149 NGÀY TRƯỚC KHI HÀNH HÌNH

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

RẠNG SÁNG

Sau cả nghìn câu hỏi, những tia nắng sớm mai len lỏi qua cửa sổ bắt đầu mang lại một cái nhìn khác cho căn phòng, cho dù thực tế mọi thứ trong đó vẫn y nguyên, kể cả con người. Căn phòng lúc này trông như là nơi tổ chức một bữa tiệc thâu đêm. Đầu mẩu thuốc đầy trong tất cả những gì có thể dùng để chứa, thậm chí có cả ở những nơi không dùng để chứa được. Chiếc đèn màu xanh vẫn ở đó, giờ trông lạ lẫm trong ánh sáng bình minh kết hợp với quầng sáng điện mờ mờ tỏa ra từ đó. Những bức ảnh cũng vẫn còn đó: ảnh của cô và của hắn – một bức thì chủ nhân không còn tồn tại nữa.

Bọn họ đều trông và hành động như những anh chàng say rượu mới tỉnh. Họ không còn mặc áo khoác hay áo vét; áo sơ mi để mở cổ. Một người lúc này đang ở trong buồng tắm, cố gắng làm mình tỉnh táo lại bằng nước lạnh từ vòi. Tiếng ông ta xì mũi vang hẳn ra phòng ngoài. Hai viên cảnh sát còn lại thì vẫn vừa đi tới đi lui vừa hút thuốc không ngừng nghỉ. Henderson là người duy nhất ngồi yên lặng. Hắn vẫn ngồi trên chiếc sô-pha đó cả đêm – với hắn thì cuộc đời gần như gói gọn trên chiếc ghế đó rồi, hắn chẳng còn biết nơi nào khác ngoài căn phòng này nữa.

Viên cảnh sát trong phòng tắm – tên là Burgess – trở ra, tay vẫn đan miết tóc để vắt ra những giọt nước thừa thãi cuối cùng. Có vẻ như ông ta đã nhúng cả đầu vào bồn rửa. "Khăn tắm để đâu hết ấy nhỉ?" ông ta hỏi Henderson với âm điệu bình thản một cách lạ lùng.

"Tôi cũng chẳng mấy khi tự tìm được trên giá đâu," hắn ủ rũ thú nhận. "Cô ấy... Khi tôi cần thì tôi thường hỏi, tôi cũng chẳng biết là mấy cái đó để ở đâu cả."

Viên cảnh sát vô vọng nhình quanh, khiến nước chảy ướt hết cả ngưỡng cửa buồng tắm. "Thế cho tôi dùng tạm cái mép rèm trong phòng tắm nhé?" ông ta nói.

"Cứ tự nhiên," Henderson vừa ra hiệu vừa đáp.

Rồi quá trình thẩm vấn lại tiếp tục, cũng đột ngột như lúc nó đột ngột dừng vậy.

"Lý do không hẳn chỉ là đôi vé xem kịch. Tại sao ông lại cứ tìm cách khiến chúng tôi tin là như thế?"

Hắn nhìn lên, lúc đầu nhìn nhầm người. Trước nay hắn vẫn quen với việc khi nói chuyện thì người ta nhìn hắn. Câu hỏi lần này thì lại tới từ người không nhìn hắn.

"Vì thực tế là như thế. Tôi nói ra như thế là vì nó như thế thôi mà. Chẳng nhẽ ông chưa bao giờ thấy hai người cãi nhau chỉ vì một đôi vé thôi à? Chuyện như thế là có đấy."

Người kia nói, "Thôi đi, Henderson, đừng vờ vịt nữa. Cô ta là ai?"

"'Cô ta' nào?"

"Đừng lặp lại như thế nữa nhé," viên cảnh sát tỏ vẻ khinh thường. "Như thế là chúng ta sẽ phải nhảy lùi lại tới khoảng tiếng rưỡi hay hai tiếng trước, tức là nói lại chuyện từ lúc bốn giờ sáng. Cô ta là ai?"

Henderson lùa những ngón tay mỏi mệt lên mái tóc bù xù, đầu cúi gập xuống như không còn sức lực.

Burgess ra khỏi phòng tắm, nhét đuôi áo vào trong quần. Ông ta lấy đồng hồ từ túi ra rồi đeo vào tay, nhìn liếc qua một chút. Sau đó ông ta lặng lẽ đi ra phòng ngoài. Hẳn ông ta đã nhấc điện thoại lên vì lúc này có tiếng vọng vào. "Bây giờ được rồi đấy, Tierney." Không ai để ý đến chuyện đó, Henderson lại càng không. Hắn lúc này đang gà gật mặc dù mắt vẫn mở, nhìn chằm chằm xuống thảm.

Burgess đã lại đi vào phòng, bước lòng vòng như bản thân cũng chưa biết phải làm gì tiếp theo. Cuối cùng, ông ta dừng lại cạnh cửa sổ, chỉnh lại rèm cửa một chút để ánh sáng dễ vào phòng hơn. Phía bậu cửa bên ngoài có một con chim đang đậu. Nó khẽ ngẩng đầu nhìn ông ta. "Henderson, qua đây một chút. Con chim này là chim gì thế?" Khi thấy Henderson không cử động thì ông ta giục tiếp. "Thôi nào, nhanh lên, kẻo nó bay mất bây giờ." Cứ như đó là việc quan trọng nhất trên đời này không bằng.

Henderson đứng lên, đi tới cửa sổ, đứng cạnh viên cảnh sát, lưng quay vào trong phòng. "Chim sẻ," hắn nói ngắn gọn. Hắn nhìn viên cảnh sát như muốn nói, 'Nhưng tôi biết ông không hỏi chuyện đó.'

"Tôi cũng vừa nhớ ra xong," Burgess nói. Sau đó, để hắn vẫn tiếp tục nhìn ra ngoài, Burgess nói tiếp, "Phòng này nhìn ra cảnh đẹp thật."

"Nhìn được nhiều thứ lắm, cả chim chóc nữa," Henderson đáp với giọng cay đắng.

Không gian lại một lần nữa ngưng đọng. Quá trình thẩm vấn lại dừng.

Henderson quay người trở về chỗ hắn ngồi lúc trước. Lúc này, trên ghế, tại đúng chỗ hắn ngồi nãy giờ, xuất hiện một cô gái trẻ. Hắn không nghe thấy một tiếng động nào cho thấy cô đi vào cả. Không có cả tiếng kẹt cửa hay tiếng vải cọ xát.

Ba cặp mắt xoáy vào mặt hắn khiến cho da mặt hắn như sắp sửa bị lột hết ra. Nhưng từ bên trong, hắn giữ lại được, giữ nó ổn định. Nhưng vì như vậy mà nó trở nên căng cứng. Như một tờ giấy bìa. Nhưng hắn cố giữ cho nó không cử động dù chỉ một chút.

Cô gái nhìn hắn, hắn cũng nhìn cô. Cô thật là xinh đẹp. Cô là mẫu người có máu Anglo-Saxon, thậm chí còn hơn cả những người Anglo-Saxon bình thường hiện nay. Mắt xanh, mái tóc hung đỏ không uốn cong, chải thẳng vắt ngang trán một cách gọn gàng, rẽ ngôi rõ ràng như tóc nam giới. Chiếc áo khoác lông lạc đà của cô chỉ chùm qua vai, hai cánh tay buông thõng. Cô không đội mũ, nhưng tay đang xiết chặt một chiếc túi nhỏ. Cô còn trẻ - ở giai đoạn vẫn còn nhiều niềm tin vào tình yêu và đàn ông. Hoặc là có thể sẽ vẫn mãi như vậy vì đó thuộc vào bản chất con người cô. Điều đó thể hiện rõ ở cách cô nhìn hắn bằng đôi mắt nồng thắm, sáng ngời.

Hắn khẽ nhấm môi một chút, hơi gật đầu khiến nếu không để ý thì khó có thể nhận ra, như khi người ta gặp một người quen từ lâu mà không nhớ nổi tên hay không nhớ được đã gặp ở đâu, nhưng lại không muốn bước qua.

Sau đó thì hắn tỏ vẻ không còn hứng thú gì với cô nữa.

Burgess hẳn đã có ra hiệu bí ẩn nào đó với những người khác vì lúc này đột nhiên họ chỉ còn hai người với nhau. Tất cả đã đi ra ngoài từ lúc nào.

Hắn cố gắng làm một cử chỉ gì đó với bàn tay, nhưng đã quá muộn. Chiếc áo khoác lông cừu đã tuột khỏi vai cô gái xuống góc chiếc ghế sô-pha rồi từ từ tạo thành một đống mềm mại. Còn cô gái lúc này đã bật dậy lao về phía hắn như bị gì đó thúc ở đằng sau.

Hắn cố gắng tránh cô bằng cách bước sang bên. "Đừng. Cẩn thận. Họ cố tình làm thế này. Họ đang nghe đấy..."

"Em chẳng có gì phải sợ cả." Cô nắm lấy hai cánh tay hắn và lắc nhè nhẹ. "Anh có gì phải sợ ư? Có không? Anh trả lời em đi."

"Suốt sáu tiếng vừa rồi anh tìm mọi cách để không đưa tên em vào chuyện này. Làm sao mà họ kéo em đến đây được? Làm thế nào họ biết về em?" Hắn tự đánh mình vào vai. "Mẹ kiếp. Nếu chặt tay phải mà để em không dính vào thì anh cũng làm!"

"Nhưng em muốn cùng anh trong những việc thế này, khi anh gặp khó khăn. Anh không biết nhiều về em rồi, đúng không?"

Nụ hôn khiến hắn không thể trả lời. Sau đó hắn nói, "Em hôn anh mà em không biết là liệu..."

"Không, em không biết," cô đáp, hơi thở phả sát mặt hắn. "À, mà em không sai lầm tới mức thế đâu. Chẳng ai thế đâu. Nếu em sai lầm tới mức thế thì người ta nên đưa trái tim em đến viện tâm thần chữa trị. Có điều trái tim em thông minh lắm."

"Em bảo trái tim em giúp anh là mọi việc sẽ ổn thôi," hắn buồn rầu nói. "Anh không ghét Marcella. Chỉ là anh không yêu cô ấy đến mức muốn tiếp tục sống với cô ấy nữa, thế thôi. Nhưng anh không giết cô ấy. Anh không bao giờ giết ai cả, kể cả người..."

Cô vùi đầu vào ngực hắn với sự cảm thông không thể lẫn được. "Chẳng lẽ anh phải nói thế em mới biết sao? Chẳng phải em đã thấy mặt anh thế nào khi một con chó hoang đuổi theo chúng mình trên phố? Khi thấy một con ngựa đứng ven đường... Lúc này không phải lúc đâu, nhưng anh có biết tại sao em yêu anh không? Anh không nghĩ rằng là vì anh đẹp trai, hay thông minh, hay giỏi giang đấy chứ?" Hắn cười, vuốt tóc cô, đặt lên đó một nụ hôn. "Những thứ bên trong mới là cái em yêu, những cái mà chỉ có em nhìn thấy. Anh có rất nhiều điểm tốt, anh là người tốt... nhưng tất cả là ở bên trong, chỉ có em thấy, chỉ dành cho em."

Cô ngẩng mặt lên nhìn hắn, hai mắt nhòa lệ.

"Đừng thế chứ," hắn âu yếm nói, "anh đâu có đáng."

"Em mới là người đặt giá mà, đừng có cố hạ giá với em làm gì," cô chọc hắn. Cô liếc mắt về phía cánh cửa, ánh sáng trên mặt cô có phần tối đi một chút. "Còn họ thì sao? Họ có nghĩ rằng...?"

"Cho đến lúc này là năm mươi – năm mươi. Nếu không thì họ chẳng giữ anh lâu thế này... Làm sao mà họ kéo em tới đây được?"

"Em nhận được tin nhắn từ anh lúc sáu giờ, khi em về nhà. Em không thể nào đi ngủ mà không biết chắc nên em quyết định gọi điện đến đây hỏi anh, khoảng mười một giờ. Lúc đó thì họ đã ở đây rồi, thế nên họ cho người đến thẩm vấn em ngay. Từ lúc đó tới giờ lúc nào cũng có người ở cạnh em cả."

"Hay quá, thế là họ khiến em thức trắng cả đêm!" gã bực tức nói.

"Em làm sao mà ngủ được khi biết anh đang gặp rắc rối thế này." Những ngón tay cô di chuyển nhẹ nhàng trên mặt hắn. "Chỉ có một chuyện là quan trọng thôi, những chuyện khác tạm gác lại đã. Sẽ giải quyết ổn thỏa được hết, chắc chắn thế. Họ chắc sẽ có cách tìm ra ai là kẻ gây ra chuyện này... Anh đã nói những gì với họ?"

"Về chúng ta ư? Chẳng nói gì cả. Anh muốn giữ cho em không dính gì tới việc này cả."

"Có thể đó chính là nguyên cớ chính. Họ cảm thấy anh đang giấu giếm điều gì đó. Giờ thì em trong cuộc rồi. Anh có nghĩ là tốt hơn nên nói cho họ biết mọi chuyện về chúng ta không? Mình đâu có điều gì phải xấu hổ hay sợ hãi đâu. Càng nói sớm thì càng nhanh giải quyết mọi chuyện. Em nghĩ từ thái độ của em thì họ cũng đã đoán ra được rồi. Gặp nhau là anh với em..."

Cô ngừng nói giữa chừng. Burgess đã quay lại. Ông ta trông thư thái như đã đạt được mục tiêu đặt ra. Khi hai người cảnh sát còn lại cũng vào phòng, Henderson còn thấy ông ta nháy mắt với một trong hai người đó.

"Dưới nhà có xe đang đợi đưa cô về nhà, cô Richman."

Henderson bước tới. "Này, xin ông giữ cho cô Richman đứng ngoài việc này. Thật không công bằng chút nào. Cô ấy không có liên..."

"Cái đó thì phụ thuộc hoàn toàn vào ông thôi," Burgess nói với hắn. "Chúng tôi buộc phải đưa cô ấy tới đây chỉ là vì ông buộc chúng tôi phải làm ông nhớ ra là..."

"Tôi sẽ nói hết những gì tôi biết cho ông," Henderson cam đoan, "nếu như ông đảm bảo rằng cô ấy sẽ không bị báo chí làm phiền, sẽ không bị báo chí nêu tên hay làm ầm ĩ lên."

"Miễn đó là sự thực," Burgess nói rõ.

"Tôi sẽ nói sự thực." Hắn quay sang phía cô, giọng nhẹ nhàng hơn hẳn khi nói với cảnh sát. "Em về đi, Carol. Cố ngủ một chút, đừng lo lắng gì cả. Mọi chuyện sẽ sớm ổn thỏa thôi mà."

Cô hôn hắn ngay trước mặt mọi người như muốn chứng tỏ tình cảm của mình với hắn. "Anh nhớ thông tin cho em nhé! Có gì mới nhớ báo cho em ngay, nhớ chưa? Ngay hôm nay đấy nhé."

Burgess đi ra cửa cùng cô, nới với viên cảnh sát gác bên ngoài, "Nói với Tierney là không cho ai đến gần cô gái trẻ này cả. Không nói tên, không trả lời câu hỏi, không tiết lộ bất kỳ thông tin gì."

"Cám ơn," Henderson nói khi ông ta quay lại, "ông đáng mặt đàn ông lắm."

Viên cảnh sát nhìn hắn như không đón nhận lời khen đó. Ông ta ngồi xuống, lấy ra một cuốn sổ tay, gạch chéo hai, ba trang đã viết chữ loằng ngoằng rồi mở ra một trang mới. "Bây giờ bắt đầu nhé?" ông ta nói.

"Bắt đầu thôi," Henderson đáp.

"Ông nói hai người cãi nhau. Vẫn giữ như thế chứ?"

"Vẫn giữ như thế."

"Còn đôi vé xem kịch? Vẫn giữ chứ?"

"Về đôi vé và về ly dị. Không thay đổi."

"Giờ đến lúc làm rõ hơn. Tình cảm giữa ngai người xấu đi từ lúc nào?"

"Không hề có tình cảm nào cả. Tốt hay xấu đều không có. Giống như kiểu chai lỳ, vô cảm thì đúng hơn. Tôi đã đề nghị ly dị với cô ấy khá lâu rồi. Cô ấy cũng biết về cô Richman, vì tôi có nói. Tôi không hề giấu giếm cô ấy gì cả. Tôi chỉ muốn giải quyết một cách êm thấm, nhẹ nhàng. Nhưng cô ấy từ chối ly dị. Bỏ đi cũng chẳng giải quyết được gì. Tôi không muốn thế. Tôi muốn cưới cô Richman làm vợ. Chúng tôi cố gắng không gặp nhau, tránh xa nhau, nhưng như thế thật là khổ sở. Tôi không chịu nổi. Mà mấy chuyện này có cần thiết không?"

"Rất cần."

"Tối hôm kia tôi có nói chuyện với cô Richman, cô ấy hiểu tình thế của tôi. Cô ấy nói, 'Hay để em thử, để em nói chuyện với chị ấy.' Tôi không cho. Cô ấy bảo, 'Thế anh thử lần nữa đi. Lần này thử kiểu khác. Thử nói lý lẽ khéo vào thì mới được.' Biết là chẳng ăn thua nhưng tôi vẫn cố thử xem sao. Từ chỗ làm, tôi gọi điện đặt một bàn cho hai người ở quán trước cũng có tới. Tôi mua hai vé xem kịch, hàng đầu tiên, cạnh lối đi. Đến phút cuối tôi còn từ chối lời mời của bạn thân nhất tới bữa liên hoan chia tay của anh ấy. Jack Lombard. Anh ấy phải đi Nam Mỹ làm việc mấy năm. Đó là cơ hội cuối để tôi gặp anh ấy trước khi anh ấy lên tàu ra biển. Nhưng tôi quyết tâm thực hiện dự định. Tôi sẽ nhẹ nhàng thuyết phục cô ấy bằng mọi giá.

"Thế rồi khi tôi về nhà thì lại chẳng như mong muốn. Cô ấy không muốn dàn xếp gì cả. Cô ấy thích cuộc sống như thế và muốn cuộc sống tiếp tục như thế. Tôi bực lắm, thú thật là vậy. Tôi nổi khùng. Cô ấy đã đợi đến phút cuối. Cứ để tôi đi tắm rồi thay quần áo. Rồi cô ấy ngồi đó cười. 'Sao anh không rủ cô bạn anh đi ăn cùng đi?' cô ấy mỉa mai. 'Sao phải phí tiền làm gì?' Thế nên tôi gọi điện cho cô Richman. Gọi ngay ở đó, trước mặt vợ tôi.

"Nhưng tôi không được thỏa mãn vì cô ấy không có nhà. Marcella thì tiếp tục cười nhạo tôi. Cô ấy cố tình thế.

"Ông cũng thừa biết là khi bị người ta cười nhạo thì thế nào rồi đấy. Thấy mình như thằng dở hơi. Tôi cáu đến mức tôi không suy nghĩ thấu đáo được nữa, nên tôi quát, 'Tôi sẽ ra phố, mời cô gái đầu tiên đi cùng để thay vào chỗ cô! Bất kỳ ai, miễn là có thân thể phụ nữ và đi giày cao gót nhé! Ai cũng được!' Rồi tôi vớ lấy mũ, sập cửa đi ra ngoài thôi."

Giọng hắn bắt đầu dão ra như chiếc đồng hồ cần lên cót lại. "Chuyện chỉ có thế thôi. Muốn rõ hơn thì tôi cũng chẳng biết nói thế nào nữa đâu. Vì đó là sự thực mà sự thực thì không thể nào làm rõ hơn được cả."

"Sau khi ông ra khỏi nhà, ông vẫn giữ lịch trình như ông đã khai với chúng tôi lúc trước chứ?" Burgess hỏi.

"Vẫn như thế. Trừ một việc là tôi không đi một mình. Tôi đi cùng người khác. Tôi làm y như tôi đã nói với cô ấy: ra phố thấy người phụ nữ nào đó thì mời đi cùng. Cô ta nhận lời, thế là tôi đi cùng cô ta tới tận mười phút trước khi quay về đây."

"Lúc gặp cô ta thì là khoảng mấy giờ?"

"Chỉ vài phút sau khi ra khỏi nhà thôi. Tôi tạt vào quán nào ấy, khoảng đường Mười Lăm, trong quán đó tôi gặp cô ta..." Hắn làm động tác gì đó với ngón tay. "Chờ chút, tôi nhớ ra rồi. Tôi có thể nói chính xác thời điểm tôi gặp đấy, vì lúc đó chúng tôi đều nhìn đồng hồ mà, là lúc tôi đưa cô ta xem đôi vé. Sáu giờ mười phút, chính xác luôn."

Burgess cọ cọ móng tay bên dưới môi. "Quán đó là quán nào thế?"

"Tôi không nhớ chính xác. Cửa quán có đèn đỏ bắt mắt lắm, lúc đấy tôi chỉ để ý thế thôi."

"Ông có thể chứng minh được là ông ở trong quán đó lúc sáu giờ mười phút không?"

"Tôi vừa chẳng nói với ông còn gì. Sao nào? Có điều gì quan trọng sao?"

Burgess nói, "À, tôi lòng vòng với ông cũng được thôi, nhưng tôi lại thích lạ đời. Tôi sẽ nói cho ông biết. Vợ ông chết chính xác vào lúc sáu giờ tám phút. Đồng hồ đeo tay của cô ấy vỡ do đập vào cạnh bàn trang điểm khi cô ấy ngã xuống. Nó dừng ở...," ông ta đọc cái gì đó, "... sáu giờ tám phút mười lăm giây." Ông ta lại cất cái đó đi. "Tôi không thấy cái gì có hai chân, thậm chí là có cánh, mà có mặt ở đây vào thời điểm đó để rồi lại đến được đường Mười Lăm sau đó một phút bốn mươi lăm giây cả. Ông chứng minh được ông ở đó vào lúc sáu giờ mười, thì mọi việc chấm dứt ở đây."

"Nhưng tôi nói với ông rồi còn gì! Tôi có xem đồng hồ mà."

"Đấy không phải là bằng chứng. Đó là lời khai thiếu cơ sở."

"Thế nào mới là bằng chứng?"

"Khi có gì đó chứng thực."

"Tại sao lại phải chứng thực ở đó? Ở đây không được hay sao?"

"Vì nếu ở đây thì mọi thứ cho thấy ngoài ông ra chẳng có ai khác gây ra chuyện đó cả. Ông nghĩ chúng tôi ngồi đây vật vã với ông cả đêm để làm gì chứ?"

Henderson để hai cổ tay buông thõng từ đầu gối. "Ra vậy," hắn thở ra. "Tôi hiểu rồi." Sự tĩnh lặng lại kéo dài, thống trị trong căn phòng một lúc sau đó.

Burgess phá vỡ sự im lặng. "Liệu người phụ nữ ông nói đã gặp trong quán có chứng thực được thời điểm đó không?"

"Có chứ. Cô ta cũng nhìn đồng hồ giống tôi mà. Chắc chắn là nhớ thôi. Có, chứng thực tốt."

"Thôi được rồi, như thế là đủ. Miễn là cô ta làm cho chúng tôi tin được, lời chứng thực phải có tuyên thệ và ông không ép cô ta làm điều đó. Cô ta sống ở đâu?"

"Tôi không biết. Lúc tôi về thì cô ta vẫn ở quán đó, nơi chúng tôi gặp nhau lúc đầu."

"Thế cô ta tên là gì?"

"Tôi không biết. Thực là tôi không hỏi, mà cô ta cũng không tự giới thiệu."

"Họ thì sao? Hay bí danh cũng được? Ông ở với cô ta sáu tiếng liền cơ mà. Thế ông xưng hô cô ta là gì?"

"'Cô,'" hắn đáp.

Burgess một lần nữa lại lấy cuốn sổ ra. "Thôi được rồi. Ông mô tả cô ta xem nào. Chúng tôi sẽ cho người đi tìm cô ta sau cũng được."

Một quãng thời gian chờ đợi kéo dài.

"Sao nào?" Burgess hỏi.

Mặt Henderson càng lúc càng tái dại. Hắn nuốt khan. "Chúa ơi, tôi không nhớ nổi!" hắn thốt lên. "Tôi quên mất cô ta rồi, mất hẳn rồi." Hắn lấy tay xoa mặt một cách vô vọng. "Ngay lúc tôi về đây thì tôi còn nói với ông được, còn bây giờ thì chịu rồi. Nhiều chuyện xảy ra quá. Việc về Marcella... Rồi mấy ông quần tôi suốt đêm nữa. Trong đầu tôi hình ảnh cô ta như phim bị lộ sáng ấy, nhòe hết cả. Ngay cả lúc tôi ở đó với cô ta tôi cũng không chú ý nữa; đầu óc tôi lúc đó đang loạn cả lên."

Hắn ngẩng lên, nhìn viên cảnh sát khác như thể cầu cứu. "Tôi chẳng còn nhớ gì về cô ta cả!"

Burgess tỏ vẻ muốn giúp đỡ. "Cứ từ từ. Cố nhớ lại đi. Màu mắt?"

Henderson xòe hai bàn tay ra, vô vọng.

"Không nhớ? Được rồi. Tóc thì sao? Tóc thế nào? Màu gì?"

Hắn đặt bàn tay lên che hai vùng mắt. "Cũng không nhớ được. Mỗi khi tôi định nói một màu thì tôi lại nhớ ra màu khác. Tôi định nói màu kia thì lại nhảy về màu ban đầu. Tôi không biết nữa, chắc là đâu đó giữa hai màu. Không hẳn nâu, không hẳn đen. Hầu như lúc nào cô ta cũng đội mũ, không nhìn thấy tóc." Hắn nhìn lên, hy vọng. "Tôi nhớ cái mũ nhất. Cái mũ đó màu da cam. Như thế có giúp ích được gì không? Đúng rồi, da cam. Mũ màu cam."

"Thế nếu như từ tối hôm qua thì cô ta không đội mũ đó nữa, phải đến sáu tháng sau mới đội lại sau đó thì sao? Tình thế chúng ta sẽ thế nào? Ông không nhớ được gì khác về cô ta hay sao?"

Henderson day day thái dương để bớt đau đầu.

"Cô ta béo hay gầy? Cao hay thấp?" Burgess vẫn kiên trì gợi ý.

Henderson bắt đầu vặn vẹo cơ thể trên ghế, xoay hết bên này lại sang bên kia như để trốn tránh câu hỏi. "Tôi không trả lời được. Không trả lời được."

"Có phải anh đang đùa chúng tôi không?" một trong hai viên cảnh sát còn lại hỏi lạnh lùng. "Mới ngay tối hôm qua thôi, không phải tuần trước hay năm ngoái đâu."

"Tôi kém nhớ mặt lắm, ngay cả khi tôi... bình tĩnh, không bị quấy rầy. Cô ấy có khuôn mặt... tôi..."

"Không đùa đấy chứ?" viên cảnh sát thứ ba cuối cùng cũng tham gia vào.

Câu trả lời của hắn chuyển cấp từ kém xuống tồi tệ vì hắn mắc sai lầm là nói thẳng ra suy nghĩ của mình mà không chỉnh sửa. "Cô ta có hình dáng như những người phụ nữ khác, tôi chỉ nói được thế thôi..."

Nước tràn ly. Khuôn mặt Burgess nãy giờ đã dần dần dài thượt, cho dù ông ta không hề để lộ ra bất kỳ dấu hiệu bực tức nào khác. Rõ ràng với ông ta chỉ có sự chuyển biến tâm lý từ từ. Thay vì nhét chiếc bút chì đã tù đầu trở lại trong túi, ông ta thẳng tay ném nó như có chủ đích vào bức tường đối diện. Rồi ông ta lại đứng lên, đi tới đó nhặt nó lên. Khuôn mặt ông ta, lúc quay lại, đã đỏ ửng. Ông ta chui vào trong chiếc áo khoác, thắt lại cà-vạt cho ngay ngắn trước ngực.

"Các anh," ông gắt gỏng, "ra khỏi chỗ này thôi, muộn quá rồi."

Ông ta dừng một chút ở khuôn cửa vòm dẫn ra phòng ngoài, nhìn Henderson tóe lửa. "Ông coi chúng tôi là hạng người gì thế? Ngu đần à? Ông đi chơi với một người phụ nữ trong sáu tiếng đồng hồ liên tục, mới tối qua thôi, ngồi cạnh nhau trong quán bar, ngồi đối diện trong quán ăn từ lúc ăn nhẹ tới khi dùng cà phê, lại ngồi kế bên suốt ba tiếng đồng hồ khi xem kịch, rồi lại đi cùng taxi cả đi lẫn về - thế mà khuôn mặt người phụ nữ đó giờ lại là một ô trống bên dưới một cái mũ màu da cam! Thế rồi ông cho rằng chúng tôi phải nuốt trôi lời khai đó ư? Ông cố gắng trao cho chúng tôi một bóng ma, không có tên, không hình dáng, không chiều cao, không có mô tả về mắt hay tóc hay gì cả, rồi lại cho rằng chúng tôi phải tin vào điều đó chứ không nên nghĩ là ông ở cạnh vợ ông lúc cô ấy bị sát hại! Ông thấy có hợp lý không? Đến một đứa bé mười tuổi cũng thấy rõ ông đang làm trò gì ở đây. Chỉ có hai khả năng mà thôi. Một là ông chẳng đi cùng với người nào như vậy, mà ông chỉ bịa ra, tưởng tượng ra thôi. Hai là, mà có lẽ phù hợp hơn, là ông không đi cùng ai như vậy nhưng ông có nhìn thấy cô ta trong đám đông một lúc nào đó tối hôm qua, rồi cố gắng lấy cô ta làm bình phong, bảo rằng là cô ta đi cùng ông trong khi không hề có chuyện đó. Chính vì thế mà hình dáng cô ta theo lời ông khai mới không rõ ràng, để chúng tôi không thể nhận diện rõ được và không tìm ra được sự thật."

"Đi nào," một trong hai viên cảnh sát còn lại ra lệnh cho Henderson, giọng như lưỡi cưa chạm vào thân gỗ. "Burgess chẳng mấy khi nổi nóng đâu," anh ta nói thêm, "nhưng khi đã nóng thì cháy to, cháy lâu ra trò đấy."

"Tôi bị bắt ư?" Scott Henderson hỏi Burgess khi hắn đứng dậy đi ra phía cửa, kẹp giữa hai viên cảnh sát.

Burgess không trả lời thẳng. Câu trả lời nằm trong lời hướng dẫn ông ta dành cho một người cảnh sát.

"Tắt đèn đi, Joe. Chắc phải lâu nữa mới có người sử dụng căn hộ này."


6 GIỜ TỐI

Chiếc xe đứng đợi cạnh góc phố khi tiếng chuông báo giờ ở đâu đó khá gần vang tới. "Đây rồi," Burgess nói. Họ đã đợi mười phút chô âm thanh này, vẫn để máy nổ.

Henderson, chưa bị bắt nhưng cũng không hẳn là tự do, ngồi ở ghế sau, kẹp giữa Burgess và một trong hai viên cảnh sát từng tham gia thẩm vấn hắn cả đêm và sáng nay trong căn hộ.

Viên cảnh sát thứ ba, được gọi đến với biệt danh 'Hà Lan' đang đứng bên ngoài xe, trên vỉa hè, như chẳng có việc gì làm cả. Anh ta quỳ xuống, buộc lại dây giày trước khi tiếng chuông đầu tiên vang lên. Giờ thì anh ta đã đứng thẳng.

Tối hôm nay cũng giống như tối hôm trước. Giờ cũng là giờ tụ hội, và bầu trời cũng bắt đầu trang điểm ở phía tây, mọi người vẫn hối hả tỏa đi bốn phía. Henderson không ra dấu hiệu gì, cứ ngồi đó giữa hai viên cảnh sát. Nhưng đối với hắn thì mấy giờ vừa qua là cả một sự khác biệt vô cùng lớn.

Địa chỉ nhà hắn chỉ cách đó một quãng, ngay phía sau góc phố kia thôi. Có điều giờ đây hắn không còn sống ở đó nữa; hắn sống trong phòng tạm giam được bố trí trong đồn cảnh sát.

Hắn rầu rĩ nói với Burgess, "Không, ở chỗ cửa hàng trước ấy. Tôi đến chỗ cửa sổ kia lúc nghe thấy tiếng chuông đầu tiên. Tôi nhớ thế, giờ nghe thấy tiếng chuông, nhìn thấy nó thì tôi nhớ."

Burgess nói lại với người cảnh sát trên vỉa hè. "Lùi lại một cửa hàng, bắt đầu từ chỗ đó, Hà Lan. Đúng rồi, chỗ đó. Bắt đầu đi đi!" Tiếng chuông thứ hai vang lên. Ông ta làm gì đó với chiếc đồng hồ bấm giây đang cầm trên tay.

Viên cảnh sát cao, gầy, tóc đỏ trên vỉa hè bắt đầu bước đi. Cùng lúc đó chiếc ô tô cũng bắt đầu chầm chậm bò theo, cùng tốc độ của người đi bộ, men theo vỉa hè.

'Hà Lan' lúc đầu có vẻ tự tin, nhưng một lát sau đôi chân đã bắt đầu cứng và tốc độ bắt đầu giảm dần.

"Anh ta đi thế có ổn không?" Burgess hỏi.

"Tôi nghĩ là tôi đi nhanh hơn một chút," Henderson đáp. "Khi bực thì tôi đi nhanh lắm, tôi cũng để ý, mà tối hôm qua thì tôi rất bực."

"Nhanh chân lên một chút, Hà Lan!" Burgess giục giã.

Viên cảnh sát trên vỉa hè tăng tốc một chút.

Tiếng chuông thứ năm, rồi thứ sáu vọng tới.

"Giờ thế nào?" Burgess hỏi.

"Tương đương với tôi rồi đấy," Henderson chấp nhận.

Họ tới một nút giao. Đèn đỏ bật lên níu chiếc xe lại, nhưng người đi bộ tiếp tục bước. Tối hôm qua, Henderson không để ý điều này. Chiếc xe bắt kịp 'Hà Lan' ở khoảng giữa phố tiếp theo.

Giờ họ đã tới phố Mười Lăm. Một dãy nhà trôi qua. Hai.

"Thấy chưa?"

"Chưa. Mà có qua rồi thì tôi cũng không biết. Tôi nhớ là đỏ lắm, đỏ hơn kia cơ. Toàn bộ vỉa hè đều đỏ hết."

Dãy nhà thứ ba. Thứ tư.

"Thấy chưa?"

"Chưa thấy quen."

Burgess cảnh cáo, "Nhìn cho kỹ đi nhé. Vì cứ đà này một chút nữa thôi thì ngay cả chứng cứ ngoại phạm mà ông nói cũng chẳng có giá trị nữa. Giờ nhẽ ra ông đang ở trong quán đó rồi chứ, giờ đã là sáu giờ tám phút rưỡi rồi."

"Nếu đằng nào ông cũng không tin tôi thì cũng có khác gì đâu."

"Cũng chẳng mất gì khi thực nghiệm chính xác thời gian đi bộ giữa hai điểm cả," viên cảnh sát ngồi bên kia nói chen vào. "Chúng tôi sẽ xác định được thời gian anh thực sự có mặt ở đó rồi sau đó trừ đi thôi."

"Chín phút rồi!" Burgess báo.

Henderson ôm đầu, lặng lẽ nhìn từ trong xe ra những gì trôi qua trên vỉa hè.

Một cái tên trôi qua. Đèn quảng cáo không bật. Hắn quay lại rất nhanh. "Đó, chính là chỗ đó. Nhưng bây giờ đèn không bật. Anselmo hay gì gì đó. Tôi cũng không chắc lắm, tên tiếng nước ngoài..."

"Vào đi, Hà Lan!" Burgess gọi to. Ông ta bấm nút dừng đồng hồ bấm giây. "Chín phút, mười giây rưỡi," ông ta tuyên bố. "Chúng tôi cho ông mười giây rưỡi bù vào những yếu tố khách quan như lượng người trên đường khi đi bộ và xe trên đường tại các nút giao – mấy cái đó thì chẳng bao giờ giống nhau cả. Chín phút tròn, là thời gian đi bộ từ góc phố chỗ nhà ông tới quán này. Chúng tôi cho ông thêm một phút nữa từ nhà ông xuống tới góc phố đó, khi nghe tiếng chuông đầu tiên – đoạn đó chúng tôi đã thực nghiệm rồi. Nói cách khác," ông ta quay sang nhìn hắn, "nếu ông chứng minh được là ông vào trong quán này muộn nhất là sáu giờ mười bảy phút, không muộn hơn được, thì coi như ông tự gạch tên mình khỏi danh sách tình nghi."

"Tôi có thể chứng minh được là tôi vào đây sớm hơn sáu giờ mười," Henderson nói, "nếu tôi tìm được người phụ nữ đó."

Burgess đẩy cửa xe. "Ra ngoài thôi," ông ta nói.

"Gặp người này bao giờ chưa?" Burgess hỏi.

Nhân viên quầy bar nghênh mặt nhìn. "Trông cũng quen quen," ông ta thú nhận. "Nhưng nói chung thì nghề của tôi lúc nào cũng chỉ thấy mặt, mặt, và mặt thôi mà."

Họ để ông ta vắt trí nhớ thêm một lúc. Ông ta lại nhìn Henderson theo một góc khác. Ông ta ra đứng ở góc đối diện, nhìn Henderson từ chỗ đó. "Không biết nữa," ông ta vẫn nói như cũ.

"Nhiều lúc khung tranh cũng quan trọng như bức tranh," Burgess nói. "Thử kiểu khác vậy nhé. Vào quầy đi, anh bạn." Khi tất cả đã đến quầy, ông ta hỏi. "Ông ngồi tại ghế nào, Henderson?"

"Khoảng chỗ này. Đồng hồ ngay trên đầu và bát bánh thì chếch một chút từ chỗ tôi."

"Được rồi, ông ngồi vào đó. Giờ anh quầy thử nhớ lại xem. Đừng để ý đến chúng tôi, nhìn ông khách này là đủ."

Henderson cúi đầu ủ rũ, nhìn chằm chằm xuống mặt quầy, giống như hắn nhìn lúc trước.

Có tác dụng. Nhân viên quầy búng tay. "Đúng rồi. Ông khách cáu bẳn. Tôi nhớ ra rồi. Tối hôm qua, đúng không? Một trong mấy người khác đến uống một ly, không ngồi lại lâu quá."

"Lúc đó là mấy giờ?"

"Ca trực đầu của tôi. Lúc đó khách chưa đông lắm. Hôm qua thì mở quán cũng hơi muộn, thỉnh thoảng thế."

"Ca trực đầu là lúc nào?"

"Sáu giờ đến bảy giờ."

"Rồi. Sau sáu giờ khá lâu hay ngay sau sáu giờ? Chúng tôi muốn làm rõ điểm đó."

Ông ta lắc đầu. "Rất tiếc là tôi chỉ nhìn đồng hồ vào lúc cuối ca trực thôi, nhìn làm gì khi mới vào ca. Có thể là lúc sáu giờ, cũng có thể là sáu rưỡi, mà cũng có thể là sáu giờ bốn lăm. Nói thật là đối với tôi thì đều như nhau cả."

Burgess nhìn Henderson, hơi nhướng mày. Rồi Burgess quay lại nói với nhân viên quầy. "Ông nói cho chúng tôi biết về người phụ nữ có mặt ở đây tại thời điểm đó nào."

Nhân viên quầy không giấu nổi sự ngạc nhiên, "Người phụ nữ nào...?"

Nét mặt Henderson dần dần, chầm chậm chuyển màu, từ tai tái tự nhiên tới trắng bệch như đã chết.

Burgess gõ tay ngắt lời.

"Ông không thấy ông đây đi bắt chuyện với một người phụ nữ nào ư?"

"Không, thưa sếp," nhân viên quầy nói. "Tôi không thấy ông ấy đi nói chuyện với ai cả. Bảo thề thì tôi không dám, nhưng tôi nhớ là ông ấy không nói chuyện với ai ở quầy lúc đó cả."

"Ông có thấy người phụ nữ nào ngồi đây một mình không? Kể cả không thấy ông ta tới nói chuyện ấy?"

Henderson vô vọng chỉ về hai chiếc ghế ở cuối quầy. "Mũ màu da cam," hắn nói trước khi Burgess kịp cản trở.

"Đừng có làm như thế," viên thanh tra cảnh cáo.

Nhân viên quầy đột nhiên trở nên khó chịu vì một lý do nào đó. "Các ông nghe này," ông ta nói, "tôi đã làm nghề này ba mươi bảy năm rồi. Tôi phát ngấy các khuôn mặt ấy, đêm này qua đêm khác, hết mở cửa rồi lại đóng cửa, mở rồi lại đóng. Các ông đừng có mà đến đây hỏi tôi xem là họ đội mũ màu gì, hay họ có đến bắt chuyện với nhau hay không. Đối với tôi thì họ chỉ là những đơn hàng. Với tôi họ là đồ uống, đấy, chỉ là đồ uống thôi. Nói với tôi là cô ta uống cái gì thì tôi mới có thể xác nhận là cô ta có ở đây hay không. Chúng tôi có giữ phiếu thanh toán. Tôi có thể lấy chỗ ông chủ cho các ông xem."

Mọi người đều nhìn về hướng Henderson. "Tôi uống một ly Scotch và nước," hắn nói. "Lúc nào tôi cũng uống như thế, không thêm bớt gì cả. Chờ chút, để tôi nhớ xem cô ta uống gì... Lúc đó là uống gần hết..."

Nhân viên quầy quay lại cùng với một hộp sắt to.

Henderson xoa trán nói, "Ở đáy cốc có thừa lại một quả sơ-ri và..."

"Thế thì có thể là một trong sáu loại đồ uống. Để tôi làm rõ cho ông. Cốc là loại có chân hay đế bằng? Màu nước đồ uống thế nào? Nếu là món Manhattan thì cốc có chân và nước màu nâu."

"Cốc có chân," Henderson nói. "Tôi thấy cô ta còn vần nghịch mà. Nhưng màu nước không phải màu nâu, không, gần như màu hồng ấy."

"Jack Rose," nhân viên quầy nói. "Giờ thì để tôi kiểm cho các ông thấy, dễ thôi." Ông ta bắt đầu lật lật đống phiếu thanh toán, tìm kiếm một lúc, ông ta phải lật ngược chồng phiếu để xem vì phiếu đầu tiên ở dưới cùng. "Đấy, các ông xem, các phiếu này đều có thứ tự cả, đánh số ở phía trên cùng," ông ta nói.

Henderson hơi giật mình, ngả người về phía trước. "Chờ chút!" hắn nói, thở không ra hơi. "Ông nói thế làm tôi nhớ ra một chuyện. Tôi nhớ con số in ở trên đầu phiếu của tôi. Mười ba. Con số đen đủi. Tôi còn nhớ khi ông đưa cho tôi thì tôi còn nhìn một lúc mà, ông mà thế thì cũng nhìn như tôi thôi."

Nhân viên quầy đặt hai tập phiếu xuống trước mặt họ. "Ừ, ông nói phải," ông ta nói. "Đây rồi. Nhưng hai phiếu không cùng chồng. Mười ba - một Scotch và nước. Và đây là Jack Rose, có ba cốc, số bảy mươi tư. Đó là chồng phiếu của Tommy, tức là người làm ca trước, cuối buổi chiều. Tôi nhận ra nét chữ của cậu ấy. Không chỉ có thế, cô ta còn đi với người khác. Ba cốc Jack Rose, một cốc rum. Không có ai lại hâm mà đi trộn hai loại đồ uống này cả."

"Nghĩa là...?" Burgess gợi hỏi nhẹ nhàng.

"Nghĩa là tôi vẫn không nhớ là đã gặp người phụ nữ như ông hỏi, kể cả như cô ta có ở đây vào ca trực của tôi, vì cô ta là đơn hàng của Tommy chứ không phải của tôi. Nhưng mà nếu thực sự cô ta có ở lại thì với ba mươi bảy năm kinh nghiệm phục vụ quầy, tôi cho rằng ông đây sẽ không đứng lên mà đi bắt chuyện với cô ta vì cô ta đang ngồi với một ông khách khác. Ba mươi bảy năm kinh nghiệm của tôi cũng nói với tôi rằng ông khách kia ở cùng với cô ta tới tận phút cuối, bởi vì không ai mua ba cốc Jack Rose giá tám mươi xu mỗi cốc để rồi cứ thế đứng lên mà đi về, bỏ lại khoản đầu tư đó cho kẻ khác đến xơi cả." Ông ta lấy khăn lau một vệt dài trên quầy.

Giọng Henderson lúc này đã run rẩy. "Nhưng ông nhớ là tôi có mặt ở đây mà. Nếu ông nhớ tôi thì ông sao mà lại không nhớ cô ta? Cô ta còn dễ nhớ hơn chứ."

Nhân viên quầy đáp với một lý lẽ đáng sợ. "Đương nhiên là tôi nhớ ra ông. Bởi vì tôi lại gặp ông một lần nữa, ngay trước mặt tôi đây. Mang cô ta đến đây thì có khi tôi cũng nhớ ra ấy. Không có thì tôi chịu thôi."

Hắn chồm người lên hẳn quầy, tì bằng hai tay, như thể đã bị say không đủ sức đứng nữa. Burgess tóm lấy một tay hắn, gầm gừ, "Đi thôi, Henderson."

Hắn vẫn bám lại bằng tay kia, đu về phía nhân viên quầy. "Đừng làm thế với tôi chứ!" hắn nói như bị nghẹn. "Ông có biết người ta buộc tôi tội gì không? Giết người đấy!"

Burgess nhanh chóng lấy tay bịt miệng hắn. "Im đi, Henderson," viên cảnh sát ra lệnh.

Họ kéo hắn lùi lại, nhưng hắn cố rướn về phía quầy.

"Đúng là ông rút đúng phiếu số mười ba rồi," một người cảnh sát nhận xét khi họ dẫn được hắn ra ngoài đường, vây quanh hắn như một cái kìm chắc chắn.

"Kể cả nếu người phụ nữ kia có xuất hiện đi nữa - nhưng tại một thời điểm nào đó muộn hơn, vào tối hôm qua - thì cũng không giúp gì được cho ông đâu," Burgess cảnh cáo khi họ ngồi đợi taxi đến. "Bắt buộc là phải trước sáu giờ mười bảy phút mới được. Nhưng tôi cũng vẫn tò mò muốn biết liệu cô ta có xuất hiện thật hay không, nếu có thì là bao lâu sau đó. Thế nên chúng tôi sẽ dò ngược lại từng bước đi của ông, từng bước một, trong cả buổi tối hôm qua, từ đầu tới cuối."

"Cô ta sẽ xuất hiện, xuất hiện mà," Henderson khăng khăng nói. "Thể nào cũng có người nhớ ra, tại một trong những chỗ chúng tôi tới tối qua. Khi gặp được cô ta rồi thì cô ta sẽ nói cho ông biết là cô ta gặp tôi vào lúc nào và ở đâu."

Người được Burgess cử đi làm nhiệm vụ quay về báo, "Hãng taxi Sunrise có hai lái xe đợi ngoài quán Anselmo. Tôi đưa cả hai về đây rồi. Tên là Budd Hickey và Al Alp."

"Alp," Henderson nói. "Đấy là cái tên buồn cười mà tôi nhớ mãi không ra. Tôi có nói với các ông là chúng tôi thấy cái tên đó là cùng cười ấy."

"Cho Alp vào đây. Người kia thì cho về đi."

Alp trông ngoài đời cũng kỳ cục chẳng kém gì trên ảnh thẻ cả, thậm chí trông còn ngộ nghĩnh hơn vì trong đời thực thì được tô đủ màu sắc.

Burgess nói, "Tối qua anh có chở khách từ chỗ trực tới nhà hàng Maison Blanche không?"

"Mason Blantch, Mason Blantch..." anh ta có vẻ hơi lúng tung lúc đầu. "Tối qua tôi đón, trả khách cũng nhiều..." Rồi phương pháp ghi nhớ nhanh của riêng anh ta đến đúng lúc. "Mason Blantch, khoảng sáu mươi lăm xu, một đêm khô ráo," anh ta lẩm bẩm. Anh ta nói to trở lại, "Phải rồi, tôi có chở. Tôi có một chuyến sáu mươi lăm xu tối hôm qua, giữa hai chuyến ba mươi xu."

"Nhìn quanh đây xem có ai là khách anh chở không?"

Anh ta lướt qua khuôn mặt của Henderson. Sau đó quay lại. "Là người này, đúng không?"

"Chúng tôi đang hỏi anh, đừng hỏi lại chúng tôi."

Anh ta bỏ dấu chấm hỏi đi. "Là người này."

"Đi một mình hay với ai khác?"

Lần này thì anh ta cần tới một phút để tìm trong trí nhớ. Sau đó anh ta chầm chậm lắc đầu. "Tôi nhớ là không có ai đi cùng cả. Chắc là đi một mình."

Henderson xồ về phía trước, như một người bị trượt chân. "Chắc chắn anh đã nhìn thấy cô ấy. Cô ấy còn lên xe trước tôi và xuống cũng trước tôi, giống như..."

"Suỵt, yên nào," Burgess kéo hắn lại.

"Phụ nữ ư?" người tài xế cũng không kém phần hùng hổ. "Tôi nhớ có ông. Tôi nhớ ông rất rõ vì tôi bị lõm cả đầu xe khi đón ông..."

"Đúng, đúng." Henderson nhiệt liệt hưởng ứng. "Có thể như thế mà anh không thấy cô ấy lên xe, vì lúc đó anh quay sang nhìn chỗ khác. Nhưng khi đã đến nơi..."

"Khi đến ơi," người tài xế nói cứng, "đầu tôi không quay đi chỗ khác. Chẳng có cha tài xế nào lại nhìn đi chỗ khác khi đến lúc thu tiền của khách cả. Tôi không thấy cô nào ra khỏi xe cả. Thế được chưa?"

"Chúng tôi có để đèn sáng trên xe, từ đầu tới cuối mà," Henderson nài nỉ. "Làm sao mà anh lại không thấy cô ấy được chứ, ngồi ngay sau lưng anh cơ mà? Chắc chắn là anh nhìn thấy cô ấy ở gương chiếu hậu, mà có khi trên cả kính xe ấy..."

"Giờ thì tôi chắc thật rồi," người tài xế nói. "Tôi có thể khẳng định... cho dù vừa rồi tôi không dám chắc. Tôi đã chạy xe taxi tám năm rồi. Nếu ông để đèn trần sáng thì có nghĩa là ông chỉ đi một mình. Tôi chẳng thấy có ông nào đi với phụ nữ mà lại để đèn trần sáng bao giờ cả. Thế nên mỗi khi thấy đèn sáng là có thể cá chắc là ông khách đó đi một mình rồi."

Henderson hầu như không nói thêm được lời nào. Hình như cổ họng không hoạt động theo ý hắn được nữa. "Làm sao mà anh nhớ ra tôi mà lại không nhớ ra cô ấy chứ?"

Lúc này thì Burgess chen vào, trước khi người tài xế có thể trả lời. "Chính ông cũng có nhớ mặt cô ta đâu. Ông đi cùng với cô ta sáu giờ liền mà, chính ông nói đấy nhé. Còn anh ta xoay lưng lại cô ta khoảng hai mươi phút." Viên cảnh sát đánh dấu chấm hết cho cuộc thẩm vấn. "Xong rồi, Alp. Vậy anh xác nhận lời khai của anh như vừa rồi chứ?"

"Lời khai của tôi là như thế. Không ai đi cùng người đàn ông này khi ông ấy ở trên xe tôi tối hôm qua."

Họ đến nhà hàng Maison Blanche vào lúc nhà hàng đang dọn dẹp. Khăn trải không phủ trên bàn, những thực khách nấn ná cuối cùng cũng đã về hết. Đám nhân viên đang ăn trong nhà bếp, chỉ cần nghe tiếng rổn rảng của bát đĩa và dao dĩa phát ra từ đó là đủ hiểu.

Họ ngồi xuống một trong những chiếc bàn vắng khăn phủ, kéo ghế vào sát, trông giống như một bữa tiệc ma quỷ sắp diễn ra với bát đĩa và món ăn vô hình.

Tay bồi trưởng đã quá quen với việc cúi chào khách tới mức giờ khi ra đón họ thì gã cũng cúi chào cho dù lúc này không phải giờ làm việc. Động tác cúi chào này không đẹp mắt lắm vì lúc này gã đã tháo cổ áo và nơ, trên má lại còn dính một mẩu thức ăn nữa.

Burgess nói, "Anh đã thấy người này bao giờ chưa?"

Đôi mắt đen sâu thẳm quan sát Henderson. Câu trả lời đến nhanh như một cái búng tay. "Rồi, chắc chắn rồi."

"Lần cuối cùng là khi nào?"

"Tối hôm qua."

"Ông ta ngồi đâu?"

Tay bồi trưởng chẳng ngần ngại chỉ một cái bàn. "Ở đằng kia."

"Rồi?" Burgess nói. "Tiếp tục đi."

"Tiếp tục gì cơ?"

"Ông ta đi với ai?"

"Ông ta không đi với ai cả."

Ngang trên trán của Henderson xuất hiện những vết hằn nhỏ. "Ông thấy cô ta đi vào đây một lúc sau khi tôi vào rồi đến chỗ tôi. Ông thấy cô ta ngồi đây suốt bữa ăn. Chắc chắn là ông thấy. Có một lần ông còn đến tận bàn, cúi chào rồi hỏi, 'Mọi thứ hài lòng chứ, thưa ông?' cơ mà."

"Đúng rồi. Đó là phận sự của tôi. Bàn nào tôi chẳng phải làm thế, ít nhất một lần. Tôi cũng nhớ mang máng là có chỗ bàn của ông, bởi vì mặt ông lúc đó – nói thế nào nhỉ – trông cứ càu quạu ấy. Tôi còn nhớ hình như còn có hai ghế trống ở bên ghế ông ngồi. Tôi còn chỉnh lại một chiếc cho ngay ngắn mà.

"Ông cũng vừa nói là tôi nói 'Thưa ông', đúng là tôi nói thế. Và như thế thì nghĩa rằng chắc chắn không ai đi cùng ông cả. Nếu có phụ nữ đi cùng với nam giới thì câu đó sẽ phải là 'ông bà'. Không được phép thay đổi."

Phần màu đen ở giữa mắt anh ta ổn định như được dán hay bắt chặt vào khuôn mặt, không hề lay động. Anh ta quay sang phía Burgess. "Nếu còn có gì nghi ngờ thì để tôi lấy danh sách đặt bàn tối qua ra, các ông có thể tự kiểm tra."

Burgess nói với vẻ hào hứng, rõ ràng là ông ta rất thích ý tưởng đó. "Tôi nghĩ rằng như thế cũng chẳng gây thiệt hại gì cả."

Tay bồi trưởng đi sang đầu kia phòng ăn, mở một ngăn kéo, lấy ra một cuốn sổ. Gã không ra khỏi phòng, cũng không ra khỏi tầm mắt của mọi người. Cuốn sổ được giao mà chưa hề mở ra, vẫn y nguyên như khi được lấy ra từ ngăn kéo, như thể để cảnh sát tự mở ra thì hơn. Gã chỉ nói, "Các ông nên so ngày tháng ở trên đầu trang."

Ngoài gã ra thì mọi người đều chụm đầu vào xem cuốn sổ. Gã đứng ngoài. Chữ viết trong sổ là bằng bút chì, nhưng vẫn đủ để đạt được mục đích. Trang đó ghi trên cùng là '20-5, T.Ba'. Rồi có một chữ X vẽ bằng hai đường kẻ chéo từ bốn góc, cho thấy rằng trang này đã được giải quyết xong xuôi. Nét xổ chữ X không cản trở việc đọc nội dung còn lại.

Trên đó có một danh sách khoảng chín, mười cái tên được viết theo cột dọc như sau:

Bàn 18 – Roger Ashely, bốn khách. (đã gạch)

Bàn 5 – Bà Rayburn, sáu khách. (đã gạch)

Bàn 24 – Scott Henderson, hai khách. (chưa gạch)

Cạnh cái tên thứ ba còn có một dấu hiệu trong ngoặc: (/)

Tay bồi trưởng giải thích, "Đúng như lời tôi nhé. Khi dòng nào bị gạch thì có nghĩa là khách đến đúng như đã đặt bàn, đủ người. Khi chưa có gạch thì nghĩa là khách không đến. Khi chưa có gạch mà có số ở bên cạch thì có nghĩa là chỉ có một số khách đến, số còn lại có thể đến sau. Mấy thứ ở trong ngoặc là để cho tôi dễ nhớ, để tôi biết là khi khách đến thì họ sẽ phải ngồi đâu, bố trí thế nào mà không cần phải hỏi nhiều lời. Kể cả khi khách chỉ đến đủ vào lúc ăn tráng miệng, miễn là đủ khách như đã đặt bàn, thì sẽ gạch tên. Thế nên theo đây thì các ông có thể thấy là ông đây đặt bàn cho hai người, nhưng chỉ có ông đây đến, người còn lại không xuất hiện."

Burgess di di ngón tay nhạy cảm vào vị trí đó trên trang giấy xem có dấu vết bị tẩy xóa hay không. "Mọi thứ đều ổn," ông ta nói.

Henderson tì hai khuỷu tay lên mặt bàn, vùi đầu vào hai bàn tay.

Người bồi trưởng xòe tay như thanh minh. "Tôi chỉ biết dựa vào sổ sách thôi. Theo sổ sách thì – tôi thấy – ông Henderson đến đây ăn một mình vào tối qua."

"Dựa vào sổ sách thì chúng tôi cũng thấy như vậy," Burgess nói. "Ghi lại tên, địa chỉ, thông tin cần thiết để khi nào cần thì hỏi thêm. Tiếp nào. Mitri Maloff, phục vụ bàn."

Đối với Henderson thì trước mắt chỉ là thay đổi nhân vật. Giấc mơ, trò đùa này – hay gì gì cũng được, vẫn đang tiếp diễn. Đây có thể là một vở hài kịch – ít nhất là đối với những người bọn họ, nhưng không phải là với hắn. Hắn thấy một trong số họ ghi chép gì đó. Anh ta cong ngón tay áp vào ngón cái, giống như trong một bức ảnh quảng cáo dầu gội đầu ngày trước. "Ôi ôi, không phải, không phải đâu các ông. Còn thiếu một chữ D. Chữ D là câm, không phát âm."

"Thế thì có cũng bằng thừa, đúng không?" một người khác nói với người bên cạnh.

"Tôi chẳng quan tâm là có chữ D hay không," Burgess nói. "Tôi chỉ muốn biết là anh có phục vụ bàn hai mươi tư hay không?"

"Từ bàn mười, đằng kia, tới bàn số hai mươi tám đằng kia là tôi phục vụ."

"Tối qua anh phục vụ người này tại bàn số hai mươi tư?"

Anh ta coi điều đó là một lời giới thiệu xã giao. "A, vâng, chắc chắn rồi!" Anh ta vui vẻ. "Chào ông! Ông có khỏe không ạ? Hy vọng ông sẽ quay lại đây sớm!" Rõ ràng anh ta không nhận ra bọn họ là cảnh sát điều tra.

"Không có chuyện đó đâu," Burgess nhẫn tâm nói. Ông ta xòe tay, ngăn chặn những con sóng lời xã giao. "Khi anh phục vụ bàn đó thì ở đó có bao nhiêu người?"

Người phục vụ bàn có vẻ bối rối, giống như một người đang không biết người khác muốn gì ở mình dù đã cố gắng hết sức. "Ông ấy," anh ta nói. "Thế thôi. Chỉ có ông ấy."

"Không có cô nào?"

"Không, không có ai. Cô nào ư?" Sau đó anh ta nói thêm, hoàn toàn là không biết gì, "Có chuyện gì sao? Ông ấy lạc mất ư?"

Đâu đó trong đầu Henderson có tiếng thét. Hắn há miệng, hít một hơi thật sâu như thể đang bị một cái gì đó gây ra cơn đau quằn quại.

"Phải đấy, ông ta lạc mất một cô," một viên cảnh sát đùa cợt.

Người phục vụ bàn hiểu là anh ta đã đoán đúng, chớp mắt vẻ cảm thông, nhưng cũng rõ ràng là anh ta chưa hiểu thực sự được là những việc này có ý nghĩa gì.

Henderson nói, giọng lí nhí, mệt mỏi và tuyệt vọng. "Anh kéo ghế cho cô ta ngồi. Anh còn mở cả menu ra cho cô ta chọn món." Hắn tự đập vào đầu mình mấy cái. "Tôi thấy anh làm những việc đó. Thế mà không, không, anh không nhìn thấy cô ta."

Người phục vụ bàn bắt đầu phản công bằng những cử kỷ ấm cúng và nhẹ nhàng của người dân Đông Âu, nhưng không thể hiện sự cáu bẳn. "Tôi kéo ghế ra, đúng rồi, khi có phụ nữ ở đó cần ngồi ghế. Nhưng khi không có phụ nữ ở đó thì tôi kéo ghế ra để làm gì? Ông cho rằng tôi kéo ghế ra để mời không khí ngồi ư? Khi không có mặt ai ở đó thì tôi cũng mở menu hay hóa đơn cho xem ư?"

Burgess nói, "Nói với chúng tôi, đừng nới với ông ta. Ông ta đang bị tạm giữ."

Người phục vụ bàn vẫn tiếp tục nói như trước, nhưng lúc này đã thay đổi hướng nhìn. "Ông ta boa cho tôi một xuất rưỡi thì làm gì có chuyện có cô nào đi cùng ông ta chứ? Ông nghĩ hôm nay tôi tử tế với ông ta được hay sao nếu như hôm qua ông ta đi hai người mà lại chỉ boa có một xuất rưỡi?" Đôi mắt anh ta có ánh lửa rừng Đông Âu. Chỉ cần đặt ra giả thiết thôi là đã đủ anh ta bị bỏng rồi. "Ông cho rằng tôi dễ quên hay sao chứ? Tôi nhớ được những cái đó có khi cả hai tuần ấy. Ha. Ông tưởng rằng nếu không thế mà tôi mời ông ta trở lại hay sao? Ha!" anh ta nói gần như gầm gừ.

"Khoản boa một xuất rưỡi là như thế nào?" Burgess không giấu sự tò mò.

"Một người thì boa năm mươi xu. Hai người là một đô-la. Ông ta boa cho tôi bảy mươi lăm xu, như vậy là một xuất rưỡi."

"Chẳng lẽ không thể có việc boa bảy mươi lăm xu cho bữa ăn hai người hay sao?"

"Không bao giờ có chuyện đó," anh ta bực tức. "Nếu có thì tôi sẽ như thế này." Anh ta cầm lên một cái khay tưởng tượng từ mặt bàn, xử sự với nó như thể nó bị bẩn vậy. Anh ta liếc xéo về phía thực khách tưởng tượng, trong trường hợp này là Henderson, cứ nhìn như vậy đủ để hắn phải rùng mình. Môi dưới của anh ta rướn lên với vẻ nhạo báng. "Tôi nói thế này, 'Cám ơn ông. Cám ơn ông rất nhiều. Ông thấy có cần phải thế này không, thưa ông?' Nếu có cô nào đi với khách thì ông ta sẽ thấy mình bị rẻ rúm và sẽ phải cho thêm."

"Phải tôi thì cũng thế thôi," Burgess thú nhận. Ông ta quay sang hắn. "Henderson, thế anh lúc đó boa bao nhiêu?"

Câu trả lời của hắn thật nhỏ. "Như anh ta đã nói đấy: bảy mươi lăm xu."

"Còn một chuyện nữa," Burgess nói, "là có thể xong việc rồi. Tôi muốn xem hóa đơn thanh toán cho bữa ăn đó. Các anh có giữ, đúng không nhỉ?"

"Quản lý giữ. Ông phải đi hỏi ở đó thôi." Khuôn mặt người phục vụ bàn sáng bừng lên một chút, có vẻ như anh ta cảm thấy những gì mình nói sẽ được xác nhận.

Henderson lại chồm người về phía trước với vẻ tập trung, sự lơ đễnh lại một lần nữa bị gạt bỏ.

Người quản lý mang hóa đơn đến. Chúng được xếp thành từng thếp, kẹp trong những bìa giấy dài, mỗi thếp là một ngày – chắc đây là cách để người quản lý có thể thống kê dễ dàng hơn khi tới cuối tháng. Họ tìm thấy cái họ muốn chẳng hề khó khăn gì. Trên đó ghi 'Bàn 24. Bồi 3. Bàn đặt trước – 4,25', kèm theo là một dấu hồng hồng 'Đã thanh toán – 20/5' hình trái xoan nữa.

Ngoài ra, trong thếp hóa đơn cho ngày đó chỉ có hai hóa đơn khác là của bàn hai mươi tư. Một là '1 trà – 0,75' từ cuối giờ chiều tới đầu giờ phục vụ bữa tối. Hai là một bàn cho bốn người – một bữa tiệc nhỏ khá muộn, ngay trước giờ đóng cửa.

Họ đỡ hắn ra xe. Hắn đi như thể đang đi trên mây, chân không đỡ nổi cơ thể. Lại một lần nữa, với hắn, những tòa nhà, những con phố lại tụt về phía sau như chưa bao giờ có thật, mà chỉ giống những cái bóng trên khung cửa kính.

Hắn thốt lên khổ sở, "Bọn họ nói dối – bọn họ muốn tôi phải chết, tất cả bọn họ. Tôi đã làm gì nên tội với bọn họ chứ...?"

"Anh thấy chuyện này làm tôi nhớ tới cái gì không?" một viên cảnh sát nói. "Mấy tập phim Topper* ấy, khi người ta cứ hiện lên rồi lại biến mất ngay trước mắt mình trên màn ảnh. Anh đã xem chưa, Burgess?"

phim Topper là bộ phim về hiện tượng siêu nhiên, tập đầu công chiếu năm 1937

Henderson rùng mình, run rẩy, đầu gục xuống.

Phía bên ngoài tiết mục vẫn đang diễn ra, tiếng nhạc, tiếng cười và thỉnh thoảng là tiếng vỗ tay vang tới tận văn phòng nhỏ, chật chội này.

Người quản lý nhà hát đang ngồi chờ bên điện thoại. Công việc làm ăn đang suôn sẻ. Ông ta tỏ ra hài lòng khi nhìn bọn họ, thong thả thưởng thức xì-gà, ngả người ra đằng sau tựa vào chiếc ghế bành.

"Việc hai ghế đó đã có người mua vé thì không còn gì bàn cãi cả," người quản lý nói với giọng lịch thiệp. "Nhưng tôi chỉ có thể nói với các ông rằng không có người nào đi vào rạp cùng với ông ấy..." Ông ta ngừng lời, tỏ vẻ lo lắng. "Ông ấy có vẻ mệt quá rồi. Đưa ông ấy ra khỏi đây nhanh đi. Tôi không muốn có lộn xộn gì khi mà đang có xuất diễn ngoài kia đâu."

Họ mở cửa, nửa như dắt nửa như đỡ Henderson đi ra, vì hắn cứ như sắp ngã ngửa ra sàn nhà. Tiếng hát không còn bị cánh cửa cản trở ùa vào trong phòng.

Chica chica bum bum. Chica chica bum bum...

"Đừng tiếp tục nữa," hắn cầu xin, "tôi không chịu nổi nữa đâu!" Hắn ngã gục xuống ghế sau xe cảnh sát, hai bàn tay đan vào nhau, đưa lên miệng cắn như thể tìm kiếm điều gì chứng minh hắn vẫn còn tỉnh táo.

"Thế sao ông không chịu thú nhận là không có cô nào đi cùng với ông cả?" Burgess cố gắng nói lý lẽ với hắn. "Ông không thấy là như vậy thì mọi chuyện sẽ đơn giản hơn bao nhiêu ư?"

Henderson cố gắng trả lời bằng giọng bình tĩnh nhưng vẫn không tránh nổi một chút run rẩy. "Ông có biết là chuyện gì sẽ xảy ra tiếp không, khi mà – nếu mà tôi thú nhận theo ý của ông? Tôi sẽ phát điên mất. Cả đời này tôi sẽ không bao giờ dám chắc chắn về một điều gì nữa, kể cả những việc hiển nhiên ai cũng phải chắc chắn là đúng ấy, như tên tôi là Scott Henderson..." hắn đổ rạp xuống một bên, "... kể cả như về cái chân này, có khi cũng sẽ phải đặt câu hỏi rồi cho rằng không phải chân của mình. Cô ta đi cùng tôi sáu giờ liền. Tôi đã chạm vào tay cô ta. Tôi chạm vào người cô ta rồi." Hắn vươn tay ra và chạm vào bắp tay của Burgess. "Tôi còn nhớ chắc chắn cả về tiếng sột soạt từ cô ta mặc. Những lời cô ta nói. Cả mùi nước hoa nhè nhẹ nữa. Tiếng thìa của cô ta chạm vào đĩa. Cái vết nhỏ trên ghế khi cô ta kéo nó lại. Xe taxi hơi rung khi cô ta bước xuống. Rượu đi đằng nào khi mắt tôi thấy rượu lúc cô ta nâng ly, rồi khi hạ xuống thì đã không còn?" Hắn đấm thình thịch lên đầu gối - ba, bốn, năm lần. "Cô ta ở đó, chắc chắn." Hắn gần khóc, ít nhất là vẻ mặt đã nhăn nhúm như người sắp khóc. "Thế mà giờ đây bọn họ lại bảo là cô ta không có ở đó!"

Chiếc xe vẫn tiếp tục lướt qua vùng đất xa xôi nào đó như suốt cả buổi tối nay.

Rồi hắn nói một điều mà hầu như chưa có một nghi phạm nào từng nói cả. Lời hắn nói ra từ đáy lòng. "Tôi sợ lắm. Các ông cho tôi về phòng giam đi. Xin các ông đấy, cho tôi về đó. Tôi muốn có các bức tường xung quanh, có cái gì đó tôi chạm vào được. Cứng rắn, vững chắc – thứ các ông không thể xô đổ được!"

"Ông ta run quá," một viên cảnh sát nói, tỏ vẻ tò mò.

"Ông ta cần uống một ly," Burgess nói. "Dừng lại một chút. Một anh xuống kia, mua cho ông ta một vài tợp đi. Thấy cảnh đàn ông thế này tôi không chịu được."

Henderson nốc hết chỗ rượu vào mồm, như thể không thể chờ thêm được nữa. Rồi hắn ngã vật xuống ghế. "Về phòng giam. Cho tôi về phòng giam," hắn năn nỉ.

"Ông ta bị ma nhập rồi," một viên cảnh sát cười khúc khích.

"Chơi với ma thì bị nhập là đúng rồi."

Chẳng còn ai nói lời nào cho đến khi họ ra khỏi xe và bước tới bậc thềm lên đồn cảnh sát. Lúc này Burgess vực hắn dậy bằng cách đỡ tay hắn khi hắn bị vấp. "Ông cần ngủ thật nhiều tối hôm nay, Henderson," ông ta nói. "Ông cũng cần có luật sư giỏi nữa. Ông cần hai điều đó."


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro