa hai giường, nhưng không thấy gì trên đó cả. Không có cái cốc nào, không có cái chai nào, cũng không có lọ thuốc nào.

Hắn lật đật bước tới bên giường, cúi xuống, chạm vào cô qua lần vải phủ, nhận ra đó là bờ vai tròn trịa. Hắn khẽ lắc lắc. "Marcella, em có sao không...?"

Ba người kia cũng đã theo gã vào trong phòng. Hắn có cảm giác tất cả những gì hắn làm đều không thoát khỏi ba cặp mắt đang chăm chú kia. Nhưng hắn không có thời gian cho họ, chỉ còn tập trung vào cô.

Ba cặp mắt dừng ở cửa, quan sát. Quan sát hắn run rẩy lật tấm vải xa-tanh màu xanh dương. Quan sát tay hắn gập một góc tấm vải thành hình tam giác.

Khoảnh khắc tiếp theo thật kinh khủng, sẽ tạo thành một vết sẹo trong tim hắn cả đời, một khoảnh khắc hắn sẽ chẳng thể nào quên, khi hắn thấy cô cười. Một nụ cười không còn sức sống, đông cứng. Mái tóc xõa ra trên gối, xòe như một chiếc quạt.

Hai tay hắn chắp lại, hắn lùi ra đằng sau, từng bước một. Tấm vải xa tanh về vị trí cũ, và cô lại biến mất. Vĩnh viễn, mãi mãi.

"Anh đâu có muốn thế này," hắn sụp đổ. "Anh đâu phải là muốn thế này..."

Ba cặp mắt nhìn nhau, trao đổi gì đó, ghi nhận gì đó vào trong cuốn sổ tâm trí.

Họ đưa hắn ra phòng ngoài, dẫn hắn tới chiếc sô-pha. Hắn ngồi xuống đó. Một trong ba người quay lại đóng cửa phòng ngủ.

Hắn ngồi đó yên lặng, một tay che mắt như thể ánh sáng trong phòng lúc này là quá sức chịu đựng của hắn. Có vẻ họ không còn quan sát hắn nữa. Một người lúc này đang đứng ở cửa sổ, nhìn ra khoảng không trống rỗng bên ngoài. Một người đứng ở cạnh chiếc bàn nhỏ, lật giở một cuốn tạp chí. Người thứ ba thì ngồi bên tường đối diện với hắn, nhưng không nhìn hắn. Ông ta đang lấy một cái gì đó để làm sạch móng tay mình. Theo cách ông ta tập trung thì việc đó có vẻ như là điều quan trọng nhất với ông ta vào lúc này.

Henderson buông tay khỏi mắt, chợt thấy mình đang nhìn vào bức ảnh của vợ trong album, lúc này đang hơi ngả về phía hắn. Hắn với quyển album và gập lại.

Ba cặp mắt lại một lần nữa hoàn tất một giao thức liên lạc siêu nhiên.

Không gian yên lặng nghẹt thở trong phòng dường như càng nặng nề thêm. Cuối cùng, người ngồi đối diện với hắn phía bên kia phòng nói, "Chúng tôi sẽ phải nói chuyện với ông."

"Cho tôi thêm một phút nữa được không?" hắn mỏi mệt nói. "Tôi vẫn đang choáng..."

Người ngồi trên ghế gật đầu tỏ vẻ chia sẻ tâm trạng đó. Người đứng bên cửa sổ thì vẫn tiếp tục nhìn ra ngoài. Người đứng cạnh bàn vẫn tiếp tục lật xem cuốn tạp chí phụ nữ.

Hồi lâu, Henderson mở to mắt như muốn loại bỏ những khó khăn trước mắt. Hắn nói đơn giản, "Được rồi đấy. Các ông bắt đầu đi."

Quá trình thẩm vấn bắt đầu như một cuộc trò chuyện thông thường, thật khó mà nói là nó thực sự bắt đầu vào lúc nào. Hoặc đó có thể là một thủ thuật để họ có thể khai thác được những thông tin cần thiết điền vào chỗ trống. "Ông bao nhiêu tuổi, ông Henderson?"

"Ba mươi hai."

"Vợ ông?"

"Hai mươi chín."

"Hai người lấy nhau bao lâu rồi?"

"Năm năm rồi."

"Ông làm nghề gì?"

"Tôi làm môi giới."

"Tối hôm nay ông ra khỏi nhà lúc mấy giờ, ông Henderson?"

"Khoảng giữa năm rưỡi và sáu giờ."

"Ông có cụ thể hơn được không?"

"Cụ thể hơn thì cũng được. Nhưng chắc là không thể nói chính xác từng phút lúc tôi đóng cửa đâu. Tôi cho rằng khoảng giữa sáu giờ kém mười lăm tới sáu giờ gì đó. Tôi có nhớ đồng hồ điểm sáu giờ thì tôi đã ra tới góc phố rồi, tiếng đồng hồ điểm từ nhà thờ nhỏ ở khu phố kế bên."

"Ra vậy. Lúc đó ông ăn tối rồi chứ?"

"Chưa." Một giây trôi qua. "Chưa, lúc đó chưa."

"Nghĩa là ông ăn tối ở bên ngoài."

"Tôi ăn tối bên ngoài."

"Ông ăn tối một mình à?"

"Tôi ăn tối bên ngoài, không ăn cùng vợ tôi."

Người đứng cạnh bàn đã lật tới trang cuối cùng của cuốn tạp chí. Người đứng cạnh cửa sổ cũng đã không còn hứng thú với cảnh quan bên ngoài nữa. Người ngồi trên ghế cố gắng đặt câu hỏi sao cho tránh gây ra những ý nghĩa tấn công trực diện, "À, như thế là không theo thói quen – đi ăn tối không có vợ ấy – đúng không?"

"Không, không theo thói quen."

"Nếu ông đã nói thế thì ông cho biết là tại sao tối nay ông lại làm như vậy?" Viên cảnh sát không nhìn hắn mà nhìn vào đống tàn thuốc anh ta đã tạo ra ở bên cạnh.

"Chúng tôi thực ra có ý định đi ăn tối cùng nhau ở bên ngoài. Nhưng đến phút cuối thì cô ấy lại nói là không được khỏe, bảo là bị đau đầu, thế nên... tôi đi một mình."

"Cãi nhau hay gì à?" Lần này câu hỏi được đặt ra khá nhỏ, như một nốt nhạc nhấn khẽ trên phím.

Henderson đáp, cũng bằng nốt nhạc ấn khẽ như vậy, "Có vài lời qua lại. Ông chắc cũng biết thừa."

"Đúng rồi." Viên cảnh sát có vẻ hiểu rất rõ những lục đục trong gia đình kiểu như vậy. "Nhưng không có gì nghiêm trọng chứ?"

"Chẳng có lời nào có thể khiến cô ấy gây ra chuyện như thế, nếu ý ông muốn nói về chuyện đó." Hắn dừng lời, rồi đặt câu hỏi ngược lại, trong giọng nói có một chút cảnh giác mới nhóm lên. "Thế chuyện đó là sao? Các ông chưa nói cho tôi biết. Nguyên nhân là..."

Cửa ngoài mở ra, hắn ngừng nói giữa chừng. Hắn quan sát sự việc trước mắt như bị thôi miên, cho đến khi cửa buồng ngủ lại đóng. Hắn gần như đứng lên. "Họ muốn gì trong đó? Họ là ai? Họ định làm gì trong đó?"

Người ngồi trên ghế bước tới chỗ hắn, đặt một tay lên vai hắn khiến hắn ngồi xuống, cho dù không có một chút lực nào ấn xuống cả. Đó chỉ đơn thuần là một cử chỉ an ủi.

Người đứng ở cửa sổ nhìn qua. "Ông có vẻ hơi căng thẳng, ông Henderson?"

Một cái gì đó như phẩm giá tự nhiên, bản năng của một con người bình thường đến hỗ trợ cho Henderson. "Làm sao mà tôi... bình tĩnh hay an lành được lúc này hả?" Câu trả lời kèm một chút cay đắng. "Tôi về nhà thì thấy vợ mình chết trong buồng ngủ đấy."

Điều hắn nói là có lý. Người cảnh sát đứng bên cửa sổ không còn gì để nói tiếp nữa.

Cửa buồng ngủ lại một lần nữa mở ra. Từ phía cánh cửa phát ra một số tiếng động lục đục. Mắt của Henderson như lồi ra, chầm chậm nhìn theo từ cửa buồng ngủ, tới khuôn cửa vòm rồi ra đến bên ngoài. Lúc này hắn đứng bật dậy. "Không thể như thế được. Các ông xem họ làm gì kia kìa. Họ cứ như đang bê một bao tải khoai tây... Họ để tóc cô ấy chạm hết xuống sàn kia kìa... cô ấy quý tóc lắm...!"

Mấy bàn tay ghim hắn xuống ghế. Cửa ngoài đã đóng lại. Một chút hương thơm từ phòng ngủ trống rỗng bay ra như thì thầm với hắn. 'Còn nhớ không? Còn nhớ lúc em còn được anh yêu không? Nhớ không?'

Hắn rũ người xuống, vùi mặt vào hai bàn tay. Họ có thể nghe thấy tiếng hắn thổn thức, dồn dập, nhịp thở bị ngắt thành những quãng ngắn. Hắn nói với họ, sau khi đã bỏ tay xuống, với vẻ ngạc nhiên. "Tôi từng nghĩ đàn ông thì không bao giờ khóc. Giờ thì tôi khóc rồi."

Người cảnh sát từng ngồi trên ghế lúc trước đưa cho hắn một điếu thuốc, thậm chí còn châm cả lửa. Đôi mắt ông ta rực cháy trong ánh lửa.

Có thể là do bị sự việc vừa rồi làm gián đoạn, hoặc cũng có thể là không có gì để nói tiếp nữa nên cuộc thẩm vấn không được tiếp tục ngay. Để rồi đến khi họ lại bắt đầu nói chuyện thì nội dung không còn trọng tâm gì cả, cứ như họ nói chuyện chỉ để giết thời gian, hoặc đơn giản là cảm thấy cần phải nói một điều gì đó.

"Ông ăn mặc đẹp thật đấy, ông Henderson," người-ngồi-ghế nhận xét một cách ngẫu nhiên.

Henderson nhìn ông ta một cách gần như khinh miệt, chẳng buồn trả lời.

"Mọi thứ đều rất hợp với nhau."

"Đó cũng là một dạng nghệ thuật," người-xem-tạp-chí chêm vào.

"Rất hợp. Tất, áo, khăn tay..."

"Trừ cà-vạt," người-bên-cửa sổ phản đối.

"Những lúc thế này mà các ông lại nói mấy cái vớ vẩn thế là làm sao?" Henderson mệt mỏi nói.

"Nhẽ ra phải là màu xanh, đúng không nhỉ. Mọi thứ khác đều xanh cả cơ mà. Tôi thấy thế là lạc lõng lắm ấy. Tôi thì không phải dân biết nhiều về thời trang đâu, nhưng nhìn qua là tôi thấy..." Rồi ông ta nói như vô tình. "Làm sao mà ông lại bỏ qua một cái quan trọng như cà-vạt thế được chứ, khi đã cất công chọn những cái khác cho hợp rồi? Hay ông không có cà-vạt màu xanh?"

Sự phản đối của Henderson rõ rệt hơn. "Tóm lại là các ông muốn gì ở tôi thế? Chẳng nhẽ các ông không thấy mấy chuyện vặt vãnh này..."

Ông ta hỏi lại, vẫn không có gì thể hiện trong ngữ điệu. "Ông không có cà-vạt màu xanh à, ông Henderson?"

Henderson cào tay lên đầu. "Các ông muốn tôi phát điên à?" Hắn nói như thầm thì, tưởng như mấy lời trao đổi vừa rồi sắp vượt khỏi ngưỡng chịu đựng của hắn. "Có, tôi có cà-vạt xanh. Trong tủ ấy, trên giá treo cà-vạt, chắc thế."

"Thế làm sao mà ông lại không dùng khi ông đã bận cả bộ thế này nhỉ? Mọi thứ đều đang kêu gào gọi cái màu xanh đấy." Viên cảnh sát tỏ vẻ thất vọng. "Trừ phi, dĩ nhiên, là lúc đầu ông đã đeo vào người rồi, nhưng sau thế nào đó mà ông lại đổi ý rồi cởi nó ra, sau đó lại đeo cái ông đang đeo lúc này ấy."

"Nhưng như thế thì có khác gì chứ?" Henderson nói. "Ông hỏi chuyện này cho mục đích gì?" Giọng hắn cao hơn một nốt. "Vợ tôi vừa mới chết. Tôi đang sắp điên lên đây. Cà-vạt màu gì thì có liên quan cái gì chứ hả?"

Câu hỏi từ phía cảnh sát vẫn tới, nhẫn tâm như những giọt nước nhỏ trên đầu phạm nhân. "Ông chắc chắn là lúc đầu ông không đeo lên người rồi đổi ý...?"

Giọng hắn đã lại mềm đi. "Phải, tôi chắc. Chiếc cà-vạt đó treo trên giá trong tủ ấy."

Viên cảnh sát không thống nhất ý kiến với hắn. "Không, nó không có trên giá treo cà-vạt đâu. Thế nên tôi mới hỏi ông như vậy. Ông vẫn nhớ mấy cái ngạnh nhỏ nhỏ trên giá cà-vạt đó chứ, trông như xương cá ấy nhỉ? Chúng tôi tìm thấy chỗ của cái cà-vạt đó, nơi ông thường treo nó ấy, vì đó là chỗ trống duy nhất ở giữa cả mấy cái cà-vạt. Nó lại ở vị trí dưới cùng nữa. Nói cách khác là bình thường thì nó sẽ bị tất cả những cái cà vạt khác treo trên đó đè lên. Thế mà, ông thấy đấy, nó lại đã được gỡ xuống khỏi giá chứ không phải những cái kia. Có nghĩa là ông đã phải chủ động tìm đến nó, chủ động lựa chọn nó, chứ không chỉ là ngẫu nhiên lấy ngay cái cà-vạt ở trên cùng.

"Điều khiến tôi phân vân là sau khi mà ông đã mất công nâng cả mớ cà-vạt lên để lấy cái bên dưới, gỡ khỏi giá thì điều gì đã khiến ông đổi ý, chuyển sang cái ông đeo trên người cho cả buối tối – mà thậm chí nó lại chẳng hợp gì với trang phục của ông cả."

Henderson giận giữ dùng cườm tay đập vào trán mình. Hắn đứng bật giậy. "Tôi không thể chịu đựng thế này nữa," hắn rên rỉ. "Tôi không chịu đựng thêm được nữa. Ông muốn nói gì thì nói toạc ra đi, đừng úp mở, không thì thôi. Nếu nó không ở trên giá thì ông nói xem nó ở đâu? Tôi không đeo trên người rồi. Nó ở đâu? Ông biết thì ông nói xem nào. Mà có khác gì đâu chứ?"

"Khác nhiều lắm đấy, ông Henderson."

Sau đó là một khoảng lặng khá dài, dài đến nỗi hắn bắt đầu tái đi, trước khi cuộc thẩm vấn kết thúc.

"Chiếc cà-vạt đó thít chặt vào cổ của vợ ông. Chặt đến nỗi làm vợ ông chết. Chặt đến nỗi phải dùng đến dao cắt mới gỡ nó ra được."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro