1-47

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1: Thiện nhân chín kiếp

Cầu Nại Hà chật hẹp âm u vắt ngang qua dòng Vong Xuyên cuồn cuộn , kéo dài tới tận chốn chân mây sâu thẳm trong hư vô. Những quỷ hồn chân không chạm đất đang nghẹn ngào uống bát canh Mạnh Bà để bước vào một kiếp sống mới đầy bí ẩn khôn lường.

Từ sâu thẳm phía chân mây như có một lực hút vô hình khiến cho một khi đã bước chân lên cầu thì đám u hồn không thể quay lại được nữa, chỉ có thể lững lờ trôi về phía trước, như những con thiêu thân lao mình vào lửa.

Đúng vào lúc này, một giọng nói hết sức hung hăng, kiêu ngạo chợt vang lên:

- Ta phải kiện! Nhất định phải kiện!

Theo tiếng nói, một gã trai trẻ trông rất bảnh bao từ phía bên kia cầu Nại Hà bước đến. Đầu tóc y chải chuốt kỹ lưỡng, chỉnh tề đến bóng mượt, bận một bộ âu phục đính rất nhiều kim tuyến, trông như một ngôi sao ca nhạc mới vừa từ sân khấu bước xuống.

- Xoảng!

Bát canh Mạnh Bà đậm mùi rơi xuống đất. Những nếp nhăn xếp đầy trên khuôn mặt của Mạnh Bà càng hằn sâu hơn. Bà thở dài lẩm bẩm: "Đã là lần thứ chín, lần thứ chín rồi! Cái tên gây họa này lại quay về."

Bộ đôi Ngưu Đầu, Mã Diện (Đầu Trâu, Mặt Ngựa) bước theo sau quỷ hồn trông như ngôi sao ca nhạc đó. Cặp mắt trâu của Ngưu Đầu trợn ngược hết mức, còn khuôn mặt của Mã Diện thì chảy dài hơn cả mặt lừa. Tất cả chỉ bởi cái gã Trịnh Thiếu Bằng thuộc thành phần phải cấm tiệt lai vãng theo quyết định của bọn họ đã lại quay trở về.

Đây là lần thứ chín y chết. Truyền kỳ về tám lần đầu thai của y bắt đầu bằng lần rơi thùng cáp treo ở núi Nam Thương. Nhờ đỡ cho một bé gái ba tuổi trước khi ngã mà y tích được âm đức, vì vậy tuổi thọ được tăng thêm ba năm. Nhưng xui xẻo cho bọn Ngưu Đầu, Mã Diện đang phải vội quay về tham dự buổi tiệc cưới của con gái Thành hoàng lão gia, không đợi đến khi y ngã xuống chân núi mà chúng đã tóm lấy hồn phách của y ngay khi y còn lơ lửng trên không.

Mãi đến khi bọn chúng tỉnh lại sau cơn say bí tỷ, phát hiện rằng mình đã bắt nhầm người thì thể xác của Trịnh Thiếu Bằng ở trên dương thế đã bị hỏa táng. Để trốn tránh trách nhiệm, bọn chúng buộc lòng phải đút lót Thôi phán quan, nhờ ông ta tống y về dương gian, cho y mượn xác sống lại để hưởng hết ba năm tuổi thọ ấy.

Nào ngờ... trong vòng có một năm mà y đã chết đến tám lần, không lần nào sống quá hai tháng. Phải nói là Thôi phán quan đối đãi với y rất là chu đáo. Trong lần chuyển thế đầu tiên, Phán quan đã cho y nhập thân vào một phú ông ở Ôn Châu vừa mới bị chết đuối. Phú ông này mở bốn công ty trang phục, tiền của có đến ba trăm triệu, năm nay sáu mươi tám tuổi, cô vợ lại chỉ mới hai mươi tám, ba cô tình nhân như hoa như ngọc tuổi lại càng nhỏ hơn, nhỏ nhất chỉ mới mười tám. Bấy nhiêu đó đủ để cho y vừa lòng rồi, đúng không?

Vấn đề là... lão phú ông này chết đuối không phải ở dưới sông, cũng chẳng phải ở trên biển, mà là chết đuối ở trong bồn tắm. Trong lúc tắm ông bị ả vợ yêu kiều quyến rũ dìm cho chết.

Đang lơ lửng ở trên không chờ nhập xác, Trịnh Thiếu Bằng nhìn thấy cảnh ấy mà sởn tóc gáy. Thế là y khóc lóc nỉ non, rất không cam lòng khi bị Ngưu Đầu, Mã Diện đẩy vào trong thân thể của lão phú hào mới vừa chết đuối. Y thật sự không hưởng thụ nổi loại "diễm phúc" như vậy.

Sau vài tuần lễ, y đã nắm rõ toàn bộ tình hình tài chính và hoạt động của công ty. Sau đó, y đem một phần ba tài sản chia cho người vợ thuở cơ hàn và mấy đứa con trai mà y đã bỏ rơi, còn lại bao nhiêu y đều đem đi làm từ thiện hết.

Một tháng sau, ả vợ xinh đẹp khi thấy y rõ ràng đã chết mà giờ lại sống sờ sờ, hơn nữa còn nhìn ả với một ánh mắt kỳ quái, đã bị doạ cho phát điên, vơ lấy một con dao gọt trái cây đâm y không ngừng. Đến khi Ngưu Đầu, Mã Diện nghe tin cấp tốc chạy tới thì cái thi thể đó đã thủng lỗ chỗ, nếu cho sống lại trông sẽ hơi tởm, thế là bọn chúng đành phải lôi y trở về địa phủ.

Dĩ nhiên Trịnh Thiếu Bằng sẽ không nói toạc ra là y ghét cái thân thể của lão già ấy, nơi cần "mềm" thì lại cứng đơ, chỗ cần "cứng" thì lại mềm xèo, nên đã sớm muốn tìm chết cho rồi. Thế là Phán Quan đại nhân lại phải vắt nát óc suy nghĩ rồi để y nhập vào xác một vị phó thị trưởng vừa mới bị bệnh chết.

Vị phó thị trưởng này mới bốn mươi tám tuổi, có thể xem như là độ tuổi sung mãn, đang nằm trong phòng bệnh cao cấp, khắp người cắm chi chít những ống dẫn. Lúc mới nhập viện thì người đến thăm đông nghịt, nhưng kể từ khi bác sỹ điều trị báo với cấp trên chuẩn bị lễ truy điệu thì phòng ông nằm đã trở nên vắng tanh.

Chưa từng nghĩ là mình có thể làm quan to đến như vậy nên thực sự Trịnh Thiếu Bằng cũng muốn chọc trời khuấy nước một phen. Nhưng y không thể nào chịu nổi cảnh lấy một người phụ nữ tuổi xấp xỉ mẹ mình làm vợ được.

Vì vậy cả ngày y nằm trong bệnh viện cáo ốm, nhất định không chịu về nhà. Đến khi phát hiện lão phó thị trưởng này hóa ra lại là một thành viên trong một đám tham quan hủ lại, lúc bấy giờ y mới thở phào nhẹ nhõm.

Y bèn thu thập một chồng chứng cứ chuyển giao cho văn phòng kỷ luật tỉnh ủy. Thế là trong lúc tổ chức nghiêm khắc điều tra, xét xử vụ án này, y đã "vinh dự" và "chủ động" bị đồng bọn trước đây thủ tiêu.

"Than ôi, nhân vô thập toàn!", Trịnh Thiếu Bằng đành than thở như thế. Tại sao trên đời lại không có được một công tử lịch lãm, ngọc thụ lâm phong, phong lưu phóng khoáng, anh tuấn tiêu sái, tuổi trẻ nhiều tiền chứ nhỉ?

Á... thật ra không phải là không có. Nhưng mà cái đám thanh niên phù hợp mấy cái điều kiện trên đều khỏe như vâm, ăn uống ngon lành. Y muốn nhập được vào xác bọn chúng thì còn phải chờ chán.

Khó khăn lắm, mãi đến lần thứ tám y mới may mắn nhập được vào xác của một ngôi sao ca nhạc phong lưu tiêu sái, nổi tiếng khắp Hương Cảng, Đài Loan. Coi như cũng đã thỏa tâm nguyện của y rồi, nói chung cũng xứng để y hưởng nốt hai năm thọ còn lại chứ nhỉ?

Dè đâu... y bỗng dưng lại chết quay về, đừng nói là Thôi phán quan, thậm chí ngay cả Ngưu Đầu, Mã Diện cũng muốn điên lên.

Trịnh Thiếu Bằng lại cảm thấy nhẹ nhõm. Mới sung sướng nhập vào xác ngôi sao ca nhạc vừa mới chết vì bệnh chưa bao lâu thì y đã kinh hoàng phát hiện: không ngờ cái gã thanh niên bảnh bao xinh đẹp khiến cho biết bao thiếu nữ điên cuồng vây quanh kia lại là một gã đồng tính, lại còn là một gã đồng tính tính nữ.

Nhìn những ánh mắt tràn đầy u oán của mấy tay bạn nhảy khôi ngô ngày thường hay quấn lấy y giờ lại bị y từ chối "tiếp xúc", y như muốn phát điên. "Cái tấm thân tàn hoa bại liễu này... ta đây đường đường thân nam nhi bảy thước (khoảng một mét bảy), chết đói là chuyện nhỏ, mất trinh là chuyện lớn đó!" Trịnh Thiếu Bằng đau đớn thầm nghĩ.

Cho nên... Khi công ty sắp xếp cho y đến Đại Lục để tham gia biểu diễn từ thiện cứu trợ thiên tai, vị ca sỹ nổi tiếng "vừa trải qua một cơn bạo bệnh" này đã "không cẩn thận" mà ngã xuống sân khấu, ót đập vào đá. Thế là hương hồn của y lại u oán trở về địa phủ.

Bên trong đại điện âm ty tĩnh mịch. Xếp trên một chiếc bàn bát tiên đen nặng trịch là một chồng văn thư cao quá nửa người, mà Thôi phán quan lại không thấy đâu. Ngưu Đầu, Mã Diện vô cùng kinh ngạc nhìn khắp tứ phương rồi bước đến chiếc bàn.

Trên chiếc bàn bát tiên phong vị cổ kính có đặt một màn hình trông giống như màn hình vi tính ở nhân gian, dưới gầm bàn ló ra một nửa thân người, dường như có ai đó đang chui vào gầm bàn.

Ngưu Đầu bước lên phía trước, cẩn thận gọi:

- Phán Quan đại nhân, ngài chui xuống dưới gầm bàn để làm gì vậy?

Thôi phán quan bò ra khỏi gầm bàn. Ông ta mặc một bộ quan phục xưa màu đỏ, hai cánh trên chiếc mũ cánh chuồn trông như hai chiếc lá đào, hao hao mấy tay tri huyện thất phẩm trên sân khấu kịch; lông mày chữ bát , cặp mắt ti hí, khuôn mặt nhỏ nhắn nhăn nhúm như bánh bao, trông hết sức buồn cười.

Thấy bọn chúng, ông ta liền ủ rũ than:

- Ôi chao! Còn không phải là "nhờ" cái hệ điều hành "Uyn-đầu-ết-pi" (Windows XP) này sao? Từ khi sử dụng nó, hiệu suất công tác của địa phủ tăng cao thì có đấy, nhưng cứ vài tháng phải cài đặt lại một lần. Bổn đại nhân bây giờ nhắm mắt cũng có thể thao tác thuần thục từng bước cài đặt rồi.

Càng chán hơn nữa là hệ điều hành lúc thì chết treo, khi thì chết đứng, rồi tự khởi động, bị sự cố mãi không thôi. Nghe đâu cái Luân Hồi điện ở chỗ Hồng Phán quan đã bị rất nhiều âm hồn lợi dụng lỗi của hệ điều hành mà vượt thời không, trốn về thời cổ đại làm ngựa giống đấy. Mấy kẻ đó thật là, có câu "người khôn chọn chỗ cao mà ở", bọn họ ở kiếp trước cũng chẳng có làm chuyện gì xấu xa, cớ sao lại phải tranh nhau đầu thai đi làm súc sanh chứ? Làm kiếp ngựa đâu có sung sướng gì? Nghĩ mãi vẫn không thông, thật sự nghĩ không thông!

Ngưu Đầu hơi giật giật khóe miệng, muốn cười nhưng lại cố nín: "Thôi kệ, ông ấy tuổi đã cao, không biết 'ngựa giống' nghĩa là gì thì cũng thông cảm được. Cũng chả tiện giải thích cho ông ấy".

Đoạn gã thay đổi đề tài:

- Hệ điều hành có vấn đề gì vậy, có muốn tiểu thần giúp ngài sửa một chút không?

Thôi phán quan lắc đầu đáp:

- Mấy cái lỗi này không nghiêm trọng. Có điều sau khi khởi động, đèn ổ cứng cứ chớp nháy liên tục cả nửa tiếng rồi mới cho bổn đại nhân sử dụng, khiến bổn đại nhân chờ đến ngủ gục luôn.

Mã Diện lầu bầu:

- Nghe nói mấy cái hệ điều hành sản xuất trong nước của chúng ta không đến nỗi nào mà, cớ sao khi đó phải mời Thành hoàng ngoại quốc về thiết kế chứ. Nghe nói Diêm Vương bệ hạ đang thương lượng với Diêm Vương phương Tây Lucifer bệ hạ, yêu cầu bọn họ phái cái tay thiết kế sư Biu-gây (Bill Gates) đó nâng cấp hệ điều hành càng sớm càng tốt đấy.

Thôi phán quan lắc đầu chán nản:

- Không được! Nghe nói vị Thành hoàng đó đã lên nhân gian nghỉ phép rồi. Sổ sinh tử không có tên ông ấy, kỳ nghỉ lại chưa kết thúc, chẳng ai kiếm được ông ta, nên giờ đành phải ráng chịu khó thôi. À đúng rồi, chẳng phải các ngươi đã xin nghỉ phép rồi sao, còn chạy tới đây làm gì?

Ngưu Đầu gắng gượng cười vài tiếng, đáp:

- Đại nhân, cái tên... cái tên không chịu sống đó lại chết trở về đây rồi. Cho y hưởng thêm ba năm thọ, y mới qua được có một năm mà đã quay về đến chín lần. Ngài thử nghĩ biện pháp gì xem, chứ cứ cái đà này ngộ nhỡ có ngày gặp phải Diêm Vương, bị ngài biết được thì sẽ rất thảm đó.

Nghe xong, da mặt Thôi phán quan lập tức co rúm lại, ông ta vội vàng nhảy bổ đến trước chiếc máy vi tính gõ lách cách một hồi, sau đó trợn tròn mắt nhìn vào màn hình lặng thinh không nói lời nào.

Mã Diện không khỏi khẩn trương, vội vác bộ mặt ngựa của gã đến hỏi:

- Sao thế, có chuyện gì ư?

Thôi phán quan đáp:

- Không có gì, máy vừa mới cài lại xong. Hệ thống thật lắm rác, kiểu này làm CPU chạy chết bỏ luôn, vận hành siêu chậm!

Ngưu Đầu nghe xong gãi gãi sừng không nói gì.

Đợi một hồi lâu, Thôi phán quan chợt biến sắc, sắc mặt biến đến độ trắng bệch trắng xanh. Nếu không phải ông đang mặc bộ quan phục thùng thình đỏ rực thì nhất định bọn Ngưu Đầu, Mã Diện đã tưởng ông ta là một quỷ tù vừa mới vượt ngục, câu lấy hồn quẳng lại vào ngục rồi.

Ngưu Đầu bất giác hồi hộp hỏi:

- Sao vậy đại nhân, chẳng lẽ hệ điều hành đã nhiều rác đến độ không thể chạy được nữa à?

Thôi phán quan cả người run lẩy bẩy, chỉ vào màn hình, than thở:

- Xong rồi, xong hết rồi, "ết-pi" (XP), lần này "lết đi" thật rồi! Trời ơi, sớm biết sẽ như vầy thì lúc trước ta cứ bẩm báo thẳng với Diêm Vương các ngươi làm trái với quy tắc, câu nhầm hồn phách. Như vậy, lão phu đâu đến nổi vì bọn ngươi mà phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác. Lần này thì thảm chắc rồi!

Mã Diện khịt mũi, bực bội:

- Có gì mà thảm chứ, chẳng phải chỉ là một năm trở về tám lần thôi sao? Cùng lắm thì hai năm còn lại quay về mười sáu lần, có sá gì chứ. Để thần xem ai sẽ lì hơn ai.

Mặt như đưa đám, Thôi phán quan đáp:

- Không phải đâu, không phải đâu! Các ngươi nhìn xem, cái tên các ngươi bắt nhầm lần đó đã liên tục chết đến chín lần, mà mỗi lần đều vì làm thiện mà chết, vì vậy... vì vậy...

Thôi phán quan hít sâu một hơi, nghiến răng nghiến lợi nói tiếp:

- Bây giờ hắn đã là cửu thế thiện nhân (người tốt chín kiếp) rồi.

- Cửu thế thiện nhân? Nghĩa là gì?

Ngưu Đầu không hiểu hỏi. Lời của phán quan đại nhân thật quá sâu xa, khiến cho người ta có chút mù mờ.

Thôi phán quan run lẩy bẩy, giải thích:

- Nếu như bây giờ để cho hắn sống lại, rồi hắn lại làm thiện mà chết, vậy thì hắn sẽ là thập thế thiện nhân (người tốt mười kiếp), sẽ vượt ra khỏi sinh tử luân hồi.

Ngưu Đầu càng không hiểu:

- Thập thế thiện nhân? Thoát ra khỏi sinh tử luân hồi? Nghĩa là sao?

Thôi phán quan vỗ đùi nói:

- Chính là... hắn sẽ trở thành Phật.

Ngưu Đầu, Mã Diện đồng loạt há hốc mồm, nghi ngờ:

- Không... phải chứ? Thành Phật dễ như vậy sao?

Thôi phán quan cười khổ mấy tiếng, nói:

- Đôi khi chuyện thành Phật cũng phải có cơ duyên. Ví dụ như Quan Thế Âm Bồ Tát. Cũng vì trong ngày Phật Tổ giảng kinh truyền đạo độ cho chúng đệ tử thành phật, cũng chính là lúc nhân gian gặp phải đại nạn, Bồ Tát phát nguyện: "Chúng sinh bất độ tẫn, thệ bất thành phật!" (nghĩa là "chúng sanh chưa được độ hết thì thề sẽ chưa thành Phật") mà đã lỡ mất cơ duyên. Mặc dù bà ta thần thông quảng đại còn trên cả chư phật, nhưng vẫn không được xưng là Phật.

Bọn chúng nghe xong không khỏi vỗ tay khen:

- Tấm lòng Bồ Tát thật là tốt, khó trách thế nhân gọi người là đại từ đại bi. Địa Tạng Vương Bồ Tát nguyện: "Địa ngục bất không, thệ bất thành Phật!" (nghĩa là "địa ngục chưa trống thề sẽ chưa thành Phật") cũng giống như Quan Thế Âm Bồ Tát. Mặc dầu cả hai chưa thành Phật, nhưng trong lòng chúng tiểu thần hai vị đều là Phật thật sự.

Thôi phán quan than thở:

- Đại từ đại bi cũng không cứu được cái họa của bọn ngươi và ta ngày hôm nay đâu. Chỉ vì thói đời bạc bẽo, lòng dạ con người đổi thay, Phật Tổ muốn cải tạo nhân tâm, cho nên ba trăm năm trước tại Linh Sơn ngài đã ban một lời thề lớn. Ngài nguyện rằng nếu người trần có thể kiên trì làm việc thiện trong mười kiếp thì sẽ lập địa thành Phật . Nếu như để hắn làm việc thiện mà chết thêm một lần nữa, khi đó hắn sẽ thành Phật. Phật Tổ thần thông quảng đại, tất nhiên lúc đó sẽ nhìn thấu được ẩn tình, đến lúc đó há chẳng phải sẽ lộ ra hết hay sao?!

Ngưu Đầu, Mã Diện nghe xong cũng không khỏi ngẩn người, ngơ ngác hỏi:

- Vậy... vậy phải làm sao bây giờ? Cái tên vô lại chết tiệt này, chúng tôi vì không nỡ để hắn chịu nỗi đau ngã nát người, nhất thời có lòng tốt mà thu trước hồn phách của hắn, ai ngờ sổ sinh tử lại thay đổi bất thình lình chứ? Bây giờ phải làm sao đây?

Đột nhiên, Ngưu Đầu đảo tròn mắt vài vòng, nghi ngờ:

- Không đúng à đại nhân! Lúc cho hắn mượn xác sống lại, vì để bồi thường hết ba năm tuổi trời của hắn, bọn tôi đã hối lộ Mạnh Bà không cho hắn uống canh mà! Cho nên bất luận là hắn có chết bao nhiêu lần đi chăng nữa thì cũng chỉ tính là một kiếp thôi chứ, sao lại biến thành chín kiếp rồi?

Thôi phán quan thở dài nói:

- Lỗi của hệ điều hành...

Ngưu Đầu, Mã Diện ngây người cả nửa ngày trời rồi mới rống lên thảm thiết:

- Ta hận Biu-gây!

Thôi phán quan đăm chiêu đi lòng vòng trong đại điện. Qua một hồi lâu, lão bất chợt nhíu mày, giảo quyệt nhìn khắp chung quanh rồi vẫy bọn Ngưu Đầu, Mã Diện đến trước mặt, vân vê bộ ria chuột, nham hiểm cười nói:

- Khục khục khục, nếu sai sót máy tính của Luân Hồi điện ở chỗ của Hồng phán quan đó có thể khiến cho âm hồn xuyên qua thời không, vậy thì ta lại nghĩ ra được một phương cách. Nếu nghĩ ra được một biện pháp thu xếp cho hắn đi đến thời cổ đại mà mượn xác sống lại thì, hề hề hề...

Ngưu Đầu chớp chớp mắt, lấy làm kỳ quái hỏi:

- Vậy thì sao? Ngộ nhỡ cái tên đểu cáng đó xây một cây cầu, sửa một con đường không cẩn thận lại va đầu lên một hòn đá bé xíu mà chết, vậy chẳng phải hắn cũng sẽ thỏa lời nguyện "thập thế thiện nhân" sao?

- Hề hề hề...

Thôi phán quan cố sức rặn một tràng cười nham hiểm:

- Phật Tổ nguyện "Thập thế thiện nhân khả dĩ thành phật (làm thiện mười đời có thể thành Phật)" là vào ba trăm năm trước. Nếu như có người đầu thai trước lúc ấy, thì cho dù hắn có chết một trăm lần cũng vẫnthỏa điều kiện của mười đời thành Phật, ha ha ha...

Ngưu Đầu, Mã Diện nghe xong liền đồng loạt vỗ tay, nham hiểm cười lớn:

- Vậy thì quá tốt rồi! Đại nhân thật không hổ là lão già thành tinh, úi... là lão luyện thành thục...

--------------

Trong truyền thuyết thần thoại của Trung Quốc, sau khi chết âm hồn sẽ phải bước vào Quỷ Môn Quan, đường xuống Hoàng tuyền (suối vàng). Con đường nối giữa Hoàng tuyền và Âm phủ được ngăn ra bởi Vong Xuyên hà. Nước của Vong Xuyên hà có màu vàng máu (huyết hoàng), dưới đó nhung nhúc những cô hồn dã quỷ không được đầu thai, sâu bọ rắn rết, mùi máu thịt tanh tưởi phả vào mặt. Trên Vong Xuyên hà có Nại Hà kiều (có thuyết giải thích: tội nhân đến đó hỏi làm sao để lội qua sông nên mới được gọi là Nại hà), ngồi cạnh cây cầu là một bà lão được gọi là Mạnh Bà. Muốn đi qua Vong Xuyên hà, phải bước qua Nại Hà kiều. Muốn bước qua Nại Hà kiều thì phải uống một bát Mạnh Bà thang (dân gian Việt nam gọi là "cháo lú"). Không uống Mạnh Bà thang thì sẽ không thể qua được cầu, không qua được cầu sẽ không cách nào đầu thai kiếp khác.

lông mày cụp 八

Ở đây Thôi Phán quan hiểu nghĩa đen của từ "chủng mã" (种马) có nghĩa là "ngựa giống", nhưng nó còn có nghĩa là người nam giỏi về họat động tình dục (bạn tình giỏi). Ý tác giả muốn mỉa mai những bộ truyện trên mạng khác, thuộc thể loại tự sướng, nhân vật thường trở về quá khứ để tán gái, tán đâu được đấy, truyện tả cảnh quan hệ tình dục quá nhiều không khác gì ngựa giống

"岔皮" (xảo bì) vừa có nghĩa là "XP" (phiên âm) cũng có nghĩa như "tao cao" (糟糕), có nghĩa là "hỏng bét", "tiêu rồi".

lập địa thành Phật: trong truyện này có nghĩa là "thành Phật ngay lập tức" (sau mười đời làm việc thiện). Thông thường, "lập địa thành Phật" không có nghĩa là thành Phật tức thời.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 2: Lén vượt thời không

Trịnh Thiếu Bằng bị lôi đến trước mặt Thôi phán quan. Thôi phán quan khẽ vuốt chòm râu, ra vẻ tươi cười hòa nhã nói:

- Trịnh Thiếu Bằng, mặc dù bọn ta đã câu hồn của ngươi sớm mất ba năm, nhưng cũng đã để cho ngươi sống lại, mượn xác những kẻ không giàu thì sang, xem như không phụ ngươi. Thế nhưng ngươi lại cho rằng vẫn chưa đủ, chỉ trong vòng một năm mà đã quay về đến tám lần. Thôi được rồi, đám người hiện đại các ngươi không phải là rất thích vượt thời không trở về thời cổ đại lắm sao? Lúc trước là bổn phán quan đã sai, vậy ta sẽ đưa ngươi vượt thời không quay về thời cổ đại một chuyến, ngươi thấy thế nào?

"Về thời cổ đại?" - Trịnh Thiếu Bằng không khỏi kích động: "Mình chỉ còn có hai năm để sống, đi du lịch về thời cổ đại một chuyến cũng tốt. Tiếc là chỉ có hai năm để sống, không có cơ hội chinh chiến chém giết, hưởng thụ tư vị làm một đại anh hùng. Ừm... phải hưởng thụ cho sướng một phen! Hai năm à... làm Trụ vương hay là Tùy Văn đế? Cái nào cũng rất có diễm phúc à nha. Chọn gái là phải chọn chất chứ không chọn lượng. Còn không thì làm Sùng Trinh cũng tốt, lúc đó có thể thu được Tần Hoài Bát Diễm , Hồng nương tử, Trần Viên Viên này nọ."

Thôi phán quan híp mắt vê râu, gật gù đắc ý nói:

- Trịnh Thiếu Bằng, kiếp này ta để ngươi đầu thai về thời cổ đại, dù gì thì cũng nên kiếm cho ngươi một gia đình thích hợp. Ta hỏi ngươi, ngươi có biết y thuật hay không? Đại loại như là mổ đầu giải phẫu, nghiên cứu bào chế tây dược gì đấy?

Trịnh Thiếu Bằng chỉ nghĩ tới chuyện sẽ hưởng thụ vài năm, nên vừa nghe ông ta nói vậy, liền nghĩ chẳng lẽ lão còn trông đợi ta sẽ tự thân lập nghiệp làm một thần y hay sao? Vì thế y bèn cười nói:

- Không được, nếu như bị nhức đầu sổ mũi bảo tôi tự mình đến tiệm mua thuốc thì tôi còn làm được, chứ ai mà rảnh hơi nhớ cho hết mấy thứ nguyên liệu thuốc thang này nọ kia chứ?

- Hơn nữa tôi cũng chả nhớ nổi mấy cái thuật ngữ khoa học đâu. Còn về phần giải phẩu mổ đầu gì gì đó, ông đừng có giỡn chơi chứ! Thần y Hoa Đà chỉ vì câu nói phải mổ đầu Tào Tháo mà còn bị chém cho bay đầu, tôi cho dù có biết mổ cũng không dám quay về quá khứ mà khoe khoang đâu. Người ở thời đại đó tri thức còn nông cạn, một đại thần y mà bọn họ còn không tin, cỡ tôi mà về đó khoe tài, không bị người ta gán cho là tà ma ngoại đạo đập cho chết tươi mới là lạ đó.

Nghe xong, sắc mặt Thôi phán quan chợt đanh lại. Ông cố áp chế lửa giận trong lòng, làm ra vẻ ôn hòa nói:

- Hành y là để cứu thế. Làm hạnh lâm quốc thủ mặc dù nở mày nở mặt, thế nhưng... Thôi, không làm thì không làm! Ta lại hỏi ngươi, có biết chế tạo hỏa dược, nghiên cứu chế tạo vũ khí hiện đại không? Chém tướng đoạt cờ, kiến công lập nghiệp cũng là lạc thú của nhân sinh đấy.

Trịnh Thiếu Bằng đáp:

- Hỏa dược hả... tôi nhớ mang máng là phải dùng diêm tiêu , lưu huỳnh, rồi còn có một thứ gì chẳng nhớ nữa, phải than củi không ta? Còn về tỷ lệ thì lại càng không nhớ nổi. Nobel là chuyên gia về thuốc nổ mà khi nghiên cứu thứ này còn bị nó nổ cho cụt tay cụt chân, để một thằng gà mờ như tôi đây đi nghiên cứu cái quỷ đó, vậy còn không phải là chê đời quá dài kêu tôi thắt cổ tự tử đi cho rảnh hay sao?

- Còn về phần vũ khí hiện đại... trước tiên ông đưa tôi đến xưởng chế tạo vũ khí học hỏi vài ba năm đi! Rồi sắt thép cổ đại cũng không phù hợp với tiêu chuẩn, dù có nghiên cứu được súng thì lúc bắn chắc cũng nổ gãy nòng ấy chứ! Cho nên ông phải đưa tôi đi học vài năm để biết khai khoáng như thế nào, luyện thép ra làm sao, rèn đập như thế nào, chế tạo máy móc sao cho tốt trước cái đã. Ước chừng trình độ cỡ công nhân kỹ thuật không được đâu, làm sao cũng phải rèn luyện đạt tới trình độ công trình sư may ra mới được à! Không những vậy, mấy cái quy trình của công nghiệp hiện đại thì mấy cái công xưởng chế tạo nho nhỏ cũng không thể làm được đâu nhé. Trở về thời cổ đại, lực lượng sản xuất cùng với năng lực khoa học kỹ thuật của cả xã hội đều không đạt yêu cầu. Đã không có kỹ năng giết rồng, mà thế gian cũng chẳng có rồng , vậy chẳng phải là nói xàm hay sao?

Ngưu Đầu nhịn không nổi trợn trừng mắt, gắt gỏng:

- Thật đúng là vô dụng. Vậy kiếm thứ gì đơn giản chút đi. Ngươi biết ủ rượu không? Biết chế tạo ra pha-lê không? Thần y, anh hùng ngươi không làm được, vậy thì làm một đại phú thương cũng không tệ đâu!

Trịnh Thiếu Bằng nhơn nhơn:

- Ủ rượu... không biết. Nhưng mà tôi biết uống, tôi cảm thấy rượu Hồng Tinh Nhị Oa Đầu uống ngon hơn rượu Mao Đài, mà lại không gây váng đầu nữa... Ông trừng mắt cái gì mà trừng! Ông đi mà hỏi xem có bao nhiêu người thật sự biết làm cái thứ quỷ này? Còn về phần pha-lê... tôi chỉ biết là nó được luyện từ cát, còn những thứ khác thì đều không biết.

- Ơ, ngó cái gì? Cho dù là công nhân xưởng pha-lê thì cũng chỉ thạo một công đoạn thôi cơ mà? Có điều tôi lại biết có loại pha-lê được gọi là pha-lê thép (sợi thủy tinh, fiberglass reinforced plastic), có loại pha-lê được gọi là pha-lê đường hóa được sử dụng trong kỹ xảo điện ảnh, có thể ông cũng chẳng biết. À... Không biết nếu đem mấy cái ý tưởng này cung cấp cho mấy tay thợ thủ công chế tạo ngói lưu ly thì bọn họ có thể sáng chế ra được không ta?

Khuôn mặt vốn đã dài của Mã Diện càng dài ra, gân xanh trên trán cũng đều bắt đầu nổi vồng. Hắn cố nén giận nói:

- Văn cũng không biết, võ cũng không thông, tay chẳng thể nâng, vai không thể gánh, ngươi nói xem ngươi làm được cái gì hả? Ngươi hễ mở miệng ra... mở miệng ra... À đúng rồi, thế đầu thai vào nhà quan lại thế gia thì sao? Tối thiểu ngươi cũng biết không ít về chế độ xã hội hiện đại, tùy tiện nêu ra mấy điểm cũng đều là những thay đổi cực kỳ tiến bộ và cách mạng trong thời cổ đại rồi. Làm một bề tôi giỏi giúp vua trị nước cũng không phải là tệ.

Trịnh Thiếu Bằng bĩu môi:

- Mã Diện huynh, không phải huynh muốn được gặp tôi thường xuyên mà đưa ra chủ ý này đó chứ?

Mã Diện ngơ ngác hỏi:

- Tại sao?

Trịnh Thiếu Bằng nói:

- Cải cách chính trị thời cổ đại tôi nhớ không nhiều, nhưng lại nhớ có một người tên là Thương Ưởng , rất được sự ủng hộ của vua. Tiểu tử này cũng chẳng thực hiện cải cách gì lớn lao, cũng chỉ là khuyến khích một chút cày cấy và dệt may, loại bỏ một chút đặc quyền thừa kế của quý tộc, phải dựa vào công trạng lớn nhỏ mà ban thưởng này nọ. Kết quả là gã ta bị cả một giai cấp thống trị cực lực phản đối, lôi đi cho ngũ mã phanh thây.

- Cái ông Vương An Thạch thời Tống triều còn tệ hơn, chẳng phải là chỉ cải tiến một chút từ chế độ sẵn có thôi sao? Yêu cầu xúc tiến phát triển thương nghiệp, đề cao sức chiến đấu của quân đội, cải tiến một chút về chế độ thi cử. Chỉ có mấy cái thay đổi nhỏ nhặt không đáng kể như vậy, đường đường lại là một viên tể tướng, sau lưng còn có hoàng thượng chống lưng, vậy mà vẫn làm không xong. Mặc cho ông ta ở trên ra sức hô hào cải cách, quan lại địa phương ở bên dưới căn bản không thèm nghe theo, hết đám này đến đám khác đều không chịu thực hiện, kết quả là ông ta bị bãi quan hai lần, uất ức ôm hận mà chết.

- Huynh nói xem, những thứ này chẳng qua chỉ là những tư tưởng cỏn con mà các chính trị gia vĩ đại trong lịch sử còn không sử dụng được. Tôi, một người căn bản chẳng hề biết gì về giai cấp thống trị và chế độ cổ đại, lại đi nói lung tung mấy thứ chế độ hiện đại gì đó, chưa nói là có phù hợp với nhu cầu phát triển lực lượng sản xuất thời đó hay không, chỉ sợ vừa mới phát biểu cái ý thức vượt thời gian này thì sẽ liền khiến cho phe cải cách giống như bọn Thương Ưởng, Vương An Thạch đều biến thành phe bảo thủ, còn người bị ngũ mã phanh thây lại biến thành thằng tôi. Ái chà, căn bản chỉ là những lời nói suông, nói suông không những hại nước mà còn hại luôn cả tôi đó nha!

Thôi phán quan nhìn chằm chằm vào cái tên phế vật cứ thao thao bất tuyệt này hơn nửa ngày trời rồi đành bất đắc dĩ hỏi:

- Thế... ít ra thì ngươi cũng biết được dòng chảy của lịch sử, ai đắc thế ai thất thế, hẳn cũng phần nào biết mấy thứ này chứ? Kiếm một cây to mà bám vào cũng sẽ có thể sống an nhàn cả đời rồi.

Trịnh Thiếu Bằng lắc đầu quầy quậy:

- Không được đâu, không được đâu! Tôi biết được chút chút về lịch sử thì tính là gì chứ? Dù biết rõ Tần Thủy Hoàng chắc chắn sẽ có được thiên hạ đấy, nhưng ông không có tài cán gì, lại nhảy vào nói rằng hắn có thể thâu tóm được thiên hạ, rằng ông nhất định sẽ trung thành với hắn thì người ta sẽ nuôi ông chắc?

- Tôi còn biết nhà Đường có Lý Thế Dân, bên dưới có Lý Tịnh, Ngụy Trưng (còn gọi là Ngụy Chinh), còn như Trình Giảo Kim thì chả biết là có thật trong lịch sử hay chỉ là nhân vật được bịa ra trong tiểu thuyết. Nhà Tống thì biết có Khấu Chuẩn, về sau mới biết là ông ta chẳng phải nghèo rớt mùng tơi gì, trong nhà chất đầy của cải. Trung thần thì trung thần, nhưng mà hủ bại quá, tính hạn chế của lịch sử mà.

- Càng đáng sợ hơn nữa là, chiếu theo những mô tả về tính tình và cách đối nhân xử thế của bọn họ trong lịch sử hoặc là những câu truyện trong sách, nếu mà dựa dẫm vào bọn họ thì chỉ e mình chết lúc nào cũng không hay. Kiếp vừa rồi tôi là ca sỹ, diễn vai phụ một vở kịch truyền hình, có nghe một nhà sử học được mời đến kể rằng, trong lịch sử có đại gian thần tên là Nghiêm Tung , làm thủ phụ hơn chục năm trời, đến cuối đời tài sản bị tịch biên còn không bằng một phần tư của vị đại thanh quan Từ Giai làm thủ phụ trong sáu năm trước hắn nữa, mà hai người này trước khi làm quan đều là có cùng chung điểm xuất phát.

- Bà vợ của Nghiêm Tung quản con rất nghiêm. Nghiêm Thế Phiên cũng không phải là loại nhân vật như Cao Nha Nội (11) trong tiểu thuyết. Lão Nghiêm đối phó với địch thủ chính trị thì chỉ đẩy cho ngã rồi thôi. Mà mấy vị thủ phụ Từ Giai, Cao Củng (12) thì toàn đẩy cho chết mới thôi, nhưng mà mấy người này lại được chết già nha. Người viết sử không dám không lưu lại cho bọn họ mấy phần thể diện. Ai bảo Nghiêm Tung là bị chém đầu chết chứ? Ôi dào, là sách sử hại chết người rồi.

Thôi phán quan giận run cả người, ánh mắt thiếu điều muốn phun lửa, mãi một lúc sau lão mới cất giọng giần giật hỏi:

- Vậy... vậy ta đưa ngươi về thời Tống hoặc thời Nguyên thì thế nào? Tìm bản Cửu Dương thần công hay là Độc Cô Cửu Kiếm gì đó rồi làm một vị đại hiệp nha!

Mặt Trịnh Thiếu Bằng đầy vẻ vô tội, y than thở:

- Lúc đọc truyện tôi đâu có tìm hiểu kỹ, mà lão Kim thì lại không vẽ bản đồ trong đó, ngọn núi Côn Lôn lớn như thế tôi biết leo lên đâu mà tìm? Chỉ nhớ Trương Vô Kỵ bị người ta truy đuổi, sau đó rơi xuống vách núi rồi phát hiện được Cửu Dương chân kinh. Làm sao tôi có thể buộc dây thừng vào từng vách núi mà đi tìm chứ? Kiểu này nếu tôi không bị đứt dây thừng té chết, thì cũng sẽ bị rắn rết dã thú cắn chết. Cho dù có thật sự tìm được đi, ông tưởng đó là truyện tranh à? Bí kíp võ học đẳng cấp cao nhất cũng giống như mấy giáo trình đại học vậy đó, chắc chắn sẽ không có phần mở đầu giới thiệu những kiến thức cơ bản, bộ tôi xem là hiểu được hay sao? E rằng sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, không chết thì cũng phát điên.

Nước bọt văng tung toé, miệng liến thoắng đầy tự tin, y tiếp:

- Vả lại tôi là thứ gì? Cho dù tìm được Phong Thanh Dương thì lão ta sẽ bằng lòng dạy võ cho tôi chắc? Cái lão già đó trốn ở trong núi mấy chục năm không hề thu đồ đệ. Lúc lão ấy thu cái tên Lệnh Hồ Xung, ông thực sự cho rằng lão đó vĩ đại vậy sao? Ai mà chẳng biết "nước tốt không để chảy ruộng ngoài" chứ, tốt xấu gì thì hắn cũng là đệ tử phái Hoa Sơn của lão, còn được lão quan sát rất lâu cơ mà. Tôi mà không quen biết gì người trong võ lâm thì thôi không nói. Nếu không hả, Phong Thanh Dương còn chưa thu nhận, tôi đã bị Điền Bá Quang tóm đi làm dâm tặc rồi.

Lỗ mũi trâu của Ngưu Đầu xịt cả khói, gã nghiến răng nghiến lợi mắng:

- Ngươi quả là thiên hạ đệ nhất đại phế vật, vô sỉ cực độ, thật làm mất hết mặt mũi người hiện đại!

Không cảm thấy hổ thẹn mà ngược lại còn tự hào, Trịnh Thiếu Bằng dương dương đắc ý:

- Không phải vậy sao? Cường đại như Mãn Thanh tiến vào Trung Nguyên còn bị người Hán với nhân số chiếm đa số tuyệt đối đồng hóa, chỉ một tên vô danh tiểu tốt đơn phương độc mã chạy về thời cổ đại lại vọng tưởng có thể thay đổi cả một thế giới sao? Chắc chắn sẽ bị đồng hóa thôi. Người hiện đại bộ giỏi lắm hay sao? Các môn, các ngành, các sự phân công lao động trong xã hội hiện đại đều được phân chia rõ rệt đến nỗi mỗi một cá nhân chỉ biết thực hiện mà không thực sự hiểu thấu được nguyên do ngọn ngành, ai cũng như là ếch ngồi đáy giếng, đem về thời cổ đại có thể dùng được à? Còn về phần mấy cái tư tưởng hiện đại, mang đến thời đó căn bản sẽ chỉ là mầm họa gây ra rắc rối, có cũng như không mà thôi!

Thôi phán quan cũng tức giận đến hoa cả mắt, hết cách đành quay đầu sang Ngưu Đầu hỏi:

- Thời cổ đại có người nào mà không phải làm gì hết, chỉ ăn rồi nằm chờ chết hay không?

Ngưu Đầu ngang nhiên đáp:

- Có, vương hầu. Làm hoàng đế còn phải lao tâm cho quốc sự, làm một vương hầu là tốt nhất, không phải quản chuyện gì, ngược lại muốn quản thì nhiều khi sẽ xảy ra chuyện. Dù gì cũng là hoàng thân quốc thích, ăn không rồi chờ chết là được, căn bản chỉ là một cái máy tạo phân, sâu mọt của xã hội, rất thích hợp với hắn đấy.

Trịnh Thiếu Bằng nghe xong liền suy nghĩ: "Ừm! Vương gia cũng không tệ, khi không có gì làm thì dắt mấy tên cẩu nô tài đi trêu ghẹo con gái nhà lành một chút. Làm hôn quân... tốt thì có tốt, có điều lại bị người đời chửi mắng mấy ngàn năm. Làm vương gia được đấy!"

Thôi phán quan thoáng cười khổ. Lão hiện giờ chỉ muốn mời cái vị đại gia này mau mau đi dùm, có điều ngẫm lại, tống bừa hắn về thời cổ đại cũng không dễ. Nếu như hắn chưa chịu sống yên ổn được hai năm mà lại chết đi thì sẽ rất phiền phức. Vì vậy lão bèn nghiêm mặt, nói:

- Được, vậy cứ đưa hắn đi đầu thai mượn xác làm một vương hầu đi! Có điều hai năm này ngươi nhất định phải làm vương hầu cho yên ổn, đừng có đem phiền phức đến cho ta nữa! Bằng không... Hừm! Bản quan mà gặp lại ngươi sẽ đá ngươi bay về thời cổ đại cho làm một vị quan còn lớn hơn cả vương gia nữa đấy.

Trịnh Thiếu Bằng vừa nghe xong, mặt mày rạng rỡ hỏi:

- Ông muốn để tôi làm hoàng thượng hả?

Thôi phán quan sầm mặt:

- Giờ thì chưa, nhưng ngươi mà dám chết trở về lần nữa, ta sẽ "mời" ngươi đi làm Cửu thiên tuế (13) đó!

Trịnh Thiếu Bằng nghe xong lạnh cả sống lưng, vội vàng phản đối:

- Không cần đâu, không cần đâu, làm Vương gia là tốt lắm rồi! Tôi... à, bổn vương đã thỏa mãn rồi. Ơ, tôi còn chưa nói xong mà, hai vị huynh đài làm cái gì vậy?

Ngưu Đầu Mã Diện mặc kệ, cứ túm lấy y lướt ra khỏi U Minh đại điện, phóng như bay qua cầu Nại Hà, lao vào trong biển mây mênh mông.

Lục đạo luân hồi là một bánh xe khổng lồ cao ba tầng đang chậm rãi chuyển động, bề mặt bánh xe được khắc bốn chữ lớn "Chuyển Luân Thánh Vương" màu vàng rực rỡ, bên trên là bức tượng "Tam Thế Phật" bằng vàng. Khuôn mặt của vị Phật này xấu xí kỳ quái, đầu xù răng nhọn, chân đạp đầu ngao (14), miệng ngậm vành bánh xe, hai tay ôm ghì bánh xe, nghiến răng bặm môi như muốn biểu thị thần lực của ngài cũng không thể xoay chuyển được "nghiệp lực" (15) của nhân sinh.

Bên trong bánh xe phát ra sáu đạo hào quang chiếu thẳng ra bên ngoài, chia bánh xe ra làm sáu phần, lần lượt là: thiên đạo, nhân đạo, a tu la đạo, súc sinh đạo, ngạ quỷ đạo, địa ngục đạo.

Quả nhiên công phá pháo đài dễ nhất là từ bên trong. Ngưu Đầu Mã Diện tìm một cớ gạt cho tên quỷ sứ đang canh gác đi khỏi, sau đó lập tức chạy đến phía trước phần nhân đạo, cẩn thận quan sát một chút rồi chầm chậm quay bánh xe thời gian ở tầng thứ hai của bánh xe khổng lồ. Cái pháp luân này quả là kỳ diệu, bánh xe thời gian vừa xoay, bánh xe thân phận của tầng thứ ba cũng theo đó hiện lên nhiều loại thân phận của xã hội đương thời. Ngưu Đầu Mã Diện quay cho bánh xe ở tầng thứ ba chỉ đến vị trí của Vương hầu.

Tám lần thất bại trước đều là do Ngưu Đầu Mã Diện đích thân dẫn y đến nhân gian tìm người thích hợp để mượn xác, lần này lại thông qua pháp luân của lục đạo luân hồi để chuyển thế. Liệu cái pháp luân này có phải là vật chí bảo trong phật môn quyết định vận mệnh họa phúc của một đời người?

Cảm thấy mới lạ, Trịnh Thiếu Bằng không kềm được chạy lên phía trước ngó một chút, khi thấy quả nhiên đang chỉ ở ngay vị trí của vương hầu, trong lòng không khỏi mừng rỡ.

Không ngờ, bởi vì y là linh thể (thân thể của linh hồn), mà Ngưu Đầu, Mã Diện cũng là linh thể, y không kềm được nóng lòng chạy lên nhìn đã đụng vào khuỷu tay của Ngưu Đầu, làm cho bánh xe thời gian khẽ dịch đi một chút, thế nhưng ba người đều không ai để ý.

Chỉ nghe "cách" một tiếng, chuyển thế pháp luân đã dừng lại. Sáu đạo hào quang chiếu ra từ trong bánh xe bỗng nhiên sáng rực một màu vàng, từ từ ngưng lại thành một chùm. Chùm tia sáng xoay tròn chiếu vào người Trịnh Thiếu Bằng. Thân thể của y bị vô số những tia sáng chiếu xuyên qua khiến cho trở nên gần như trong suốt. Ngay sau đó, hai chân y rời khỏi mặt đất, cả thân người thu nhỏ lại, lao đầu vào chùm ánh sáng vàng, trong nháy mắt đã không còn thấy đâu.

Ánh kim quang đọng lại trong phút chốc rồi tan thành sáu đạo hào quang, pháp luân chầm chậm chuyển động trở lạiNgưu Đầu, Mã Diện vỗ tay cười lớn. Đang cười, Ngưu Đầu đột nhiên khựng lại, cặp mắt trâu chăm chú nhìn Mã Diện:

- A, hiền đệ!

- Chuyện gì vậy niên huynh (người bạn lớn tuổi hơn, giống như hiền huynh)?

- Mã hiền đệ có nhớ hắn vừa mới đầu thai vào thân xác của người nào không?

- Việc này... niên huynh không nhớ sao?

- Ài... hình như bọn mình lại phạm sai lầm nữa rồi... Lần này là vượt thời không, bọn mình không thể đích thân đưa hắn đi. Nếu như hắn không muốn chết, còn cái người mà hắn mượn xác đó lại bởi vì đã chết từ sớm nên đã đóng tài khoản ở âm ty rồi, vậy thì bọn mình biết đi đâu để câu hồn phách của hắn đây?

Mã Diện rụt cổ lại:

- Vậy... a hèm... Hiện giờ ở dưới âm gian cũng tổ chức điều tra nhân khẩu mà. Ai thọ trên một trăm thì Âm ty sẽ lập danh sách đăng ký để giám sát, cho nên hẳn sẽ không có chuyện lọt lưới mấy con cá lớn như Bành Tổ (16) đâu!

- Nói vậy có nghĩa là...

- À? Có nghĩa là gì hả? Không bằng chứng, ai dám nói là bọn mình đưa hắn vượt thời không chứ? Hề hề hề, kẻ đáng lẽ chỉ được sống hai năm mà lại sống quá trăm tuổi, đến lúc đó đã thay đổi nhân sự, người nào mà còn điều tra ra được ai đã làm chứ? Rõ ràng cái tên tiểu tử đó cũng chỉ là một trong số những kẻ lén vượt thời gian mà thôi.

- Đúng đúng đúng, kẻ nào chết kẻ đó tự chịu, chẳng liên quan cái rắm gì đến bọn mình. Ha ha ha... Mã hiền đệ, hôm qua vi huynh (xưng anh một cách khiêm tốn, giống như "ngu huynh") có kiếm được một vò rượu ngon, ta mời đệ đi nhấm nháp một chút...

Nói đoạn Ngưu Đầu, Mã Diện cùng quàng vai bá cổ bỏ đi.

--------------

Thời Minh - Thanh phân tranh, nổi lên 8 vị mỹ nữ văn hay chữ tốt, cầm kỳ thi họa đều tuyệt, được mệnh danh là Tần Hoài Bát Diễm, bao gồm:

Phong lưu nữ hiệp Khấu Bạch Môn

Trường trai tú phật Biện Ngọc Kinh

Hiệp cốt phương tâm Cố Mi Sanh

Diễm diễm phong trần Đổng Tiểu Uyển

Phong cốt tằng tuấn Liễu Như Thị

Hiệp can nghĩa đảm Lý Hương Quân

Khuynh quốc danh cơ Trần Viên Viên

Linh tú đa tài Mã Tương Lan

Có thể xem thêm thông tin ở đây:

http://www.vietkiem.com/forums/index...howtopic=21363

Nhà Ðường cho các học trò đỗ tiến sĩ vào ăn yến ở vườn hạnh (hạnh viên 杏園) nên tục mới gọi các người đỗ là hạnh lâm 杏林. Quốc thủ có nghĩa là danh thủ quốc gia. Câu này muốn nói đến người học cao chức lớn.

Ni-trát ka-li (KNO3). Chất trong suốt, đốt cháy rất dữ dội, dùng làm thuốc súng, thuốc pháo và nấu thủy tinh.

Ý muốn nói là hắn không biết làm, mà nếu có biết thì điều kiện của xã hội cổ đại cũng không đủ cho hắn làm.

Rượu Sao Đỏ, một loại rượu mạnh không màu được chưng cất từ lúa miến sản xuất ở Trung Quốc, sở dĩ có tên là Nhị Oa Đầu là vì nó được chưng hai nước.

Thương Ưởng hay Thương Quân (390 - 338 trước CN), tên thật là Công Tôn Ưởng, sau đổi thành Vệ Ưởng là người nước Vệ (cái tên Vệ Ưởng xuất phát từ tên nước Vệ), làm thừa tướng nước Tần dưới thời vua Tần Hiếu Công. Ông là một chính trị gia xuất sắc theo đường lối của Pháp gia, có công lớn giúp Tần Hiếu Công làm nên nghiệp bá. Ông được phong mười lăm ấp ở đất Ư, đất Thương, phong hiệu là Thương Quân nên gọi ông là Thương Ưởng.

Khấu Chuẩn (Hán tự:寇準, sinh 961, mất 24 tháng 10, 1023) tên chữ Bình Trọng (平仲), quê ở Hoa Chân, là một nhân vật nổi danh đời Tống, từng làm đến chức quan tể tướng. Theo http://vi.wikipedia.org/wiki/Khấu_Chuẩn

Nghiêm Tung (1480567): quyền thần triều Minh, thích nịnh nọt cấp trên, trộm quyền đọat lợi, chuyên quyền chính quốc trong suốt gần 20 năm. Về cuối đời, vì chọc giận Thế Tông, bị Thế Tông xa lánh, tịch biên cách chức, mấy năm sau thì chết.

Tương đương với thủ tướng bây giờ.

Từ Giai (1503583): vị quan thời Minh cùng làm chung với Nghiêm Tung, được tiến cử làm lễ bộ thượng thư. Nhờ biết đối đãi cẩn thận, lại biết lựa ý mà hùa theo ý của vua, cho nên giữ vững được ghế.

(11) Cao Nha Nội trong Thủy Hử (Thi Nại Am, có người cho rằng của La Quán Trung) là con nuôi Cao Cầu. Có một ngày Lâm Xung đưa vợ là Minh Châu đi chùa, trong lúc đang cúng bái thì Minh Châu bị Cao Nha Nội giở trò sàm sỡ, bị Lâm Xung bắt gặp điên tiết cho vài đấm. Tên tiểu tử này ôm hận trong lòng về kể cho cha nuôi hắn. Sau đó Cao Cầu cùng Lục Khiêm bàn mưu tính kế hãm hại Lâm Xung để trả thù.

(12) Cao Củng (1512578): là một chính trị gia có tài vào giữa thời Minh.

(13) Ngụy Trung Hiền (1568627) là một trong những đại hoạn quan nổi tiếng nhất và nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông ta là người cầm đầu "đảng hoạn quan" dưới thời Minh Hy Tông trong việc lũng đoạn triều chính, thâu tóm mọi quyền lực trong tay, đồng thời tiêu diệt tất cả những người không cùng phe cánh với mình một cách không khoan nhượng. Vương triều Minh dưới thời Hy Tông suy tàn một cách trầm trọng một phần lớn là do Ngụy Trung Hiền. Do bên trong sinh từ (đền thờ người còn sống) thờ tượng của Ngụy Trung Hiền, ai đi qua cũng phải lậy 5 lậy, hô to "9900 tuổi" (thua vua, "Vạn tuế"), cho nên ông ta tự xưng là "Cửu thiên tuế".

(14) Ngao (鳌): ba ba khổng lồ trong truyền thuyết, một trong chín con của rồng.

Xem hình: http://img.jiaodong.net/pic/0/10/06/...190_052383.jpg

(15) Nghiệp (Karma) là tư tưởng, lời nói, việc làm, thường khởi xuất do "ý muốn làm" tạo động cơ (tác ý). Theo Phật nói, nghiệp là thứ sẽ luôn đi theo ta không chỉ một đời này mà còn những đời sau.

(16) Bành Tổ là một nhân vật trong truyền thuyết Trung Hoa, được cho là sống lâu đến ngàn tuổi.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 3: Chết đi sống lại

"Lạnh quá!" - Trịnh Thiếu Bằng khẽ cựa mình tỉnh lại. Ký ức ở tiền thế của y trong lần chuyển kiếp ngược thời gian lần này đã trở nên mơ hồ hơn. Những ký ức của tám lần chuyển thế trong năm qua và những trải nghiệm ở tiền thế trước đó cùng lẫn vào nhau khiến cho y không thể nào phân biệt được cái nào là những trải nghiệm ở tiền thế, cái nào là trải nghiệm của những lần chuyển thế sau đó. Hết thảy những ký ức đều như một đám mây lơ lửng trên bầu trời, lúc ẩn lúc hiện, không thể chạm tới, tựa như một giẠmộng hoang đường.

"Ngưu Đầu Mã Diện cứ vội vội vàng vàng lôi mình đi cứ như là tống khứ Ôn thần , cũng không biết đây là cái thời đại nào nữa. Tuy nhiên bọn họ có nói sẽ đem mình nhập xác sống lại làm vương hầu, vậy người mà mình nhập vào hẳn là một vị vương hầu rồi."

"Nhưng mà nơi này là nơi nào? Sao tối tăm, lạnh lẽo thế?" - Trịnh Thiếu Bằng yếu ớt đưa tay mò mẫm. Trên người y phủ một lớp chăn mỏng, có vẻ như trời đang vào tiết đông, sự âm u giá rét tràn ngập không khí.

Đang muốn tìm hiểu chỗ ở của mình, Trịnh Thiếu Bằng chợt nghe thấy ba tiếng "tóc tóc tóc" của mõ trúc lanh lảnh vang lên, tiếp theo có người lớn tiếng hô to:

- Có khách đến... Ơ kìa, Dương lão thái gia, lão nhân gia ngài sao lại đến đây? Dương tú tài là vãn bối hậu sinh, không đáng để ngài làm như vậy đâu!

Trịnh Thiếu Bằng định thần lại: "Dương lão thái gia? Đây là kiểu xưng hô gì vậy? Bên cạnh náo nhiệt nhưng sao mình lại chỉ thấy tối thui thế này? Ôi trời... chẳng lẽ... chẳng lẽ mình đã chuyển thế vào một tên vương gia mù?"

Chỉ nghe thấy một thanh âm già nua ho mấy tiếng rồi nói:

- Chao ơi! Một nhà này của lục đệ xem như là đã tuyệt rồi, ta có thể không ghé qua một chút hay sao? Lăng nhi là nhân vật hiếm thấy của nhà họ Dương chúng ta đấy. Vị huynh đệ này của ta đến năm mươi bốn tuổi mới có độc một mụn con là đứa này, mà thằng nhỏ mới mười bảy tuổi đã trở thành tú tài trẻ tuổi nhất của Tuyên phủ chúng ta. Vốn còn muốn dựa vào nó để cho nhà họ Dương chúng ta được rạng rỡ tổ tông, vậy mà... Than ôi!

Loáng thoáng còn có cả tiếng khóc thút thít của con gái. Trịnh Thiếu Bằng có chút mơ hồ: "Rốt cuộc chuyện này là sao? Mặc dù chưa từng quay về thời xa xưa, nhưng mà mấy cái giọng điệu này nghe không giống với vương hầu thế gia à."

Trước mắt vẫn tối đen như mực. Y sốt ruột muốn đứng lên, thế nhưng cái xác vừa mới nhập vào còn trong quá trình hồi phục, máu huyết trong chân tay tê cóng mới vừa bắt đầu lưu thông, cho nên trong một thời gian ngắn sẽ không đủ sức lực nâng người dậy. Cũng may là đã mấy lần làm hồn Trương Ba mượn da hàng thịt nên cũng quen; ở mỗi lần chiếm xác sống lại, lúc mới bắt đầu khống chế thân thể đều yếu đuối như vậy, cho nên y vẫn nhẫn nại nằm yên tại chỗ tích tụ sức lực.

Cái họng to ấy lại hô lên:

- Lão thái gia, mời ngài ngồi bên này! Các vị thân hữu hãy làm lễ!

Lập tức trong căn nhà vừa rồi hãy còn yên tĩnh đã trở nên ầm ĩ như có núi lở, khiến Trịnh Thiếu Bằng giật cả mình. Mới nãy trong phòng còn yên ắng tĩnh mịch, như thể chỉ có dăm ba người, đến khi một trận gào khóc như sói tru quỷ hú của của cả nam lẫn nữ vang lên, Trịnh Thiếu Bằng mới hiểu ra trong nhà vốn đã có nhiều người. Mấy lần chuyển thế trước cũng có khi nhằm ngay lúc mọi người trong nhà đang khóc lóc, nhưng chưa bao giờ tối thui đến nỗi xòe bàn tay không thấy ngón cả. Trịnh Thiếu Bằng chớp chớp mắt, mặc dù vẫn không trông thấy gì, nhưng trực giác cho thấy cặp mắt y không hề khuyết tật, thế nên trong lòng cũng có chút an ủi.

Chỉ nghe đám người đó kêu gào khóc lóc cái gì mà "đại huynh đệ ơi! Ngươi còn trẻ mà sao đi sớm quá vậy", "Lăng huynh đệ ơi, sao ngươi lại chết như vậy chứ!" loạn cả lên, cũng chẳng biết cái đám người đó có quan hệ họ hàng thân thích gì với người chết hay không nữa.

Trịnh Thiếu Bằng nghe thấy chỉ muốn cười, khóc thật khóc giả cũng đã nghe chẳng phải lần một lần hai. Có điều ở thời hiện đại còn biết kềm chế, còn bây giờ nghe bọn họ hô khóc là khóc ngay, cứ như đang diễn kịch vậy, rất tức cười.

Cái giọng nói ồm ồm ấy lại hô lớn:

- Khách nhân đã làm lễ xong, thân nhân trả lễ nào!

Giọng nói vừa cất lên, những tiếng khóc lóc hỗn loạn lập tức im bặt, im đến nỗi có thể nghe được cả tiếng kim rơi. Thật không thể đoán được làm sao bọn họ có thể đồng diễn một cách thuần thục đến như vậy.

Tiếp đó chỉ nghe thấy giọng đau thương của một người con gái khẽ nói:

- Vị vong nhân Dương Hàn Thị đa tạ lão thái gia, đa tạ các vị thân bằng hảo hữu!

"Vị vong nhân?" - Trịnh Thiếu Bằng nhíu mày: "Chắc hẳn những người này chính là khóc cho mình. Thế thì tốt, thậm chí vợ cũng đã cưới rồi. Nhưng mà... tại sao lại tối om thế này? Phúng điếu thì cũng không có lý gì mà phải tối như bưng chứ nhỉ?"

Đột nhiên y sực nghĩ đến cái gì đó, vội vã đưa tay ra sờ chung quanh.

Chân tay vừa mới cử động được, mặc dù còn yếu ớt chưa thể dùng sức, nhưng khi ngón tay vừa chạm vào vật ở chung quanh, trong lòng y liền có chút minh bạch. Thì ra là y đã bị bỏ vào trong quan tài.

"Trời ạ, một chốc nữa đây không phải sẽ bị chôn sống chứ?" - Lúc này Trịnh Thiếu Bằng đã bắt đầu trở nên sốt ruột, nhưng vì hiện giờ toàn thân của y đều vô lực nên cũng không biết phải làm sao.

Tiếp theo chỉ nghe cái giọng ồm ồm lúc nãy lại hô lớn:

- Các vị thân bằng hảo hữu ở trước linh cữu hãy chia buồn tiễn đưa thêm một chặng nữa nào!

Lời vừa mới dứt, những tiếng gào khóc thảm thiết lại vang lên. Lúc này âm thanh nghe đã gần hơn, đoán chừng là cả bọn đều đã vây trước linh cữu mà khóc.

Thừa cơ, Trịnh Thiếu Bằng cố gắng đưa tay gõ vào quan tài, nhưng vì chân tay vẫn còn hơi cứng nhắc, mới gõ nhẹ có mấy cái y đã cảm thấy đau muốn ngất đi. Mấy tiếng gõ yếu ớt này bị tiếng khóc rống của bọn người kia át hẳn. Không còn cách nào khác, y buộc lòng phải dừng tay.

Lúc này giọng nói ồm ồm lại vang lên:

- Gia quyến tạ lễ một lần nữa! Chư vị thân bằng hãy cố nén bi thương, chấp nhận sự mất mát. Đã đủ lời đủ lễ đủ tâm, lễ hoàn tất!

Như một vị nhạc trưởng tài ba nhất, lời gã vừa dứt, tiếng khóc lập tức ngừng bặt.

Chỉ nghe bên ngoài một trận huyên náo, sau đó giọng nói già nua kia cất tiếng:

- Dương Hàn Thị, cha mẹ chồng ngươi sớm đã ra đi, mà hôm nay Lăng nhi cũng đã theo bọn họ xuống suối vàng, để lại ngươi một mình trơ trọi. Ngươi có dự tính gì không?

Chỉ nghe tiếng một người con gái khe khẽ cất lên:

- Thúc thúc, Ấu Nương đã bước vào cửa nhà họ Dương thì chính là con dâu của nhà họ Dương. Phu quân lần này bị bệnh, mặc dù nhà nghèo xơ xác, vẫn may hãy còn bốn mẫu ruộng nương để lại cho Ấu Nương để giữ gìn môn hộ, cho dù có khổ một chút cũng vẫn có thể sống qua ngày.

Dương lão thái gia ho khan vài tiếng rồi nói:

- Ấu Nương à, tuổi tác của ngươi còn nhỏ, một mình khó mà gánh đỡ cái môn hộ này. Giờ ngươi đã là người của nhà họ Dương chúng ta, nhà họ Dương chúng ta ở nơi này cũng có thể xem là một họ lớn, dù gì cũng không thể để cho ngươi một mình vất vả qua ngày, để cho người ngoài chê cười bọn ta.

Ta và mấy lão nhân trong tộc đã thương nghị, muốn đem bốn mẫu sơn điền này giao cho Tuyền nhi trồng trọt và cày cấy, để bọn Tuyền nhi phụ trách ngày cơm ba bữa cho ngươi. Ngươi là đàn bà, hơn nữa cũng xem như em dâu của nó, giao ruộng đất cho nó cày cấy, ngươi cũng bớt đi được một phần lo lắng về cơm áo gạo tiền. Ngươi thấy có đặng không?

"Chậc, lại còn có cảnh tranh chấp di sản nữa." - Trịnh Thiếu Bằng buồn bực suy nghĩ: "Còn làm ra vẻ quang minh chính đại. Sao mấy cái chuyện này cổ kim thời nào cũng có nhỉ? Chỉ mới vừa tới phúng điếu thôi mà giờ đã trở mặt rồi, cái vị 'thúc thúc' này cũng thật là thiếu kiên nhẫn quá đi!"

Bên ngoài yên tĩnh một hồi rồi mới nghe Ấu Nương nói:

- Ý tốt của thúc thúc Ấu Nương xin tâm lĩnh. Ấu Nương bạc phước, phu quân mất sớm, cũng chưa hề để lại chút hương hỏa, nhưng Ấu Nương dù là nữ nhi gia đình bình thường cũng là người có học 'Nữ Huấn' từ nhỏ, hiểu được đạo lý "vi nhân thê tử, tòng nhất nhi chung".

- Nô gia sinh là người của nhà họ Dương, chết là ma của nhà họ Dương. Dù hiện giờ trong nhà chỉ còn lại một mình nô gia, một nhà này vẫn chưa thể tính là đã tuyệt. Dương Tuyền đại bá và phu quân dù gì cũng không phải là anh em ruột thịt, thậm chí thúc thúc người cũng đã sớm phân chia tài sản cho huynh ấy ra nơi khác ở. Giờ nô gia lại đem ruộng đất cha mẹ chồng để lại giao cho huynh ấy, như vậy thỏa đáng hay sao?

Những lời của người con gái này trong nhu có cương, vừa nhắc nhở chớ nên nghĩ rằng nàng là một quả phụ trẻ tuổi vô lực, sẽ không giữ được mà đem gia sản tổ tiên bán đi, vừa ám chỉ rằng lão ta chỉ vì suy nghĩ cho nhi tử của mình mà đến đây tranh đoạt sản nghiệp của anh em con chú con bác của mình.

Dương lão thái gia bị nàng nói toạc ra tâm tư, mặt thoáng đỏ lên, nhất thời có phần không kềm chế được. Lão có tổng cộng bốn người con, duy chỉ có đứa con thứ ba Dương Tuyền này là không nghề không ngỗng, ăn chơi đàng điếm, đã tiêu xài hết sạch số ruộng đất mà hắn được chia.

Mặc dầu lão hận hắn đã khiến cho mình phải thất vọng, nhưng vì không cam lòng nhìn thấy đứa con ruột của mình sống trong cảnh nghèo khổ chán chường, cho nên lão mới dày mặt tới đây đề xuất ra lời thỉnh cầu phi lý này, chỉ mong con mình sau khi có được số ruộng đất này, có thể thay đổi làm lại từ đầu. Không ngờ con bé này tuổi còn nhỏ mà đã cương nghị, lại cứ khăng khăng cự tuyệt.

Điều mà lão không biết chính là, đứa con kia nhờ lão ra mặt đề xuất yêu cầu này với Dương Hàn Thị thật ra còn có một mục đích không thể nói ra. Dương Tuyền ăn chơi đàng điếm, xóm làng đều biết, lại còn xài hoang cạn kiệt gia sản. Từ sau khi bọn Thát Tử vào thôn cướp bóc giết chết cô vợ của hắn vào năm trước, cho đến giờ hắn vẫn chưa tìm được vợ, đã ngoài bốn mươi tuổi đầu mà vẫn còn là một kẻ lông bông.

Em họ Dương Lăng của hắn, cũng là gã tú tài mà Trịnh Thiếu Bằng vừa mượn xác nhập vào, năm nay vừa mới cưới Dương Hàn Thị, vốn tên thật là Hàn Ấu Nương, là một nữ tử xinh đẹp nổi tiếng gần xa. Người ta nói "thâm sơn dục tuấn điểu, sài ốc xuất giai lệ" , lời này quả thật một điểm cũng không sai.

Dương Lăng thân ôm bệnh lo toan hôn sự, mong có thể mượn chuyện thành thân để trừ vận xui, rốt cuộc ngay cả tấm khăn voan của tân nương còn chưa kịp dỡ xuống thì bệnh tình đã trở nặng, phải nằm liệt giường. Dương Tuyền mượn cớ thăm huynh đệ nhiều lần đến nhà cò cưa, kết quả đều bị Hàn Ấu Nương đuổi đi.

Nếu không phải vì đứa em dâu này là con gái của Liệp Nhân Vương (vua săn bắn) có võ nghệ giỏi giang thì hắn cũng đã nghĩ đến chuyện dùng vũ lực rồi.

Hắn vốn định bụng đoạt xong ruộng đất của nàng sẽ khống chế cuộc sống của nàng. Lúc đó, việc dần dần chiếm đoạt trái tim và thân xác của tiểu quả phụ đáng thương mới mười lăm tuổi này cũng sẽ không còn là chuyện khó nữa.

Dương Tuyền đứng một bên, cặp mắt tham lam nhìn chằm chằm vào cô em dâu trong bộ đồ tang càng lộ ra vẻ quyến rũ động lòng người. Vừa thấy nàng khiến cho phụ thân mình nghẹn họng, tính tình vô lại tức thời phát tác, hắn không nhịn được quát to:

- Hàn Ấu Nương, ngươi còn nhỏ tuổi, dựa vào cái gì mà đòi giữ gìn cái nhà này? Cha ta đây cũng là có ý tốt, không muốn ngươi đến lúc không thể chịu đựng được nữa sẽ làm ra chuyện nhục nhã gia phong cho nhà họ Dương.

Hàn Ấu Nương tuổi tác tuy nhỏ, nhưng lại rất cương liệt, nghe xong liền phất tay áo đứng dậy, mày ngài xếch ngược, lạnh lùng nói:

- Nô gia đọc sách hiểu lễ nghĩa, tuân thủ đến trọn đời. Từ khi bước vào nhà họ Dương, mỗi ngày không chút nghỉ ngơi phụng dưỡng phu quân, có chỗ nào là không phải với đức hạnh của người phụ nữ? Đại tộc Dương thị cho dù có thứ con cháu xấu xa cũng tuyệt đối sẽ không xuất phát từ nhà ta.

Dương Tuyền nghe nàng chế giễu mình, không khỏi nổi nóng, lớn tiếng mắng:

- Con tiểu tiện nhân nhà ngươi! Lăng đệ là tú tài duy nhất của nhà họ Dương ta, chúng ta đều nhờ vào đệ ấy để làm cho dòng họ nhà họ Dương được vinh dự. Nếu không phải vì bát tự của ngươi khắc chết đệ ấy, thì cớ sao đệ ấy còn trẻ, thân thể trước giờ vẫn luôn khỏe mạnh lại có thể cứ nói chết là chết chứ?

Nói người phụ nữ khắc chồng thật sự là gán cho một tội danh không thể biện bạch, mà cũng không thể gánh nổi. Hàn Ấu Nương tính tình cương liệt, lại bị "lưỡi dao mềm" giết người không thấy máu của tên vô lại này đâm cho một nhát khiến nàng giận đến run người. Đảo mắt nhìn quanh, nhân số gia đình của trượng phu vốn đơn bạc, ở chỗ này đều là thân nhân trực hệ của nhà thúc thúc, bọn họ kẻ nào kẻ nấy đều nhìn nàng với một ánh mắt kỳ quái, những cái nhìn lạnh nhạt khó chịu ấy như từng mũi kim đâm vào tim nàng.

Uất ức, bi thương, phẫn nộ, từng dòng cảm xúc lần lượt dâng lên trong lòng; người trượng phu này, từ lần gặp mặt đầu tiên thì đã nằm liệt trên giường như chờ chết. Mặc dù chưa có cảm tình gì, nhưng cái đạo lý "theo đến suốt đời" đã khiến nàng còn chưa kịp cởi áo cưới này đã phải thường xuyên bận rộn chạy đi mời thầy, tìm thuốc, bán của cải để chữa bệnh cho trượng phu, đêm ngày không ngừng chiếu cố cho y.

Chính mình đã bất hạnh như vậy, tuổi còn trẻ đã phải ở góa suốt đời, vậy mà không ngờ thi thể phu quân còn chưa lạnh, tộc nhân của y đã đến mưu đoạt gia sản, còn trút lên đầu mình cái ô danh như vậy. Thân mình thế đơn lực bạc, sau này sẽ phải sống như thế nào trong cái đại gia tộc này?

Nhất thời trong nỗi bi ai, Hàn Ấu Nương không kềm được lệ rưng rưng quanh đôi mắt xinh đẹp, nói:

- Được! Được! Được lắm! Tiễn Ngọc Liên đầu giang toàn tiết , lưu danh muôn thuở! Hàn Ấu Nương ta há lại tiếc tấm thân này. Giờ đây ta theo bước phu quân, miễn khỏi phải chịu sự chèn ép của bọn tiểu nhân các người.

Tiểu cô nương nói xong liền xoay người, muốn đập đầu vào quan tài của trượng phu. Dương lão thái gia sợ đến nhảy dựng: "Phụ thân của Hàn Ấu Nương này võ nghệ giỏi giang, khắp làng khắp xóm không ai mà không biết. Hôm nay trượng phu của người ta vừa chết, mình đến nhà uy hiếp đoạt gia tài vốn đã là đuối lý, lại còn bức cô ta đập đầu vào quan tài mà chết. Chuyện này nếu lan truyền ra ngoài, không những bị hàng xóm láng giềng chỉ trích mà cha cô ta há chịu bỏ qua sao?"

Lão ta hoảng hốt bật dậy khỏi ghế la lớn:

- Mau, mau ngăn nó lại!

Thế nhưng Hàn Ấu Nương thân thủ linh hoạt, vừa dứt lời thì đã hành động. Mọi người còn chưa kịp ngăn lại thì nàng đã phóng đến trước quan tài, nhắm vào một góc quan tài muốn đập đầu xuống.

Đúng lúc này, nàng bỗng nhiên khựng lại, đôi mắt tròn xoe sợ hãi nhìn vào quan tài. Chiếc nắp đóng hờ trên quan tài để cho người đến phúng điếu hiện giờ bỗng dưng lại xê dịch qua bên cạnhchút, sau đó bốn ngón tay trắng bệch vươn ra vịn vào mép quan tài.

Chứng kiến chuyện kỳ quái này, Hàn Ấu Nương không khỏi kinh hãi lui về sau một bước. Mọi người trông thấy hành động của nàng đều nhìn về phía quan tài, lập tức có mấy bà cô hoảng hốt kêu lớn: "Xác chết sống lại rồi!", sau đó lập tức xoay người co giò chạy mất.

Mấy nam nhân mặc dù không bỏ chạy nhưng cũng đều nơm nớp sợ hãi, tụm lại thành một đoàn. Hàn Ấu Nương can đảm hơn một chút, ngẫm lại dù gì thì đó cũng là phu quân của mình, có là xác chết sống lại hẳn cũng không làm tổn hại đến mình. Hay vì người ấy thấy mình chịu sự hiếp đáp của người khác nên mới từ cõi âm trở về?

Cố đè nén sự sợ hãi trong lòng, nàng dè dặt bước tới trước, đẩy chiếc nắp quan ra. Chỉ thấy trượng phu đang ngồi xổm thở hổn hển bên trong hòm, mà vì trời lạnh nên hơi thở cũng mang theo những làn sương trắng. Hàn Ấu Nương thấy vậy trong lòng không khỏi lấy làm mừng rỡ: "Người chết nào có thể thở ra hơi ấm chứ? Ông trời có lòng thương, không ngờ người ấy... người ấy đã sống lại rồi."

Trịnh Thiếu Bằng hao phí tất cả sức lực, khó khăn lắm mới đẩy được một góc nắp quan ra, đang quỳ thở hổn hển, bất thình lình trước mắt sáng lòa, ánh sáng chiếu vào khiến y phải nhíu mắt lại, phải một hồi lâu mới thích ứng được đôi chút. Y ngẩng đầu nhìn người quả phụ đáng thương bị người ta hiếp đáp, thật không tài nào có thể liên tưởng đến một người phụ nữ đã xuất giá đi lấy chồng: đây rõ ràng chỉ là một cô bé còn chưa trưởng thành mà.

--------------

Ôn thần: một vị thần mang mầm dịch đến cho loài người, cụm từ "tống Ôn thần" ý chỉ muốn xua đuổi một người hoặc một thứ gì xấu.

Vị vong nhân là người chưa chết, ý chỉ người phụ nữ chưa tuẫn tiết. Chữ dùng khiêm cung kiểu cách của người đời xưa do người vợ góa tự xưng.

Ruộng núi, để phân biệt với "thảo điền" (ruộng cỏ).

Làm vợ người ta thì sẽ theo người ta suốt đời.

Núi sâu sinh chim đẹp, nhà củi xuất giai nhân.

Bát tự: tám chữ (giờ ngày tháng năm sinh viết theo Thiên can và Địa chi) Là một cách xem số mệnh của Trung quốc. Người mê tín cho rằng giờ, ngày, tháng, năm con người được sinh ra đều bị Thiên can Địa chi chi phối. Mỗi giờ, ngày, tháng, năm sinh ấy được thay bằng hai chữ, tổng cộng là tám. Dựa vào tám chữ ấy, ta có thể suy đoán ra vận mệnh của một con người. Theo phong tục cũ, khi đính hôn, hai bên nhà trai và nhà gái phải trao đổi "Bát tự thiếp" cho nhau, còn gọi là "canh thiếp" hay "bát tự".

Ám chỉ những thủ đoạn âm hiểm, khó biết. Ý nói miệng lưỡi ác độc.

trích trong "Kinh Sai ký", kể về câu chuyện Tiễn Ngọc Liên vì chấp nhận lấy thư sinh Vương Thập Bằng với sính lễ bằng cây trâm mận gai (kinh sai) mà cự tuyệt cự phú Tôn Nhữ Quyền. Về sau Vương Thập Bằng đậu trạng nguyên, bởi vì từ chối thừa tướng Mặc Sĩ bức hôn, nên bị đưa ra vùng hoang vắng làm quan. Tôn Nhữ Quyền ngầm sửa gia thư của Vương Thập Bằng thành "hưu thư" (thư đuổi vợ) để lừa Ngọc Liên; mẹ kế của Ngọc Liên cũng vì tham tiền mà bức nàng cải giá. Ngọc Liên không nghe, đâm đầu xuống sông tự vẫn, nhưng may mắn được cứu sống.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 4: Gia cảnh nghèo khó

Nàng mặc một bộ tang phục bằng vải bố thô, đầu buộc một dải lụa trắng, khuôn mặt trái xoan trông hết sức thanh tú. Nàng đang rụt rè nhìn y, đôi mắt đỏ hoe, bờ mi ươn ướt, chiếc mũi nhỏ lạnh cóng đến ửng hồng.

Trịnh Thiếu Bằng ngẩn ngơ nhìn nàng: "Dương Hàn Thị đây sao? Sao nhỏ quá vậy? Chắc mới chỉ lớp bảy, lớp tám thì phải?"

Mặc dầu đã có khá nhiều kinh nghiệm với việc mượn xác sống lại và nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống mới, nhưng bỗng nhiên nhìn thấy người vợ của "thân phận mới" lại "trẻ" đến như vậy, y vẫn cảm thấy rất lạ lùng.

Thân thể y cực kỳ yếu ớt, gắng sức quỳ được một lát thì lại bắt đầu lảo đảo muốn ngã. Trước khi xây xẩm, y gượng cười nói với nàng:

- Đừng sợ! Ta vẫn chưa chết.

:Nguyên văn là 跪坐 (quỵ tọa) ngồi quỳ, tức quỳ theo kiểu người Nhật, mông chạm chân; khác với quỳ nghiêm trang khi lễ Phật.

Xem: http://image.baidu.com/i?tn=baiduima...d=%B9%F2%D7%F8

Hàn Ấu Nương đôi mắt xoe tròn, chằm chằm nhìn y không chớp, lệ từ từ ngấn lên mắt. Một lúc sau, đột nhiên nàng òa khóc.

Tiếng khóc khiến Trịnh Thiếu Bằng cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc từ dưới sống lưng lên đến tận gáy; phải chịu biết bao đau khổ lẫn uất ức lắm người ta mới có thể khóc đến xé lòng xé dạ như vậy.

Hàn Ấu Nương khóc nức nở, hay tay bíu chặt cỗ quan tài gỗ, chỉ sợ một khi buông tay thì sẽ lả người xuống đất. Lúc bình thường nàng không than thân trách phận, chỉ hết lòng chiếu cố y cho tròn đạo phu thê mà thôi. Vừa mới cưới xong, thậm chí hai người còn chưa nói được với nhau mấy câu, giữa hai người cũng chưa thể nói là đã có tình cảm sâu đậm gì. Nhưng bây giờ nàng chợt hiểu y quan trọng và có ý nghĩa đến dường nào đối với nàng. Dù cho chỉ còn một chút khí lực, y vẫn là người đàn ông của mình, có y thì nhà này mới được xem như là còn, mới được xem như là có trụ cột.

Trịnh Thiếu Bằng nghe nàng khóc mà thấy xót xa trong lòng. Vừa định an ủi nàng, nói mấy câu đại loại như "lần đầu gặp mặt xin hãy chiếu cố một chút" giống như mấy lời thoại trong phim, tiếc là thân thể không thể đáp ứng "kỳ vọng" của y, miệng y há ra như cá mắc câu, chả nói được tiếng nào. Chẳng những vậy mà hai mắt y còn trợn trắng lên, lại ngất xỉu trở lại.

Linh đường lại lần nữa trở nên hỗn loạn. Lúc này Hàn Ấu Nương đã tỉnh táo, vừa khóc vừa gọi vừa lôi y ra khỏi quan tài. Dương lão thái gia đã từng nghe qua một số chuyện về người chết giả sống lại, thế nên lão cũng không quá kinh ngạc trước sự việc này. Thấy Dương Lăng sống lại, mặc dù trong lòng lão có chút xấu hổ, nhưng phần cao hứng lại nhiều hơn.

Dù sao Dương Lăng cũng là nhân vật duy nhất có công danh ở thôn Kê Minh Dịch này. Trong tộc có người như vậy cũng là một niềm vinh hiển, nói gì thì nói đó cũng là huyết mạch nhà họ Dương của lão.

Lúc trước bị con trai thuyết phục, lão chạy đến đây tranh đoạt tài sản dĩ nhiên là vì tính toán cho con mình, nhưng có đến phân nửa cũng do lão lo rằng tiểu quả phụ này sẽ không thủ tiết nổi, mấy năm nữa sẽ mang điền sản của nhà họ Dương đi cải giá. Hiện giờ người cháu họ đã sống lại, những lo lắng đó đã không còn, cho nên lão cũng rút lại toan tính kia.

Lão xấu hổ kêu người khiêng giúp đứa cháu của mình đặt lên giường, rồi lại kêu người mời đại phu, bận rộn lo liệu một hồi lâu mới để đám con cháu dìu mình về.

oOo

Hai bát cháo ngô, một đĩa dưa muối trộn, đó là bữa ăn đầu tiên mà "cửu thế đại thiện nhân" Trịnh Thiếu Bằng sau khi chuyển thế thành Dương Lăng dùng cùng với người vợ trẻ. Một ngọn đèn dầu lay lắt chập chờn trên giá bếp, mùi vị thức ăn phả nhẹ khắp phòng.

Tám lần trước, nếu không chuyển thế vào dòng dõi giàu có thì cũng là một kẻ quyền cao chức trọng. Bây giờ bỗng dưng phải ăn loại thức ăn như vầy, cho nên mặc dù bụng sôi ùng ục, nhưng Trịnh Thiếu Bằng, thân phận hiện nay là tú tài Dương Lăng của Tuyên phủ, năm Hoằng Trị thứ mười bảy triều Minh, cũng chỉ miễn cưỡng ăn lưng lưng bụng là đã không thể nuốt trôi thêm được nữa.

Hàn Ấu Nương lại ăn rất ngon miệng. Cơm canh đạm bạc dẫu có kham khổ, nhưng thấy trượng phu không những đã sống lại mà còn có thể tự mình ăn uống, trong lòng nàng chỉ có cảm giác mãn nguyện và vui sướng.

Nhìn căn nhà bốn vách trống trơn, Dương Lăng không khỏi âm thầm thở dài một hơi. Trông thấy Hàn Ấu Nương căn bản chỉ là một cô bé đang bê bát cháo ngô húp sạch sành sanh một cách ngon lành, lại còn dùng lưỡi liếm sạch mép bát, trong lòng y không khỏi xót xa: "Xem ra mấy tên phán quan, quỷ sứ chết tiệt đã chơi mình rồi. Sớm biết như vậy chi bằng lúc đầu hưởng thụ cho sướng cuộc sống làm tỷ phú cho rồi, tuy rằng tuổi có cao một chút... Giờ biết phải làm sao đây? Chẳng lẽ thật sự đi làm Cửu thiên tuế ? Nếu thế chi bằng cứ như vậy sống cho qua hai năm, ít ra... cô vợ trẻ này mặc dù hơi nhỏ tuổi một chút nhưng cũng rất ưa nhìn."

Nguyên văn "nhất vạn tuế giảm khứ nhất thiên tuế": mười ngàn tuổi trừ đi một ngàn tuổi còn chín ngàn tuổi (Cửu thiên tuế), ý nói đi làm hoạn quan Ngụy Trung Hiền.

Trong lòng còn đang suy tính, nhìn thấy Hàn Ấu Nương đã đặt bát xuống, y bèn đẩy nửa bát cháo ngô thừa của mình qua, nhẹ giọng bảo:

- Vẫn chưa ăn no sao? Đây, húp luôn phần này đi!

Lúc này Hàn Ấu Nương mới có can đảm liếc nhìn y. Bộ dạng của y trông vẫn còn hết sức tiều tụy, nhưng tinh thần đã tốt hơn rất nhiều, ánh mắt cũng đã có thần hơn. Thấy ánh mắt của y đang chăm chú nhìn mình một cách dịu dàng, nàng không khỏi cảm thấy có chút ấm áp. Ấu Nương khẽ cụp mắt, lí nhí:

- Tướng công, chàng mới vừa khỏi bệnh, nên ăn nhiều một chút mới phải.

Dương Lăng suy nghĩ một hồi, mới sực nhớ ra mình nên gọi cô ấy là nương tử, có điều kiểu xưng hô cổ xưa này y thật sự rất không quen. Cũng may là từ lúc đổ bệnh, Dương Lăng lúc nào cũng mê mê man man, thậm chí chẳng buồn mở mắt, cũng chưa từng mở miệng gọi một tiếng nương tử, nên y bèn gọi tên tục của nàng:

- Ấu Nương, thân thể ta vừa mới khỏe lại nên không ăn được nhiều. Nếu nàng không ăn thì sẽ rất lãng phí đó.

Hàn Ấu Nương nghĩ ngợi một lúc rồi thẹn thùng cười với hắn, nhận lấy bát cháo, đáp khẽ:

- Đa tạ tướng công!

Dương Lăng quan sát kỹ "cô vợ trẻ". Cô gái này đã cởi bỏ bộ tang phục, thay một bộ vải thô màu xanh. Khuôn mặt nàng trông vẫn còn non nớt. Có thể vì tập võ quanh năm mà vóc người nàng đã phát dục, hơi có dáng vẻ của một đại cô nương; dung mạo xinh đẹp, nước da ngăm ngăm, hàng lông mày đậm, chiếc mũi xinh xắn thẳng tắp, cặp môi đầy đặn, đôi mắt to đen lay láy, trông mười phần khả ái.

Phát giác trượng phu đang nhìn mình, Hàn Ấu Nương nghĩ rằng trong lúc ăn mình có hành vi nào đó bất nhã, không khỏi có chút thẹn thùng khẽ cựa người. Từ khi thành thân đến nay, đây mới là lần đầu tiên nàng và trượng phu cùng ngồi ăn với nhau. Tuy đã là phu thê hơn nửa năm, nhưng nàng lại không hề có chút ấn tượng gì về trượng phu mình. Ngoại trừ biết được tên của y, biết y là tú tài trẻ tuổi nhất Tuyên phủ, là nam nhân duy nhất có công danh ở thôn Kê Minh Dịch này ra, nàng chẳng mảy may biết được tí gì khác.

Chính giữa căn nhà là phòng ăn, vừa bước vào cửa sẽ đụng bếp, bước vào phía bên phải là phòng ngủ, trong đó vẫn còn thoang thoảng mùi thuốc bắc. Bên trái vốn là chỗ ở của phụ mẫu Dương Lăng, sau khi hai người mất đi, nó bị bỏ trống làm kho chứa một số đồ lặt vặt.

Phòng ăn cũng là phòng khách, đồng thời cũng là chỗ đặt linh đường của Dương Lăng. Hàn Ấu Nương vì sợ thân thể bệnh tật của y quá yếu, cho nên kiên trì không để cho y động tay động chân. Nàng dìu y đến ngồi ở đầu giường đất , sau đó tự mình đem các bức liễn, giấy vàng mã các loại do người ta phúng điếu chất vào sau cửa, tháo dỡ linh đường. Ấy vậy mà cũng đã bận rộn đến đầm đìa mồ hôi cả người.

Một loại giường của người phương bắc Trung Quốc dùng để chống lạnh, dùng gạch bình thường hoặc gạch sống (gạch phơi nắng không nung) xây nên, phía trên trải chiếu, phía dưới có lổ hổng nối liền với ống khói, có thể nhóm lửa để sưởi ấm. Còn được gọi là giường lò.

Nhìn Hàn Ấu Nương tháo vát thu dọn nhà cửa, Dương Lăng không khỏi thầm thở dài. Thiên hạ đều nói con gái thời hiện đại tiếp xúc nhiều, ăn uống tốt này nọ cho nên trưởng thành sớm. Trưởng thành sớm cái quái gì chứ? Cái "trưởng thành sớm" đó chẳng qua là về cơ thể và dục vọng của bọn chúng. Hãy nhìn Hàn Ấu Nương mà xem, đó mới là trưởng thành về tâm trí.

Một người con gái mười lăm tuổi vừa bước vào nhà chồng đã phải săn sóc cho một bệnh nhân nằm liệt giường, nhà thì nghèo rỴ mùng tơi như vậy, thật sự là đã làm khó cô ấy, cũng không biết làm sao cô ấy có thể cam chịu được hơn nửa năm nay. Nhìn thấy dáng vẻ xinh đẹp và lanh lợi của nàng, bất giác tim Dương Lăng đập nhanh hơn. Dáng vẻ thanh khiết thuần phác của cô gái này khiến cho trong lòng y phát sinh một thứ tình cảm thương xót và yêu quý. Ngẫm lại bản thân nhiều lắm chỉ sống thêm được hai năm, y thật không nỡ lòng làm hại người ta.

Dọn dẹp xong xuôi, Hàn Ấu Nương quay đầu lại, thấy y vẫn đang ngồi trên chiếc giường đất quan sát mình, mặt nàng không khỏi nóng lên. Nửa năm nay, ngày ngày nàng chỉ mong sao trượng phu sẽ tỉnh lại. Hôm nay y đã thật sự tỉnh lại, nàng lại cảm thấy cả người lúng túng khi bị y nhìn ngắm như vậy.

Nàng có chút ngượng ngùng, bẽn lẽn bước vào phòng khêu ngọn đèn dầu tỏ hơn một chút. Thấy ánh mắt y vẫn còn dõi theo mình, khuôn mặt nàng không khỏi nóng bừng, nhưng lại không biết nên nói thế nào với y.

Sau một hồi lóng ngóng trong phòng, nàng đỏ mặt tiến đến gần, kéo tấm chăn mỏng đắp lên đùi y, lắp bắp:

- Tướng công, chàng mới vừa hồi phục, nên nghỉ ngơi nhiều một chút! Thiếp... Thiếp sang nhà Lý đại nương ở kế bên một chuyến, lát nữa sẽ quay về.

Nói xong nàng liền chạy ào ra khỏi nhà.

Dương Lăng khẽ cười, trong lòng dâng lên tình cảm ấm áp. Y không rõ mình vốn mắc phải bệnh gì, song từ lúc mượn xác đến giờ, ngoại trừ vì nằm lâu ở trên giường, cộng thêm không đủ dinh dưỡng khiến cho tứ chi vô lực, hơi thở phập phù không ổn định ra thì không có trở ngại gì khác.

Thấy Hàn Ấu Nương đã chạy ra ngoài, y liền dỡ mền bước xuống giường, nhân cơ hội bắt đầu làm quen với hoàn cảnh một chút. Mới vừa nhìn quanh, lòng y đã cảm thấy khá là chán nản, khắp nhà đều trống trơn, đúng là "nhà không vách trống", thật là thảm thương.

Bước vào phòng đối diện, từ miệng của Hàn Ấu Nương y đã biết căn phòng này trước đây là phòng của song thân Dương Lăng, hiện giờ bỏ trống để cất một số đồ lặt vặt. Y bước đến cạnh cửa, mở bao lương thực ra, bên trong chỉ còn chưa đầy một bát ngô vụn.

"Thảo nào buổi tối cô ấy chỉ nấu có hai bát cháo, húp nửa bát cháo thừa của mình mà vẫn thấy ngon miệng đến như vậy! Cũng không biết đã bao nhiêu ngày chưa có được một bữa cơm no rồi." Dương Lăng chợt cảm thấy sống mũi cay cay.

"Với gia cảnh như vậy, chỉ tồn tại thôi e cũng đã là một vấn đề, làm sao có thể qua nổi trời đông giá rét như vậy chứ? Mình nói là ăn n nằm chờ chết chứ có nói là muốn chết đói đâu!" Y lôi mấy tên tiểu quỷ cùng phán quan ra thầm chửi từng tên một.

Căn nhà không lớn, trong nhà lại không có thứ gì, chỉ dạo vài vòng là đã xem hết. Y đẩy cửa bước ra bên ngoài. Sơn thôn về đêm tối mù, những ngọn đèn dầu nhỏ ở các nhà không chiếu được bao xa, căn bản không giống như nông thôn ngày nay khắp nơi đều sáng rực. Ngước nhìn vầng trăng lưỡi liềm bị áng mây đen che khuất trên bầu trời, y chỉ cảm thấy lạnh đến buốt xương. Bốn bề tĩnh mịch, cũng không biết Hàn Ấu Nương đã đi đâu. Đang muốn quay vào trong nhà, đột nhiên y nghe thấy một tiếng "két" gần đó, sau đó có tiếng chó ăng ẳng vang lên.

Lắng tai, y chỉ nghe thấy tiếng của một phụ nữ lớn tuổi cách đó không xa:

- Ấu Nương à, trời tối đó, con đi đường hãy chú ý một chút nhé!

Sau đó là giọng nói trong trẻo của Ấu Nương cất lên:

- Dạ, cảm ơn Lý đại nương! Số lương thực này chờ sang năm trong nhà con có thu hoạch nhất định sẽ trả lại cho người.

Dương Lăng lặng lẽ bước đến bên cạnh bức tường thấp. Bên dưới bức tường có một đống tuyết được vun lại. Y vịn tường nhìn qua, chỉ thấy một bà lão tóc bạc phơ một tay đưa cao đèn dầu, một tay vịn hờ cánh cửa. Hẳn là Ấu Nương đã đi ra khỏi cổng sân.

Chỉ thấy bà lão lắc đầu thở dài một tiếng, lúc bà đóng cửa còn nghe được tiếng một ông lão ở trong nhà:

- Bà bạn già à, thu rồi bọn Thát Tử kéo qua, nhà mình cũng chẳng còn bao nhiêu lương thực dư thừa nữa đâu!

Bà lão vừa đóng cửa vừa khẽ lẩm bẩm:

- Chà! Tôi biết, nhưng mà đứa nhỏ Ấu Nương này thật đáng thương, có thể giúp được thì cứ giúp đi! Hơn nữa thằng nhỏ Lăng nhi đó cũng có công danh, gặp đại nạn không chết tất sẽ có hậu phúc, tương lai...

Cánh cửa đóng lại, tiếng nói chuyện cũng theo đó tắt đi. Dương Lăng nghe cổng sân nhà mình kẹt khẽ, một bóng người nhỏ nhắn bước vào, y bất giác bước tới phía trước vài bước để nghênh đón.

Nhìn thấy trong sân có một bóng người đang bước tới, Hàn Ấu Nương không khỏi hốt hoảng, cho rằng cái tên vô lại Dương Tuyền kia lại đến nhà trêu ghẹo. Một tay nàng giơ nửa bao lương thực lên, tay kia thuận thế lôi một khúc cây từ sau cánh cổng ra, trầm giọng quát:

- Cút ra ngoài cho ta! Bằng không... bằng không ta sẽ kêu trượng phu ta đó!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 5: Lá lành đùm lá rách

Dương Lăng vừa bước lên mấy bước thì chợt nghe vù một tiếng, đã thấy một cây gậy gỗ to bằng hai lóng tay chĩa vào ngực, làm y la hoảng lên:

- Đừng...

Cổ họng hơi nghẹn lại, y nuốt nước miếng xuống rồi mới từ tốn nói:

- Ấu Nương, là ta, Dương Lăng đây!

- Ơ kìa!

Khúc cây rơi bộp xuống đất, Hàn Ấu Nương vội vã bước tới đỡ lấy y, lo lắng hỏi:

- Tướng công, chàng vừa mới khỏi bệnh, sao lại ra ngoài làm gì? Trời rét căm căm thế này, nếu chàng mà lại có chuyện gì, chàng bảo thiếp ... bảo thiếp phải làm sao đây?

Dương Lăng trấn an nàng:

- Không có chuyện gì đâu, ta khỏe lên nhiều rồi. Vì không thường xuyên vận động nên người hơi yếu chút thôi.

Y đưa tay tới muốn giúp Hàn Ấu Nương xách bao lương thực, nhưng nàng nào chịu để cho y động tay động chân, vội vàng dìu y quay vào, nói:

- Tướng công, chàng hãy mau về nằm nghỉ! Ban đêm trời lạnh lắm, để buổi trưa nào tiết trời ấm áp thiếp sẽ đưa chàng ra phơi nắng.

Chẳng còn cách nào khác, Dương Lăng đành để mặc cho nàng dìu mình quay trở vào. Lúc vào nhà rồi, y không nhịn được mới hỏi:

- Ấu Nương, chúng ta chữa bệnh hết sạch tiền rồi phải không? Ta thấy trong nhà chẳng còn món gì nữa.

Hàn Ấu Nương đặt bao lương lên giá bếp, dìu hắn vào phòng trong rồi mới khẽ ừm một tiếng, nhẹ nhàng giải thích:

- Thu rồi lúc bọn Thát Tử kéo đến, thiếp mãi lo cõng chàng chạy lên núi, lương thực trong nhà ... đều bị bọn Thát Tử cướp hết, cho nên ... thiếp buộc lòng phải đem đồ dùng trong nhà đi cầm một ít.

Dìu Dương Lăng đến ngồi nơi đầu giường, nàng vừa giúp y cởi giày, vừa ngẩng đầu mỉm cười nói với y:

- Tướng công không cần phải lo lắng! Sang năm đất đai nhà ta có thu hoạch, mọi thứ sẽ ổn thôi. Chàng là tú tài, không cần quan tâm đến mấy chuyện này, lúc nào khỏe lên, chàng cứ an tâm đọc sách là được rồi. Năm tới đã là thi Hương rồi đó, ba năm mới có một lần.

Dương Lăng thấy khi nàng nói đến thân phận tú tài của y thì ánh mắt tràn ngập sự ngưỡng mộ và tự hào, trong lòng không khỏi cười khổ. Với sức khỏe hiện giờ, y thật sự không gánh vác được gì, chẳng qua chỉ dựa vào xuất thân tú tài viết được mấy cái mớ văn chương nhảm nhí, vậy mà đã trở thành nam tử hán chân chính trong mắt nàng. Nếu ở thời đại của y, cho dù có tốt nghiệp đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh, mà vô dụng như thế thì sớm đã bị vợ đá văng ra rồi, lấy đâu ra ánh mắt sùng bái mà nhìn y chứ?

Song cũng khó có thể trách nàng lại xem trọng như vậy. Bây giờ đang là thời đại trọng nông khinh thương, thương nhân cho dù có tiền thì địa vị trong xã hội vẫn không bằng một tiểu địa chủ đất chỉ dăm ba mẫu. Cho nên con đường tiến thân phát tài hầu như đều phải dựa vào làm quan, mà để bước vào quan trường thì chủ yếu lại phải thông qua khoa cử. Mặc dù Dương Lăng hiện giờ chỉ là một gã tú tài, nhưng ở thời đại này, thân phận tú tài dù ở chốn thành thị hay nông thôn đều rất có tiếng. Có người đọc sách đến bảy tám mươi tuổi mà vẫn chưa thể đỗ tú tài.

Nhà Minh quản lý người dân rất nghiêm, cho dù là rời quê đi thăm người thân bạn bè cũng đều phải được địa phương cấp giấy thông hành, đóng dấu qua cửa, không thể qua loa. Có điều những người đọc sách có công danh như tú tài, cử nhân thì lại khác. Bọn họ có quyền mang kiếm, mặc áo lụa xanh, tùy ý du ngoạn, dọc đường quan lại không được ngăn chặn hay xét hỏi; trông thấy huyện thái gia - người mà những nông dân bình thường có thể cả đời cũng không được gặp - bọn họ chẳng những không cần cúi lạy, mà còn được phép ngồi. Trong mắt người thường, những người như vậy dĩ nhiên là nhân vật rất có thân phận.

Hàn Ấu Nương kéo chăn cho y dựa vào, rồi lại pha một chậu nước ấm, mặc cho Dương Lăng nhiều lần từ chối nàng vẫn dịu dàng giúp y rửa chân. Vị Dương Lăng này trước giờ nào đã được hưởng thụ loại đãi ngộ như vậy, thế nhưng sau khi cự tuyệt một phen, mắt thấy ngược lại còn khiến cho Hàn Ấu Nương thấp thỏm bất an, y đành để mặc cho nàng hầu hạ.

Đêm nằm trên giường, gác tay lên trán, Dương Lăng lặng lẽ suy nghĩ về những tâm sự của mình. Bên tai nghe được hơi thở nhẹ nhàng của Hàn Ấu Nương, có lẽ nàng ấy đã ngủ say rồi.

Từ lúc thành thân đến nay, Hàn Ấu Nương mặc dù ngủ chung giường với y, nhưng thật ra mỗi ngày nàng đều để nguyên quần áo vậy chăm sóc cho y, nên hai người chưa từng thực hiện nghĩa vụ vợ chồng, chỉ nằm ngủ bên cạnh. Nhưng đêm nay tướng công của nàng đã không còn bộ dạng mê mê man man đó nữa, trái lại khiến cho nàng cảm thấy cực kỳ xấu hổ. Tuy rằng khi ngủ đã thổi tắt đèn nên chàng không thấy được nàng, nhưng cả người Hàn Ấu Nương vẫn nóng lên, vừa chui vào chăn liền rút cả đầu vào trong đó, không dám ló ra.

Có điều, kể từ lúc thành thân, đêm nay là đêm mà tâm tình nàng cảm thấy vui vẻ nhất. Tướng công chẳng những đã thoát khỏi cơn thập tử nhất sinh, hơn nữa bệnh tình dường như cũng đỡ hơn nhiều, áng chừng chỉ cần nghỉ ngơi thêm một thời gian nữa là có thể hoàn toàn khỏe mạnh lại, cuộc sống sẽ lại ngập tràn hy vọng và mơ ước, nàng sung sướng nghĩ.

Dương Lăng và nàng tuy là quan hệ phu thê, nhưng trong lòng y, người con gái này mặc dù xinh đẹp mê người, nhưng từ khi mở mắt ra, chứng kiến sự vất vả và kiên cường của nàng, y cảm thấy xót thương vô cùng. Bản thân chỉ còn hai năm để sống, y không thể đành lòng có ý với người con gái đáng yêu này.

Y nhìn qua chỗ Hàn Ấu Nương nằm, trong phòng tối om, không thấy rõ được gì, chỉ có thể nghe thấy tiếng thở khe khẽ của nàng, giống như một con mèo nhỏ.

"Chà!" - Y khẽ thở dài một tiếng: "Bây giờ người con gái này đã mang thân phận thê tử của mình, mình không những phải nghĩ cách để tiếp tục sống, mà còn phải có trách nhiệm lo lắng, chăm sóc cho nàng. Nhưng ... nhà nghèo rớt mùng tơi như vậy, mình biết phải làm sao mới có thể lo được cái ăn cái mặc cho nàng đây?"

Nghĩ ngợi miên man một hồi lâu nhưng y vẫn chưa có được biện pháp gì. Lúc này nhiệt độ của lò lửa đã dần dần hạ xuống, phần ngoài chăn đã lạnh cứng lại, mà trong chăn cũng bắt đầu lạnh đi. Y siết chặt tấm chăn, chợt nghĩ mình đang nằm ngủ ở gần lò mà còn vậy, Hàn Ấu Nương sẽ càng bị lạnh hơn, không biết nàng có thể chịu được không.

Lặng lẽ đưa tay ra sờ sờ mặt giường bên cạnh, chỉ thấy bên đó lạnh như băng. Ở trong thôn núi muốn đốn củi hẳn là chuyện dễ dàng, trời lạnh như thế tại sao lại không đốt thêm củi? Ban nãy quan sát trong nhà hình như không nhớ rõ dưới bếp còn bao nhiêu củi.

Nhớ lại tình cảnh của bản thân, Dương Lăng không khỏi cảm thấy nhẹ nhõm: "Trong khoảng thời gian đó, mình chỉ còn thoi thóp, dường như có thể chết bất cứ lúc nào. Hàn Ấu Nương đơn độc bơ vơ không người giúp, lại phải chăm sóc cho mình, cô ấy làm gì mà có thời gian lên núi đốn củi chứ."

Ngón tay chạm vào tấm chăn bên cạnh, Dương Lăng không khỏi giật mình. Tấm chăn này... sao lại mỏng như vậy? Dùng ngón tay miết miết, chỉ thấy lớp chăn đó so với tấm chăn của y thật sự là quá mỏng. Nàng phải trải qua những đêm đông lạnh giá như vậy sao?

Lúc này Hàn Ấu Nương đã co người lại như con tôm. Mặt Dương Lăng chợt nóng lên. Nàng vẫn còn chưa ngủ sao?

Y đỏ mặt hỏi nhỏ:

- Ấu Nương, chưa ngủ hả?

Hàn Ấu Nương ậm ờ đáp một tiếng, âm thanh rụt rè dường như có chút run run.

Dương Lăng thở dài:

- Sao chăn của nàng lại mỏng như vậy, làm sao chịu nổi đêm đông lạnh như thế này chứ? Trong nhà ngay cả chăn bông dày cũng không có sao?

- Ừm...

Hà Ấu Nương khẽ nói:

- Tướng công, bệnh tình của chàng nguy kịch lắm, Ấu Nương thật chẳng có cách nào mời được đại phu, nên đành phải ... đành phải ... xin lỗi chàng nhé...

Dương Lăng sờ tấm chăn dày của mình, trong lòng bồi hồi. Y bỗng ngồi dậy, đưa tay kéo tấm đệm dưới người Hàn Ấu Nương ra. Vì mặt giường rất trơn nên tấm đệm đó dễ dàng bị y kéo mạnh qua

Hàn Ấu Nương trong lòng có chút hốt hoảng, giọng run rẩy:

- Tướng công... chàng... chàng làm gì vậy?

Dương Lăng thấy nàng sợ hãi như vậy, cảm thấy rất buồn cười, bèn cố ý trêu nàng:

- Chúng mình là vợ chồng mà, ngủ chung một chỗ thì có gì không được chứ?

Hàn Ấu Nương càng thêm hốt hoảng, nhưng phu quân nói như vậy thật sự là không có gì không đúng, nàng chỉ biết lắp bắp:

- Nhưng mà ... nhưng mà chàng vừa mới đỡ bệnh, chúng ta đừng ... đừng ...

Dương Lăng không nhịn được khẽ cười:

- Nha đầu ngốc ... cái chăn của nàng mỏng quá, thấy nàng nằm đó mà chịu lạnh, ta làm sao có thể ngủ được chứ? Đến đây, chúng mình ngủ chung!

Đặt hai tấm đệm lại chung với nhau, Dương Lăng kéo tấm chăn của nàng ra, đem tấm chăn của mình đắp lên người nàng, sau đó phủ tấm chăn mỏng lên trên, bảo:

- Nàng xem, như vậy tốt hơn nhiều!

Hàn Ấu Nương ngượng đến nỗi trốn luôn ở trong chăn không dám ló đầu ra ngoài, cả người cuộn tròn lại như con tôm, hai nắm tay nhỏ siết chặt đặt trước ngực. Nàng cũng không biết vì sao mình lại sợ hãi và căng thẳng đến như vậy.

Dương Lăng là trượng phu danh chính ngôn thuận của nàng. Từ nhỏ nàng đã được dạy về tam tòng tứ đức, chồng là trời, vợ là đất. Thánh nhân có nói: "Phụ nhân giả, phục vu nhân dã" (Chú thích của dịch giả: Là phụ nữ phải biết phục tùng chồng.) Nếu như phu quân muốn nàng thì việc đó thật sự không có gì là không phải. Nhưng khi vừa nghĩ đến chuyện có thể xảy ra, trong lòng nàng vẫn không khỏi hồi hộp, lo sợ, thậm chí còn sợ hơn cả khi gặp con cọp trong lần đầu tiên đi săn với cha.

Dương Lăng cũng cảm thấy được sự căng thẳng của nàng. Nói thật, y cũng không dám dựa quá gần vào Ấu Nương. Nếu như hai người nằm sát vào nhau quá, y thật không dám đảm bảo mình sẽ không động tâm. Ít nhất thân thể và tinh thần y đều khỏe mạnh, lại nằm cạnh một người con gái trẻ trung như vậy, cho dù trong lòng không muốn, nhưng về mặt sinh lý vẫn sẽ không tránh khỏi sinh ra phản ứng. Cho nên y chẳng dám kéo sát lại khoảng cách chỉ bằng hai nắm tay giữa hai người.

Nhưng bởi vậy cho nên một chút hơi ấm ủ trong chăn cũng tản đi hết, dù chăn có dày cũng chẳng thấy ấm. Nằm được một chút, Dương Lăng lại bò dậy, mò mẫm xỏ giày vào.

Hàn Ấu Nương ló đầu ra hỏi:

- Tướng công, chàng... chàng đi đâu đó?

Dương Lăng hỏi:

- Đèn dầu thắp như thế nào? À không, đèn dầu ở đâu vậy?

Hàn Ấu Nương vội trở dậy đánh đá lửa thắp đèn. Dưới ngọn đèn dầu, gò má nàng ửng đỏ, cũng không biết là do thẹn thùng hay do ánh sáng phản chiếu, nhưng lại càng xinh đẹp thêm. Nàng bối rối hỏi Dương Lăng:

- Tướng công muốn đi ngoài sao? Bô đặt ở ngay phòng ngoài đó.

Dương Lăng lắc đầu:

- Không, ta định bỏ thêm chút củi vào lò.

Hàn Ấu Nương cầm đèn bước theo y ra phòng ngoài. Dưới bếp có chất một bó củi nhỏ đã được chX cẩn thận. Dương Lăng nhìn quanh rồi bước đến xó nhà, gom lại tất tần tật những bức liễn, giấy vàng mã và rổ cỏ đem nhét xuống đáy lò. Những thứ này đều được làm bằng thân sậy và giấy nên cực kỳ dễ cháy, không lâu sau ngọn lửa đã tắt lại cháy hồng lên.

Làm xong Dương Lăng lại nhét thêm củi vào từng que một. Hàn Ấu Nương mở miệng tính nói nhưng lại thôi, thầm nghĩ: "Đốt thì đã đốt rồi, dẫu sao phu quân cũng đã khỏe hơn, không cần mình phải luôn kề cận. Sáng mai mình dậy sớm lên núi đốn thêm một ít củi nữa là được rồi."

Dương Lăng để cho lửa cháy từ từ, sau đó phủi phủi tay, quay đầu cười nói:

- Thế này là tốt rồi, đêm nay có thể ngủ ấm được một chút.

Lúc này nhờ ánh lửa trong bếp, y mới nhìn rõ Hàn Ấu Nương đang mặc một bộ đồ ngủ bằng vải thô màu trắng, mặc dù có vài miếng vá, nhưng vẫn không thể che dấu được vẻ yểu điệu động lòng người của nàng. Một chút da thịt thấp thoáng dưới cổ áo trông hết sức mê người.

Trống ngực Dương Lăng đập mạnh, vội vã dời ánh mắt đi không dám tiếp tục nhìn. Hàn Ấu Nương phát giác được cái nhìn của y, trên mặt cũng có chút thẹn thùng, bẽn lẽn dìu Dương Lăng về lại phòng trong. Lúc Dương Lăng tiếp lấy cây đèn từ trong tay Hàn Ấu Nương, y cảm thấy bàn tay nàng rất thô ráp, bèn cầm lấy nhìn một chút. Lòng bàn tay đã có vài vết chai sạn, da thịt trên lưng bàn tay ram ráp, có nhiều vết xước. Mặc dù hôm nay chỉ có thể xem như vừa mới quen thân, nhưng Dương Lăng vẫn đau xót không thôi.

Hàn Ấu Nương đỏ mặt lắc đầu, rụt rè rút tay lại nói:

- Tướng công, đừng để nhiễm lạnh, mau mau nghỉ ngơi đi!

Trải qua chuyện này, hai người cũng không còn câu nệ như trước nữa, một thứ tình cảm không rõ ràng âm thầm nảy sinh trong lòng họ. Sau khi chui vào trong chăn hai người cũng không còn dè dặt nữa.

Những khoảng trống trong chăn bị hơi lạnh tràn vào rất khó chịu. Dương Lăng không biết làm cách nào, cuối cùng chịu không nổi đành phải dịch người sát vào. Hàn Ấu Nương run lên, thân thể có chút căng cứng lại, nhưng vẫn ngoan ngoãn nằm im không nói lời nào.

Dương Lăng chỉ là muốn để cho nàng nằm sát vào mình, khít người lại để tránh cho hơi ấm thoát ra ngoài. Y tự giễu nói với Hàn Ấu Nương:

- Ấu Nương, bọn mình như vậy cũng có thể xem là lá lành đùm lá rách đó!

Vuốt nhẹ lên bàn tay nhỏ nhắn của Ấu Nương, y đau xót nói:

- Tay nàng bị nứt nẻ hết rồi, do giặt giũ và chẻ củi sao? Có đau không?

Hàn Ấu Nương a một tiếng rồi lắc đầu. Chợt phát hiện y không thấy được mình, nàng bèn nói:

- Không đau đâu tướng công. Chỉ cần chàng khỏe lại, Ấu Nương dù phải chịu khổ nhiều hơn cũng không oán hận.

Nghe xong, Dương Lăng không kiềm được siết chặt lấy tay nàng. Y cảm thấy lần chuyển thế này mặc dù là lần gian khổ nhất trong chín lần, nhưng lại khiến y vừa ấm áp lại vừa hạnh phúc. Qua một hồi, nghe thấy hơi thở của Hàn Ấu Nương không giống như đang ngủ, y không nén được lại hỏi:

- Đang nghĩ gì vậy?

Hàn Ấu Nương khẽ thở dài:

- Tướng công, thiếp đang nghĩ đến chuyện thi Hương của chàng sang năm. Trong nhà ... đã hết tiền rồi. Nhà bên thiếp có hai ca ca, một đệ đệ, cha thiếp phải gánh vác rất nhiều, không giúp đỡ chúng ta được. Bốn mẫu ruộng núi nhà ta là được tổ tiên truyền lại nên không thể bán. Thi Hương là chuyện quan trọng cả đời của chàng, phải làm sao cho được đây?

"Bốn mẫu ruộng núi à?" - Dương Lăng chợt động tâm, chẳng để ý gì đến nguyên tắc không được động vào gia sản tổ tiên. Cách nghĩ này của y có thể bị cho là xấu xa, nhưng y chỉ nghĩ không biết bán đi bốn mẫu đất này sẽ được bao nhiêu tiền mà thôi. Tốt nhất là phát tài ngay lập tức, để mình có thể an nhàn yên ổn sống hết hai năm, khi chết đi vẫn có thể đảm bảo cho người con gái này suốt đời không cần phải lo lắng về cái ăn cái mặc.

Suy nghĩ lung tung một hồi, y cũng mệt mỏi dần, đồng thời cảm thấy phía dưới giường càng lúc càng ấm lên. Mặc dù Hàn Ấu Nương để cho y tùy ý dựa sát vai, nhưng thân thể nhỏ nhắn vẫn cuộn tròn lại, căng thẳng. Dương Lăng thấy buồn cười, bèn ngáp một cái, cười cười bảo:

- Ấu Nương, thả lỏng người một chút đi, nằm sát vào sẽ ấm hơn! Trời lạnh như vậy, nàng sợ ta sẽ làm gì chứ? À ... đột nhiên ta lại nhớ đến người xưa.

Hàn Ấu Nương vừa bị y chọc đến đỏ cả mặt, nghe thấy những lời này, không rõ tướng công tú tài của mình muốn nói đến chuyện gì, không nén được lòng hiếu kỳ bèn hỏi:

- Tướng công nhớ đến người xưa nào vậy?

Dương Lăng cố nhịn cười, kể:

- Ta nhớ tới Liễu Hạ Huệ. Nếu như vị "quân tử" này không bị khuyết tật gì đó thì cũng không khác với tình cảnh hiện giờ của ta lắm: trời đông giá rét, ở dưới cổng thành ôm một thiếu nữ vào lòng mà tâm không loạn. Ta cũng làm được, bởi vì ... thật sự là lạnh quá rồi, ý nghĩ xấu xa gì cũng bị đông lại hết.

Hàn Ấu Nương cười khúc khích. Trước lúc xuất giá nàng còn lo rằng tướng công của mình là một "ông tú tài" nhàm chán, cứng nhắc, không ngờ chàng ... lại thú vị như vậy. Trong lòng nàng dâng lên một thứ cảm giác kỳ lạ.

"Đây là phu quân bầu bạn cả đời với mình, là người thân thiết nhất của mình sau này." - Tâm hồn nhỏ bé của nàng khẽ thở phào, sự thân thiết và ngưỡng mộ khiến nàng bất giác nhích sát lại gần Dương Lăng, thân thể đang căng cứng cũng dần thả lỏng ra.

Không kìm lòng được, nàng nép người vào Dương Lăng, kề sát bên tai y thỏ thẻ:

- Tướng công, thiếp nguyện ý dựa sát bên chàng như vậy, bất kể sinh lão bệnh tử, phú quý bần cùng, thiếp cũng không oán không hận sẵn lòng cùng chàng chia sẻ, mãi mãi.

Nghe được tiếng lòng mà Hàn Ấu Nương mượn bóng tối để thổ lộ với mình, con tim Dương Lăng không khỏi khẽ rung lên. Trên thế gian này, chẳng phải mỗi người đều nỗ lực tìm kiếm một nửa còn lại sẵn sàng nói ra ba chữ "ta nguyện lòng" với mình đó sao? Sự xúc động khiến y thiếu chút đã buột miệng nói với nàng rằng y cũng nguyện lòng ở bên nàng như vậy cho đến hết đời nhưng lời vừa ra đến miệng lại nuốt trở vào. Hai năm trên cõi nhân gian mà thôi ... y nén tiếng thở dài vào nơi sâu thẳm.

Cơ thể Hàn Ấu Nương mảnh mai, mềm mại, ấm áp, ôm vào trong lòng rất dễ chịu. Lòng yêu thương lấn át cả dục vọng, cơn buồn ngủ ập tới, Dương Lăng ngáp mấy cái rồi chìm vào giấc ngủ say.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 6: Rời nơi núi đồi

Con gà trống bên vách liên tục rướn cổ gáy vang. Đang ngủ say sưa, Dương Lăng mơ màng tỉnh giấc, định đưa tay rờ rẫm thì bỗng thấy trước ngực trống trơn. Y bừng mở mắt, trong chăn đã vắng lạnh, chỉ còn mỗi mình y.

Dương Lăng cười khổ, vốn tưởng sẽ chăm lo cho người ta, ai dè người ta đã dậy tự hồi nào mà mình vẫn ngủ nướng. Y quơ lấy quần áo mặc vào, một bộ y phục vải bông xanh lốm đốm vài mảnh vá.

Ra ngoài phòng, ló đầu nhìn quanh mà không thấy bóng dáng của Hàn Ấu Nương đâu, Dương Lăng bước luôn ra cổng. Khí trời giá rét, hơi lạnh xộc thẳng vào mũi. Y co duỗi tay chân, vươn vai ưỡn ngực, cảm thấy tinh thần thoải mái lên rất nhiều.

Tia nắng ban mai đã ló dạng. Nơi này là một ngôi làng bé nhỏ nằm bên sườn núi, chỉ có dăm chục gian nhà, đa số đều ọp ẹp tồi tàn. Dưới sườn núi còn có mấy mươi căn, trông kiểu dáng cũng không tệ, hẳn là thuộc về những gia đình giàu có.

Dương Lăng đang đứng ở bên tường nhìn xuống chân núi, chợt nghe thấy tiếng cổng kêu ken két. Xoay đầu nhìn lại, y thấy ngay bó củi thật to, trên vài nhánh còn vương ít tuyết, bên dưới là một thân hình nhỏ nhắn, thật chẳng cân xứng với bó củi lớn đến thế kia. Dưới bó củi đó lộ ra một khuôn mặt đỏ bừng vì giá lạnh.

Dương Lăng lấy làm xấu hổ, vội vàng chạy đến hỏi han:

- Ấu Nương, nàng sao lại... Mau, mau để xuống đi, sao đốn nhiều củi vậy?!

Hàn Ấu Nương trông thấy y lại còn cuống quít hơn, nàng vội vã đặt bó củi xuống, cầm rìu chạy đến đỡ lấy y, lo lắng nói:

- Tướng công, sao chàng lại ra đây? Bên ngoài lạnh lắm đó, hãy mau trở vào phòng đi.

Dương Lăng có phần tự oán trách bản thân. Y liền giật lấy cây rìu trong tay Ấu Nương ném sang một bên, hai tay nâng lấy khuôn mặt nhỏ nhắn đang đỏ bừng, cảm động nói:

- Ấu Nương, từ giờ về sau đừng đốn nhiều củi như vậy nữa. Nàng phải gọi ta dậy, mấy việc nặng nhọc này phải nên để cho bọn đàn ông chúng ta làm mới phải.

Bị y ôm lấy đôi má, Hàn Ấu Nương cảm thấy ấm áp vô cùng, nhưng nàng vẫn nghiêm túc bảo y:

- Vậy sao được? Chàng là tú tài mà, làm mấy công việc này sẽ bị người khác cười cho đó. Tướng công, hãy mau quay trở về phòng đi, kẻo lạnh đấy.

Hai tay nàng lạnh ngắt, mu bàn tay đỏ ửng, mười ngón tay cũng đã hơi cứng lại. Dương Lăng lấy tay mình bọc đôi bàn tay nhỏ bé của nàng, rảo bước vào trong nhà:

- Nàng mới cần phải mau vào nhà cho ấm đó. Nàng ăn mặc sơ sài quá đi.

Giọng y có phần chán nản:

- Nhà này nghèo đến độ chẳng còn bộ y phục nào ư?

Hàn Ấu Nương xấu hổ, cười đáp:

- Không đâu, vẫn còn bộ đồ mới, nhưng thiếp muốn sang năm mới mặc, bây giờ chưa nỡ dùng. Tướng công, chàng đói chưa, để thiếp đi làm chút đồ ăn.

Dương Lăng chợt thấy sống mũi cay cay, thầm nhủ: "Ngưu Đầu, Mã Diện, các người đã thắng rồi đấy. Nếu chưa thể mang lại cho người con gái xinh đẹp đáng thương này được một cuộc sống tốt đẹp, cho dù các người có lôi ta về làm hoàng đế ta cũng sẽ không về."

ở đây tác giả chơi chữ, nguyên văn "tố cửu thiên tuế tái gia nhất thiên tuế" nghĩa là chín ngàn năm cộng một ngàn năm = mười ngàn năm, cũng chính là vạn tuế (hòang đế).

Kéo Hàn Ấu Nương đến mép giường ngồi xuống, Dương Lăng phanh áo ra, cầm lấy hai tay nàng đặt lên ngực mình, giọng y mang khí khái của một đại trượng phu:

- Ngồi yên ở đấy, giữ tay cho ấm rồi mới được nói, xem nàng bị đông cứng lại hết rồi kìa.

Hàn Ấu Nương ngẩn ngơ nhìn y, mũi sụt sịt, rồi đột nhiên thút thít rơi lệ. Dương Lăng chợt hoảng, vội vã hỏi:

- Ấu Nương, nàng sao vậy?

Hàn Ấu Nương rút một tay ra khỏi ngực y, gạt nước mắt, thẹn thùng cười bảo:

- Không, thiếp vui đấy mà. Tướng công, chàng đối xử với thiếp thật quá tốt, được gả cho chàng, ấy là phúc của Ấu Nương.

Hàn Ấu Nương cảm thấy thật hạnh phúc, ông trời đã không bạc đãi nàng, không những đã trả người chồng lại cho nàng, mà người chồng này còn rất dịu dàng ân cần, không hề có chút tính cách của một "ông tú tài". Thế gian này đã thực sự cho nàng quá nhiều, trái tim bé nhỏ của nàng tràn ngập sự mãn nguyện. Nhìn thấy niềm hạnh phúc dâng đầy trên khuôn mặt ấy, Dương Lăng không kìm lòng nổi ôm choàng lấy nàng.

Bữa ăn sáng vẫn là cháo ngô cùng dưa muối, Ấu Nương đã nấu cháo nhiều hơn so với ngày hôm qua một chút. Dẫu gì cũng đói hai bữa, Dương Lăng ăn thứ cháo rau vốn khó nuốt này vẫn cảm thấy khá ngon miệng, nhai cái món "rau đông đá" này nghe "rôm rốp". Đột nhiên y hỏi:

- Ấu Nương, bây giờ một mẫu đất đáng bao nhiêu tiền?

Hàn Ấu Nương ngơ ngác một hồi rồi mới trả lời:

- Tướng công, nếu là đất tốt ở bên Tuyên phủ Đại Đồng thì một mẫu khoảng từ sáu đến tám lạng. Ruộng núi nhà chúng ta cũng xấp xỉ bốn lạng bạc.

"Chỉ bốn lạng?". Dương Lăng thất vọng tràn trề. Hàn Ấu Nương chớp chớp mắt không hiểu, nói:

- Bốn lạng cũng không ít mà, đó là tới bốn xâu tiền lận đó, mấy nhà nông dân chúng ta có thể dùng tới hai năm đấy.

Dương Lăng giật thót, sực nhớ ra y vẫn theo thói quen suy diễn vấn đề theo quan niệm hiện đại. Hỏi khéo nàng thì mới biết được một lạng bạc vào khoảng một ngàn văn tiền, nói dùng cho hai năm là đã tính rộng rãi. Mấy hộ nghèo đơn chiếc nếu tiết kiệm thì có thể dùng hơn ba bốn năm. Khó trách vì sao Ấu Nương lại bảo là không ít. Có điều cách tính này là đã tính lương thực tự trồng, chứ một lạng cùng lắm chỉ chi tiêu trong vòng một năm.

văn tiền: đơn vị tiền nhỏ nhất (tương đương với xu)

Dương Lăng cẩn thận tính toán, một mẫu bốn lạng, vậy bốn mẫu sẽ là mười sáu lạng, xem ra không ít, nói chung cũng đủ để Ấu Nương dùng hơn mười năm. Song với tình hình ngày hôm qua, nếu như không có mình, chỉ e tộc nhân Dương thị sẽ không dễ dàng nhượng lại ruộng đất cho Ấu Nương.

Nhưng... nếu là mình muốn bán ruộng đất thì chẳng ai có quyền cản trở. Y thầm tính một hồi rồi mở miệng nói:

- Ấu Nương, ta muốn bán hết ruộng đất nhà cửa, dọn vào trong nội thành ở.

Hàn Ấu Nương tròn mắt thất kinh, vội thốt lên:

- Gì chứ? Như thế... như thế sao được? Đó là đất đai của cha mẹ chàng để lại, làm sao có thể mất trong tay chúng ta chứ? Tướng công, chàng lo lắng chúng ta sẽ hết kế sinh nhai phải không? Chàng chớ nên suy nghĩ, những ngày gần đây vì chàng lâm bệnh nên thiếp không dám rời chàng quá xa. Bây giờ chàng đã khỏe lại, chỉ cần an tâm chăm lo đọc sách là được. Thiếp từ nhỏ đã theo cha học bản lãnh săn bắn, qua mấy ngày nữa sẽ lên núi săn thú. Chỉ cần ráng qua khỏi mùa đông này, chờ cho đến khi ruộng đất nhà chúng ta có thu hoạch thì sẽ có thể trả hết số nợ mà chúng ta đã vay mượn.

Dương Lăng khổ sở nói:

- Băng tuyết ngập trời, một nữ nhân như nàng đi lên núi săn bắn sẽ rất nguy hiểm. Thời gian qua đã khổ cho nàng nhiều rồi. Ta nghĩ với tài viết lách và tính toán của ta, vào nội thành thế nào cũng sẽ tìm ra một công việc. Ta thật sự... thật sự không nhẫn tâm để nàng mới chừng này mà vẫn phải nuôi dưỡng một phế vật như ta.

Hàn Ấu Nương hoảng hốt đứng dậy, lật đật kêu:

- Tướng công, chúng ta là phu thê mà sao chàng lại nói ra những lời như vậy? Chàng là tú tài, là người có công danh, sao có thể đi làm mấy chuyện thấp kém đó được.

Dương Lăng không cho là đúng, hỏi ngược lại:

- Những việc đó có gì mà thấp kém? Chẳng lẽ ngay cả vợ mình cũng chăm sóc không nổi thì mới là cao thượng sao?

Không ngờ Hàn Ấu Nương vừa nghe đã rơi nước mắt, thút thít nói:

- Thiếp không thể chăm sóc tốt tướng công, để cho một tú tài như chàng phải đi làm mấy công việc thấp kém đó, sau này xuống cửu tuyền thiếp còn mặt mũi nào để gặp cha mẹ của chàng chứ. Tướng công, thiếp xin chàng, có nhà thì mới có căn cơ, rời quê xa xứ, lưu lạc tha phương sao có thể tính là kế lâu dài?

Dương Lăng thấy nàng rơi lệ liền cuống lên, vội vã đặt bát xuống bàn, kéo nàng vào lòng, khẽ lau nước mắt cho nàng, rồi nhẹ nhàng an ủi:

- Ngoan nào, Ấu Nương đừng khóc, nàng khóc là lòng ta chịu không nổi đâu. Nàng hãy nghe ta nói. Năm sau sẽ tổ chức thi Hương, mà nhà chúng ta thậm chí không có đủ lộ phí thì sao lên tỉnh thành tham gia thi Hương được? Ta làm vậy là để cắt đứt hết đường lui, quyết một trận tử chiến, mà ta cũng có thể tập trung tinh thần đọc sách. Vi phu là tú tài trẻ tuổi nhất Tuyên phủ, nàng có lòng tin ta sẽ thi đỗ cử nhân hay không?

nguyên văn "phá phủ trầm chu, bối thủy nhất chiến", nghĩa đen: đập nồi dìm thuyền, dựa sông mà đánh giặc. Ý cắt đứt hết đường lui để làm một trận sống mái. Thuyết Hạng Vũ xưa đem quân đi đánh Cự Lộc, sau khi qua sông thì dìm hết thuyền, đập vỡ nồi niêu để binh sĩ thấy không có đường lui, phải quyết tâm đánh thắng.

Hàn Ấu Nương cuống quít gật đầu:

- Vâng, Ấu Nương tin, tướng công nhất định sẽ có thể thi đỗ cử nhân, sau đó lại tiến kinh tham gia thi Đình, tương lai nhất định sẽ làm đại quan.

Dương Lăng cười nói:

- Thế thì được rồi, nàng còn tiếc mấy mẫu ruộng núi này làm gì? Nếu muốn mua đất, sau này chúng ta sẽ mua cả trăm khoảnh đất tốt, quang tông diệu tổ, tương lai chẳng phải sẽ càng có thêm niềm hãnh diện để đi gặp cha mẹ sao?

một khỏanh tương đương với 100 mẫu, chừng 6,7 héc-ta

Hàn Ấu Nương nghiêng đầu suy nghĩ kỹ rồi chần chừ đáp:

- Tướng công nói cũng có đạo lý, nhưng mà... nhất định phải bán ruộng đất đi sao? Không thì... mượn thúc thúc mấy lạng tiền lộ phí, chàng chỉ cần lo tham gia thi cử, thiếp ở nhà cấy cày, như vậy chẳng phải sẽ ổn thỏa hơn nhiều sao?

Nhìn cái mảnh đất nghèo khó hoang vu này, Dương Lăng liên tưởng tới một nhà kinh tế học bị rơi vào một bộ lạc nguyên thủy, xa rời chế độ và trình độ năng lực sản xuất hiện tại, những thứ mà y hiểu biết căn bản sẽ không có chỗ dùng.

Nhưng ngược lại, nếu vào thành, không chừng y sẽ như bọn người may mắn quay ngược thời gian trong truyện, nghĩ ra được vài phát minh hay sáng chế, kiếm một mớ tiền lớn, bảo đảm Hàn Ấu Nương không phải lo chuyện cơm áo. Cho nên y mới khăng khăng đòi rời khỏi nơi này.

Dĩ nhiên y sẽ không nói thẳng với Hàn Ấu Nương những suy nghĩ trên, cho nên kiếm cớ bảo:

- Hôm qua nàng cũng thấy rồi đó, hiện tại ta thật sự không muốn mang ơn vị thúc thúc đó. Huống hồ...

Y kề sát tai Ấu Nương cười nói:

- Đêm qua nàng đã nhầm ta với ai à? Những ngày qua có phải đã có mấy tên vô lại đến ve vãn nàng phải không? Ta làm sao có thể yên tâm để ái thê bé bỏng xinh đẹp như vậy ở lại đây một mình chứ.

Y chỉ nghĩ trêu mấy câu này thì sẽ làm cho Hàn Ấu Nương xấu hổ mà cười rồi đánh yêu y một phen. Ai dè, Hàn Ấu Nương vừa nghe y nói xong, sắc mặt lập tức trắng bệch, vùng mạnh ra khỏi ngực y, run rẩy nói:

- Tướng công, chàng nói thiếp đưa ong dẫn bướm, không giữ đạo làm vợ đó sao? Phụ nhân chi nghĩa, tòng nhất chi chung, đó là cái truyền thống cổ xưa. Ấu Nương tuy là con gái của một thợ săn, nhưng cũng biết những cái đạo lý làm người này, làm sao có thể làm ra được những chuyện bỉ ổi khiến thiên lôi muốn đánh, thần thánh chẳng dung đó chứ?

cái nghĩa của người làm vợ là phải thờ chồng suốt đời

Dương Lăng bị dọa cho nhảy dựng, không nghĩ vốn mấy câu nói đùa lại khiến cho nàng phản ứng gay gắt đến như vậy. Y vội vàng dỗ dành:

- Ấu Nương, nàng quá nhạy cảm rồi, ta... vi phu chỉ là muốn trêu nàng, khen nàng xinh đẹp thôi, nào có ý trách móc gì nàng, nàng ngàn vạn lần chớ có đa nghi. Được rồi, coi như vi phu đã nói sai đi, đến đây, vi phu sẽ chịu phạt, nàng hãy đánh ta mạnh vào.

Dương Lăng chộp lấy nắm tay của Hàn Ấu Nương nện vào ngực mình một trận. Thấy nàng vẫn nước mắt lưng tròng, tức thì nhanh trí, giả bộ ho mấy tiếng. Kế này quả nhiên hữu hiệu, Hàn Ấu Nương lập tức quên mất phiền muộn, lật đật đỡ lấy y:

- Tướng công, có phải là thân thể chàng không khỏe không? Hãy mau nằm xuống nghỉ đi.

Dương Lăng cười thầm, xem ra lấy chiêu này đối phó với nàng ấy trăm lần đều sẽ trúng. Y giả vờ mang bộ dạng thật hư nhược để cho nàng dìu nửa nằm nửa ngồi trên giường, sau đó ho nói:

- Ta không sao, chỉ là tùy tiện trêu chọc nàng, vô ý lỡ lời, thấy nàng thương tâm buồn bã, mà ta thì mồm miệng vụng về, lại chẳng giải thích rõ, trong lòng nóng vội, thế là... khụ khụ....

Hàn Ấu Nương liền nói:

- Ấu Nương tin, Ấu Nương tin tướng công! Hết thảy hãy để cho phu quân an bài là được.

Nàng dựa vào lòng Dương Lăng, hai tay ôm lấy eo y, sợ y lo lắng buồn bực mà sẽ có bất trắc gì, luôn miệng đáp ứng. Qua một hồi lâu, nàng mới khẽ thở dài một tiếng, nói:

- Thiếp hết thảy sẽ đều theo ý phu quân. Chỉ có điều... vẫn xin phu quân để cho thiếp mấy ngày, chàng hãy điều dưỡng cho thân thể được khỏe lên đôi chút, thiếp muốn quay về nhà cha mẹ ở khe núi, dẫu gì cũng phải báo cho phụ thân một tiếng. Mấy hôm trước chàng hôn mê đến kịch liệt, cha đã đến thăm chàng, còn tặng mấy con thú săn được. Chỉ là... trong nhà cũng rất khốn khó, mấy hôm nay cha, huynh trưởng và thúc bá vào sâu trong núi săn bắn vẫn chưa về.

Dương Lăng sẵn lòng đồng ý ngay:

- Đó là lẽ đương nhiên. Nhà cửa đất đai không phải nói muốn bán là sẽ tìm được người mua ngay, dẫu gì thì cũng phải đợi dăm ba ngày. Mấy bữa nữa ta và nàng hãy cùng nhau đi gặp nhạc trượng đại nhân.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 7: Người đẹp trên lưng ngựa

Cổ ngữ có câu: "Muốn tới kinh thành phải qua ải Cư Dung, muốn đến ải Cư Dung tất phải đi qua trạm Kê Minh." Trạm Kê Minh cùng với Thổ Mộc bảo cách đó sáu mươi dặm tạo thành thế ỷ dốc, lại kết hợp với Du Lâm hình thành nên ba cửa ải lớn bảo vệ kinh thành.

Dương Lăng và Hàn Ấu Nương đã chuyển nhà ra khỏi vùng núi hẻo lánh. Đầu tiên hai vợ chồng tới thăm vị nhạc phụ đại nhân mà Dương Lăng chưa từng biết mặt, nhưng lại đúng lúc Hàn lão đại dẫn con trai đi săn trên núi chưa về. Hiện giờ tuyết to gió lớn, phụ thân lại vào sâu trong rừng nên Hàn Ấu Nương đoán ít ra cũng phải mươi ngày nửa tháng nữa người mới quay về. Thế là nàng bèn nhắn lại tin mình đã dọn nhà vào trong thành với hàng xóm xung quanh, sau đó cùng Dương Lăng đi Kê Minh.

Dương Lăng chỉ nhớ có nghe qua về cái tên Thổ Mộc bảo. Theo trí nhớ của y, từng có một vị hoàng đế triều Minh dẫn theo năm mươi vạn đại quân đã bị thủ lĩnh bộ tộc Ngõa Lạt (CT: chỉ các bộ tộc ở Tây Mông Cổ, bao gồm phía bắc Tân Cương, Trung Quốc và phía tây nước Mông Cổ ngày nay) đánh cho đại bại ở nơi này, và ông ta đã trở thành một trong số ít các hoàng đế không may bị bắt sống. Nhờ đọc "Bình Tung Hiệp Ảnh" của Lương Vũ Sinh nên y mới biết được chuyện này.

Trong ấn tượng của y, e là chỉ có mấy nơi như Tuyên Đức, Đại Đồng mới đáng được gọi là thành. Tuy nhiên, khởi hành rồi y mới biết giao thông thời này rất bất tiện, còn Kê Minh, mặc dù là một tòa thành nhỏ, nhưng những hàng quán như hiệu buôn, tiệm cầm đồ, hàng dầu, quán trà, quán ăn, loại gì cũng có.

Nơi này là cửa ngõ qua lại giữa kinh thành và vùng Tây Bắc, thương nghiệp phát triển, giao thông tiện lợi, vì thế cũng có thể xem là rất phồn hoa.

Dương Lăng và Hàn Ấu Nương thuê một căn phòng nho nhỏ ở xưởng dầu của nhà họ Tương. Nhà cửa đất đai đều không còn nữa, trên người lại chỉ có khoảng mười lạng bạc, Hàn Ấu Nương sao có thể ngồi không một chỗ! Nàng bèn tới một tiệm may ở đầu phố xin một chân may vá.

Dương Lăng cũng muốn ra ngoài đi lại xem có cách gì để làm giàu không, hoặc ít nhất cũng phải tìm lấy một công việc, chứ để một thiếu nữ mới mười lăm tuổi đầu nuôi, y thật sự cảm thấy không ổn. Nhưng Hàn Ấu Nương lại khăng khăng không chịu, nàng muốn y ở nhà chuyên tâm đọc sách. Dương Lăng cũng đành nghe theo, miệng thì đáp ứng, nhưng nhân lúc nàng không ở nhà liền bắt chước đám học sinh cúp tiết, lẻn ra ngoài đi lăng xăng khắp nơi.

Nào là dịch trạm (CT: trạm truyền đưa văn thư), cửa hàng xe ngựa, tiệm cầm đồ, rồi chùa chiền, mấy chỗ này làm gì có công việc thích hợp với y! Đi cả ngày trời, vắt nát cả óc vẫn không nghĩ ra được cách nào để phát tài, thấy một tiệm rượu, thế là y bước vào kêu ba lạng thịt bò muối, một bình rượu trắng nhỏ, sau đó bắt đầu thưởng thức. Mùi vị của thứ rượu trắng được lên men từ gạo nguyên chất này còn ngon hơn loại rượu cả trăm tệ mà y từng uống tại các nhà hàng lớn. Cho dù có dở thì gã Dương Lăng đáng thương này cũng có biết cách nấu rượu đâu mà phát tài được.

Hỡi ôi, lúc trước đọc tiểu thuyết thấy mấy nhân vật vượt thời gian trong truyện muốn phát tài liền có người vội đưa tiền tới, muốn làm quan lập tức có hoàng thượng chạy ra khóc lóc năn nỉ xin hắn ta ra làm quan, muốn gặp mỹ nữ thì dù chỉ ra khỏi ngõ cũng gặp được vài ba nàng. Liệu có phải là mình quá kém cỏi không nhỉ?

Dương Lăng chán nản uống hết chén rượu chất chứa buồn phiền, sau đó trả bảy văn tiền và rời khỏi quán. Giấu tay vào trong áo, y buồn bực bước đi trên con đường đầy tuyết, tiếng sột soạt vang lên theo từng bước chân. Tòa thành này thật ra rất phồn hoa, lượng người qua lại cũng rất lớn. Nhưng bạn đừng có lấy hình ảnh mọi người đi lại chen chúc của thời nay ra mà tưởng tượng, thời đó không có nhiều người như vậy.

Con đường này tuy tương đối nhộn nhịp, cửa hàng cửa hiệu xếp san sát nhưng người đi lại thật ra cũng chỉ lác đác, không thể xem là nhiều. Sau lưng Dương Lăng chợt vang lên một tràng tiếng vó ngựa dồn dập. Theo thói quen y chỉ tránh đường khi nghe tiếng còi xe, do đó lúc này y vẫn tỉnh như không, cứ bước ngay giữa đường. Đột nhiên vai phải y như bị vật gì quất mạnh xuống, cả người lảo đảo về phía trước, suýt chút nữa là ngã.

Y lấy lại thăng bằng rồi quay đầu nhìn lại, một thớt ngựa thân hình to lớn, lông màu hạt dẻ đang thở phì phò đứng ngay bên cạnh, từ trên ngựa vọng xuống tiếng mắng:

- Ngươi bị điếc hả?

"Cái gì? Đã đụng người ta mà còn ngang ngược?" Dương Lăng tức giận bừng bừng, ngước mắt nhìn lên yên ngựa. Người trên ngựa đội một chiếc mũ da che kín hai tai, để lộ khuôn mặt phấn hồng xinh xắn, mi cong mềm mại, hai hàng lông mày đen nhánh, chiếc mũi dọc dừa nằm ngay dưới cặp mắt long lanh, miệng hồng chúm chím.

Cặp mắt Dương Lăng không tự chủ được sáng rực lên, vừa nhắc mỹ nữ, mỹ nữ đã tới. Mỹ nữ này thật sự là đệ nhất đại mỹ nữ y từng gặp kể từ khi bước chân vào thế giới cổ đại. Từ đôi mày ánh mắt đến mũi ngọc môi hồng, không chỗ nào không quyến rũ. Sự quyến rũ của một nữ nhân chân chính. Trông nàng mới chỉ xấp xỉ mười bốn, mười lăm tuổi, giờ đã đẹp thế này rồi, lớn hơn chút nữa không biết sẽ còn đẹp đến mức nào đây?

Ấu Nương mặc dù cũng là một cô gái xinh đẹp, song vầng trán lại hơi đậm tính cương nghị, đường nét khuôn mặt cũng không yêu kiều bằng. Mà cái khí chất của một cô gái thuần phác miền thôn dã lại càng không thể nào sánh được với khí chất trang nhã cao quý của thiếu nữ trước mặt đây. Có nhìn thấy đôi mắt cực kỳ quyến rũ trên khuôn mặt trái xoan của nàng người ta mới hiểu được hồ ly tinh trông như thế nào.

Nàng mặc đồ nam, bên ngoài khoác chiếc áo choàng màu xanh lục nhạt của nước hồ, để lộ đôi ủng da hươu ống ngắn ở bên dưới. Mày liễu nhướng lên, nàng đang tức giận quát Dương Lăng. Khi thấy y xoay lại, trên người mặc áo vải bông màu xanh nước biển, bên ngoài khoác áo choàng dài màu xanh da trời, dáng người cao ráo, khuôn mặt tuy mang vẻ thư sinh nhưng đường nét lại khá anh tuấn, quan trọng nhất là cặp mắt có thần, nhìn rất thuận mắt, nên cơn tức của nàng cũng tạm thời vơi đi vài phần.

"Hây" có tiếng hét ghìm cương, một người cưỡi ngựa chạy tới bên cạnh. Kỹ thuật rõ ràng là không bằng thiếu nữ xinh đẹp kia, đầu ngựa hất cao, hí vang một tiếng dài, vó đạp tuyết bắn tung tóe. Hắn hơi kiễng mông ổn định thân người rồi mới lớn tiếng:

- Sao vậy muội? Này, tiểu tử mù nhà ngươi đã va vào muội muội của ta phải không?

Gã này khá vạm vỡ, trên người mặc một áo chẽn ngắn nút cài bên, đầu đội mũ nỉ màu tím, tuổi độ hai mươi, da màu đồng, mắt to mày rậm. Gã có phong thái hiên ngang, mặt tràn đầy vẻ kiêu ngạo, trông hết sức gan dạ, dũng cảm. Vừa nói gã vừa rướn người tới, cây roi ngựa trong tay quất vút xuống người Dương Lăng.

Tên này nói đánh là đánh, thật quá bạo ngược. Dương Lăng tránh không kịp, lại sợ bị quất trúng mặt nên theo phản xạ y đưa tay lên che. Thiếu nữ nọ hơi vươn người ra, cây roi ngựa trên tay phải vút thẳng đến quấn lấy roi của ca ca. Rồi nàng kéo về phía sau, không cho nó đánh xuống.

Bật cười khúc khích, nàng thúc ngựa chạy tới bên cạnh Dương Lăng, nói với gã kia:

- Bỏ đi ca ca, trông người ta thế này chắc là kẻ đọc sách, sao có thể chịu được cây roi của huynh chứ? Này, thư sinh, đừng có sợ, bổn cô nương tha cho ngươi đó ...

Giọng cười ngọt ngào của cô nàng nghe hết sức êm tai, phong cách thân thiện lại có phần châm chọc.

Dương Lăng bỏ tay xuống, ngẩng đầu ngắm nhìn dung nhan kiều diễm của nàng, khuôn mặt ấy xinh tựa hoa đào. Dương Lăng đã trải qua chín kiếp, từng gặp không biết bao nhiêu mỹ nữ, ấy vậy mà vẫn bị tiểu mỹ nhân có sức quyến rũ chết người này làm cho tim đập thình thịch.

Đôi mắt lấp lánh của thiếu nữ biểu lộ tình cảm rất phong phú. Dường như đã quen với phản ứng của bọn đàn ông khi lần đầu thấy sắc đẹp của mình, tuy nhiên khi thấy ánh mắt Dương Lăng mặc dầu đầy ngưỡng mộ, nhưng lại không có cái vẻ tham lam háo sắc của bọn nam nhân đáng ghét kia, mắt nàng lộ vẻ thú vị. Chăm chú nhìn y một chút, nàng quay đầu sang bảo với gã kia:

- Ca, đi thôi, còn phải mua lễ vật nữa!

Nói rồi, nàng thúc chân vào bụng ngựa, cười nhắc Dương Lăng:

- Thư sinh hãy nhường đường, ta không muốn lại va vào ngươi nữa.

Trong chuỗi cười khanh khách của nàng, con ngựa màu hạt dẻ lướt đi, kỹ thuật của thiếu nữ này quả thật rất giỏi.

Khi bóng dáng yêu kiều xinh xắn lướt qua, Dương Lăng ngửi thấy hương thơm quý phái thoang thoảng mê người.

Gã thanh niên to như con báo kia hung hãn trừng mắt nhìn Dương Lăng, hừ một tiếng, rồi cũng nghênh ngang thúc ngựa chạy theo sau muội muội. Dương Lăng chẳng phải người thích ẩu đả, mà y cũng chẳng có bản lĩnh đánh nhau, nên chỉ cười nhạt không nói gì. Khi thấy hai người đã đi xa, y tiếp tục chậm rãi bước về phía trước.

Dương Lăng cứ trông thấy cửa hàng là bước vào dạo quanh, hy vọng sẽ nảy ra được ý tưởng làm giàu. Tiếc là y nghĩ không ra thứ gì thích hợp để có thể ứng dụng, vừa phù hợp với trình độ khoa học kỹ thuật của người thời này, vừa là kiến thức y hiểu rõ. Vất vả lắm y mới nghĩ ra kẹo hồ lô, ngay lập tức liền thấy hai ông lão đang đứng ở góc đường với hai cây nộm rơm cắm đầy kẹo hồ lô.

Dương Lăng chua chát nghĩ: "Không biết thịt dê xiên của Tây Vực đã truyền đến Trung Nguyên hay chưa, nếu chưa thì xem như chỉ có mình là tung ra được. Nhưng bán thịt xiên thì làm sao mà giàu được đây? Về phương diện ẩm thực, yêu cầu của người xưa đối với vẻ ngoài quan trọng hơn mùi vị nhiều, nếu không thì trong ba thứ 'sắc, hương, vị' của đồ ăn cũng đã chẳng đặt chữ 'sắc' lên hàng đầu."

Ngẫm lại thì cho dù ở thời đại của mình, thịt dê xiên cũng không phải là món ăn có thể đưa vào những nơi trang trọng. Những người có thân phận khi uống rượu giao lưu, ai lại cầm xiên thịt lên mà gặm chứ. Còn với kẻ không có tiền, bảo hắn bỏ ra một văn tiền để ăn mấy viên thịt, chỉ e hắn sẽ không đành lòng.

Tưởng tượng tới việc mình mặc một chiếc áo khoác dài sọc xanh trắng, gắn thêm bộ râu giả, đứng bên cái giá sắt hun khói, vừa giả làm người Tây Vực để mời gọi khách hàng, vừa nướng xiên thịt; còn Hàn Ấu Nương thì ngồi đằng sau cầm mấy que trúc xiên thịt chuột chết, Dương Lăng không khỏi rùng mình: dựa vào thứ đó mà có thể làm giàu ở thời đại này sao? Có đánh chết mình cũng không tin.

Bó tay lê bước, nhìn thấy một cửa hàng nhạc cụ, Dương Lăng bước vào, vừa liếc mắt đã trông thấy hai huynh muội khi nãy cũng đang đứng ở bên trong. Thấy có người vào, thiếu nữ đó cũng quay đầu lại nhìn. Bị bắt gặp, Dương Lăng giờ có muốn quay trở ra cũng bất tiện, sợ bị người ta chê cười là nhát gan.

Lúc này thiếu nữ kia đã bỏ chiếc mũ trên đầu xuống, để lộ ra gương mặt thanh tú, đường nét đẹp như tranh vẽ cùng với mái tóc được vấn ba búi trên đầu. Khi xoay lại nhìn thấy y, thiếu nữ không khỏi mỉm cười rồi lại quay đầu về, vuốt ve một chiếc đàn cổ ở trên bàn.

Dương Lăng không am hiểu về nhạc cụ, nhưng mới vừa thấy người ta đã bỏ đi thì cũng không tiện lắm. Cho nên y làm bộ làm tịch cầm lấy một cây sáo trúc lên nhìn nhìn ngắm ngắm, nhưng mắt lại lén nhìn về phía thiếu nữ.

Nàng chỉ cúi đầu nhìn cây đàn. Trông hình dáng cây đàn đó đúng là đồ quý hiếm trong các loại đàn: dáng vẻ cổ xưa, mặt ngoài bóng loáng như vàng mà chẳng phải vàng, hoa văn tinh xảo, chất liệu sử dụng cũng là loại gỗ đồng cổ (CT: tên khoa học Aleurites cordata, là một thứ gỗ dùng để đóng đàn).

Ánh mắt thiếu nữ lộ vẻ vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, đưa ngón tay ngọc ra vuốt nhẹ dây đàn, trong phòng vang lên những nốt nhạc êm tai.

- A ha, âm điệu thật không tệ!

Thiếu nữ vui thích reo lên. Một ngón tay ấn lên dây thứ nhất, ngón kia khảy đàn, nốt nhạc hùng hồn bi tráng lan rộng khắp phòng.

- Đàn tốt! Lão bản, cây đàn này bao nhiêu tiền?

Lão bản độ sáu mươi tuổi, cười nói với vẻ bợ đỡ:

- Tiểu thư thật biết nhìn hàng, cây đàn này chính là cổ vật từ triều trước, nếu tiểu thư thích, lão sẽ để lại với giá hai mươi lạng bạc.

Thiếu nữ ngạc nhiên hỏi lại:

- Hai mươi lạng ư? Cây đàn này không tồi, nhưng hai mươi lạng thì hơi đắt, ta thấy... chỉ đáng giá mười lạng thôi.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 8: Đưa nhau ra cửa quan

Lão bản chép chép cái miệng móm chẳng còn mấy cái răng, bảo:

- Tiểu thư, cây đàn này được làm từ loại gỗ tung cổ thượng hạng đó. Chỉ riêng một khúc gỗ đồng này thôi cũng đã phải mạo hiểm tính mạng vào rừng sâu núi thẳm tìm bao lâu mới được đấy. Tiểu thư hãy nhìn những dây đàn này xem, mỗi một dây đều được bện thành từ ba mươi sáu sợi tơ ô kim (CT: hợp kim giữa đồng và vàng), tiền nào của nấy cả thôi mà! Một cây đàn quý hiếm như vậy, đòi cô hai mươi lạng không hề đắt chút nào.

Thiếu nữ cười không nói, lúm đồng tiền xinh xinh trên má trông thật động lòng người, cặp môi hồng hé mở để lộ hàm răng trắng đều như ngọc. Vẻ đẹp ấy khiến cho trái tim Dương Lăng đang đứng gần đó đập thình thịch. Thiếu nữ nghiêng đầu liếc y, hiển nhiên đã biết y đang trộm nhìn mình, có điều sắc mặt lại chẳng hề có chút khó chịu nào hết.

Thiếu nữ mỉm cười, ngoảnh qua nhìn ca ca, rồi đột nhiên xí xa xí xố một tràng những lời mà Dương Lăng không hiểu. Gã thanh niên cường tráng đó cũng dùng kiểu phát âm tương tự để trả lời. Thiếu nữ lắc đầu, nói với lão bản:

- Lão bản, ta thật rất muốn mua đàn của ông. Ở Kê Minh này, ngoài ta ra e chẳng còn ai bỏ ra nhiều tiền như vậy để mua nó đâu. Thế này đi, mười lăm lạng, nếu được ta sẽ mua.

Lão già lại chép miệng, gật đầu:

- Thôi được, hàng bán cho người biết hàng. Nếu tiểu thư đã nói vậy, lão đây đành bán cho cô vậy.

Thiếu nữ nghe xong khẽ cười, đưa tay vào ngực lấy ra một cái túi nhỏ, rồi lấy từ trong đó ra một viên trân châu. Nàng đặt nó lên lòng bàn tay trắng nõn của mình, đưa ra trước mặt lão bản:

- Được! Đây là viên Hòa Phổ châu thượng hạng, cho dù ở nơi hẻo lánh cũng đã đáng giá mười tám lạng bạc rồi. Ta dùng viên trân châu này đổi lấy cây đàn, ông không cần trả lại tiền thừa, đưa thêm cho ta hộp đàn nữa là được.

Thời đó mặc dầu cũng có vàng ròng bạc trắng, còn lưu thông cả ngân phiếu Đại Minh, song lấy vật đổi vật vẫn rất thịnh hành trong dân gian, cho nên hành động của thiếu nữ này cũng không có gì là kỳ quái. Lão già nhận lấy hạt trân châu, đưa ra ánh sáng mặt trời nheo mắt nhìn, thấy quả nhiên là một viên trân châu thượng hạng. Vụ làm ăn này đúng là quá hời.

Có điều... Lão già lại tham lam nhìn viên trân châu, âm thầm tính toán: Kê Minh dù tấp nập khách thương nam bắc, nhưng chẳng phải là một nơi tốt để buôn bán nhạc cụ, mình đến đây mở tiệm đã mấy năm mà vẫn thường lỗ nhiều lãi ít. Đây cũng là lúc mình đang tính dời tiệm đến Đại Đồng để làm ăn. Giờ đã cuối năm, viên trân châu này đến tay rồi thì còn phải nghĩ cách bán đi. Mình không nhận ra hai huynh muội này, nên có thể chắc chắn họ không phải là dân bản địa, nghe khẩu âm nói chuyện vừa rồi giống như là người quan ngoại, nói không chừng chỉ là tiện đường ghé qua đây. Nếu cướp được viên trân châu này thì có lẽ sẽ bù được vào phần làm ăn thua lỗ một chút.

Nghĩ đến đây lão già liền nổi lòng tham, thuận tay nhét viên trân châu vào trong ống tay áo, rồi lão cười ha hả nói:

- Tiểu thư, ta chỉ giao dịch bằng tiền mặt, nếu cô thật sự muốn mua vậy hãy đưa bạc đến đây đi.

Thiếu nữ nghe xong bĩu môi, nghĩ tới số bạc trong người không đủ, nàng giậm chân tức giận:

- Cái lão bản nhà ông! Rõ ràng ta đã nhường ông phần hời, vậy mà còn muốn lấy cớ này cớ nọ. Thôi, đem trả lại viên trân châu đây, ta không mua nữa.

Lão già chớp mắt gian xảo, làm ra vẻ kinh ngạc:

- Trân châu? Trân châu nào? Cô đến cửa tiệm của ta mua đồ chứ đâu phải đến bán đồ, ta nào thấy trân châu gì của cô đâu?

- Cái gì?

Khuôn mặt thiếu nữ lập tức đỏ bừng, nàng đập tay xuống quầy giận dữ mắng:

- Loại người như ông sao chẳng có đạo đức gì hết vậy? Muốn gạt lấy trân châu của ta hả?

Gã ca ca kia của nàng nghe thấy vậy liền giận đến tím mặt, hùng hổ vươn tay ra chụp lấy lão già gầy đét đó lôi mạnh từ trong quầy ra bên ngoài, lớn tiếng chửi:

- Con bà ngươi, dám gạt đồ của muội muội ta hả? Ngươi tưởng Mã Ngang ta là kẻ dễ bị ức hiếp lắm hay sao? Lão chó già, mau đưa viên trân châu ra đây.

Lão bản lập tức căng họng bắt đầu la hét:

- Cướp đánh người nè, bớ hàng xóm láng giềng, mau đến xem đây này ... Lão Vương ta làm ăn buôn bán trước giờ luôn sòng phẳng, chưa từng gian dối với ai bao giờ ... Bọn người vùng khác đến nhà ức hiếp người ta đây này...

Lão ta thấy Dương Lăng ăn mặc kiểu người bản địa, mà thời đó tư tưởng cục bộ còn nặng, cái kiểu "nói tình không nói lý" rất điển hình. Do vậy lão nghĩ la lớn như vậy thì hàng xóm láng giềng sẽ chạy đến, thêm vào đó, còn có người bản địa này ở đây làm chứng, hai kẻ ngoại địa chỉ còn cách ngậm bồ hòn làm ngọt, ôm hận mà bỏ đi thôi. Nếu vẫn không ăn thua thì lão còn có hai người con trai, chẳng lẽ lại e ngại hai người ngoại xứ hay sao?

Mấy lời la hét hàm hồ này càng khiến cho người thanh niên tự xưng là Mã Ngang kia thêm phẫn nộ. Gã bừng bừng nổi giận, giơ tay lên bạt tai lão, miệng thì mắng:

- Lão chó già gian trá, thật là ép người quá đáng!

Lúc này tấm mành phía sau quầy được vén lên, một gã đàn ông độ bốn mươi, râu ria xồm xoàm xông ra. Vừa thấy cảnh này hắn liền rống to một tiếng rồi vung quyền đánh mạnh, hung tợn quát:

- Thả cha ta ra! Thằng nhóc con từ đâu ra thế, dám đến tận cửa ức hiếp nhà họ Vương ta!

Tên này xem ra cũng có mấy phần khí lực nên quyền đánh ra khá mạnh mẽ. Mã Ngang nhìn thấy liền mỉm cười khinh miệt, vung tay ném bay lão già gầy đét như con khỉ kia đi. Gã đứng nguyên tại chỗ, không thèm nhúc nhích, chỉ đưa một tay ra là đã giữ được nắm đấm của tên nọ. Gã chầm chậm siết năm ngón tay lại, tên đó bị gã bóp chặt lấy nắm tay, kêu lên ôi ối, đau đớn khuỵ xuống.

Mã Ngang cười lạnh lùng, bảo:

- Muốn cướp không sao? Chẳng lẽ chỉ có chút khí lực thế này?

Lão già kia khi nãy bị gã nắm áo tát cho hai cái, sau lại bị ném xuống đất, lúc này đang chỉ tay vào Mã Ngang, la hét càng um sùm hơn. Có điều lão mới la lên được có mấy tiếng thì đột nhiên mặt mũi đỏ lên, hổn hển thở ồ ồ mấy tiếng, ngã gục tắt thở. Mã Ngang đang giữ cổ tay con trai lão, vẫn còn muốn tỏ uy phong. Lúc này láng giềng xung quanh đã nghe thấy tiếng mà kéo lại. Có người đỡ lão già kia dậy, rồi bỗng la lớn:

- Vương Tam Nhi! Mau đến xem cha ngươi đi, ông cụ không xong rồi.

Mã Ngang quay đầu nhìn, thì thấy khuôn mặt của lão chủ cửa tiệm tham tiền kia đã xám ngoét, còn lão thì mềm oặt nằm trong lòng người ta, không động đậy chút nào. Gã thầm kinh hãi, không tự chủ mà buông tay ra.

Gã con trai tên gọi Vương Tam Nhi đó vội vã lao qua ôm lấy lão già, đưa tay lên mũi lão sờ thử, nhưng lão đã tắt thở. Hắn lập tức gào lên đau xót, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, kêu khóc:

- Cha ơi, thương cho cha từng này tuổi đầu rồi mà còn bị tên khốn kia đánh chết, cha ơi...

Lúc này ở cửa sau lại xuất hiện thêm người tuổi cũng tương đương gã kia, theo sau là một tốp đàn bà trẻ con, xem ra đều là người nhà họ Vương. Bọn họ nghe thấy tiếng ồn ào nên chạy ra. Mã Ngang ban đầu vẫn cho rằng cả nhà này chỉ đang lừa bịp giả chết, nên cười khẩy không nói gì. Đến khi thấy đám con cháu vây quanh cha, ông bọn họ khóc mãi, sắc mặt gã không khỏi biến đổi hẳn, trong lòng cũng bắt đầu cảm thấy sợ hãi.

Gã lặng lẽ kéo tay áo muội muội, đưa mắt ra hiệu cho nàng, đồng thời định đưa nàng đi khỏi. Nhưng đám người nhà họ Vương nào chịu bỏ qua, lập tức đứng cả lên vây lại, còn la hét ầm ĩ, xô xô đẩy đẩy hai người. Trong đám lộn xộn có người chạy ra ngoài gọi hai nha sai đi tuần đến. Nghe nói có vụ án đánh chết người, hai nha sai đó cũng không dám thờ ơ, vội chạy theo vào trong tiệm, lớn tiếng quát:

- Hung thủ giết người đang ở đâu?

Kê Minh nguyên là từ trạm nâng lên thành, nhưng chưa thể xem là một toà huyện thành được. Nhưng vì nơi đây địa thế quân sự trọng yếu, thêm vào đó lại là cửa khẩu quan trọng để các khách thương trung chuyển hàng hoá, tiền thuế rất dồi dào, do vậy cơ quan huyện lị cũng đã được thiết lập ở đây để cai trị và quản lý trong phạm vi mấy chục dặm xung quanh. Có điều huyện này tương đối nhỏ, huyện lệnh cũng chỉ là quan Tòng thất phẩm.

Mã Ngang thấy quan sai đến, mà gã thì chẳng có cái gan giết quan tạo phản nên không dám lỗ mãng nữa. Con trai của lão bản tiệm nhạc cụ chỉ vào gã, tố cáo:

- Chính là hắn, chính là tên cướp đã giết cha tôi.

Mã Ngang chống chế một cách yếu ớt:

- Không phải tại ta. Lão bản này đã lớn tuổi, đã thế còn giấu đi viên trân châu của em gái ta, bị ta vạch trần nên vừa xấu hổ vừa tức giận ngất đi. Sau đó thì lão bị khí huyết công tâm mà chết. Có can hệ gì tới ta chứ?

Làm gì có chuyện tội phạm sát nhân nói một câu "người chết không phải do ta giết" thì sẽ được thả đi ngay! Hai tay nha sai đó chẳng thèm đếm xỉa đến những gì gã nói. Một tên lôi từ sau lưng ra một sợi dây xích nhỏ, tròng vào cổ gã, sau đó thì áp vai, kẹp tay, trói chặt gã lại. Tên còn lại nắm chặt cán đao bên hông, chỉ cần gã dám phản kháng thì chắc chắn sẽ cho một nhát bay đầu.

Trói chặt Mã Ngang lại xong, gã nha sai liền kéo sợi dây xích, quát:

- Có gì muốn nói thì đi mà giải thích với Huyện thái gia, đi! Gia quyến lão Vương chớ nên khóc nữa, hãy mang cha các ngươi đến nha môn rồi trình bày! Các vị láng giềng, phiền các vị hãy cùng đi làm chứng một chút!

Thiếu nữ nọ lo lắng đến độ nước mắt lưng tròng, mắt thấy ca ca nàng bị trói dẫn đi, nàng vội đưa tay chỉ về phía Dương Lăng nãy giờ vẫn thờ ơ bàng quan, nài nỉ:

- Ca ca của ta không giết người! Thư sinh này vẫn luôn ở đây, hắn có thể làm chứng.

Đứng cạnh đó chứng kiến sự việc suốt từ đầu chí cuối, hiển nhiên Dương Lăng hiểu rõ: gã Mã Ngang này mặc dù trẻ tuổi nóng nảy, nhưng lão già đó giấu diếm đồ vật của người ta, cũng xem như ăn cướp. Nhìn tình huống ban nãy mà phán đoán thì có lẽ lão già mang bệnh tim mạch hay áp huyết cao gì đó rồi. Lão bị Mã Ngang đánh chửi nên vừa tức vừa hoảng, tâm tình bị kích động, kết quả là chôm được viên trân châu thì lại mất luôn cả cái mạng.

Tay nha sai đang nắm chuôi đao nghe thế, tuy đã bước ra khỏi cửa tiệm rồi nhưng vội quay trở vào, cười vờ, bảo:

- Nếu đã thế, vậy cũng mời vị này đi cùng bọn ta về làm chứng.

Thấy thiếu nữ xinh đẹp đó khóc lóc sầu thảm, vẻ mặt van nài, Dương Lăng chợt mềm lòng, bèn gật đầu. Một hàng người nối đuôi nhau đi đến cửa huyện nha. Đứa cháu lớn nhà họ Vương vội vàng đánh trống kêu oan, Huyện thái gia Mẫn Văn Kiến vội vã khoác áo thăng đường nghe án.

Chớ có thấy huyện lệnh thất phẩm trong phim trong kịch thường là các vị quan thấp bé, bất kỳ ai cũng có thể đè bẹp dí bọn họ bằng một ngón tay mà lầm. Thật ra quyền lực của huyện lệnh so với bí thư huyện ủy thời hiện đại lớn hơn rất nhiều. Ông ta có thể một mình kiêm nhiệm đến mấy chức vụ như trưởng phòng công thương, phòng tài chính, phòng thuế vụ, rồi chánh án, trưởng công an huyện v. v...

Vị Mẫn huyện lệnh này không giống với đại đa số các văn quan xuất thân tiến sĩ, cử nhân. Ông ta nguyên là tướng quân du kích trong đội quân biên phòng, bởi vị trí địa lý đặc biệt của Kê Minh nên ông được phái đến đây để quản cả chuyện văn lẫn chuyện võ.

Dương Lăng thấy Huyện thái gia là một người mặt đen, râu quai nón rậm thì rất bất ngờ. Vị Huyện thái gia xuất thân là quan võ này đã ngồi ở chức quan văn được hai năm, ít nhiều cũng biết quy củ, nên vừa nghe nói Dương Lăng là tú tài liền kêu người dọn chỗ cho y ngồi, miễn lễ, rồi lên công đường nghe án.

Ông ta vừa nhìn đã nhận ra đôi huynh muội này không phải là những kẻ qua đường, mà là công tử, tiểu thư của Dịch thừa Mã đại nhân mới nhậm chức ngày hôm qua. Dịch thừa cũng có thể xem là quan viên chịu sự quản lý của Huyện thái gia, nhưng vì Kê Minh là từ trạm nâng cấp lên thành, thủ hạ của sở Dịch thừa ở đây trên dưới trăm người, hơn nữa lại thuộc về hệ thống quân dịch, thành ra trên thực tế Dịch thừa đại nhân lại ngang cấp với Mẫn huyện lệnh.

Tối hôm qua Mẫn huyện lệnh còn dự yến tiệc của Mã dịch thừa, trong bữa tiệc có gặp đôi công tử tiểu thư này, nên cũng có ý muốn giúp gỡ tội cho bọn họ. Tuy vậy, đánh chết người không phải là chuyện nhỏ, mặc dù đã lục ra được viên trân châu ở trên tử thi, chứng thực việc lão kia cướp đồ người khác, nhưng lão già ấy chết ở hiện trường cũng là sự thật. Bắt Mẫn huyện lệnh đi vung đao chém người thì còn đạt chuẩn, chứ còn bảo ông ta đi xử án thì ... Người ta còn chưa thuộc luật Đại Minh cơ mà.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 9: Nhà có vợ hiền

Kết quả, đứng trước công đường Dương Lăng đã nói những gì mình thấy, chứng thực rằng Mã Ngang đích xác chưa hề nặng tay với ông chủ họ Vương.

Già trẻ lớn bé nhà họ Vương bèn quỳ sụp xuống khóc lóc thê thảm, kêu gào kể lể rằng bình thường thân thể cha, ông bọn họ mạnh khoẻ như thế nào, rồi chắc chắn là đã bị Mã Ngang hành hung mà chết ra làm sao, khiến cho vị Huyện thái gia từng trải chiến trường này phải vò đầu bứt tóc, ngồi ở bên trên mà đôi mắt nhỏ trợn tròn, không nghĩ ra được chủ ý gì.

Ngồi phía sau một chiếc bàn thấp mặt bên công đường là Hoàng huyện thừa. Nhiệm vụ của huyện thừa là phụ tá cho huyện lệnh, có thể nói là không việc gì trong huyện mà không thể hỏi tới. Nhưng theo thông lệ, để tránh hiềm nghi lấn quyền, huyện thừa chỉ tương đương với huyện lệnh dự bị, bình thường giống như một ông tượng gỗ ở trong miếu, không bày tỏ thái độ với bất cứ chuyện gì.

Vị Hoàng huyện thừa này lại là văn nhân, mà thời đó trọng văn khinh võ, thế nên ông ta vốn rất xem thường cái vị Huyện thái gia xuất thân nhà binh này, cho nên luôn ở bên cạnh đóng vai Từ Thứ . Hơn nữa Mẫn huyện lệnh cũng sớm đã quen coi ông ta như không tồn tại, thế nên cũng tuyệt nhiên chẳng hỏi ý về bất cứ chuyện gì.

Đang lúc Mẫn huyện lệnh ngồi bứt râu không biết làm thế nào, một bộ đầu bước đến nói nhỏ vào tai hắn mấy câu. Hắn phất ống tay áo, lớn tiếng nói:

- Tạm thời bắt giữ Mã Ngang, thi thể sẽ do ngỗ tác (người làm nghề khám nghiệm tử thi, thời nay là nhân viên pháp y) trông giữ. Những người khác hãy về nhà trước đi, chờ cho bổn quan khám nghiệm xong sẽ tiếp tục định án.

Mã Ngang bị đưa vào trong đại lao. Mọi người sau khi để lại danh tính, chỗ ở xong thì đều được mời về. Dương Lăng cũng đứng dậy cáo từ Mẫn huyện lệnh, rời khỏi công đường.

Mã tiểu thư vội bước đuổi theo, hơi nhún người nói:

- Đa tạ Dương tú tài đã vì huynh trưởng tôi mà nói rõ sự thật.

Người con gái này quả thật là hoa nhường nguyệt thẹn, trong công đường không rét như ở bên ngoài nên khuôn mặt lạnh cóng của nàng đã khôi phục lại vẻ mềm mại và lộng lẫy, trắng nõn mịn màng như ngọc quý, dung mạo xinh tươi lại càng thêm động lòng người.

Dương Lăng nghe nàng gọi mình là tú tài, không khỏi nghĩ đến mấy gã hủ nho nghèo kiết xác, cảm thấy rất không thoải mải, bèn cười ha hả đáp:

- Tôi cũng chỉ chiếu theo sự thật mà trình bày. Ban nãy trên phố thấy Mã tiểu thư rất có phong thái của nữ trung hào kiệt, hà tất phải trịnh trọng gọi tú tài gì gì đó, cứ gọi thẳng tên tôi là được.

Mã tiểu thư gượng cười nói:

- Vậy, xin đa tạ Dương công tử. Tới lúc xét xử lại sẽ còn phải phiền Dương công tử làm chứng tiếp vậy.

Đang nói đến đó, từ ngoài cổng chợt có một viên quan tuổi trạc ngũ tuần, dưới cằm đính ba chòm râu vội vội vàng vàng bước vào.

Mẫn huyện lệnh lúc này đã hạ lệnh bãi đường nhưng chưa đi khỏi, thấy viên quan nọ bước vào bèn lập tức bước tới nghênh đón:

- Mã đại nhân, ngài tới đúng lúc lắm! Chuyện này thực khiến cho huynh đệ nhức đầu, ngài xem làm sao cho tốt đây?

Hắn là người thẳng ruột ngựa, cũng may mà Mã đại nhân còn cơ trí một chút. Nhận thấy trên công đường ngoài Mẫn huyện lệnh và con gái của mình ra còn có một người thanh niên lạ mặt, trong lòng Mã dịch thừa cảm thấy hơi e ngại, không dám đề cập đến vụ án.

Thấy con gái làm lễ với mình, lão chỉ khoát tay rồi nhìn Dương Lăng nghi hoặc hỏi:

- Vị này là...

Mã tiểu thư vội giới thiệu:

- Phụ thân, vị tú tài này tên là Dương Lăng. Con cùng ca ca đi mua sắm lễ vật mừng sinh nhật mẫu thân, lão chủ tiệm đó gạt lấy trân châu của con, kết quả bị ca ca mắng cho hổ thẹn tức tối mà chết. May nhờ có Dương công tử đây vì nghĩa nói sự thật, làm chứng giúp ca ca, thế nên ca ca mới chưa bị định tội vì những lời nói phiến diện của đối phương. Ngày mai ra công đường sẽ lại phải làm phiền Dương công tử nữa.

Mã dịch thừa nghe xong liền vội vàng chắp tay cảm tạ, hai bên khách sáo một phen.

Mẫn huyện lệnh vốn là người nóng tính, không thể nhịn được nữa, bèn nói:

- Mã đại nhân, không phải là huynh đệ không muốn giúp ngài. Nhà họ Vương đó người đông thế mạnh, lại còn có hương thân láng giềng ra làm chứng giúp, trăm miệng một lời. Mặc dù có lời chứng của Dương tú tài, nhưng đây là một vụ án mạng, huynh đệ không dám tùy tiện thả người đâu.

Mắt thấy vị Huyện thái gia này có cá tính như vậy, Dương Lăng không khỏi phì cười, lại thấy hai người muốn nói mấy câu mà mình không tiện nghe, y bèn vội chắp tay cáo từ. Mã tiểu thư là người rất thông minh, thấy vẻ lắc đầu phì cười của y, cảm thấy dường như y đã có phương cách sẵn trong lòng. Hôm qua trong tiệc rượu nàng đã gặp qua Mẫn huyện lệnh. Giống như cha nàng, lão ta cũng xuất thân từ quân nhân, không được mềm dẻo, khéo léo. Biết đâu vị Dương tú tài này đã có biện pháp cứu người, dẫu gì thì những kẻ đọc sách chắc hẳn đều đã đọc qua luật Đại Minh.

Nghĩ đến đây Mã tiểu thư vội đuổi theo y, dịu dàng hỏi:

- Dương công tử, nhìn thần sắc huynh, dường như đã nghĩ ra cách cứu ca ca tôi rồi phải không?

Vừa nghe Mã tiểu thư hỏi như vậy, Mẫn huyện lệnh và Mã dịch thừa đều bất giác chấn động, bốn con mắt đều dồn về Dương Lăng.

Y giật nảy mình, vội vàng xua tay nói:

- Đâu có, đâu có! Tại hạ chỉ là một nhân chứng, làm sao có thể qua mặt Huyện thái gia mà bày mưu tính kế chứ?

Hai vị Mẫn, Mã nghe thế liền cảm thấy vô cùng thất vọng, ai dè Mã tiểu thư lại hết sức lanh trí, lập tức hỏi dồn:

- Nói vậy là không phải Dương công tử không có biện pháp, mà chỉ vì thân phận không tiện can dự vào vụ án thôi ư?

Dương Lăng chỉ cần nói một câu là mình không có biện pháp nào, lúc đó sẽ có thể lập tức rời đi, quay về tiếp tục kiếm tìm phương pháp làm giàu thời cổ đại, sắm cho Hàn Ấu Nương một phần di sản hậu hĩnh, rồi sau đó thì trở về âm tào địa phủ tiếp tục quậy cho Ngưu Đầu, Mã Diện phải nhức đầu. Nhưng ở trước mặt một tiểu mỹ nhân thánh khiết như đoá phù dung trên mặt nước thế này, có người đàn ông nào lại tự nhận mình là vô năng được chứ?

Bị nàng ta khích, Dương Lăng buột miệng:

- Đúng vậy, tại hạ chỉ là một gã tú tài, do ngẫu nhiên nên mới làm nhân chứng cho chuyện này mà thôi. Nếu như tại hạ lại ra mặt khoa tay múa chân xét án thay cho Huyện thái gia, vậy chẳng phải đã vượt quá thân phận hay sao?

Mã tiểu thư nở một nụ cười rạng rỡ, chợt uyển chuyển quỳ sụp, vái Dương Lăng năn nỉ:

- Dương công tử! Ca ca tôi mặc dù là người hơi lỗ mãng, nhưng quyết sẽ không phải là kẻ ác xấu xa. Chủ tiệm họ Vương đó thấy lợi quên nghĩa mà chết, giờ lại đòi ca ca tôi phải đền mạng cho lão ta, Dương công tử có thể nhẫn tâm mà đứng nhìn hay sao chứ?

Huyện tôn đại nhân và gia phụ đều xuất thân võ biền, tính tình bộc trực, về mặt pháp luật chỉ biết sơ sơ. Dương công tử đã thông hiểu luật pháp, sao có thể thấy chết mà không cứu?

Thánh nhân có câu: "Đọc sách thánh hiền để mà làm gì?" Chỉ có "đảm đương" mà thôi. Khi gặp chuyện chỉ nói có hổ thẹn hay không hổ thẹn, mà không hỏi sẽ có họa gì hay không. Nếu biết rõ là chuyện bất công, nhưng lại tìm cớ lảng tránh không chủ trì chánh nghĩa, ấy gọi là vô sỉ. Dương công tử nghĩ sao?

Dương Lăng cứng miệng á khẩu, không ngờ tiểu cô nương này mồm miệng lại lanh lợi như vậy. Y không khỏi xấu hổ, một mặt vội lục lọi ký ức dung hợp từ hai kiếp lại xem có thể nghĩ ra được một vài biện pháp dựa vào luật Đại Minh và cách phán quyết vụ án ở hậu thế để giúp Mã Ngang hay không, một mặt bước tới đỡ nàng ta dậy, cất tiếng:

- Xin Mã tiểu thư hãy mau đứng dậy. Theo tôi thấy, e rằng bản thân chủ tiệm họ Vương đã mang bệnh từ trước. Mặc dù lệnh huynh có đẩy ngã lão ấy, nhưng tuyệt đối sẽ không đến mức khiến lão phải chết. Tuy nhiên, hiện giờ tinh thần mọi người trong nhà họ Vương đều đang rất cao, trăm miệng một lời, người thì đã chết ở đó, lệnh huynh lại quả thực có đụng vào người lão, nào có thể biện bạch rõ ràng có tội hay vô tội dễ dàng như vậy được? Dù cho tôi có chút ý kiến, cũng chưa chắc sẽ cứu được hắn.

Thời đại này nam nữ thụ thụ bất thân. Cho dù không muốn nhận đại lễ của nàng ta, muốn đỡ nàng ta dậy, y cũng chỉ được đưa tay ra dấu, giữ khoảng cách một thước, lúc ấy đối phương sẽ thuận theo dấu hiệu mà đứng lên. Giống như là người tinh thông Cửu Dương Thần Công vậy, có thể ở xa cả trượng mà phát công đả thương người.

Tuy biết những quy củ này, nhưng Dương Lăng vẫn theo thói quen ứng xử của thời hiện đại, cứ bước lên đỡ lấy cánh tay của Mã tiểu thư nâng nàng dậy. Cầm cánh tay mềm mại của nàng, khuôn mặt mịn màng đáng yêu lại ở ngay trước mặt, thậm chí y còn ngửi được mùi thơm như hoa tỏa ra từ trên người nàng, ngạt ngào hơn hẳn lúc nàng cưỡi ngựa lướt qua.

Trong lòng Mã tiểu thư ngượng ngập không thôi, thầm nhủ: "Trông hắn ra vẻ nhân tài, không ngờ cũng háo sắc như vậy, thừa cơ khinh bạc mình." Mã dịch thừa cũng cảm thấy hắn trực tiếp đỡ con gái mình lên như vậy là hơi lỗ mãng, nhưng lúc này đang cần cứu con ra khỏi ngục, lão lại chỉ có độc một đứa con trai này, nếu có phải dùng con gái để đổi lấy con trai mình lão cũng sẽ chịu.

Cho nên lão vờ như không thấy, vẫn bước đến nhờ vả:

- Có chủ ý gì xin công tử nói ra nghe thử. Không giấu Dương công tử, Mẫn huyện lệnh và ta đều vốn là quân nhân, mấy cái luật pháp này... E hèm, nếu như công tử có biện pháp gì thì đừng ngại nói ra xem sao. Cho dù có hiệu quả hay không, Mã mỗ đều xin ghi nhớ đại ân của công tử.

Lúc này Dương Lăng đã cưỡi trên lưng cọp, khó mà trèo xuống được. Y liếc nhìn sang Mẫn huyện lệnh, ra vẻ khó khăn.

Vị huyện thái gia này như trút được gánh nặng, rất "rộng lượng" khoát tay nói:

- Đúng đúng đúng! Bọn người đọc sách các ngươi có lắm chủ ý, có biện pháp tốt gì thì cứ việc kể ra. Ta đau đầu nhất là phải thăng đường xử án. Phải chi ở bên dưới là bọn Thát Đát thì ta đã vung đại đao lên ngay rồi. Phiền là phiền ở chỗ ông nói ông có lý, bà nói bà có lý, nghe tới nghe lui thì chỉ có mỗi lão gia ta là vô lý, thực sự chẳng cách nào phán cho bọn họ được một cái lý. Đến nỗi bây giờ vừa nghe thấy tiếng trống đánh bên ngoài công đường thôi là trống ngực ta cũng đập thình thịch theo rồi.

- Việc này... việc này...,

Dương Lăng nói:

- Thường có câu: biết người biết ta mới có thể trăm trận trăm thắng. Toàn bộ quá trình xảy ra vụ án tôi đều đã tận mắt chứng kiến, không cần phải nói thêm gì. Có điều, tình tiết của vụ án lại tập trung vào việc ông chủ quán bị đánh chết hay do già yếu mà chết. Vì vậy... trước hết phải hiểu được toàn diện xem trước giờ ông lão đó đã có bệnh tật gì gì hay chưa, sau đó mới tìm sơ hở để có thể rũ bỏ hết mọi trách nhiệm, lấp luôn miệng bọn họ lại, khiến cho bọn họ không thể nói gì được nữa.

- Hay!

Mẫn huyện lệnh vỗ tay lớn tiếng khen khiến Dương Lăng giật cả mình.

Mã dịch thừa cũng thích chí xoa tay lia lịa nói:

- Dương công tử quả nhiên tài giỏi, lão phu chỉ biết lo lắng mà không thể ngang nhiên mà cứu con mình ra khỏi ngục, nghe cậu nói như vậy, dường như cách này rất ổn đó. Con ta đã không đánh người, cái lão già gì đó kia khẳng định là đã có bệnh từ trước. Mẫn đại nhân à, chuyện này vẫn phải phiền ngài phái người tìm hiểu cho rõ rồi.

Mẫn huyện lệnh liên thanh đồng ý:

- Được được được, không thành vấn đề! Thật đúng là kẻ đọc sách, lão Mẫn ta cứ đau đầu mãi về chuyện này, vừa nghe ngươi nói liền thấy rất có lý. Vẫn là kẻ đọc sách thâm độc, ha ha ha... À không, phải là... là kẻ đọc sách thông minh.

Dương Lăng thầm kêu xấu hổ. Chẳng qua vì cấp bách nên y mới đưa ra cái "kế trì hoãn" khi còn làm công tác giải quyết bồi thường bảo hiểm lúc trước mà thôi. Cả thế giới đều biết ngành bảo hiểm ở Trung Quốc nổi tiếng là: "Ký hợp đồng thì dễ còn đòi bồi thường thì khó". Các điều khoản nhiều và rối rắm đến nỗi có thể khiến cho một người tốt nghiệp thạc sỹ phải cảm thấy mình là thằng mù chữ. Những đòi hỏi về chứng cớ liên quan nhiều đến độ có thể khiến cho một người kiên nhẫn nhất cũng phải phát cuồng. Hiện giờ chẳng qua là y lấy dao mổ trâu để giết gà mà thôi.

Có điều khi thấy ánh mắt dịu dàng chứa đầy sự hâm mộ của Mã tiểu thư, cho dù là Dương Lăng cũng không khỏi cảm thấy có chút phởn phơ, khoái chí.

Khi Dương Lăng trở về nhà thì tuyết đã phủ trắng xóa. Tuyết bay rợp trời lại khiến cho không khí ấm hơn; bông tuyết rơi rơi bám đầy lên người y.

Ấu Nương đã về nhà, đang đứng ở trước cửa ngóng trông y trở về. Nhìn thấy bóng y từ xa xa, nàng liền chạy ào đến. Trông thấy nàng, Dương Lăng chợt cảm thấy ấm lòng, đồng thời lại có chút chột dạ. Buổi sáng khi Ấu Nương ra ngoài đi làm, mình đã nói là sẽ ở nhà ăm chỉ đọc sách, rốt cuộc lại bị nàng bắt ngay tại trận thế này. Nếu mà nàng mở lời trách móc, quả thực Dương Lăng vẫn có chút sợ nàng.

Không ngờ Ấu Nương lại chẳng hề đề cập gì về chuyện y không ở nhà, chỉ rất vui vẻ dìu y vào nhà, phủi tuyết trên người y rồi ân cần nói:

- Tướng công, chàng về nhà rồi. Thiếp đã làm cơm xong, đang lo không biết phải đi đâu để tìm chàng đó.

Dương Lăng xấu hổ đáp:

- Ừm, vốn ta định ở nhà an tâm đọc sách, song... À, cái này... chợt nhớ ra có một đồng niên (người thi đỗ đồng khóa) ở đây, cho nên ta đi thăm hắn một chút.

Ấu Nương mỉm cười, nói:

- Tướng công là đàn ông, không thể thiếu được mấy chuyện giao tiếp như vậy, Ấu Nương hiểu mà. Đúng rồi, hôm nay Ấu Nương ở tiệm may làm công, một buổi sáng đã may được mười chiếc áo, kiếm được mười văn tiền lận đó. Tiệm may này nhận vụ làm ăn bên trại ngựa ở sở Dịch Thừa. Có hơn trăm dịch sứ (phu trạm, người đưa thư) ở đó, bọn họ bôn ba tứ xứ quanh năm suốt tháng nên y phục hay hư rách lắm. Việc làm ăn của tiệm rất được, không ngờ vào thành làm công hóa ra cũng tốt thật.

Dương Lăng nhìn nàng mặt mày rạng rỡ, hào hứng kể chuyện đến đỏ bừng cả mặt, không kìm nổi bẹo nhẹ má nàng một cái, cười ha hả nói:

- Ấu Nương thật giỏi, đều tại bệnh của ta mà liên luỵ đến nàng. Nhìn thấy nàng đáng thương như vậy, thật làm cho ta rất là đau xót.

Hàn Ấu Nương bất chợt bị động tác thân mật của y làm cho sững người, khuôn mặt lập tức đỏ lựng. Nàng e lệ cúi đầu, bẽn lẽn nói:

- Tướng công, chúng mình là phu thê. Vốn phải trọn đời bên nhau, đồng cam cộng khổ mà.

Dương Lăng nghe vậy, trong lòng xúc động, không kềm được bèn kéo nàng ôm chầm vào lòng, vuốt nhẹ mái tóc mềm mại của nàng. Lần đầu thân mật với y như vậy, Hàn Ấu Nương ở trong lồng ngực tình lang mà không khỏi ngất ngây, lòng tràn đầy thoả mãn và hạnh phúc.

Một hồi lâu sau Hàn Ấu Nương mới khẽ đẩy y ra, sắc mặt ửng hồng, không dám nhìn y, chỉ cúi đầu vân vê dây lưng, ngượng nghịu nói:

- Tướng công, đồ ăn đang nóng, chàng hãy mau ngồi xuống để thiếp xới cơm cho.

Cơm canh dẫu rằng đạm bạc, nhưng so với khi ở vùng núi thì đã khá hơn rất nhiều. Hơn nữa ông chủ xưởng dầu còn tặng cho họ một chút dầu thô để nấu ăn. Mặc dù không thật quen với mùi vị của loại dầu này, nhưng Dương Lăng vẫn ăn nhiều hơn được một chút.

Nhìn sức ăn của y mỗi ngày một tăng, Hàn Ấu Nương cảm thấy vui hơn bao giờ hết, khuôn mặt rạng ngời hạnh phúc. Ăn cơm xong, Hàn Ấu Nương thu dọn bát đũa, buộc tạp dề bắt đầu rửa bát.

Dương Lăng cảm thấy mình thật đã biến thành một kẻ vô dụng, có cũng như không. Y muốn đến bên cạnh giúp nàng rửa bát đĩa, không ngờ Hàn Ấu Nương lại kinh ngạc kêu ầm lên, quở trách:

- Đời nào lại có đàn ông làm mấy việc này? Tướng công, chàng cứ ngồi đó đi, việc này là việc của phụ nữ người ta mà!

--------------

Từ Thứ (tự Nguyên Trực): một quân sư tài ba của Lưu Bị. Do bị ép buộc phải đầu quân cho Tào Tháo, nên trong thời gian làm quan cho Nguỵ, ông không hề đóng góp gì nhiều cho Tào Tháo về mặt quân sự.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 10: Bày ra kế hiểm

Ngượng nghịu gãi gãi mũi, Dương Lăng quay về chỗ ngồi. Đang rất đỗi buồn chán, y chợt nhớ đến chuyện xảy ra ngày hôm nay, liền vội vã lôi rương sách ra lục lọi. Quyển "Đại Minh luật" dày cộm đó quả nhiên cũng nằm bên trong. Y lấy ra rồi bắt đầu lật đọc tỉ mỉ.

Đang tra cứu những điều luật có liên quan đến kiện tụng thì Hàn Ấu Nương mang tới một chén trà nóng nghi ngút khói. Dương Lăng không khỏi gấp sách thầm than thở: "Nam nhân trong xã hội phong kiến thật đúng là 'nam nhân' mà, chứ ở xã hội hiện đại thì kiếm đâu ra loại đãi ngộ thế này!"

Vào thời đó, giờ làm việc của những cửa tiệm bình thường không cập rập như bây giờ. Giờ nghỉ trưa rất dài, ước chừng tới hơn hai giờ chiều tính theo giờ hiện đại mới tiếp tục bắt đầu công việc. Cho nên Dương Lăng thoải mái vừa nhấp trà nóng vừa đọc sách, còn Hàn Ấu Nương thì ngồi ở mép giường may vá thêu thùa.

Ngón tay nàng khéo léo thắt nút một đầu sợi chỉ, liếm nhẹ đầu kia rồi luồn nó qua lỗ kim. Nàng co một chân lên giường, cẩn thận may vá quần áo, thi thoảng còn dịu dàng liếc mắt nhìn phu quân đang chăm chú xem sách.

Dương Lăng xem sách hồi lâu, suy nghĩ kỹ càng một trận, nhưng lại chẳng tìm ra được điều luật nào có lợi cho Mã Ngang. Xem ra vẫn phải dựa vào công phu "Thái Cực Quyền" mà mình học được ở hậu thế để đường đường chính chính "hại người lợi ta" rồi.

Y ngẩng đầu thở dài một hơi, vừa lúc bắt gặp Hàn Ấu Nương đang đưa chiếc áo vải bông lên khóe miệng cắn đứt chỉ thừa, còn đôi mắt lại say sưa nhìn mình. Khi chạm phải ánh mắt của Dương Lăng, nàng lập tức hoảng hốt né tránh.

Nhìn thiếu nữ xinh đẹp mới mười lăm, mười sáu tuổi mà ra dáng như một tiểu phu nhân này, mặc dù Dương Lăng đã quyết tâm chỉ coi nàng như một tiểu muội muội hiền lành đáng yêu, nhưng trong lòng y vẫn không khỏi hơi rung động. Từ chín lần chuyển thế đến giờ, y chưa từng có được loại cảm giác ấm áp thế này. Nhịp sống an nhàn êm ả, có một người vợ dịu dàng thùy mị quan tâm săn sóc, đây chẳng phải là cuộc sống mà mình hằng tha thiết ước mơ sao? Chẳng phải là tình cảm mà mình đã vất vả kiếm tìm, cần phải quý trọng hay sao?

Hàn Ấu Nương cúi đầu tiếp tục may vá. Cảm nhận được trượng phu vẫn đang nhìn mình, trong lòng nàng không khỏi lúng túng, tay chân rối loạn. "Ui da" một tiếng, mũi kim đã đâm vào ngón tay nàng. Dương Lăng vội gấp quyển "Đại Minh luật" lại, chụp lấy bàn tay nhỏ nhắn ấy mà xem xét. Chỉ thấy trên đầu ngón tay, một giọt máu đỏ thắm đã ứa ra.

Dương Lăng liếc nhìn xung quanh một lượt, lúc này mới chợt hiểu ra vì sao người xưa khi bị kim đâm lại đưa ngón tay vào miệng để mút. Đó không phải vì bọn họ biết nước bọt có thể sát trùng, mà là thật sự không có thứ gì có thể dùng để lau máu, dẫu sao cũng không thể chùi vào quần áo được! Thế là y cũng "noi gương" đưa ngón tay Hàn Ấu Nương vào miệng mút nhẹ, đầu lưỡi thoa lên ngón tay nàng. Tấm thân Hàn Ấu Nương đột nhiên run lên, khuôn mặt đỏ lựng, cả người nóng bừng.

Dương Lăng khẽ trách:

- Xem nàng kìa, sáng sớm đã phải ra ngoài làm công rồi mà về nhà vẫn không nghỉ ngơi, giờ nàng lại đang làm gì đấy?

Hàn Ấu Nương cụp hàng mi cong xinh đẹp, ngoan ngoãn để mặc cho y nặn nhẹ ngón tay của mình, rụt rè nói:

- Đã sắp sang năm mới rồi mà chàng vẫn chưa có được một chiếc áo khoác tươm tất. Thiết nghĩ chàng là người có thân phận, ăn vận như vầy ra đường sẽ không tránh khỏi bị chê cười, nên thiếp mới tranh thủ may cho chàng một chiếc mới.

Dương Lăng thở dài một hơi. Bên nhau càng lâu, y càng cảm thấy mắc nợ nàng nhiều hơn, cái cảm giác xót xa ấy như thể đã mắc nợ nàng không biết tới mấy kiếp ân tình rồi. Y lặng lẽ siết chặt bàn tay, tình ý chân thành không ngừng lan tỏa khắp tâm hồn và thể xác bọn họ.

Khẽ vuốt ve bàn tay nhỏ nhắn của thiếu nữ mới mười lăm tuổi này, trong lòng Dương Lăng dâng lên muôn phần xúc động. Ở cái tuổi đáng ra vẫn được cắp sách đến trường thì nàng đã phải trở thành một người vợ dịu dàng hiền thục, cái xã hội cổ xưa ác độc này... thực khiến người ta phải cảm khái mà.

Luật triều Minh quy định rằng nữ tử đủ mười sáu tuổi mới được xuất giá, song dân gian hiếm khi tuân thủ nó. Thế nên luật pháp thời đó mặc dù rất nghiêm, hở chút là phạm vào tội chém đầu, nhưng đối với chuyện này quan phủ lại mắt nhắm mắt mở, coi như không thấy.

Nặn ngón tay một hồi, áng chừng sẽ không còn chảy máu nữa, Dương Lăng mới bóp nhẹ ngón tay nàng cười nói:

- Được rồi, còn đau không?

- Không đau!

Giọng nàng cất lên hết sức mê ly.

Lúc này Dương Lăng mới phát giác hai rèm mi nàng đang rủ xuống, dáng vẻ ngượng ngùng, khóe môi hé nở một nụ cười ngọt ngào. Trên khuôn mặt non nớt ấy toát lên khí chất cực kỳ dịu dàng điềm tĩnh, đó là thần thái của một phụ nữ trưởng thành mà chỉ khi đối diện với người mình yêu thương nhất thì mới bộc lộ ra.

Trước đây nàng chưa bao giờ bộc lộ loại khí chất đặc biệt như thế, mà chỉ là thể hiện vẻ dịu dàng của nữ giới nói chung thôi. Bên ngoài hoa tuyết phất phơ, rơi xuống đất rồi chẳng còn dấu vết. Hàn Ấu Nương cảm thấy con tim mình vô cùng thanh thản, tình ý chân thành như tầng tầng sóng gợn không ngừng lan tỏa trong lòng nàng. Những sợ hãi lo âu, cay đắng xót xa trong hơn nửa năm qua, ngay tích tắc này như thể đã hoàn toàn tan biến.

Dương Lăng cũng không khỏi nhìn nàng đến ngây ngốc, si mê đắm đuối một hồi lâu. Bầu không khí ngọt ngào yên tĩnh này rốt cuộc đã bị một tiếng kêu lớn bên ngoài phá vỡ. Một nam nhân ở ngoài cửa lớn giọng gọi to:

- Dương Lăng công tử có ở đây không?

Hàn Ấu Nương lúc này mới giật mình "a" lên một tiếng, bừng tỉnh khỏi thoáng say mê, nàng luống cuống vội rụt tay về. Dương Lăng khẽ cười, xoay người đi ra mở cửa. Hoa tuyết theo gió lùa vào tới tấp, mới trở về nhà ăn cơm trong phút chốc mà bên ngoài đã thành một mảng mờ mịt trắng xóa.

Dương Lăng căng mắt ra nhìn, chỉ thấy hai gã nha sai tay giữ cán đao giắt bên hông đang đứng ngoài cửa, trên người phủ một lớp tuyết dày. Phía sau lưng họ còn có một thiếu nữ, trên người nàng khoác áo choàng màu trắng, tay cầm một chiếc ô màu vàng. Cổ áo choàng bằng lông chồn trắng muốt quấn kín cổ nàng chỉ để lộ ra khuôn mặt yêu kiều thuần khiết, trông như một đóa hoa sen nổi trên mặt nước. Giữa hoa tuyết ngập trời, nàng giống như một vị tiên nữ giáng trần.

Hai nha sai này chính là hai gã đã bắt trói Mã Ngang về nha môn, cho nên nhận ra được Dương Lăng. Vừa thấy người mở cửa đúng là y, họ bèn vội ôm quyền nói:

- Ha ha, quả nhiên là Dương tú tài, ti chức xin kính chào. Ti chức phụng mệnh Mẫn huyện lệnh hộ tống Mã tiểu thư đến gặp ngài.

Dương Lăng vội mở rộng cửa đón tiếp:

- Hai vị quan sai đại ca, mau vào đi. A! Mã tiểu thư, mời vào.

Mã Liên Nhi nhoẻn miệng cười, trên gò má hiện lên hai lúm đồng tiền mê người. Hai tay nàng vén chiếc áo choàng rồi bước vào trước, còn hai gã nha sai thì bước theo sau, thuận tay khép cửa lại.

Căn nhà bé tí thoáng chốc đã chứa đến năm người, thành ra có phần hơi chật chội. Mã Liên Nhi tiện tay tháo sợi dây đai ra, cởi bỏ chiếc áo choàng trắng như tuyết, đưa mắt nhìn quanh. Trông thấy Hàn Ấu Nương xinh xắn, nàng không khỏi nở một nụ cười ngọt ngào thốt lên:

- Vị cô nương này là... Dương công tử, đây là tiểu muội của ngài à?

Trông thấy bước vào là một đại mỹ nhân như hoa như ngọc, đôi mắt đen lay láy của Hàn Ấu Nương chứa đầy sự cảnh giác. Vừa nghe nàng ta nghĩ mình là muội tử của trượng phu, lập tức nét mặt nàng lộ vẻ không vui, song vì phu quân chưa lên tiếng nên nàng cũng không tiện mở lời.

Dương Lăng cười ngượng nghịu, cảm giác như đang phạm tội "vùi dập" mầm non tổ quốc, y lắp ba lắp bắp đáp:

- A... nàng ấy là... là vợ của ta.

Ánh mắt Hàn Ấu Nương loé lên một tia đắc ý, nàng liếc nhìn Mã Liên Nhi như để thị uy, đoạn hơi cúi mình chào rồi nhẹ giọng cất tiếng:

- Tướng công, vị tiểu thư đây là...?

Dương Lăng vội giới thiệu:

- Mã tiểu thư đây là nhị tiểu thư của Dịch thừa Mã đại nhân, nàng ta và hai vị nha sai đại ca tìm ta có chút chuyện cần bàn.

Mã Liên Nhi hơi bất ngờ, sửng sốt nói:

- Hóa ra Dương huynh đã lập gia đình. Mã Liên Nhi xin ra mắt Dương phu nhân.

Hàn Ấu Nương vội đáp lễ:

- Tiểu thư không phải khách khí, mau ngồi đi! Hai vị nha sai đại ca, xin mời ngồi!

Trong phòng chỉ có hai chiếc ghế, nên hai gã nha sai đành phải ngồi ở đầu giường. Dương Lăng mới dọn đến đây không lâu, điều kiện trong nhà có hạn, bình thường uống trà cũng chỉ dùng bát lớn. Hàn Ấu Nương nhanh chóng lấy ra bốn chiếc bát rồi rót trà mời khách, hai gã nha sai cảm ơn rối rít.

Mẫn huyện lệnh đã sai người điều tra rõ ràng về tiệm nhạc cụ của nhà họ Vương. Mã đại nhân lo cho con trai của mình, mặc dầu đã có Mẫn đại nhân chiếu cố, nhưng vì lúc này đang là mùa đông giá rét, chỉ sợ trong lao ngục sẽ có gì không ổn, và Mã tiểu thư cũng rất quan tâm tới ca ca, nên đã thúc giục xin Mẫn huyện lệnh phái mấy nha sai phụ trách điều tra vụ này cùng đến nhà họ Dương.

Nghe hai gã nha sai trình bày tình huống bên nhà họ Vương một lượt, Dương Lăng cẩn thận suy nghĩ, cảm thấy y thực sự không tìm ra được một sơ hở nào trong luật pháp triều Minh để có thể giúp cho Mã Ngang thoát tội. Sở trường duy nhất của y là cái "kế trì hoãn" dùng trong công tác giải quyết bồi thường bảo hiểm, chỉ là chẳng biết có thể dùng được hay không, nên đành dè dặt nói ra chủ ý của mình.

Mã tiểu thư cũng không biết biện pháp này có hữu dụng hay không, nàng đánh mắt nhìn sang hai người đi cùng. Gã nha sai Đại Lý có hàm răng vàng khè vỗ đùi một cái tán thưởng:

- Tuyệt! Hay cho cái kế "đà dao" này, dao cùn xắt thịt, từng lát từng lát, hà hà. Huyện lệnh đại nhân xử án công minh, không oan không uổng, cái nhà họ Vương đó sẽ chẳng thể moi ra được điểm nào sai. Chúng mà cứ tiếp tục kiện cáo thì vụ kiện này phải đánh cho tới tan cửa nát nhà mới thôi.

Tay nha sai kia lớn tuổi hơn một chút, là đội trưởng, họ Ngô. Hắn thì lại không tỏ ra quá hớn hở như gã Đại Lý, song cũng khẽ cười nói:

- Không ngờ Dương công tử tuổi còn trẻ thế mà đã tinh thông pháp luật, bụng đầy mưu kế, cho dù là bọn thầy cãi hàng đầu cũng chưa chắc đã đưa ra được diệu kế như vậy. Nếu cứ hành sự theo kế này thì e rằng bọn khổ chủ nhà họ Vương đó sẽ phải mau chóng rút đơn bãi án thôi. Có điều... nếu bọn họ chẳng thức thời, Mã công tử sẽ không tránh khỏi phải ở trong nhà lao lâu hơn một chút.

Mã tiểu thư nghe bọn họ nói là kế hay, không khỏi nhướng mày mừng rỡ, nhưng sau khi nghe câu cuối của Ngô đội trưởng thì nàng lại trở nên ngập ngừng.

Nàng cắn môi suy nghĩ rồi thở dài:

- Dẫu sao thì cũng là một mạng người, nếu chỉ phải ở trong ngục thêm một thời gian, chỉ cần an toàn mà nhập ngục cũng đã tốt lắm rồi. Ca ca thường ngày cục cằn lỗ mãng, chịu chút ấm ức để giảm bớt cái tính khí ấy đi cũng tốt.

Dương Lăng được sự tán thành của hai gã nha sai, lá gan bất giác cũng to lên, bắt đầu động não suy nghĩ rồi chậm rãi nói:

- Kế này mặc dù có thể dẫn đến sự chủ động rút đơn kiện của nhà họ Vương, cứu được tính mạng của Mã công tử, lại không làm tổn hại đến danh tiếng của Mẫn huyện lệnh, nhưng... Nếu như bọn người đó không nuốt được cục tức này, chỉ e sẽ kéo dài ra cả năm hoặc hơn, cho nên tại hạ còn có một kế. Mã tiểu thư...

Y nghiêng người tới gần, ghé miệng sát tai Mã Liên Nhi nói nhỏ mấy câu. Mã Liên Nhi nghe xong liếc y một cái, cười nửa miệng, ngọt ngào tán thưởng:

- Không hổ là người đọc sách, bày ra kế hay thật.

Cái liếc mắt này của nàng cực kỳ quyến rũ, dáng vẻ phong tình lộ ra trong khoảnh khắc ấy khiến cho ánh mắt Dương Lăng nhất thời bị cuốn hút. Mã Liên Nhi cũng nhận ra điều này, khuôn mặt trắng nõn mịn màng bất giác hơi ửng hồng. Nãy giờ vẫn luôn chú ý đến hai người, Hàn Ấu Nương chợt cảm thấy có phần chua xót.

--------------------------------

Chú thích:

"Đà đao kế" và "hồi mã đao" là hai kế khác nhau. "Đà đao kế" là tuyệt kỹ sát thủ của Quan Vân Trường, trong cả bộ "Tam Quốc diễn nghĩa" Quan Công chỉ dùng đến một chiêu rưỡi. Chém Văn Sửu dùng một lần, chiến Hoàng Trung dùng một lần nhưng lại không dùng hết chiêu vì ngựa của Hoàng Trung đã mệt mỏi gục xuống đúng lúc đó, cho nên chỉ tính là một nửa.

Nguyên lý của "đà đao": sau khi giả bại thì kéo lê(đà) đao mà chạy, khi địch nhân đuổi kịp thì vung mạnh đao lên chém, có mắt phượng của Quan Công phối hợp nên không cần dùng đến "hồi mã", lý luận này có xác suất thành công tương đối cao (thực tế là hai trận thắng một, 50%).

"Hồi mã đao" có rất nhiều võ tướng dùng đao sử dụng, cũng giống với nguyên lý của "hồi mã thương", thao tác cũng đơn giản hơn "đà đao", nhưng tỷ lệ thành công lại nhỏ hơn nhiều.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 11: Bị quan đày đọa

Hôm sau, từ già trẻ lớn bé nhà họ Vương đến hàng xóm láng giềng và cả Dương Lăng đều được triệu lên công đường. Tối qua, Mẫn huyện lệnh đã nhận được hồi báo của nha sai, còn được Mã tiểu thư tỉ mỉ giải thích lại chủ ý của Dương Lăng nên lão ta đã có sẵn tính toán trong đầu. Những lời lẽ nho nhã bay bướm thì lão chẳng nói ra được, có điều lão lính già lõi đời này vốn là một kẻ hay cưỡng từ đoạt lý, giờ lão chỉ cần khoác thêm cái vẻ công bằng chính trực nữa là được.

Mã đại nhân ngồi nghe xử án đằng sau tấm bình phong sau lưng Mẫn huyện lệnh. Đơi khi Mã Ngang được áp giải lên công đường, Mẫn huyện lệnh mới đập phán gỗ xuống bàn, ôn tồn nói với hai người con nhà họ Vương:

- Vương Đại, Vương Nhị, hôm qua bản quan đã lục ra được viên trân châu của tiểu thư nhà họ Mã trên người phụ thân các ngươi. Vương lão thấy tiền mờ mắt, chiếm đoạt trân châu của người khác, chuyện này hai ngươi có ý kiến gì khác không?

- Việc này...

Vương Đại và Vương Nhị nhìn nhau, không biết vị huyện thái gia này có ý đồ gì đây. Đưa mắt ra hiệu cho nhau xong, bọn họ mới thưa với Mẫn huyện lệnh:

- Bẩm lão gia, lúc gia phụ và Mã Ngang phát sinh tranh chấp, thảo dân không có ở đó. Cho nên thảo dân thật sự không biết là gia phụ thấy lợi nảy lòng tham, hay là do Mã Ngang cố ý hãm hại.

Mã Ngang đang quỳ ở trên công đường, nghe thế đùng đùng nổi giận, mắng:

- Nói láo! Chẳng lẽ lão tử lại đổ oan cho lão già đó hay sao? Lão ta nhận trân châu của muội muội ta xong liền một mực chối là đã lấy, rõ ràng có ý chiếm đoạt của cải nhà chúng ta...

Mẫn huyện lệnh đập phán gỗ xuống nghe "bộp" một tiếng, quát:

- Bản quan chưa hỏi ngươi! Nếu còn dám tùy tiện nói chen vào, bản quan sẽ cho người vả miệng!

Mã Ngang giận sôi máu, hừ một tiếng, không nói thêm lời nào nữa. Mẫn huyện lệnh cười híp mắt, vuốt vuốt chòm râu quai nón, hỏi:

- Nói như vậy, chuyện hai ngươi nói lệnh tôn bị Mã Ngang đánh chết cũng không có ai tận mắt chứng kiến sao?

Vương Đại nghẹn lời, giận dữ nói:

- Bẩm lão gia, mặc dù tiểu dân không tận mắt chứng kiến tên hung thủ này đánh gia phụ, nhưng gia phụ trước giờ thân thể luôn mạnh khỏe, nếu không phải vì bị tên này hành hung, cớ sao lại đột nhiên bỏ mạng? Thấy tiểu dân lao ra ngăn cản, hắn còn ném gia phụ xuống đất, sau đó còn định đánh tiểu dân. Chuyện này hàng xóm láng giềng đều chứng kiến nên có thể làm chứng cho tiểu dân.

Mẫn huyện lệnh cười khà một tiếng:

- Vậy thì hơi khó rồi đây. Lúc đó Dương Lăng Dương tú tài ở ngay tại hiện trường, trước sau đều chứng kiến rõ mồn một. Theo lời của Dương tú tài, lệnh tôn chiếm đoạt trân châu của đại tiểu thư Mã gia, bị huynh trưởng của tiểu thư Mã gia giữ lại nói chuyện phải trái, từ đầu đến cuối chưa từng động chân động tay với ông ta. Dựa theo đó mà xét, lệnh tôn vì đã lớn tuổi, thân thể ốm yếu, lại bị người ta vạch trần hành vi phi nghĩa tại chỗ, cho nên thẹn quá mà chết!

Vương Đại, Vương Nhị nghe xong vội dập đầu kêu oan:

- Đại nhân, oan cho gia phụ, gia phụ...

Mẫn huyện lệnh xua tay:

- Chậm đã, chậm đã, bản

quan còn chưa nói hết. Tuy vậy, theo lời anh em ngươi, thân thể lệnh tôn trước giờ đều rất mạnh khoẻ, nhất định không thể vì tức giận mà chết được. Khi đó Mã Ngang và cha ngươi phát sinh tranh chấp, sau đó cha ngươi ngã xuống đất tắt thở. Mặc dù ngươi không tận mắt chứng kiến, nhưng hàng xóm láng giềng có thể làm chứng rằng từ đầu tới cuối chỉ có một mình Mã Ngang cãi nhau với cha ngươi. Vì vậy hiển nhiên hung thủ sát nhân không thể là ai khác ngoài Mã Ngang, phải không?

Vương Đại, Vương Nhị dập đầu liên tục:

- Đại nhân anh minh, đại nhân anh minh. Gia phụ đúng là bị tên hung thủ điên rồ này đánh chết. Cha tiểu dân lớn tuổi như vậy, sao có thể chịu nổi đòn đánh của hắn? Đừng nói là gia phụ chưa từng thèm muốn của cải nhà hắn, cho dù là thực sự thấy lợi mà nổi lòng tham đi chăng nữa thì cũng không đáng tội chết. Xin đại lão gia hãy chủ trì công đạo!

Mã Ngang nghe thế lập tức nổi giận, hai chân nhớm lên định bật dậy. Lập tức, hai nha dịch đứng bên cầm hai cây côn thủy hỏa trong tay xuyên chéo qua hai chân hắn đè xuống. Mã Ngang đau đến nỗi phải la "ối" lên một tiếng, quỵ xuống, không cựa quậy được nữa.

Mã Liên Nhi thấy vậy vội vàng chạy đến đỡ lấy vai hắn, dỗ dành:

- Ca ca chớ có nóng vội, cứ yên tâm! Mẫn đại nhân công chính liêm minh, nhất định sẽ phán xử một cách công bằng.

Mã Ngang trợn tròn mắt, cả giận nói ngay:

- Ca ca nào có động tay động chân gì với lão ta! Lão thất phu ấy lừa gạt tiền của người khác, con trai lão ta cũng cùng một giuộc, rõ ràng là muốn hãm hại ta. Muội hãy mau đi tìm cha ...

Còn chưa dứt lời, vai hắn đã bị Mã Liên Nhi nhéo mạnh. Kinh ngạc ngẩng đầu nhìn lại, thấy muội muội đang trừng mắt với mình, trong lòng hắn chợt hiểu, tức thì ngậm miệng không nói nữa.

Mẫn huyện lệnh cười mỉm, liếc hắn một cái, thầm nghĩ: "Đúng là kẻ ngu ngốc hữu dũng vô mưu! Nếu không phải vì nể phụ thân ngươi cũng làm quan ở Kê Minh này, ta thật chẳng muốn cứu ngươi. Nếu còn không biết tốt xấu, ngươi có bị hành hạ cũng đáng đời."

Ngay sau đó lão hắng giọng, nghiêm mặt nói:

- Bản quan tại vị ở Kê Minh này đã hai năm, luôn chấp pháp công minh, chính trực liêm khiết. Dưới sự cai trị của bản quan, khắp nơi đều phồn thịnh, thanh liêm nức tiếng gần xa, sẽ không có chuyện dung túng một tên côn đồ, cũng sẽ không để người tốt phải chịu hàm oan...

Dương Lăng nghe mà thấy mắc cười. Những lời ca ngợi này không phải do người khác nói ra, mà là bản thân lão tự thổi phồng mình lên trước đám đông, thế đã đủ khôi hài lắm rồi. Vậy mà vị quan huyện râu xồm này lại còn cố nói một cách nghiêm túc như vậy, cứ như thể đã học thuộc lòng. Có điều y ngẫm lại, ở hậu thế khi làm tổng kết cuối năm thì ai ai cũng khoe khoang như vậy, tâng bốc mình lên tận mây xanh. Cho nên y cũng cảm thấy thoải mái hơn nhiều.

Mẫn huyện lệnh lại đổi giọng, lớn tiếng nói:

- Sau khi bản quan tiếp nhận vụ kiện này, đêm qua đã không quản gió tuyết đi tìm hiểu các nhà lân cận, thu thập chứng cứ, hơn nữa còn lệnh cho ngỗ tác kiểm tra di hài lệnh tôn. Theo bản quan được biết, trên người của lệnh tôn không có dấu vết bị ngoại thương, cho nên không đủ ... không đủ ... chứng minh một cách rõ ràng rằng nạn nhân bị đánh chết.

Mẫn huyện lệnh thầm nuốt nước bọt, bụng bảo dạ: "Cái tay Dương tú tài này kiếm đâu ra mấy từ trúc trắc như vậy nhỉ? Có điều ... nghe rất là cao thâm, khà khà!"

Lão cầm chén trà lên nhấp một ngụm, rồi tiếp:

- Hơn nữa, theo bản quan được biết, hai năm trước gia đình ngươi chuyển từ Mân Nam đến đây, vào thu năm ngoái lệnh tôn đã từng bị bệnh nặng suốt một thời gian dài. Cho nên nếu nói cơ thể luôn mạnh khỏe thì khó mà tin cho được.

- Ngoài ra, theo lời khai của lão Hà ở tiệm bán tương, có lần cha ngươi kể với lão rằng trên đường di cư đến đây ông ta từng bị rắn độc cắn ở Hồ Quảng. Vì thế phải hoãn cuộc hành trình lại hơn mười ngày, sau đó do vội vàng nên chưa khỏe hẳn đã tiếp tục lên đường. Đấy đều có khả năng là nguyên nhân dẫn đến tử vong.

- Để tránh đổ oan cho người tốt, cũng không để lọt lưới kẻ xấu, bản quan quyết định: tạm giam Mã Ngang, trước khi vụ án được làm sáng tỏ thì nhất quyết không được thả ra. Đồng thời ta sẽ cử ngỗ tác mổ bụng khám nghiệm tử thi của lệnh tôn, kiểm tra xem có bị nội thương hay không. Còn gia đình các ngươi phải đi tìm thầy lang đã khám bệnh cho lệnh tôn năm ngoái, xin lại đơn thuốc đã kê lúc đó để làm bằng chứng cho việc bệnh tình của lệnh tôn chưa nặng tới mức có thể lưu lại di căn chí mạng về sau.

- Chưa hết, gia đình các ngươi phải mau chóng sai người đến Hồ Quảng, tìm cho bằng được thầy lang đã xem bệnh cho cha ngươi lúc đó, xin lại đơn thuốc chữa bệnh. Đương nhiên, còn phải mời danh y Phủ thành, người đã rút nọc độc của rắn ra khỏi người lệnh tôn, xác định là nó không thể gây chết người. Như vậy bản quan mới có thể dựa vào đó mà phán Mã Ngang tội tử hình.

- Dạ? Tìm lại thầy lang đã khám bệnh cho cha tiểu dân thì không khó, đến Phủ thành mời danh y, việc này ...cũng cố gắng làm được. Nhưng ... còn phải tới tận Hồ Quảng tìm thầy lang kê đơn lúc đó, có thể ông ta đã chuyển nhà đến nơi khác. Vậy chẳng phải đi xa xôi ngàn dặm vô ích hay sao?

Mẫn huyện lệnh cười thầm một tiếng. Đây mới chỉ là chiêu đầu tiên mà thôi, nếu nhà họ Vương vẫn cứng đầu, thực sự đi ngàn dặm xa xôi lấy đơn thuốc của thầy lang về, ta sẽ an bài để Mã Ngang kháng án, yêu cầu Vương gia phải đi Hồ Quảng một chuyến nữa, lấy thêm giấy xác nhận của tiệm thuốc. Nếu vẫn không xong, ta còn có thể bắt hai huynh đệ nhà hắn quay về quê cũ tìm quan phủ địa phương để xin cấp văn thư xác nhận cha bọn chúng trước giờ luôn mạnh khỏe.

Tóm lại, lộ trình đi đi về về càng xa càng tốt, chứng cứ yêu cầu càng chi tiết càng tốt, vừa cho thấy mình xét án cẩn thận, xem trọng nhân mạng, lại khiến bọn chúng phải khổ sở đi tới đi lui, sức cùng lực kiệt, đến khi phải bỏ cuộc không truy cứu nữa mới thôi. Đây là một trong những mánh khóe thường dùng trong bảo hiểm khi phải bồi thường cho khách hàng.

Vương Đại, Vương Nhị ngẩn người, đang định biện bạch thêm vài câu, Mẫn huyện lệnh đã trừng hai mắt, đập "bộp" phán gỗ xuống bàn, cao giọng nói:

- Được rồi, giải nghi phạm Mã Ngang vào đại lao, trông chừng cho cẩn thận! Những người khác hãy trở về nhà! Chờ khổ chủ là nhà họ Vương tìm được chứng cứ thì bản huyện sẽ lại thăng đường thẩm vấn tiếp. Bãi đường!

Đám nha dịch cùng dạ một tiếng vang rền, ngay sau đó liền có hai nha dịch cường tráng chạy đến, lôi xồng xộc Mã Ngang ra ngoài. Mặc dù đám hung thần ác sát này nhắm vào Mã Ngang, nhưng cũng làm cho huynh đệ nhà họ Vương bị dọa khiếp vía, lời còn chưa ra khỏi cửa miệng đã vội nuốt vào.

Hai huynh đệ nhà họ Vương lặng lẽ quay về nhà, cảm thấy nếu cứ như vậy mà bỏ qua thì thật không cam tâm. Bàn bạc mất hai hôm, bọn họ mới quyết định để Vương Đại thu dọn hành trang đi Hồ Quảng một chuyến, đợi lấy được chứng cứ về rồi sẽ đi Phủ thành mời người. Việc buôn bán trong nhà trước mắt sẽ do Vương Nhị lo liệu.

Đang lúc bàn bạc, vợ của Vương Đại chạy vội vào, lo lắng nói:

- Tướng công, thiếp từng nghĩ nhà mình mấy hôm nay không có khách ghé vào, có lẽ là do nhà mới có người mất, lại sắp đến Tết, cho nên các khách quen có phần kiêng kị. Nhưng hoá ra là do người của sở Dịch thừa tung tin đồn nhảm khắp nơi, nói nhà mình làm ăn gian dối, lấy giả tráo thật, lấy kém tráo tốt, ép mua ép bán. Chẳng những khắp Kê Minh này ai ai cũng biết, mà nghe nói cái bọn dịch sứ (Những người chuyên đưa văn thư từ dịch trạm này tới dịch trạm khác cho triều đình – ND) đáng chết ấy còn truyền công văn đi khắp nơi, chỗ nào cũng đặt chuyện, giờ ngay cả người làng khác cũng biết. Nếu cứ tiếp tục như vậy, nhà chúng ta làm sao mà buôn bán được chứ? Người trong nhà há chẳng phải chỉ có thể chờ chết thôi sao?

Hai huynh đệ họ Vương nghe mà giật nẩy người. Làm ăn sợ nhất là bị mang tiếng xấu, sở Dịch thừa tung tin đồn nhảm trong vùng này thôi còn đỡ, bọn họ mà lợi dụng cả trăm dịch sứ đi xuyên tạc khắp nơi thì tiệm nhạc cụ nhà họ Vương chỉ có nước đóng cửa.

Nhà họ Vương ở đây không có ruộng đất gì, hoàn toàn dựa vào việc buôn bán để kiếm sống. Trong nhà mặc dù sung túc hơn người làm nông bình thường, nhưng thời này trọng nông khinh thương, cho nên địa vị xã hội của bọn họ còn không bằng cả nông dân.

Triều đình nhà Minh đã có quy định, nông dân có thể mặc áo gấm như những người có công danh, nhưng thương nhân dù có giàu có đến đâu đi chăng nữa cũng không được phép làm vậy. Cho nên, mặc dù nông dân không mua nổi áo gấm, nhưng phú thương có mua nổi thì cũng chẳng mặc được. Thậm chí là những thương nhân gia tài ngàn vạn cũng chỉ có thể mặc áo gấm ở trong nhà, khi ra khỏi cửa lại phải thay bằng quần áo vải thô. Nếu không, để người ta cáo quan thì sẽ là tội lớn.

Do đó, khi Vương gia đi thưa kiện thì ngay từ đầu đã rơi vào thế bất lợi, nếu lại còn để cho việc làm ăn "đi tong" chắc chắn sẽ là lợi bất cập hại. Chẳng lẽ vì một người đã chết mà khiến cả nhà không sống được nữa sao?

Đến lúc này, ý định thưa kiện đến cùng của hai huynh đệ đã giảm đi phần nào. Ngẫm lại, cũng gần hết năm, bây giờ mà đi xa thì không ổn, chi bằng hai huynh đệ cố gắng quản lý cửa tiệm, chờ qua tết rồi bàn tiếp.

Hai huynh đệ cùng chạy ra sảnh trước mời chào khách. Thế nhưng qua mấy ngày vẫn không bán được gì, lại còn nghe được tin đồn, nói là Vương lão gia lừa gạt tiền của người ta, bị người ta vạch trần tại chỗ, xấu hổ quá mà chết. Hai đứa con nhà họ Vương còn tham của hơn cả lão ta, mùa đông giá rét thế này mà vẫn bỏ mặc thi hài cha mình ở chỗ ngõ tác, kệ cho người ta mổ bụng moi gan, lóc xương xét nghiệm. Tất cả chỉ vì muốn lừa gạt chút tiền

Thường có câu: Lời gièm pha của thiên hạ luôn rất đáng sợ. Những người khác nào quan tâm thật giả ra sao, tóm lại tất cả chỉ nghĩ không nên qua lại với nhà họ Vương, kẻo lại ảnh hưởng đến thanh danh nhà mình. Có vài nhà hàng xóm vốn rất thân thiết với nhà họ Vương, nhưng mấy hôm nay khi thấy mặt, trông họ hơi là lạ rồi dần dần trở nên xa lánh.

Hai huynh đệ hết sức bất bình, bèn đi cầu kiến huyện thái gia. Nhưng lại nghe nói, vì tuyết lớn làm đổ nhà của ba hộ dân ở Lưu Gia bình, nên huyện lệnh đại nhân vốn yêu dân như con đã đến đó động viên và cứu tế, phải hai ngày sau mới trở về. Hai hôm sau bọn họ quay lại thì lại nghe nói, huyện lệnh đại nhân đã tới Tuyên Phủ để chỉ huy việc vận chuyển lương thực mùa đông cho nha môn và sở Dịch thừa.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 12: Dây dưa kéo dài

Một hôm lúc Vương Nhị tới Phủ thành lấy hàng, Vương Đại ngồi trong quầy đực mặt nhìn người đi trên đường. Trong cửa tiệm vắng tanh, giờ này năm ngoái còn có mấy đội ca múa, đội cà kheo, có cả tổng hội gánh hát, nhà chùa đến mua vài món nhạc cụ giá rẻ theo mùa. Còn năm nay, cho đến giờ vẫn chưa bán được một món, chẳng lẽ cứ phải chạy ra ngoài đường lôi kéo khách vào hay sao?

Vương Đại vô cùng rầu rĩ mà chẳng biết nên làm thế nào, cẩn thận nhớ lại khi trước thấy cha hắn thường nói là bị tức ngực, hồi năm ngoái còn đột nhiên bị bất tỉnh bởi một cơn bạo bệnh. Nay ngõ tác kiểm tra thấy trên người không có vết thương nào, có lẽ thực sự vì xấu hổ xen lẫn giận dữ, nộ khí công tâm mà chết. Bây giờ làm ầm lên thế này sẽ khiến tiệm nhạc cụ của nhà họ Vương mất sạch thanh danh, một nhà già trẻ lớn bé sắp phải gặm đất mà sống rồi, phải làm thế nào bây giờ?

Đang lúc hắn đắm chìm trong suy tư, chợt có người vỗ lên quầy, cười ha hả hỏi:

- Vương Đại, gì mà ngây người ra thế? Đang tính bán đồ gì vào dịp Tết hả?

Vương Đại ngẩng đầu nhìn thì thấy một lão già quắc thước mặc thanh bào đang tươi cười đứng ở bên ngoài quầy. Hắn vội vàng đứng dậy bước ra nghênh tiếp, mặt cười tươi roi rói, giọng niềm nở:

- Ông chủ Ngô, sao ông rảnh rỗi mà ghé thăm thế? Mau vào đi. Người đâu, mau pha trà ngon đem ra đây.

Vị này tên là Ngô Kiệt, tuổi hơn năm mươi, là thương nhân vùng Xuyên Thiểm (Tứ Xuyên và Thiểm Tây-ND) đến khu vực lân cận kinh thành để buôn bán dược liệu, tiền tài vượt xa nhà họ Vương. Kê Minh là nơi tập trung phân phối luân chuyển dược liệu của lão, một năm thì đã có nửa năm lão ở lại nơi đây. Người làm ăn buôn bán ở vùng này phần đông đều biết đến ông chủ Ngô, kẻ có tiếng vung tay hào phóng.

Ngô Kiệt mỉm cười ngồi xuống ghế, chậm rãi trả lời:

- Nào có bận gì đâu, giờ sắp đến Tết rồi, ta đang bận bịu lo xong đống công việc để còn chuẩn bị về quê ăn Tết, tiện thể đi qua nhà hiền đệ nên ghé vào thăm một chút. Sao hôm nay đệ lại ngồi trông quầy thế? Để xem nào, vẫn chưa có chuẩn bị gì à, trước tiệm trông vắng vẻ quá nhỉ! Thế cha đệ đâu?

Khuôn mặt Vương Đại thoắt trở nên ảm đạm, gượng cười:

- Ôi! Ông chủ Ngô, không giấu gì ông... cha tiểu đệ vừa mới mất được mấy hôm.

Ngô Kiệt giật mình, la hoảng lên:

- Sao lại có thể như thế được? Lúc ta rời khỏi đây đi Thiểm Xuyên thu mua dược liệu, ông chủ Vương vẫn còn khỏe mạnh lắm mà, sao lại... Căn bệnh tức ngực khó thở năm ngoái lại tái phát à?

Vợ của Vương Đại cho nước vừa đun vào ấm trà rồi bước ra, khuôn mặt cũng rất buồn bã. Nhìn thấy ông chủ Ngô, bà ta bèn cố gượng cười chào hỏi, rót xong chén trà thì lại quay trở vào nhà sau.

Ngô Kiệt rút từ trong ống tay áo ra tẩu thuốc có miệng làm bằng ngọc bích, lôi từ trong đai lưng ra cái túi, vốc một nắm thuốc lá rồi dùng đồ châm lửa châm mồi. Lão ta khoan khoái rít vào một hơi, lim dim mắt nói:

- Ông chủ Vương đã tròn bảy mươi. Thường có câu: nhân sinh thất thập cổ lai hi, Ông chủ Vương cũng đã sống thọ đến lúc xuôi tay, xem như là hỷ tang vậy. Ta biết huynh đệ hai người vốn hiếu thuận. Lại đây, ngồi xuống đi, đừng có đau buồn, hãy kể cho ta nghe nào.

Vương Đại đem toàn bộ sự tình trước sau kể lại một lượt, dĩ nhiên trong lúc kể đã giấu nhẹm chuyện tìm thấy hạt trân châu ở trên người phụ thân ra. Kể xong, hắn cất giọng phẫn hận:

- Thù cha không đội trời chung. Ông chủ Ngô, ông đã từng vào Nam ra Bắc, hiểu rộng biết nhiều, ông nói xem, thù này nếu không báo, đệ còn không bị hàng xóm láng giềng chửi mắng ở sau lưng sao? Chỉ là giờ đây... khụ khụ, nhà họ Mã thế mạnh, đặt điều gây thị phi khắp nơi, cho nên mới... Ông cũng đã thấy đấy, thậm chí khách hàng cũng chẳng buồn ghé vào. Huyện tôn lão gia lại không có ở trong phủ, theo tiểu đệ thấy, hắn ngoài miệng nói thì dễ nghe, nhưng dường như cũng đều là quan lại bao che cho nhau, cố ý thiên vị cho nhà họ Mã thôi.

Ngô Kiệt nghe xong liền cười nhạt, bập một hơi thuốc, giọng khẳng định:

- Cái gì mà dường như? Chẳng phải điều đó rành rành trước mắt sao? Người ta rõ ràng đang giúp nhà họ Mã đấy.

Vương Đại nghe xong vừa giật mình vừa phẫn nộ, vỗ đùi đánh tét:

- Tiểu đệ đã nói rồi mà, hắn vừa bắt chúng ta đi tìm thầy lang, lại bắt đi tìm ông chủ tiệm thuốc. Lúc bọn đệ đi tìm huyện thái gia thì hắn lại không có ở đó, vậy... vậy... Hừ, là hắn bức đệ ôm luật triều Minh lên kinh nộp cáo trạng rồi.

Ngô lão bản rút tẩu ra, trợn mắt nhìn hắn:

- Hiền đệ còn tưởng giờ đang là năm Hồng Vũ (Niên hiệu vua Thái tổ, tức Chu Nguyên Chương, thời Minh ở Trung Quốc (1368398) - ND) à? Lên kinh kiện cáo? Vậy mà đệ cũng nghĩ ra được! Hoàng đế ngự trong Tử Cấm thành, kín cổng cao tường, trọng binh trùng trùng bảo hộ, đệ gặp được chắc? Mà cho dù gặp được rồi thì sao? Huyện thái gia không có nói người ta không xử vụ này. Việc xem trọng nhân mạng, cẩn thận xử án vốn đã không sai. Đến lúc đó nói không chừng hoàng thượng sẽ còn khen ngợi Mẫn đại nhân xử án cẩn thận, không xem mạng người như cỏ rác. Có khi hoàng thượng còn phán cho đệ tội phỉ báng mệnh quan triều đình, khi quân phạm thượng, có thể là đại tội xử chém toàn gia, họa diệt cửu tộc đó.

Vương Đại nghe thấy hậu quả đáng sợ như vậy, không khỏi kinh hãi đến dựng cả lông tóc, một hồi lâu mới lên tiếng:

- Ôi trời đất ơi, thật cảm tạ ông chủ Ngô đã nhắc nhở. Tiểu đệ kiến thức còn hạn hẹp, chưa trải qua hết sự đời, nếu hôm nay không có buổi trò chuyện với ông thì có thể đệ đã rước họa lớn về nhà. Vậy... bây giờ đệ nên làm thế nào đây?

Ông chủ Ngô khẽ cười, thong thả nhả ra một ngụm khói, ngước mắt nhìn làn khói lượn lờ bay lên rồi mới chậm rãi khuyên nhủ:

- Vương lão đệ à, lão ca cũng chẳng có nhiều kiến thức gì, chẳng qua vào Nam ra Bắc, mấy chuyện này nghe cũng đã nhiều, thấy cũng không ít. Thường có câu: dân không đấu với quan, lại có câu: dân tâm tự thiết, quan pháp như lô (lòng dân vững như sắt, quan pháp như lò lửa: ý nói pháp luật vô tình, có thể nung chảy cả sắt (dân tâm) - ND). Trong chuyện này đệ không có đầy đủ chứng cứ, cho dù có kiện lên đến điện Kim Loan cũng chưa chắc đã làm gì được người ta, ngược lại có khi còn hại cả nhà mình. Ta có mấy lời khuyên thế này, không biết đệ có chịu nghe hay không?

Vương Đại nghe xong vội vàng bê ấm trà lên, vừa rót thêm trà nóng, vừa khúm núm nói:

- Ông chủ Ngô, mời ông nói cho. Không giấu gì ông, mấy hôm nay trong lòng đệ thấp thỏm không yên, thật giống như đang cưỡi trên lưng cọp, lên xuống đều không xong. Lão nhân gia có chủ ý gì hay, xin hãy nể mặt cha già đã khuất mà vui lòng chỉ giáo cho.

Ông chủ Ngô cười ha hả, gõ nhẹ ống điếu vào chân ghế rồi cẩn thận đặt trên bàn. Lão chậm rãi đưa chén trà lên nhấp một ngụm, sau đó mới cất giọng thong thả:

- Chuyện này vốn không rõ ràng. Đệ mặc dù có nhân chứng chứng minh được là ông chủ Vương chết khi tên Mã Ngang đó tranh chấp với đệ, nhưng lại không có người làm chứng tên Mã Ngang đó đã động thủ với cha đệ. Vị Dương tú tài kia là người có công danh, lại có mặt ở đó từ đầu tới cuối, nếu ta là Huyện thái gia thì ta cũng không thể cứ vậy mà định tội người ta, cho nên ngươi chẳng thể trách Mẫn huyện lệnh được.

- Chuyện ngày hôm nay thành ra nông nỗi này... Vương lão đệ à, ta nói câu công bằng này ngươi đừng có trách! Vương lão bản tuổi đã gần bảy mươi, khuất đi âu cũng là chuyện phải tới. Ta biết đệ là đứa con có hiếu, chẳng phải muốn kéo con cái nhà người ta chết cùng. Nhưng nếu thật sự là oan uổng cho người ta, đệ làm vậy há chẳng phải sẽ tạo thêm một tội nghiệt cho cha đệ sao?

- Hơn nữa, hiền đệ dẫn cả nhà đến ở nơi này, liệu có thật sự muốn đắc tội với Mã dịch thừa không? Người ta mới đến nhậm chức, còn có thể làm đến mấy năm, đệ đấu lại người ta sao? Huống hồ nếu vụ án này cứ kéo dài mãi, tan cửa nát nhà tạm chưa nói đến, nó còn liên lụy khiến thi cốt lão phụ thân đệ không thể nhập thổ. Trời đông tháng chạp rét mướt như vầy lại bị xếp đống trong nhà xác, nói không chừng còn bị mổ bụng rút ruột, róc xương xét nghiệm. Cha đệ vất vả nuôi hai anh em đệ khôn lớn, để rồi chết cũng không toàn thây, đệ liệu nhẫn tâm sao?

Vương Đại nghe mà chảy cả nước mắt, nước mũi. Hắn sụt sùi khóc:

- Ông chủ Ngô, ông nói xem vậy giờ tiểu đệ nên làm sao cho phải?

Ngô Kiệt khẽ cười, trấn an hắn:

- Nếu như đệ thực sự có tấm lòng hiếu thuận, vậy cứ coi như là Vương lão gia mất đã được an hưởng tuổi trời, chết không tiếc nuối. Còn chuyện chiếm đoạt tiền tài người ta, cho dù là thật hay giả, nhà họ Mã cũng sẽ biết điều không cố truy cứu đâu.

- Có điều, tuy rằng cha đệ không phải bị người ta đánh chết, nhưng vì lúc mua bán nảy sinh tranh chấp, tuổi già sức yếu, lại sinh phẫn uất nên dẫn đến tử vong, nhà họ Mã cũng sẽ khó tránh khỏi có liên can. Nếu không phạt nặng bọn họ thì sẽ khó mà hoá giải nỗi tức giận của đệ, lại càng khó ăn nói trước mặt hàng xóm láng giềng. Theo ta thấy, không bằng kêu nhà họ Mã bồi thường cho đệ vài chục lượng bạc, tất thảy mọi chi phí khâm liệm cũng sẽ đều do bọn họ chi trả. Vụ kiện này xử lý như vậy, đệ thấy sao?

Vương Đại nghe xong cúi đầu không nói, trầm ngâm một lúc mới lắp bắp hỏi:

- Nếu... nếu xử lý như vậy, sẽ không khiến cho người khinh bỉ chê cười huynh đệ mưu cầu tiền tài, bất chấp đại thù của lão phụ thân sao? Những lời như vậy, bảo đệ làm... làm thế nào mà nói ra?

Ánh mắt ông chủ Ngô chợt sáng lên, định nói thêm câu nữa thì một người cưỡi lừa đi đến trước cửa. Gã ta nhảy xuống lưng lừa, buộc chặt cương lại rồi xầm mặt xông vào trong phòng. Vương Đại ngẩng đầu liếc nhìn thấy chính là huynh đệ Vương Nhị của mình, vội đứng dậy đón:

- Nhị đệ, đệ về rồi à, thế nào...?

Đoạn hắn liếc mắt nhìn ra ngoài, kinh ngạc hỏi:

- Không phải huynh bảo đệ đi thu mua một lô còi tre, sáo trúc, chiêng đồng, chũm choẹ à? Sao đệ lại về tay không thế?

Vương Nhị quay về phía ông chủ Ngô chắp tay cung kính chào:

- Ông chủ Ngô, chào ngài.

Sau đó gã ta bước tới ngồi phịch xuống cái ghế của ca ca, giọng đầy tức giận:

- Mua hàng gì chứ? Ông chủ Liễu muốn chúng ta giao dịch bằng tiền mặt, không cho nợ hàng.

Vương Đại ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại thế chứ? Năm ngoái gia đình chúng ta làm ăn lần đầu với hắn mà hắn còn đồng ý bán chịu cho chúng ta. Đến giờ đã qua lại hơn một năm, chưa từng nợ hắn lạng bạc nào, sao đang tốt đẹp lại đòi giao dịch bằng tiền mặt?

Vương Nhị đáp:

- Còn không phải là vì lũ khốn họ Mã đó sao? Cũng chả biết là ai đã huyên thuyên...

Nói đến đó gã chợt nhớ ra ông chủ Ngô vẫn còn đang ở trong phòng, vội ngậm miệng lại.

Ngô Kiệt hớp một ngụm trà, thong thả đứng dậy nói:

- Mấy ngày hôm nay buôn bán bận rộn, lão phu cũng không thể ngồi lâu, giờ cũng phải trở về rồi. Nhị vị, năm sau chúng ta gặp lại nhé!

Lão chắp tay cười với Vương Đại, Vương Nhị, rồi từ tốn bước ra ngoài.

Vương Đại nghe xong lời của đệ đệ mình, ngẩn ra một lúc, thấy Ngô lão bản đã sắp khuất tầm mắt, hắn không khỏi bực tức dậm chân, vội vàng đuổi theo phía sau, gọi lớn:

- Ông chủ Ngô, xin chờ đã! Thật không còn biện pháp nào tốt hơn chủ ý của ông nữa. Chỉ có điều, cầu xin lão nhân gia giúp dàn xếp chuyện này, xin ông nhất định phải giúp cho!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 13: Sư gia danh dự

Dương Lăng ngồi trong phòng công vụ, đờ người nhìn chồng hồ sơ các vụ án dày cộm xếp trước mặt. Y rất muốn lập tức xắn tay vào làm việc, nhưng lại giống như một tay ngang phải đối diện với đống lưới đánh cá rách nát quấn chằng chịt vào nhau, căn bản không biết phải bắt đầu từ đâu.

Nếu bạn suy nghĩ một tí về những công việc mà một huyện thái gia cần phải phụ trách là sẽ biết thôi, nó không giống như ở trên ti vi, ông ta nhàn rỗi ngồi ở thất phẩm chính đường (sảnh đường lớn nơi quan thất phẩm như huyện lệnh thăng đường chủ trì xử lý kiện cáo, vv...) mà đập phán gỗ cốp cốp đâu.

Tài chính này, thuế vụ này, giao thông này, luật pháp này..., tất cả mọi việc trong huyện đều phải qua tay huyện thái gia giải quyết. Lẽ ra ngoài Huyện thừa, Chủ bạ, huyện thái gia còn có một đám sư gia về luật pháp, về tiền lương, về kiện cáo. Vậy mà giờ đây, Mẫn huyện lệnh, cái lão huyện thái gia gà mờ này lại đem tất tần tật vất cho Dương Lăng. Cho dù là một tay sư gia dồi dào kinh nghiệm đi chăng nữa, e rằng nhất thời cũng phải tay chân bối rối.

Phòng công vụ gồm ba gian phòng ăn thông với nhau như một xâu hồ lô đường. Thông thường bọn sư gia, phụ tá của huyện thái gia đều ngồi ở đây xem xét công văn, xử lý mọi việc. Phía trước phòng công vụ chính là thất phẩm chính đường, nơi huyện thái gia thẩm vấn và xử án, còn phía sau là nơi ở của cả nhà huyện thái gia.

Từ khi giúp nhà họ Mã giải quyết vụ kiện cáo liên quan đến mạng người kia xong, Dương Lăng được Mẫn huyện lệnh rất mực tán thưởng, lập tức được mời vào phủ đảm nhiệm chức vụ sư gia. Đang ảo não vì mình ăn không ngồi rồi, để cho một tiểu cô nương nuôi dưỡng thực là quá vô sỉ, nên y đã vui vẻ chấp nhận ngay.

Có điều vì ánh mắt ai oán của Hàn Ấu Nương, y đành phải nói rõ với Mẫn huyện lệnh rằng chỉ tạm thời làm sư gia, đến kỳ khảo thí sang năm y vẫn sẽ lên tỉnh thành tham gia thi Hương. Mẫn huyện lệnh cũng đồng ý ngay lập tức.

Thật ra y cũng tự biết mình chẳng sống được bao lâu. Ngày thường đi dò hỏi người ta, y cũng biết ở thời đó cho dù có thi đỗ Trạng nguyên đi chăng nữa, cùng lắm thì cũng sẽ chỉ được ở lại kinh thành làm một chân sử quan ở viện Hàn lâm, nếu có thể lập tức được cử đi làm một viên tri huyện đã là tốt lắm rồi, tuyệt đối không thể nào được cử làm quan to. Hiện tại cũng chỉ vì tình cảm với Hàn Ấu Nương và trách nhiệm của người đàn ôngy mới muốn cố gắng để lại cho nàng một phần gia sản mà thôi, chẳng muốn tham gia thi hương làm gì. Chỉ có điều y không thể chống lại được tình cảm dịu dàng của nữ nhân. Tuy tuổi còn nhỏ mà Hàn Ấu Nương đã có một đôi mắt đầy u oán, đủ khiến y phải thay đổi ý định. Ít ra thì biểu hiện bên ngoài của y là như vậy.

Mẫn huyện lệnh xuất thân quân đội, thân tín đem theo cũng đều là dân đi lính, có thể nói là mù tịt với việc quản trị một huyện. Trong huyện vốn còn có một tay Hoàng huyện thừa, nhưng kẻ này cũng chẳng để ý gì tới Dương Lăng, cả ngày chỉ như một pho tượng đất. Nếu không phải vào ngày phát lương hằng tháng còn thấy lão ta ôm theo cái bao rỗng chạy tới lĩnh tiền lĩnh thóc, nhất định sẽ chẳng thấy bóng dáng của lão ta ở đâu.

May là ở Kê Minh dân chúng thuần phác, hơn hai năm qua vẫn chưa có sự việc gì quá nghiêm trọng. Có điều cuộc khảo hạch ba năm một lần đã sắp tới gần, lúc ấy triều đình sẽ kiểm tra thành tích của các quan viên. Mẫn huyện lệnh mặc dù tính tình thô lỗ, nhưng cũng không khỏi có chút tính toán riêng cho bản thân.

Trong đợt đại khảo thí này của triều đình, thành tích được tính như thế nào đây? Thật ra nó không nằm ngoài hai thứ: một là sự thanh liêm, sáng suốt, hai là thu thuế đúng hạn. Về phần thanh liêm, sáng suốt thì chỉ cần không có nông dân gây loạn, thương nhân bỏ chợ và thư sinh kháng nghị, đồng thời không xảy ra vụ trọng án nào, đã có thể báo cáo là một cảnh thái bình thịnh vượng, "ngoài đường không trộm cắp, tối ngủ khỏi cài then" rồi.

Kê Minh có hai đội quan binh trú đóng, cộng thêm sở Dịch thừa, bọn sai dịch của huyện nha, là một huyện bậc ba quản lý rất nghiêm, hai năm qua chưa từng xảy ra chuyện lớn nào. Thế nhưng về mặt thu thuế đúng hạn thì không được như vậy. Vì là vùng đất có nhiều thương khách tụ tập nên thu thuế buôn ở đây thì còn có thể đúng hạn, nhưng các hộ dân cư phụ cận phần nhiều là sống ở trong núi, bình thường vốn sinh sống rải rác, không dễ quản lý. Hơn nữa đất đai cằn cỗi, bọn Thát Tử lại thường đến quấy nhiễu cướp bóc, cho nên lương thuế giao nộp không được như ý, đến lúc đại khảo không khỏi trở thành điểm yếu của Mẫn huyện lệnh.

Mẫn huyện lệnh làm quan cứ ngây ngây ngô ngô. Phải đến mấy ngày trước lặn lội đi phủ thành một chuyến, lão mới nghe ngóng được cuộc trò chuyện của thượng quan, mới biết được quan văn khảo hạch sẽ có rất nhiều thứ để nói. Đang lo lắng không biết sẽ phải khoe khoang thành tích cai trị của mình như thế nào thì ở trên trời lại rơi xuống một Dương tướng công. Dĩ nhiên lão sẽ đẩy hết trọng trách sang y, trông mong y giúp mình tạo ra được chút thành tích để báo cáo.

Nhưng Dương Lăng quả thực không thể hiểu được phương thức vận hành chính phủ ở thời đại này. Tuy ở kiếp trước hắn đã từng làm trưởng phòng của một công ty bảo hiểm, nhưng với chế độ và cơ cấu quản lý ở thời nay, dù cho không có trưởng phòng thì cả cơ cấu cũng không bị ảnh hưởng quá nhiều. Hiện tại thì không giống như vậy, gần như mỗi chuyện lớn chuyện nhỏ đều cần y quyết định. Dương Lăng làm đến bở hơi tai mà ngay cả công văn thường ngày còn xử lý không xong, lấy đâu ra thành tích cho nổi.

Y ưỡn lưng, đưa tay về phía sau khẽ đấm mấy cái, mày chau mặt ủ nhìn cái đống hồ sơ ở trước mặt. Cuối năm đã cận kề, trạm vận chuyển hàng hóa đang có một đống đặc sản Tây Vực do hoàng cung mua sắm cần phải vận chuyển về kinh thành, thế nhưng lại không có đủ xe, lừa ngựa để sử dụng, cần thỉnh cầu nha huyện giúp đỡ giải quyết.

Bộ phận nhận công văn lại nhận được công hàm của bộ binh thông báo sắp tới sẽ có đại quân điều động, đi qua Kê Minh lúc nửa đêm. Bọn y cần phải mở cửa thành giữa đêm đó, rồi an bài nha sai và quan binh canh giữ cửa thành, nghiêm ngặt đề phòng có kẻ thừa cơ ban đêm lẻn vào.

Ngót nghét cuối năm, lệnh giới nghiêm đã được bãi bỏ. Thân là sư gia chuyên lo về pháp luật, hiển nhiên những việc liên quan đến phương diện trị an, đuổi trộm bắt cướp này nọ y cũng phải đích thân đứng ra xử lý.

Những vật liệu như khói hiệu, lửa hiệu dùng ở phong hỏa đài cũng cần phải thay đổi.

Trâu cày của nhà họ Đậu ở ngoại thành bị thất lạc. Con heo mập mạp do nhà họ Lưu ở phía tây thành nuôi đã ba năm bị trộm mất. Nhà họ Lí có mấy tên lưu manh tụ tập trêu chọc quả phụ trẻ. Đầu thành phía Bắc có đứa nhỏ nhà họ Hách châm pháo làm cháy đống củi của nhà họ Hạ, nhà họ Hạ đến cửa tranh cãi đánh con dâu của nhà họ Hách bị thương. Nhà họ Hách tố cáo nhà họ Hạ gia đến tận nhà mình hành hung, nhà họ Hạ tố cáo nhà họ Hách đốt lửa gây cháy lớn...

Càng chết người hơn là số hộ nông dân khất nợ thuế nông nghiệp thực sự quá nhiều. Có hộ chỉ khất một hai năm, có hộ ngâm phải tới chín tới mười năm, ngâm tới đá cũng phải mềm, không cách nào giải quyết nổi.

Thoạt đầu Dương Lăng còn đập bàn kêu Vương bộ đầu lôi cái tên nông dân gian xảo Hồng Mãn Thương – kẻ ngâm nợ lâu nhất, dai nhất tới, định bụng giết gà dọa khỉ. Đến khi nghe Vương bộ đầu kể lại chuyện huyện thái gia nhiệm kỳ trước đã từng dùng qua phương pháp này, kết quả đã ép vợ Hồng Mãn Thương phải thắt cổ tự vẫn, Hồng Mãn Thương cũng trở nên nửa điên nửa dại. Một đám văn nhân biết được sự tình đồng loạt phẫn nộ bất bình gây náo loạn đến cả bộ Hộ, sau khi quan huyện bị cách chức thì chuyện mới yên.

Vẫn may còn có tay Chủ bạ Vương Dưỡng Chính thấy vị đồng liêu trẻ tuổi này tính nết hòa nhã, làm việc chăm chỉ, nên đã len lén cho y biết Hoàng huyện thừa ngồi ở bổn huyện đã rất lâu, từng trải qua hai đời huyện thái gia. Vị huyện thừa già này là một người có rất nhiều biện pháp, ở chốn quan trường có thể xem là một người lọc lõi, chi bằng hãy xin lão ấy giúp đỡ.

Dương Lăng nghe lời, cắn răng mua chục cân thịt heo, một túi trà ngon đến cửa Hoàng huyện thừa xin chỉ giáo. Ai dè lão đang kèm cặp cháu trai mình luyện chữ, nghe ý tứ của Dương Lăng xong thì chỉ cười nhạt, cố ý cò cưa không chịu giúp đỡ. Nhưng lão lại chẳng hề khách khí gì, vẫn nhận lấy gói thịt heo và túi trà, khiến cho Dương Lăng chẳng biết phải khóc hay nên cười.

"Ôi!" Hồi tưởng đến chuyện này, Dương Lăng thở dài nặng nề, có phần tiếc nuối hai mươi bốn văn tiền đã bỏ ra. Thi thoảng mua ít thịt về, tiểu nha đầu ở nhà đều gắp bỏ vào bát của hắn hết, bản thân lại không nỡ ăn một miếng. Nếu biết trước sẽ như vậy, chi bằng y đem thịt về nhà cho cô bé vừa đáng thương vừa đáng yêu đó ăn một bữa thật ngon còn hơn.

Y cầm lấy bút, viết dự trù tài chính, lương thực cho năm sau đã được tính toán cẩn thận vào trong công văn trình báo lên bộ Hộ: "Tổng cộng quan viên sai nha ở cả Kê Minh là 79 người, dịch sứ 158 người, lính canh nội thành 260 người, dân phu 45 người, ngựa trạm 82 con, tiền chiêu đãi thết tiệc trong năm 7647 lạng, thức ăn cho ngựa 52 thạch (mỗi thạch tương đương 100 lít). Ngoài ra: chiến đài ở cổng Tây thành đã có vết rạn nứt, cần phải tu bổ, dự toán 116 lạng."

Thổi cho tờ công văn ráo mực, y cẩn thận đặt nó lên trên chồng công văn đã xử lý. Tấm rèm cửa chợt được vén lên, một người mặc áo xanh bước vào. Mấy viên tiểu lại phụ trách sao chép, sắp xếp văn thư trong phòng vội vàng đứng dậy chào: "Mẫn đại nhân!"

Dương Lăng ngước đầu lên nhìn, cũng vội đứng dậy thi lễ. Người vừa vào chính là Mẫn huyện lệnh trong bộ y phục bình thường. Lão thoải mái vẫy tay, giọng oang oang:

- Được rồi được rồi, mỗi ngày đều gặp, còn hành lễ làm gì? Trời cũng không còn sớm nữa, hôm nay làm đến đây thôi.

Mấy viên tiểu lại vội vàng vâng vâng dạ dạ, bắt đầu thu dọn vật dụng của mình. Mẫn đại nhân bước đến trước mặt Dương Lăng, thấy y đã xử lý xong gần nửa số công văn, không khỏi đưa ngón tay cái lên tán thưởng:

- Tiên sinh thật có bản lãnh! Bổn huyện vừa nhìn mấy cái thứ này thì đã cảm thấy đau đầu, không ngờ ngươi lại giải quyết nhanh như thế, được hơn một nửa rồi, ha ha ha...

Dương Lăng cười khổ không thôi. Đích xác y xử lý rất mau, song phần lớn đều là những công việc "trên đưa dưới làm", những vấn đề thực sự nan giải nào có thể giải quyết nhanh được như vậy. Còn chưa kể cái đám con nợ tiền thuế lâu dầm lâu dề phải chia ra đến làm mấy loại. Có loại cố ý kéo dài dây dưa, có loại thực sự do gia cảnh bần hàn, việc điều tra thống kê cho rõ ràng sẽ rất mất thời gian.

Chỉ riêng mấy vụ án nhà này mất con trâu, nhà kia mất con lợn, có vụ nào mà trong lúc xét xử không phải cắt cử mấy người đi đâu, mau lắm cũng cần dăm ba ngày mới điều tra xong. Mấy cái vụ lặt vặt này không lớn, nhưng vụ nào cũng đều cần phải có người, có thời gian, muốn giải quyết nhanh cũng không nhanh được.

Lúc trước xem ti vi thấy mấy cái tay làm quan động một tí là cải trang vi hành, tra rõ ngọn ngành vụ án, xem ra toàn chỉ là chuyện vớ vẩn. Mỗi ngày có biết bao nhiêu chuyện phải làm như vầy, thời giờ đâu ra cho hắn rời khỏi nha môn mà tự mình đi điều tra phá án chứ?

Đương nhiên y không tiện kể khổ mấy chuyện này với huyện thái gia, nên đành luôn miệng nói:

- Đâu có, đâu có,... Đại nhân đã quá khen rồi.

Đợi thấy đám tiểu lại kia đã đi hết, Mẫn huyện lệnh mỉm cười vỗ vai y nói:

- Ta là một kẻ thô lỗ, đừng có xem ta như người đọc sách, không ở trên công đường thì chớ nên khách khí như vầy. Phải rồi, mau mau dọn dẹp rồi đi với ta! Mã dịch thừa muốn tạ ơn ngươi và ta nên mời chúng ta đến Hồng Nhạn lâu uống rượu xem kịch đấy.

Dương Lăng nghe xong không khỏi chần chừ:

- Ồ? Chuyện này... Hay là đại nhân đi trước? Ty chức phải về nhà báo với vợ nhà một tiếng trước, kẻo không nàng ấy lại lo lắng.

Mẫn huyện lệnh cất giọng cười vang, đấm một quyền vào vai y rồi vừa cười vừa mắng:

- Sao lại lôi thôi thế? Đàn ông mà, khi nào muốn về thì về, không muốn về thì phụ nữ vẫn phải ngồi ở nhà mà đợi, nói với thị làm gì? Đi nào, còn trẻ mà đã mang bệnh sợ vợ rồi.

Mẫn huyện lệnh cũng không để cho Dương Lăng phân bua, lôi tuột y ra ngoài. Dương Lăng bất đắc dĩ đành phải thuận theo ý lão. Mẫn huyện lệnh vận thường phục nên cũng không tiện ngồi kiệu quan. Hơn nữa cái thành Kê Minh này cũng chẳng lớn, khoảng cách giữa hai cổng nam và bắc chỉ khoảng bốn dặm. Hồng Nhạn lâu nằm cạnh bên Kim Quang tự, chỉ cách huyện nha một con đường, nên càng không cần phải đi kiệu cho phiền phức.

Hai người đi bộ đến Hồng Nhạn lâu. Mã dịch thừa và Mã Ngang, Mã Liên Nhi sớm đã đợi trong một nhã phòng (phòng VIP). Nơi đây vốn là một kịch viện, gọi là nhã phòng chẳng qua cũng là một chỗ có vị trí tốt ở chính giữa, sử dụng bình phong để phân cách độc lập mà thôi.

Dương Lăng cảm thấy bất ngờ khi thấy Hoàng huyện thừa cũng ở đây, đã gặp mặt đành phải khách sáo chào hỏi một hồi. Mã Ngang bị giam trong đại lao hơn chục ngày, tính khí nóng nảy cũng đã bớt được không ít. Thấy ân nhân cứu mạng xuất hiện, vẻ mặt của hắn trở nên rất thân mật, bước đến cầm tay Dương Lăng tạ ơn không ngớt.

Dương Lăng và Mã Ngang đều là thanh niên trẻ tuổi, có điều một người thì đầy vẻ văn nhân, nho nhã lịch sự, một kẻ thì khôi ngô cường tráng, mày rậm mắt to, không ngờ lại khá hợp chuyện, đúng là có phần kỳ lạ.

Hôm nay Mã Liên Nhi chỉ trang điểm nhẹ, trông rất dễ thương, nhưng khi nhìn Dương Lăng, khuôn mặt mỹ lệ lại tỏ ra khá mất tự nhiên.

Dương Lăng có nghi biểu bất phàm nên ngay lần đầu gặp mặt, tâm hồn thiếu nữ của Mã Liên Nhi đã có vài phần yêu thích y. Nhưng ngay khi biết được y đã lấy vợ, Mã Liên Nhi chỉ coi y như là ân nhân bằng hữu khác giới mà thôi.

So với nô tì, phận làm thiếp cũng không cao hơn bao nhiêu. Đừng nói y chỉ là một tú tài, cho dù y là tuần phủ một tỉnh đi nữa, tuy chỉ là con gái của một quan chức cấp thấp, Mã Liên Nhi cũng tuyệt đối không thể làm thiếp của y. Do đó tình cảm của nàng vừa mới chớm đã bị dập tắt.

--------------

Phong hỏa đài: đài cao để xông khói ban ngày, đốt lửa ban đêm báo tin có giặc tấn công (ND).

Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn có câu:

烽 火 影 照 甘 泉 雲 Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân

Được nữ sĩ Đoàn thị Điểm (hoặc Phan Huy Ích?) diễn nôm:

Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây. (BT)

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 14: Luận bàn về chữ trinh

Hàn huyên một lúc xong, Mã dịch thừa mời mọi người ngồi, tiểu nhị bắt đầu bê từng món đã được gọi lên. Mã dịch thừa quay sang nói với Dương Lăng:

- Dương tú tài, lão phu cũng lớn tuổi rồi, xin gọi ngươi một tiếng hiền điệt. Đứa con này của ta tính tình thô bạo, ngày thường hay gây rắc rối cho lão phu. Lần này gây ra họa lớn, nếu không nhờ diệu kế của Dương hiền điệt, lại được Mẫn đại nhân khai ân, khuyển tử đã phải mang tội giết người rồi.

Dương Lăng vội đáp:

- Đâu có, đâu có! Hôm ấy tiểu điệt nhìn thấy rõ Mã huynh thật sự chưa hề động tay chân với Vương lão bản. Có thể nói là do lòng tham hại người thôi. Vương lão bản kia vì tham trân châu của Mã tiểu thư, bị phát hiện ra rồi tranh cãi một hồi nên thẹn quá hoá giận, nộ khí công tâm mà chết. Đó thực không phải là lỗi ở Mã huynh, xin Mã đại nhân ngàn vạn lần chớ có khiển trách Mã huynh nhiều quá.

Mã Ngang lập tức lên tiếng:

- Cha thấy chưa, con và muội muội nói mà cha không tin. Dương huynh đệ nói vậy cha đã có thể tin rồi chứ? Con không có đánh cái lão già đó.

- Câm miệng! Tiểu súc sinh! Ở đâu có phần cho ngươi nói chen vào!

Mã dịch thừa mắng con xong liền quay về phía Mẫn huyện lệnh, Hoàng huyện thừa và Dương Lăng, lắc đầu nói:

- Xem đó, tiểu súc sinh này được việc thì ít hỏng việc thì nhiều. Đâu có so được với Dương hiền điệt tuy còn thua con ta mấy tuổi nhưng hiểu rõ sự đời, chưa đến hai mươi mà công danh đã có. Ôi, vợ ta mất sớm, một nam một nữ chúng nó thiếu người dạy dỗ nên mới không hiểu việc thế này đây.

Mẫn huyện lệnh, Hoàng huyện thừa và Dương Lăng nghe thế lại phải nói giúp thêm Mã Ngang. Cùng lúc ấy tiểu nhị bắt đầu bày các món ra. Một lát sau, người trong rạp hát càng lúc càng đông. Xung quanh nhã phòng là mấy thương nhân hiện đang nghỉ tạm ở dịch trạm, xa hơn chút nữa là mấy dịch sứ, dân phu và đám nha dịch vô công rồi nghề chạy đến xem để giết thời gian.

Bất chợt sân khấu phía trước bừng sáng, một hồi chiêng trống vang lên và mấy diễn viên bắt đầu bước ra biểu diễn. Thời ấy còn chưa có kịch nói, Dương Lăng lại không rành về tuồng mà không tiện hỏi người khác nên nghe không hiểu được bao nhiêu. Toàn bộ diễn viên tuồng thời đó đều là nam, muốn xem mỹ nữ cũng chẳng được. Dương Lăng cảm thấy rất chán, ngồi nghe Mẫn huyện lệnh, Mã dịch thừa và Hoàng huyện thừa vừa xem vừa đàm luận mới đại khái hiểu ra một chút.

Nghe hai người bọn họ từ ngữ qua lại kể về tình tiết câu chuyện, Dương Lăng thấy hết sức khó tin. Vở tuồng này kể về một người con gái vừa mới kết hôn không lâu thì trượng phu đã rời khỏi nhà đi xa. Mấy năm sau người chồng trở về quê hương. Trên đường về nhà, hắn gặp một cô gái vô cùng xinh đẹp đang hái lá dâu. Bị vẻ đẹp của cô gái đó lay động, hắn bèn bước đến trêu ghẹo. Chẳng ngờ lại bị nghiêm khắc cự tuyệt nên hắn đành bẽ mặt ôm lòng chán chường về nhà. Ai ngờ về đến nhà lại thấy vợ mình chính là người con gái mà hắn vừa mới trêu ghẹo không được. Hắn cảm thấy vô cùng hổ thẹn, tự đáy lòng cũng nảy sinh sự ngưỡng mộ đối với vợ mình.

Truyện đến đây cũng không có gì là bất ổn. Nhưng sân khấu diễn tiếp đến ngày thứ hai, người vợ đó ở trong nhà khóc lóc sướt mướt rồi viết lại một phong di thư và thắt cổ tự vẫn. Trong thư nàng viết vì không giữ trọn đạo làm vợ, gợi lên tà niệm nơi nam nhân, khiến cho trinh tiết bản thân bị ô uế, cho nên nàng không thể tiếp tục sống trên nhân thế, chỉ đành lấy cái chết để bảo toàn trinh tiết. Sự việc đó cuối cùng làm náo động cả thôn làng. Khắp nơi dâng thư, Hoàng đế ban xuống thánh chỉ truy phong nàng liệt nữ này làm Nhất phẩm Cáo Mệnh Phu Nhân và cho lập "Trinh Khiết bài phường" (cổng chào Trinh tiết), thật vẻ vang vô cùng. Trượng phu của nàng vì để tưởng nhớ, về sau khi cưới phu nhân mới, họ vẫn cùng nhau lên mộ để bái tế.

Hồng Nhạn lâu là một nơi kết hợp giữa rạp hát và tửu điếm, vì vậy một vở tuồng không phải được diễn liên tục cho đến hết, mà còn có giờ nghỉ giữa buổi. Lúc giải lao, hai người Mẫn, Mã bắt đầu sôi nổi đàm luận. Hoàng huyện thừa nhấp rượu, thi thoảng chêm vào vài câu. Tuy lão không nói nhiều nhưng dẫu gì cũng là một kẻ đọc sách nên có thể giảng giải một cách trôi chảy những lời Mẫn huyện lệnh muốn nói nhưng không diễn đạt được.

Dương Lăng lại cảm thấy vở kịch này rất không thực tế, tựa như một câu chuyện hoang đường nhất mà hắn đã từng nghe qua. Câu chuyện ấy kể về một triều nọ có một phụ nữ bị rớt xuống nước, được một nam nhân đi đường trông thấy nắm lấy tay nàng ta kéo lên. Không ngờ nàng ta trở về nhà lấy dao chặt đứt cánh tay của mình, chỉ bởi vì chỗ đó đã bị một người nam nhân không phải trượng phu của mình chạm vào.

Như cũng có thể tính là "thất trinh" đi, vì suy cho cùng đó là thất trinh về thể xác. Nhưng người phụ nữ ở trong vở kịch này không ngờ lại không chịu nổi "thất trinh" về tinh thần. Chưa nói nó vốn không phải là thất trinh, chẳng qua vì nàng ta quá xinh đẹp, khiến cho người ta nhìn vào mà nổi sắc tâm. Người nam nhân đó đã không có tội, mà trái lại người vợ này lại tự cảm thấy chưa tròn phụ đạo làm vợ. Quả thực là hoang đường!

Nghe Mẫn huyện lệnh và Mã dịch thừa luôn miệng tấm tắc, Dương Lăng cuối cùng cũng chịu hết nổi, đành hỏi:

- Hai vị đại nhân, vở tuồng này không khỏi hơi quá khoa trương và không thực tế thì phải? Trượng phu nàng ta là kẻ tồi tệ, đi đường trông thấy mỹ nhân liền buông lời chòng nghẹo, bị mắng phải bỏ đi. Nhưng rốt cuộc người vợ lại cảm thấy tự mình bất trinh, điều đó... điều đó quả thật là vô lý! Trên đời làm gì có chuyện như vậy? Chuyện buồn cười như thế, vở tuồng lại khoa trương lên thì có gì hay ho đâu chứ?

Mã dịch thừa kinh ngạc hỏi:

- Sao? Dương hiền điệt đọc sách thánh hiền vậy mà lại không biết sự tích trong Liệt Nữ truyện hay sao? Tích truyện này có gì mà không thật chứ? Nữ tử đó tiết liệt như vậy, thật đúng là tấm gương cho các nữ tử khác trong thiên hạ, làm gì có chỗ nào đáng cười?

Mẫn đại nhân cũng mỉm cười nhấp một ngụm rượu rồi cười ha hả nói:

- Dương tú tài nhất định chỉ đọc mấy sách thánh hiền để thi đỗ công danh, cho nên không biết mấy tích truyện trong "Liệt Nữ truyện". Ngươi mềm lòng tốt bụng cũng phải, ta cũng cảm thấy có chút đáng tiếc cho nữ tử này. Nếu ta mà là quan huyện ở đó, nhất định sẽ phạt đánh tên trượng phu kia bốn mươi gậy to, phạt hắn cả đời không được nạp thiếp. Có điều chuyện này cũng không có gì là không thật cả. Vào năm Thành Hoá (Niên hiệu của vua Hiến Tông nhà Minh (1447487) - ND), khi ta vẫn còn là một tiểu binh ở Phúc Kiến đánh hải khấu, phía nam Mân Nam có một phu nhân, sau khi trượng phu mất đi thì muốn tuẫn tiết theo chồng. Họ hàng thân thích lấy đó làm vẻ vang, khua chiêng đánh trống tung hô ầm ĩ. Sau ba ngày, người phu nhân đó tay cầm hoa tươi, ăn mặc đẹp đẽ, ngồi ngay ngắn trong kiệu đến trước phần mộ trượng phu. Sau đó bà bước lên dàn treo đã được dựng sẵn từ trước rồi thắt cổ tự tử. Cảnh Thái đế (Niên hiệu của vua Đại Tông thời Minh (1428 – 1457) - ND) đã ban chỉ tặng thưởng lập Trinh Khiết bài phường, cả tỉnh được thơm lây. Khà khà, cái đền thờ đó chính là do bọn ta đã xây nên cho bà ta (Ở đây có thể tác giả nhầm lẫn về thời gian của hai vị hoàng đế Đại Tông và Hiến Tông - ND.)

Mã dịch thừa gật gù bảo:

- Đúng thế, lễ giáo sao có thể xem nhẹ được? Dương hiền điệt đã quá mềm yếu rồi. Những nữ tử như vậy đều là liệt nữ con nhà gia giáo, nếu mà là những nữ tử hoang đàng sao có thể tiết liệt như vậy được! Nhớ khi trước danh kỹ Từ Châu Quan Phán Phán được thủ soái Trương Âm nạp làm thiếp. Sau khi Trương Âm chết đi, ả đã không tuẫn tiết theo chồng, mà lại quay về Yến Tử lâu cũ của mình sống cô độc mười năm, vọng tưởng sẽ lấy được mỹ danh thủ tiết, thật đúng là mặt trơ mày tráo. Về sau Giang Châu Tư Mã viết một bài thơ vạch trần bộ mặt giả dối của ả, ả mới hổ thẹn tuyệt thực mười ngày mà chết . So với vị nữ tử trong vở tuồng này và vị thiếu phụ ở Mân Nam đó thật đúng là một trời một vực.

Ở kiếp trước Dương Lăng rất hay luyện chữ và quan sát mấy bảng chữ mẫu, cho nên biết Giang Châu Tư Mã này là ai. Có điều hắn không hiểu Bạch Cư Dị này tại sao đối với một ông lão bán than thì tỏ lòng thương hại, nhưng đối với một quả phụ ở góa thì lại có thái độ như vậy. Mà khi đó vẫn còn là triều Đường, triều đại có nếp sống cởi mở nhất Trung Quốc. Giờ đã trải qua triều Tống, triều đại xuất hiện "Tam tòng tứ đức" của lão phu tử họ Chu , khó trách nữ nhân bị đầu độc nặng đến như vậy.

Ngồi nghe ở một bên, Mã Liên Nhi rất lấy làm bất bình, không nhịn được bèn hừm một tiếng rồi chen vào nói:

- "Thập tái xuân đề biến oanh thiệt, tam hiềm lão sửu hoán nga mi." Nếu đó là ái thê chết theo trượng phu thì cũng không phải là không nên. Nhưng đã là hàng hóa để loại nam nhân này đem về làm thiếp, có thể trao đổi mua bán tùy ý thì rõ ràng là không tình nghĩa gì. Vậy mà còn muốn người ta tuẫn tiết đi theo, con làm nữ nhi cũng cảm thấy có phần quá đáng đó.

Nàng chính là đang nghĩ tới mấy câu thơ trong "Truy hoan ngẫu tác" trong tập thơ tự thuật kể lại chuyện phong lưu tao nhã của Bạch Cư Dị. Bài thơ kể rằng ông mua một nữ hài độ mười lăm, mười sáu về làm thiếp. Vui vẻ mới được ba năm, người ta cũng mới mười tám mười chín thì đã chê người ta già, xấu, thế là có nàng bị ông ta đem bán lại cho người khác, có nàng thì bị cho đi. Rồi ông ta lại mua về một "món hàng tươi tốt" khác. Mười năm thay đến ba lần, thành thử viết ra bài này để khoe khoang với chúng bạn.

Mã dịch thừa rất đỗi không vui, chỉ cảm thấy thật quá mất mặt khi con gái mình nói ra những lời này ở trước mặt mọi người. Ở đây có một vị Huyện lệnh, một vị Huyện thừa, còn có một kẻ đọc sách có công danh, vậy mà con gái mình lại nói ra mấy lời đại nghịch bất đạo đó, khó tránh khỏi người ta nghĩ rằng lão dạy dỗ không nghiêm. Cho nên mặc dù ngày thường lão thương yêu nhất là đứa con gái này, lúc này vẫn không nhịn được, bèn tát cho một cái, mắng rằng:

- Hỗn láo, nói gì thế hả? Từ thời Cao Thái Tổ hoàng đế đến nay, bổn triều vốn luôn coi trọng nhất là phong giáo. Để biểu dương tiết phụ, quả phụ dưới ba mươi tuổi mất chồng mà đến năm năm mươi tuổi vẫn không cải giá thì treo biển trước cổng làng, miễn trừ sai dịch cho người trong tộc. Đó là vinh dự đến cỡ nào chứ? Tiết liệt trinh thao vốn là bổn phận. Thường có câu "một ngựa không kết hai yên, một chân khó đạp hai thuyền," cho nên một nữ không hầu hai chồng, cũng giống như bọn ta một thần không thờ hai chủ. Cái đức của nữ nhân mặc dù là ở sự dịu dàng, nhưng những tiết lưu danh đều là về sự trinh liệt. Những lời ta giáo huấn ngươi đều quên hết rồi hay sao?

Mã Liên Nhi xưa nay rất được phụ thân cưng chiều, cho nên khi nàng nghe bọn họ nói về nữ nhân như một thứ đồ chơi riêng của nam nhân thì không nhịn được mà mở miệng phản bác. Ai ngờ phụ thân lại tát cho nàng một bạt tai ở trước mặt người ngoài nên vừa giận vừa xấu hổ, nàng che mặt bật khóc, đứng dậy bỏ chạy đi.

Mã Ngang thấy phụ thân phát hỏa cũng không dám khuyên nhủ, muốn đuổi theo muội muội nhưng lại sợ phụ thân nổi giận nên lưỡng lự ngồi yên. Mã dịch thừa nổi giận đùng đùng phất tay nói:

- Để cho nó đi, chúng ta cứ uống rượu thôi! Nó đúng là được ta nuông chiều quá đâm hư, mấy lời như vậy cũng nói ra được.

Dương Lăng không khỏi sửng sốt. Mã Liên Nhi có chỗ nào nói sai đâu, sao Mã dịch thừa lại nổi nóng lên như vậy. Mẫn huyện lệnh cũng cho rằng đây là chuyện đương nhiên nên không khuyên can thêm. Dương Lăng đứng dậy nói:

- Mã tiểu thư hẳn là chỉ thương tiếc cho Quan Phán Phán, nàng ta tuyệt thực chết đi khiến cho thế gian mất đi một bậc tuyệt đại phong hoa, vì vậy mới xúc động bày tỏ mà thôi. Bá phụ chớ nên tức giận! Bây giờ trời cũng đã tối, Mã tiểu thư một mình đi ra ngoài rất nguy hiểm. Xin hãy để tiểu điệt khuyên nàng trở về!

Mặc dù cảm thấy những lời đó của con gái làm cho mình hết sức mất mặt nhưng dẫu gì cũng cha con tình thâm, nên dù miệng có nói dữ nhưng trong lòng Mã dịch thừa lại lo lắng. Thấy Dương Lăng nói khách khí như thế, mặt lão lập tức dịu lại:

- Vậy đành vất vả cho Dương hiền điệt rồi.

Dương Lăng chắp tay chào mấy người Mẫn đại nhân và Mã dịch thừa, rồi nhanh chóng đuổi theo Mã Liên Nhi. Nàng đang đứng dưới chiếc đèn lồng đỏ treo trước cửa rạp hát, thẫn thờ nhìn lên bầu trời. Nhẹ cả lòng, Duơng Lăng dừng chân, rồi chậm rãi bước tới nói:

- Mã tiểu thư, cô hãy quay lại đi! Lệnh tôn cũng chỉ vì lo mấy lời đó của cô bị người khác nghe thấy, ảnh hưởng đến thanh danh của cô thôi. Đó chính là thương càng nhiều thì mắng càng dữ, cô cũng đừng quá tức giận!

Mã Liên Nhi ngẩng đầu nhìn chòm sao lấp lánh trên trời, khẽ nói:

- Ở trong thiên hạ này, rốt cuộc nữ nhân bị coi là thứ gì? Nữ nhân tuẫn tiết theo chồng là nữ nhân tốt, được ca ngợi, được biểu dương. Tiết liệt của nữ nhân chứng tỏ mỹ đức của nàng, càng chứng tỏ sự vĩ đại của nam nhân, chỉ ra rằng hắn xứng đáng được nữ nhân hy sinh cho hắn. Nhưng đến cùng thì hắn đã làm được gì cho nữ nhân? Coi nữ nhân như tài sản riêng của nam nhân, không chỉ đối với thiếp, mà cả thê cũng như vậy. Ta nghe kể ba kẻ kết nghĩa vườn đào trong "Tam quốc", chuyện đầu tiên họ làm là giết sạch cả vợ con. Đối đãi với thê tử như thế, bọn họ liệu còn có tình cảm hay không? Lưu Bị coi vợ mình là y phục, gã thợ săn Lưu An xem vợ mình như đồ ăn, giết đi để đãi khách. Những kẻ này là người hay là dã thú? Nước thì phải trong, nữ thì phải sạch. Huynh có biết không, mẹ ta... đã bị chính cha ta ép chết đó. Lúc bấy giờ cha vẫn còn là một binh sĩ, một mình mẹ nuôi ca ca và ta sống rất là cực khổ. Về sau bọn cướp trên núi gần đó kéo xuống cướp bóc, mẹ đã đem giấu ta và ca ca ở trong một hang nước, nhờ vậy mới thoát được một kiếp nạn. Bọn cướp cưỡng gian bà, sau lại nảy chút lòng tốt hiếm hoi mà không giết chết. Kết quả là mẹ ta không chết dưới đao của đám cướp, mà lại bị chết bởi những ánh mắt khinh bỉ của cha, của bọn đàn ông hèn nhát chỉ biết chạy trốn giữ lấy mạng mình.

Dương Lăng trầm mặc một lúc rồi khẽ thở dài:

- Trong lòng có thiên lý thì dục vọng ắt bị diệt. Chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết là chuyện lớn. Lời của Chu Hy Chu phu tử chưa chắc đã đúng, nhưng vì thiên hạ này là thuộc về nam nhân, thế nên nó lại đúng!

Rồi y nhớ đến thời đại của mình, lắc đầu bảo:

- Không những đúng cho bây giờ, mà mấy trăm năm sau này, nam nhân có lắm người vẫn tin thờ vào nó. Có điều, thứ đạo lý này lại chỉ đặt ra dành riêng cho phụ nữ.

Mã Liên Nhi cười nhạt:

- Chu Hy ư? Lão ta mở miệng ra là "thiên lý", ngậm miệng lại thì "đạo học", nhưng lại đi dụ dỗ hai ni cô làm sủng thiếp, cả nàng dâu góa cũng bị lão đùa bỡn trong tay. Thật đúng là chuẩn mực của đạo đức, là tấm gương của kẻ đọc sách. Rõ nực cười!

Dương Lăngbiết lễ giáo đại phòng (chuẩn mực lễ giáo) là được phát triển mạnh xuất phát từ Chu Hy nhà Tống, kể từ đó nữ nhân tuẫn tiết mới mọc ùn ùn lên như nấm, chứ đâu biết Chu Hy còn có những chuyện "phong lưu" như vậy.

Hắn đành gượng cười:

- Trong cái thế giới này tiếng nói của nam nhân mới có trọng lượng, thế nên yêu cầu về đạo học đối với nam và nữ có sự khác nhau cũng không có gì là lạ. Ví như nam nhân bị sỉ nhục đến tôn nghiêm, khi đó cứ nếm mật nằm gai, nhẫn nhục chịu đựng miễn sao tương lai hắn báo thù được thì sẽ nở mày nở mặt. Không ai cần quan tâm hắn đã từng vô sỉ như thế nào, cho dù hắn có chủ động nịnh hót liếm gót ai. Còn nữ nhân ư, có bị cưỡng bách đến thất tiết cũng đã là tội không thể tha!

Mã Liên Nhi bất chợt quay đầu, ánh mắt như hai vì sao lấp lánh kinh ngạc nhìn Dương Lăng. Một lúc sau nàng mới nói:

- Nam nhân thời nay, đặc biệt là những kẻ đọc sách, có thể nói ra được những lời này thì huynh chính là người đầu tiên mà ta biết. Ta thật nghĩ không ra huynh tuổi còn trẻ, lại đọc những thứ "sách thánh hiền" đó đã lâu, thế mà lại có kiến thức như vậy. Đáng tiếc ... thật sự đáng tiếc ...

Dương Lăng không kìm được hỏi:

- Đáng tiếc gì?

Mã Liên Nhi quay đầu đi, cất giọng xa xăm:

- Hoàn quân minh châu song lệ thùy, hận bất tương phùng vị giá thì ... (Trả ngọc chàng, lệ như mưa. Hận không gặp gỡ khi chưa có chồng.)

Dương Lăng nghe mà trống ngực đập thình thịch, không khí giữa hai người bất chợt trở nên trầm lặng. Sau một hồi lâu y mới cố nặn ra một nụ cười, buông một câu nói đùa để xoa dịu bầu không khí:

- Mặc dầu chúng ta nhờ viên minh châu kia mà có duyên gặp gỡ, nhưng ta chưa hề tặng minh châu cho cô, xin tiểu thư chớ nên nhầm lẫn!

Mã Liên Nhi phì cười một tiếng, xoay đầu trừng ánh mắt quyến rũ liếc y, rồi mím môi, đỏ mặt lấy can đảm nói:

- Đó là do huynh không có phúc khí!

Nhìn ánh đèn rọi xuống sống mũi cao cao của y, trống lòng Mã Liên Nhi chợt đập rộn lên. Nàng lại quay đầu đi, chỉ cảm thấy có một cảm giác diệu kỳ lan tỏa ra giữa hai người.

Khẽ quẹt vệt nước mắt lạnh ngắt trên má, nàng nói:

- Ai đối xử tốt với ta thì ta sẽ đối xử tốt lại với người đó. Từ sau khi mẹ mất đi, Mã Liên Nhi ta cảm thấy trên đời này không có một nam nhân nào đáng để nữ nhân chúng ta phải hy sinh nhiều đến như vậy. Ta sẽ không làm những chuyện ngu xuẩn như ả tiết phụ trên sân khấu ấy đã làm đâu. Ta sẽ sống tốt vì bản thân mình!

Dương Lăng đắm say trong cái thần thái mỹ lệ kết hợp với sự tự tin và dũng cảm của nàng, mãi một lúc sau mới khẽ thở dài:

- Cô được sinh ra quá sớm, đáng lẽ phải sinh trễ hơn năm trăm năm, thật đấy!

Mã Liên Nhi trợn tròn cặp mắt xinh đẹp, lấy làm lạ hỏi:

- Huynh không cảm thấy những lời ta nói là đại nghịch bất đạo, kinh hãi thế tục sao? Nói như vậy chẳng lẽ năm trăm năm sau thì sẽ không có chuyện đó nữa hả?

Dương Lăng trong lòng chợt hoảng, vội cười ha hả nói:

- Ta chỉ nghĩ có lẽ lúc đó sẽ có một bộ phận nam giới coi nữ nhân là một thực thể độc lập mà đòi hỏi bình đẳng cho bọn họ. Ha ha, cũng chỉ là suy đoán lung tung, xúc động bộc phát mà thôi.

Mã Liên Nhi khẽ cười, thò tay vào trong ngực lấy ra một chiếc túi, bước lên mấy bước đặt vào trong tay Dương Lăng, nói:

- Ta có thể thấy phu nhân của huynh rất yêu thương huynh. Viên minh châu này hãy coi là lễ vật ta tặng cho hai người. Chỉ mong huynh hãy đối đãi vợ mình thật tốt, chớ có xử tệ với cô ấy.

Chiếc túi ở trong tay hắn vẫn còn vương chút hương thơm và hơi ấm của thân thể nàng. Mã Liên Nhi thấy hắn cứ đứng ngây ra liền cười khúc khích, vén tóc lên rồi nói:

- Đi thôi, chúng ta quay lại thôi. Ta chỉ là thương tâm chứ không hề có oán giận. Chuyện này dù sao có nói cũng chẳng nói rõ ra được. Nỗi lòng nữ nhân, nam nhân các huynh có mấy ai mà hiểu được chứ?

Liếc qua khóe mắt phát hiện thấy Hoàng huyện thừa đã chạy theo ra đến nơi, nàng vội rút tay lại rồi bước trở vào.

Mãi một lúc sau Dương Lăng mới tỉnh ra, xoay người đi theo. Hắn thấy Huyện thừa Hoàng Kỳ Dận đang cười với mình đầy thâm ý, đưa tay ra dấu mời vào. Hắn cũng khẽ cười, chắp tay đáp lại. Hai người không nói lời nào nhưng lại như thân thiết vô cùng.

-----------------------------

Chú thích:

Quan Phán Phán: còn có tên là Quan Miến Miến, là một danh kỹ đất Từ Châu đời nhà Đường,khoảng niên hiệu Trinh Nguyên và Nguyên Hòa (785—820), được Thượng Thư Trương Kiến Phong nạp làm thiếp - ND

Trương Âm, tên thật là Trương Kiến Phong, Thượng thư nhà Đường. Năm Trinh Nguyên thứ 15, làm Tiết Độ Sứ ở Vũ Ninh, trấn Thủ Từ Châu - ND

Giang Châu Tư Mã tức Bạch Cư Dị (77246), tự là Lạc Thiên (樂天), hiệu là Hương Sơn cư sĩ là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Đường. Do hạch tội việc tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, nhóm quyền thần cho là ông vượt qua quyền hạn, đày làm tư mã ở Giang Châu. Giai đoạn từ năm 821 tới năm 824 làm thứ sử Hàng Châu, năm 825 làm thứ sử Tô Châu, sau được triệu về kinh làm Thái Tử thiếu phó. Năm Hội Xương thứ 2 (842) về hưu với hàm thượng thư bộ Hình, sau mất tại Hương Sơn, Lạc Dương. (ND trích Wikipedia)

Câu chuyện này có sự tích như sau: Bạch Cư Dị lúc còn làm Hiệu thư lang, tới vùng Hoài Tứ, được Trương thượng thư (tức Trương Kiến Phong) mời ăn tiệc. Lúc rượu say, Thượng thư gọi Miến Miến (Quan Phán Phán) ra ca múa giúp vui. Mười hai năm sau, nghe tin Trương thượng thư đã chết, phủ đệ cũ ở Bành Thành có một ngôi lầu nhỏ gọi là Yến Tử lâu. Miến Miến nhớ lòng yêu dấu của Thượng thư ngày trước nên không lấy chồng, về ở lầu ấy hơn mười năm. Ông (Bạch Cư Dị) tặng nàng một bài thơ tứ tuyệt:

Hoàng kim bất tích mãi nga my,

Giản đắc như hoa chỉ nhất chi.

Ca vũ giáo thành tâm lực tận,

Nhất triêu thân tử bất tương tuỳ

Dịch nghĩa:

Không tiếc vàng, bỏ ra mua gái mày ngài,

Chọn được ba bốn cô nàng đẹp như hoa.

Dạy cho họ biết hát múa, hơi sức ông kiệt quệ,

Một sớm đem thân ra đi, chẳng cô nào theo!

Dịch thơ:

Mua gái mày xanh chẳng tiếc vàng,

Như hoa khéo chọn mấy cô nàng.

Dạy cho múa hát bao công sức,

Một sớm về âm chẳng kẻ màng!

Miến Miến đọc đi đọc lại, khóc nói "Từ khi Trương công mất, thiếp không phải không dám chết, nhưng lại sợ trăm năm sau, người đời cho rằng công chuộng sắc đẹp nên có thê thiếp chết theo, lại làm nhơ đức tốt của công, đành gượng mà thôi". Bèn làm bài họa lại Bạch công như sau:

Độc túc không lâu liễm hận my,

Thân như xuân hậu trí tàn chi.

Xá nhân bất giải nhân thâm ý,

Phúng đạo tuyền đài bất khứ tuỳ.

Dịch:

Ở chốn lầu hoang héo mặt mày

Sau Xuân thân khác tựa cành cây

Hiềm vì chẳng kẻ tri âm hiểu

Trách chẳng cùng theo xuống dạ đài

Rồi nàng nhịn ăn uống, mười ngày sau thì chết.

Chu Hy (朱熹, 1130200) là một nhà tư tưởng nổi tiếng nhất đời Tống. Sự tổng hợp tư tưởng Khổng giáo với Phật giáo và Đạo giáo (道教) của ông cùng với các tư tưởng khác đã trở thành hệ tư tưởng chính thức của triều đình từ cuối thời nhà Tống tới cuối thế kỷ 19. Vì được kết hợp với khoa cử (科舉), triết lý Chu Hy liên quan tới tín điều chính thức cứng nhắc, bắt buộc sự tuân phục mù quáng từ một phía của dân chúng đối với nhà cai trị, con với cha, vợ với chồng, em với anh. Hậu quả làm kìm hãm sự phát triển xã hội của nước Trung Hoa tiền hiện đại, dẫn tới sự phát triển chậm chạp của nhiều thế hệ chính trị xã hội và sự ổn định tư tưởng dẫn tới sự trì trệ văn hoá cho tới tận thế kỷ 19. Học thuyết lý học Khổng giáo mới cũng đóng vai trò quyết định trong đời sống trí thức tại Triều Tiên, Việt Nam, và Nhật Bản. (ND sưu tầm)

Lưu An là một nhân vật trong Tam Quốc Diễn Nghĩa. Truyện kể lúc Tiểu Bái bị Lữ Bố chiếm cứ, Lưu An đã thu nhận và giúp đỡ Lưu Bị đang lánh nạn. Vì trong nhà không có gì ăn nên đã giết vợ làm thức ăn cho Lưu Bị.

Hai câu thơ nổi tiếng này được trích trong bài "Tiết phụ ngâm", được viết bởi Trương Tịch, hàm ý cự tuyệt yêu cầu kết thông của tư đồ Lý Đạo Sư, về sau thường được nhiều người trích dẫn nhằm từ chối mối thâm tình của một người dành cho mình. Bài thơ như sau:

Quân tri thiếp hữu phu,

Tặng thiếp song minh châu

Cảm quân triền miên ý

Hệ tại hồng la nhu.

Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,

Lương nhân chấp kích Minh - Quang lý

Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt;

Sự phu thệ nghĩ đồng sinh tử.

Hoàn quân minh châu song lệ thùy,

Hận bất tương phùng vị giá thì.

Bản dịch của Ngô Tất Tố:

Chàng hay em có chồng rồi

Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành

Vấn vương những mối cảm tình

Em đeo trong áo lót mình màu sen

Nhà em vườn ngự kề bên

Chồng em chấp kích trong đền Minh – Quang

Như gương, vâng biết lòng chàng

Thờ chồng quyết chẳng phụ phàng nghĩa xưa

Trả ngọc chàng, lệ như mưa

Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 15: Hiểu lầm viên trân châu

Dù Mã Liên Nhi đã quay lại, nhưng vì chuyện lúc nãy nên bầu không khí cũng có căng thẳng hơn. Mẫn đại nhân và Mã dịch thừa không còn hứng thú tán gẫu nữa, chuyển sang bàn chuyện công vụ. Hoàng huyện thừa ngồi bên chỉ mỉm cười lắng nghe, họa hoằn lắm mới chêm lời vào.

Dương Lăng là thuộc hạ, cũng là vãn bối nên đương nhiên phải đảm trách việc mời rượu và giữ cho bầu không khí vui vẻ, khó tránh khỏi uống nhiều, mãi đến khuya mới cáo từ ra về.

Tuyết lại lất phất rơi, cơn gió lạnh cuốn theo những bông tuyết lùa vào cổ áo. Dương Lăng đã uống đến mặt nóng phừng phừng, đầu óc chuếnh choáng. Giấu hai tay vào trong ống tay áo, y khẽ ngâm nga một ca khúc hiện đại đã quên mất tựa, khoan thai rẽ bước vào con hẻm nhà mình.

Về đến nhà, y định gõ cửa, nào ngờ vừa đưa tay lên khẽ đẩy thì cánh cửa đã mở ra rồi. Trong nhà le lói ánh đèn, Hàn Ấu Nương đang ngồi chống cằm trước chiếc bàn thấp, có vẻ rất buồn ngủ. Vừa nghe thấy tiếng động nàng liền ngẩng đầu nhìn, thấy y bước vào thì hết sức vui mừng đứng dậy đón.

Dương Lăng ngạc nhiên nhìn nàng:

- Ấu Nương, trễ như vầy ta tưởng nàng ... ngủ rồi.

Y lướt nhìn quanh, thấy dưới bếp lò vẫn còn chút tro lửa lập lòe, hơi nước vẫn nhẹ bốc lên trên nắp nồi. Hàn Ấu Nương bước tới giúp y phủi tuyết trên người, khẽ nói: "Công việc của tướng công bận quá thì phải? Ấu Nương định đến nha môn hỏi thăm, nhưng lại sợ người ta cười nên đành ngồi nhà đợi chàng về."

Dương Lăng nghe thế thì cảm thấy rất xấu hổ, ấp úng giải thích: "À ... Mẫn đại nhân hẹn ta cùng đi dự tiệc, đi gấp quá nên không kịp báo cho nàng một tiếng. Cô bé ngốc, làm gì mà đợi lâu như vậy, đi nghỉ luôn đi có phải tốt hơn không. Nàng ... ăn cơm chưa?"

Hàn Ấu Nương ngửi thấy miệng Dương Lăng nồng nặc mùi rượu, cũng biết là y đã đi chè chén tiệc tùng, nhưng nghe giải thích xong nàng mới thấy nhẹ nhõm. Dìu Dương Lăng đến đầu giường, để y ngồi xuống, rồi nàng cúi người giúp y cởi giày, phủi tuyết dính trên đó, còn đem hơ bên bếp lò. Sau đó nàng lại đi rót một bát nước đem đến cho y:

- Tướng công, nước ấm đấy, chàng uống một chút cho thấm cổ. Hầu hạ cho tướng công ngủ xong Ấu Nương sẽ đi ăn.

Dương Lăng nghe vậy, lại nhớ đến vở kịch đã xem tối nay, không cầm được lòng mà nắm lấy tay nàng, thở dài nói:

- Ấu Nương à, nàng là nương tử của ta chứ không phải là nô bộc, nàng không nên hầu hạ ta thế này. Ài, nàng còn nhỏ, lại đáng yêu như vậy, phải được thương yêu cưng chiều mới đúng.

Nghe y nói thế, khuôn mặt Hàn Ấu Nương thoáng ửng đỏ. Thẹn thùng rút tay lại nhưng không được, nàng đành để yên cho y nắm, giọng cảm động:

- Tướng công rất ... rất ...

Chữ "yêu" ngượng ngùng không thốt lên được, nàng chỉ dám nói:

- Tướng công đối xử với thiếp rất tốt, mà nữ tử bọn thiếp vốn nên hết lòng hết sức hầu hạ cho phu quân của mình, có quan hệ gì với nô tì đâu chứ? Tướng công thương Ấu Nương, Ấu Nương biết rất rõ, nhưng tướng công không nên quá cưng chiều thiếp, sẽ làm hư thiếp đó.

Dương Lăng không khỏi bật cười. Thời này là vậy, mình cứ gắng gượng truyền bá lại những quan niệm của thế kỷ thứ hai mươi mốt chỉ sợ sẽ làm cho nàng sợ thêm. Mấy thứ như lễ giáo đại phòng (chuẩn mực của lễ giáo), phu vi thê cương (vợ phải nghe chồng) là thứ nam nhân dùng để đầu độc nữ tử, nhưng trăm ngàn năm nay, nữ nhân không những tự giác phục tùng những quan niệm này, mà còn cho rằng nó là lẽ đương nhiên, thậm chí còn đề cao nó lên.

"Nữ Giới," "Nữ Huấn" gì gì đó đại đa số là được viết bởi nữ nhân, lấy chúng làm chuẩn mực cho nữ nhân trong thiên hạ. Người bươn chải ra ngoài tìm việc làm ở hàng may như Ấu Nương đã là cực hiếm rồi, phụ nữ thời này phần đông chỉ ở nhà phụ chồng dạy con. Nếu cấm nàng hầu hạ phu quân, chẵng lẽ muốn nàng xây dựng sự nghiệp cho bản thân sao? Nghĩ như vậy làm Dương Lăng cảm thấy thoải mái hơn khi tận hưởng sự dịu dàng hầu hạ của nàng.

Thấy Dương Lăng ngáp mấy cái, cặp mắt lờ đờ, Hàn Ấu Nương vội giúp y cởi áo ngoài, bảo:

- Tướng công, chàng hãy cởi áo rồi đi nghỉ trước đi!

Dương Lăng buồn ngủ ừm một tiếng, nương theo tay nàng cởi bỏ áo ngoài, sau đó kéo gối lại xoay mình nằm xuống ngủ, miệng lẩm bẩm:

- Thật không thức nổi nữa rồi. Nàng hãy mau ăn cơm rồi cũng ngủ đi nhé!

Hàn Ấu Nương vâng một tiếng, cầm lấy cổ áo giũ giũ để xếp lại. Chợt nghe "cạch" một tiếng, từ trong áo rơi ra một vật, Hàn Ấu Nương hiếu kỳ nhặt lên xem. Dưới ánh đèn dầu, nàng thấy rõ đó là một chiếc túi thơm tinh xảo, kiểu dáng dành cho nữ, chẳng những được may tinh tế bằng chất liệu cao cấp, mà còn thoang thoảng mùi thơm. Khuôn mặt nàng tái hẳn đi.

Tay nàng run ghê gớm, muốn mở nó ra xem, nhưng đồng thời cũng chẳng muốn biết, vậy có thể lừa mình lừa người mà coi như chuyện này chưa từng xảy ra. Do dự một hồi lâu, cuối cùng nàng không kềm nổi sự tò mò, nhẹ nhàng mở chiếc túi, lấy từ bên trong ra một hạt trân châu óng ánh bóng loáng.

Dưới ánh đèn phản chiếu, màu sắc viên trân châu đẹp đẽ vô cùng. Hàn Ấu Nương không khỏi tròn xoe mắt, bụng bảo dạ: "Đẹp quá, nó chính là trân châu mà người ta thường nói đến sao? Tướng công làm thế nào mà có vật này, còn được đựng trong túi thơm của nữ nhân nữa. Chàng... chàng có nữ nhân khác ở bên ngoài rồi sao?"

Vừa nghĩ đến khả năng duy nhất này, Hàn Ấu Nương cảm thấy đau đớn không thôi. Thảo nào khỏi bệnh rồi mà phu quân vẫn chưa thực hiện cái "lễ vợ chồng" với mình. Lúc sắp xuất giá, bà thím có dạy qua cho mình, nói là phu thê phải ... phải làm chuyện ấy thì mới trở thành phu thê. Chiếc khăn trắng thím ấy đưa cho mình để nghiệm hồng (kiểm tra máu trinh) vẫn còn cất trong rương.

Lòng nàng hoảng loạn: "Chẵng lẽ phu quân không chỉ phong lưu bên ngoài mà còn muốn... kiếm cớ đuổi mình, thế nên mới không gần gũi mình sao? Nhìn cái túi thơm và viên châu bảo này cũng biết nữ tử đó gia cảnh nhất định chẳng phải tầm thường, nếu như phu quân yêu mến ả, hẳn sẽ không nạp về làm thiếp. Mình cứ nghĩ vì chàng mới khỏi bệnh nên không thích thú chuyện ấy, mình là con gái, chàng đã không đề cập đến thì dĩ nhiên mình chẳng thể mở miệng được. Nào ngờ chàng lại... lại..."

Dương Lăng mơ mơ màng màng kéo chăn đắp, khó chịu vì đi ngủ mang vớ dài không được thoải mái. Y cởi vớ ra, vất chúng sang một bên thì phát hiện thấy vẫn còn ánh đèn lập loè. Tình cờ ngoảnh đầu lại, y thấy Hàn Ấu Nương đang ngồi bên mép giường, lưng quay về phía mình, bờ vai yếu mềm đang run lên từng chập, còn thoáng nghe có tiếng thút thít.

Tình cảnh này khiến cho men rượu trong người Dương Lăng vơi hết mấy phần. Y vội vàng trở mình ngồi dậy, xoay vai Hàn Ấu Nương lại thì thấy nước mắt long lanh như ngọc rơi từng hàng trên khuôn mặt nhỏ nhắn của nàng. Tiếng nức nở rất thương tâm làm y vội dịch sát đến, ôm chặt lấy bờ eo mảnh mai của nàng, xót xa thốt lên:

- Ấu Nương, sao nàng lại như thế này? Nàng có chuyện gì mà đau lòng đến vậy?

Hàn Ấu Nương vội lau nước mắt, ngoảnh mặt đi khẽ nói:

- Có phải tướng công hiềm Ấu Nương hầu hạ không chu đáo nên muốn... muốn ruồng bỏ Ấu Nương phải không?

Dương Lăng thấy nàng khóc rất tội nghiệp, tim y cũng cảm thấy đau nhói, vội phân trần:

- Ấu Nương, sao nàng lại nói thế? Những ngày nàng theo ta phải chịu đựng biết bao cực khổ, vậy mà chẳng oán trách gì. Điều ấy Dương Lăng ghi khắc trong tim, sao có thể làm những chuyện như thế chứ?

Hàn Ấu Nương xòe bàn tay ra, u uất nói:

- Tướng công, nếu không phải như vậy, hạt châu này từ đâu mà có? Chàng ... chàng đừng dối thiếp nữa!

Nhìn viên trân châu, Dương Lăng mới giật mình hiểu ra. Y cười ha hả, ôm chặt lấy bờ vai mảnh khảnh của Ấu Nương, nhưng nàng cứ khăng khăng vùng ra. Từ nhỏ nàng đã luyện võ công, nếu lúc này thật sự muốn phản kháng, Dương Lăng chắc chắn sẽ không giữ được nàng.

Từ lúc Dương Lăng gặp nàng đến nay, nàng vẫn luôn hết mực nhu mì, chẳng hề có chút nào không vâng lời, tính cách thật không như một nữ tử hoạt bát sống động. Giờ nàng bộc lộ chút dỗi hờn, y lại cảm thấy hết sức thú vị, mặt dày ôm lấy vai nàng một lần nữa. Hàn Ấu Nương vùng vằng mấy cái, Dương Lăng càng ôm chặt thêm, Hàn Ấu Nương liền thôi không dùng sức nữa, chỉ quẫy vai lấy lệ, quay đầu không nhìn mặt y.

Dương Lăng nhón lấy viên trân châu, cười ha hả:

- Ấu Nương, viên trân châu này có đẹp không? Sắp đến Tết rồi, để ta tìm thợ xuyên sợi dây qua cho nàng đeo cổ có được không nào?

Hàn Ấu Nương quay đầu lại, kinh ngạc hỏi:

- Hạt châu này ... là cho thiếp ư?

Dương Lăng nháy nháy mắt, vờ làm ra vẻ kì quái hỏi:

- Không cho nàng chẵng lẽ cho ta? Nàng có thấy nam nhân nào đeo cái thứ này chưa?

Hàn Ấu Nương đỏ lựng cả mặt, nhưng nhớ đến chiếc túi thơm, vẫn không nhịn được bèn ấp úng hỏi:

- Nhưng mà ... nhưng mà chiếc túi thơm này ... tướng công, không phải chàng đã có nữ nhân ở bên ngoài chứ?

Dương Lăng giật thót người, nhớ lại khuôn mặt xinh xắn của Mã Liên Nhi. Mặc dù hai người không có tư tình gì bí mật, nhưng Mã Liên Nhi rất có tình ý đối với y, và y thật ra cũng rất thích cô gái xinh đẹp ấy. Trong lòng hơi hoảng nên y kéo chiếc áo ở phía mép giường lại, lục lọi bên trong lớp áo kép một hồi rồi lấy ra mấy đĩnh bạc trắng, bảo:

- Ồ ... nàng nói đến cái này à. Ta uống nhiều rượu, chỉ muốn đi ngủ cho nên vẫn chưa kịp nói với nàng. Thực ra hôm nay Mã dịch thừa vì được ta giúp đỡ xử lý vụ kiện nên đã mời Mẫn đại nhân và ta đi uống rượu. Trong bữa tiệc ông ấy có biếu ta bốn mươi lạng bạc để cảm ơn. Cái túi thơm và viên trân châu là lễ vật mà Mã tiểu thư, người đã tới nhà chúng ta ngày hôm đó, tặng riêng cho nàng. Nàng chớ có hiểu lầm!

Hàn Ấu Nương trước giờ nào đã thấy đĩnh bạc lớn như vậy: bốn mươi lạng bạc chất lượng thượng hạng, đó quả là một con số khổng lồ. Nàng tròn xoe mắt kinh ngạc thốt lên:

- Trời ạ, tướng công chẳng qua chỉ nghĩ giúp cách cho ông ta thôi mà đã được tạ lễ nhiều như vậy sao?

Dương Lăng nhét ngân lượng vào tay nàng, cười nói:

- Nương tử hãy cất đi! Giờ thì yên tâm, không còn buồn phiền gì nữa rồi nhé!

Đĩnh bạc trong tay lạnh ngắt, nặng trĩu. Hàn Ấu Nương bị y trêu đến đỏ cả mặt. Nàng cắn môi, con tim hoảng loạn đã yên ổn lại đến tám phần. Nàng nghĩ bụng, giờ trượng phu vẫn còn say, ngày mai chưa chắc còn nhớ chuyện đêm nay. Có vài chuyện sao mình không nhân tiện hỏi luôn một lần cho rõ ràng, cũng để lòng khỏi phải lúc nào cũng thấp thỏm không yên. Chủ ý đã định, nàng chợt đặt bạc xuống, đưa ống tay áo lên che mặt, ngượng ngùng nói:

- Ấu Nương ... Ấu Nương có một câu muốn hỏi tướng công, xin tướng công chớ chê cười thiếp!

Dương Lăng lấy làm lạ, hỏi:

- Chuyện gì vậy? Được rồi, hôm nay Ấu Nương đại nhân cứ thăng đường xét hỏi, Dương mỗ đây biết thì sẽ nói, nói sẽ nói hết. Đại nhân xin cứ hỏi đi!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 16: Lời bịa đặt đáng yêu

Hàn Ấu Nương nghe xong cảm thấy buồn cười, nhưng những lời muốn hỏi thì lại xấu hổ chết đi được. Nàng ngập ngừng một lúc lâu, đến khi không nhịn nổi nữa thì mới mở miệng lí nhí hỏi:

- Tướng công, thiếp... được gả vào nhà họ Dương đến nay đã gần được một năm. Tướng công vốn... vốn dĩ mang bệnh trên người, nên thiếp cũng không thể nói ra, nhưng mà...

Đến đây nàng lại bắt đầu quanh co:

- Nhưng mà... đến bây giờ... vì sao tướng công vẫn không cùng thiếp thực hiện thủ tục của đạo phu thê?

Dương Lăng hốt hoảng trong lòng: "Đến rồi đây, rốt cuộc nha đầu này cũng đã hỏi. Ha! Không phải là nàng ta hoài nghi thân thể mình có bệnh tật gì đấy chứ?"

Ài, đừng nói cô bé này còn nhỏ tuổi, Dương Lăng không phải là không có cảm giác với nàng ấy, nhưng là một người của thời hiện đại, thủy chung y không thể nhẫn tâm chiếm đoạt tấm thân hãy còn non nớt của nàng. Huống chi y còn mang máng nhớ rằng mình chết thường xuyên như cơm bữa, trong mấy lần chuyển thế trước chưa có lần nào sống quá hai tháng. Còn lần này thì .... có lẽ cũng được một tháng rồi.

Nghĩ đến đây, y không khỏi cảm thấy hơi chán nản. Mặc dù cuộc sống gia đình trong tám lần chuyển thế trước tốt hơn bây giờ rất rất nhiều, nhưng y lại thích cái cuộc sống giản dị an nhàn này và có phần yêu mến cô bé trẻ tuổi này. Có điều... không thể được. Nếu xâm hại nàng ấy xong, sau đó y lại bỏ mạng nữa thì chẳng phải là hại người ta rồi sao?

Giữ lại tấm thân trinh trắng cho nàng, tuy vẫn xem như là người đàn bà đã có chồng, nhưng trong tương lai nếu có đi bước nữa, vị hôn phu mới thấy nàng vẫn còn là xử nữ thì chắc hẳn sẽ đối xử với nàng tốt hơn một chút. Vả lại, nếu thực sự chiếm hữu nàng thì không khéo lại phát sinh tình cảm sâu đậm với nàng, đến lúc phải chết liệu y còn có thể ra đi thanh thản được không? Chẳng lẽ không cảm thấy đau lòng sao?

Y khẽ thở dài, nhẹ nhàng ôm lấy eo nàng, ghé miệng vào tai nói ra lý do mà y đã nghĩ ra để ứng phó trước đó:

- Ấu Nương, chuyện này ta chưa từng nói với một ai. Giờ ta kể cho nàng nghe, nàng ngàn vạn lần chớ nên nói ra ngoài, được chứ?

Hàn Ấu Nương bị y ôm lấy eo, đặt tay lên bụng của mình, nàng vốn đã căng thẳng đến phát run cả người; giờ lại bị y thì thầm vào tai, hơi ấm phả lên má, chỉ cảm thấy toàn thân như có kiến bò. Nàng run giọng nói:

- Tướng công có điều gì xin cứ nói ra. Ấu Nương... Ấu Nương quyết không nói cho bất cứ người nào đâu.

Dương Lăng ừm một tiếng, rồi chợt hỏi:

- Ấu Nương, nàng nói xem... con người sau khi chết sẽ đi về đâu?

- Hả?

Hàn Ấu Nương ngẩn người, không nghĩ đến phu quân lại hỏi tới chuyện này. Nàng thản nhiên đáp:

- Con người chết đi, dĩ nhiên là sẽ phải xuống âm tào địa phủ, dựa vào âm đức tích được ở tiền thế mà sẽ tái nhập luân hồi.

Dương Lăng nói:

- Đúng vậy. Ấu Nương, ngày trước các thầy lang đều nói rằng ta đã chết, đặt vào trong quan tài một ngày, nhưng lại đột nhiên tỉnh dậy. Mọi người tưởng ta vì tắc đờm mà hôn mê, nhưng thật ra... linh hồn của ta đã bị Ngưu Đầu Mã Diện lôi đi rồi.

- Á!

Hàn Ấu Nương sợ đến nhảy dựng lên, vùng mạnh ra khỏi người y. Nàng quay lại tròn mắt nhìn y chằm chằm. Mặc dù người ở thời đại này tin rằng tồn tại một nơi gọi là Địa Ngục, nhưng suy cho cùng thì vẫn chưa có ai từng thấy qua, cho nên cảm thấy nó hết sức thần bí. Vậy mà bây giờ trượng phu của mình đã đi vào âm tào địa phủ, rồi lại cải tử hồi sinh, thật sự khiến cho người ta vừa cảm thấy kinh ngạc không nói nên lời, lại vừa có chút tò mò.

Dương Lăng trịnh trọng nói:

- Đáng lẽ ta đã bị phán quyết vào vòng luân hồi rồi, nhưng lúc ấy ta phát hiện ra vị thành hoàng ở đây không ngờ lại là ân sư tại cuộc thi tú tài. Phẩm hạnh cũng như học vấn của lão nhân gia hơn người, nên sau khi tạ thế đã trở thành vị thần của cõi âm, được bổ nhiệm làm thành hoàng của vùng này.

- Ồ, hóa ra người làm nhiều việc tốt ở trên nhân gian, sau khi chết đi thì có thể xuống âm phủ làm quan à?

Hàn Ấu Nương rất kinh ngạc, sớm đã gạt bỏ sự sợ hãi khi thấy trượng phu chết rồi mà vẫn có thể hoàn hồn trở lại, nàng không nhịn được tò mò hỏi.

Dương Lăng cười thầm trong bụng, gật đầu nói:

- Đúng vậy, ân sư vừa thấy liền mang trà mang rượu ra mời ta uống, nói là muốn đưa ta đầu thai vào một gia đình giàu có. Đúng vào lúc đó, ta cảm ứng được nàng đang bị trưởng bối gia tộc của ta hiếp đáp ở dương gian, trong lòng vô cùng tức giận. Ân sư vốn rất coi trọng ta, thấy cảnh đó liền thi triển thần thông để kéo dài tính mạng cho ta, đưa ta hoàn hồn trở lại, nhưng... trong vòng hai năm không được thân cận nữ sắc, bằng không pháp thuật sẽ lập tức mất linh.

Mấy câu nhảm nhí này không ngờ lại khiến Hàn Ấu Nương tin sái cổ. Nàng ngẫm nghĩ, đáng ra trượng phu được đầu thai vào một gia đình tốt để hưởng phúc, nhưng vì nàng mà trở lại dương gian, vậy mà mình còn nghi ngờ này nọ, cho nên trong lòng cảm thấy áy náy mãi không thôi.

Để tăng thêm tính chân thật cho lời nói của mình, Dương Lăng còn làm bộ than thở:

- Ôi, đây vốn... là thiên cơ, không thể kể cho ai biết được, nhưng ta sao nỡ để cho nàng thương tâm như vậy? Hôm nay nói cho nàng nghe, ta sẽ không thể tránh khỏi phải mất ba năm dương thọ rồi.

Hàn Ấu Nương nghe xong khóc oà lên. Mình thật là đáng chết, sao đang yên lành lại ép trượng phu tiết lộ thiên cơ làm chi, để bây giờ chàng bị giảm mất ba năm tuổi thọ, hoàn toàn đều là do mình hại cả. Nghĩ đến đây, Hàn Ấu Nương lòng đau như cắt, hối hận đến độ chỉ muốn đánh chết bản thân thì mới cam tâm. Nàng ôm chặt lấy y, bi thương nức nở không dứt, luôn miệng nói:

- Thiếp xin lỗi, thiếp xin lỗi. Phu quân, đều là do Ấu Nương không tốt. Trời ơi, thiếp thật đáng chết, vì thiếp nên chàng đã vứt bỏ chuyển thế vào vinh hoa phú quý, lựa chọn quay trở lại nhân gian. Vậy mà thiếp lại hại chàng đến nỗi... Hu hu hu... Thiếp thật là đáng chết!

Dương Lăng nói dối hết câu này đến câu khác xong, trong lòng liền cảm thấy áy náy không ngớt, hận không thể vả vào miệng mình một cái thật mạnh.

"Mày nói mày là cái thá gì chứ. Nói dối không đụng vào thân thể cô ấy vốn để tốt cho cô ấy. Theo thường lệ thì mày chắc sẽ không sống quá hai tháng, đến lúc đó lại chết đi. Chết rồi là hết, cớ sao lại nói cái gì mà lo lắng cho cô ấy nên mới quay lại nhân gian, rồi vì cô ấy mà bị giảm đi dương thọ. Tại sao lại nói những lời như vậy? Chẳng nhẽ mày còn muốn khiến cho cô ấy không thể xa rời mày hay sao?"

"Nhưng mà... tại sao thấy cô ấy coi trọng mày, không ngớt vì mày mà phải đau khổ khóc như vậy, mày lại có một cảm giác thích thú không giải thích được thế này. Mày kém cỏi và ích kỷ đến vậy sao? Vốn là mong còn chẳng được cô bé đáng yêu ấy sẽ chỉ chung tình với mày, nhưng vô hình chung những lời nói dối này lại khiến cô ấy cảm thấy phải mang ơn, thật là vô sỉ mà."

Y vội vàng tìm cách bù đắp cho nàng, cuống quýt nói:

- Ấu Nương, chớ nên đau lòng nữa. Ân sư nói ta có thể sống đến trăm tuổi mà. Bây giờ chẳng qua chỉ còn sống đến chín mươi bẩy tuổi thôi, cũng coi như sống dai hiếm thấy rồi, có gì mà phải đau lòng chứ? Thế nhưng... nếu như ta chết sớm, thì đó là do chuyện thành hoàng làm phép kéo dài tính mạng cho ta đã bị phán quan ở địa phủ phát hiện, vì vậy câu hồn ta về để sớm đưa đi đầu thai mà thôi. Cho nên... nếu như có ngày đó, nàng cũng chớ nên đau lòng. Nhờ công đức ở tiền thế, ta vẫn sẽ được hưởng phúc. Nhưng nếu nàng vì ta mà cực khổ thủ tiết, như vậy sẽ làm giảm công đức của ta. Nàng nhất định phải chiếu cố cho bản thân thật tốt, nếu có nhà nào tốt...

Miệng y đã bị bàn tay của Hàn Ấu Nương nhẹ nhàng bịt lại, đôi mắt đen láy đẫm lệ chớp chớp, trông xinh đẹp vô ngần. Nàng chỉ khẽ lắc lắc đầu, thỏ thẻ nói:

- Tướng công, đừng nói những lời này nữa, Ấu Nương nghe mà hoảng sợ.

Dương Lăng thở dài:

- Thôi được rồi, sống chết có số, phú quý do trời, ta sẽ không đề cập đến chuyện đó nữa. Nhưng mà... nàng phải nhớ kỹ, bất luận như thế nào cũng không được làm khổ bản thân. Chỉ cần nàng được hạnh phúc, thì khi đó bất luận là sống hay chết trong lòng ta mới an tâm.

Hàn Ấu Nương gật đầu, vòng tay ôm lấy lưng y, áp gò má lên ngực y, thì thầm:

- Tướng công, tướng công...

Nàng ôm thật chặt lấy Dương Lăng, như thể lo sợ tướng công mất đi sống lại này sẽ lại đột nhiên biến mất. Trong thâm tâm nàng đã quyết định, phu quân đối với mình tình thâm ý nặng, nếu như chàng đột nhiên mất sớm, quá nửa là tại mình ép chàng tiết lộ thiên cơ nên mới bị âm phủ phát hiện. Vậy cũng sẽ không cần vì chàng mà thủ tiết nữa, cứ theo chàng xuống thẳng địa phủ để cầu xin kiếp sau có thể tiếp tục hầu hạ chàng là được.

Nhưng Dương Lăng lại không hề biết những suy nghĩ ở trong đầu nàng, y chỉ biết gán hết thảy mọi thứ cho thiên mệnh; còn nói chết chính là đi hưởng phúc, nếu cô ấy sống tốt thì đó là tích đức cho mình. Cuối cùng coi như y cũng đã dẹp bỏ niềm tâm sự luôn canh cánh trong lòng về "người vợ góa tương lai", nhưng nào biết rằng y đã sớm bị âm tào địa phủ liệt vào danh sách những thành phần "cấm lai vãng" rồi. Muốn chết ư? Đâu có chuyện dễ dàng như vậy.

Dương Lăng xoa nhẹ tấm lưng nàng. Hình ảnh của cô bé thuỳ mị đáng yêu này càng lúc càng khắc sâu trong lòng y. Một thứ cảm giác tựa như thân tình, lại tựa như ái tình đang dần dần nảy sinh giữa bọn họ. Đêm khuya thanh vắng, hơi ấm từ chiếc lò sưởi đầu giường, một chút men say, một tấm thân mềm mại ôn nhu như nước đang rúc vào ngực y, tất cả khiến y cảm giác được cái mầm mống của tội ác ở dưới hạ thể đã bắt đầu nóng lòng muốn trỗi dậy.

Dương Lăng vội ho một tiếng, khẽ đẩy người nàng ra rồi nói yêu:

- Nha đầu ngốc, đừng có nghĩ ngợi lung tung nữa nghe chưa? Đến đây, cất kỹ chỗ bạc này rồi mau đi ăn cơm đi. Viên ngọc này hay là cứ để ta giữ cho, sáng mai ta lấy một sợi dây xỏ qua rồi đưa lại cho nàng sau.

- Không!

Hàn Ấu Nương đứng dậy cười thẹn thùng, thu lấy ngân lượng rồi ôm chiếc túi vào trong lòng:

- Viên ngọc này rất xinh đẹp, thật không nỡ. Xỏ lỗ qua thì tiếc lắm.

Dương Lăng thấy nàng cười thẹn lộ ra một nét biểu cảm rung động lòng người, nhất thời y không kềm được, bèn giơ tay vỗ bốp vào mông nàng một cái, rồi cười nói:

- Ngốc ạ! Có đẹp đi chăng nữa mà không dùng, đem cất đi thì còn có tác dụng gì?

Tay vừa vỗ xuống, không ngờ bờ mông ẩn dưới lớp váy mềm đó lại to lớn tròn lẳng, cảm giác thật đàn hồi. Còn Hàn Ấu Nương, sau khi bị vỗ một cái thì "á" lên một tiếng, dưới ánh đèn chỉ thấy nàng tóc mai rối loạn, ánh mắt mơ màng. Cô bé mười lăm tuổi này trong lúc vô ý đã để lộ ra vẻ phong tình vô cùng quyến rũ, khiến cho bụng dưới của y càng thêm phát hoả.

Lo bản thân nhất thời động tình sẽ làm ra chuyện mà sau này có hối hận cũng không kịp, y liền vội xoay người nằm xuống giường, kéo tấm chăn lên thân, cố dằn cảm xúc nói:

- Được rồi, mau đi ăn cơm rồi ngủ đi.

Hàn Ấu Nương bị y vỗ vào mông một cái, cả người nóng rực, cô nàng rốt cuộc cũng rạo rực xuân tâm. Dẫu chưa từng có hành động gì quá thân thiết với phu quân, nhưng loại cử chỉ thân mật đột ngột như vậy cũng đã làm nàng vui vẻ không thôi, khiến nàng cảm thấy những việc mình làm đều đáng giá; mọi đắng cay gian khổ dường như cũng biến thành mật ngọt.

Chuyện nam nữ không ngờ lại thú vị như vậy. Nếu như phu quân chàng... chàng... Chợt nghĩ đến chuyện phu quân trong vòng hai năm sẽ không thể đụng vào nữ sắc, trong lòng Ấu Nương dường như có chút yên tâm, thế nhưng cũng cảm thấy hơi mất mát. Đợi cho vẻ ngượng ngùng trên khuôn mặt dịu đi, nàng mới cầm đèn đến trước chiếc rương ở cạnh tường, mở nắp ra rồi nhét túi ngân lượng giấu vào giữa lớp quần áo, sau đó rón rén bước ra phòng ngoài.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 17: Thuyết con ếch

Vừa bước vào phòng phê duyệt đã thấy một chồng công văn nằm đó làm Dương Lăng bất giác thở dài. Mặc dù vẫn cảm thấy đau đầu, nhưng trong lòng y không còn quá lo lắng nữa. Dựa theo "thông lệ" của mỗi lần chuyển thế, thế nào rồi y cũng sẽ chết một cách quái lạ, lần sống dai nhất không quá hai tháng, mà tính đến giờ thì y đã ở cái thế giới này được một tháng rồi.

Nghèo túng chính là điểm khác biệt lớn nhất so với các lần trước, và người con gái y nhìn thấy đầu tiên sau khi tỉnh dậy đã khóc đến lệ đẫm mặt hoa đó, lại khiến cho y xót thương biết bao nhiêu. Vì lẽ đó nên với thân phận là người hiện đại đến thời cổ, với mạng sống có hạn của mình, y chỉ mong sao có thể chu cấp một cuộc sống an nhàn, đầy đủ cho Ấu Nương mà thôi. Chẳng mang hùng tâm đại chí, cũng chẳng lòng dạ nào mơ tưởng vui vầy bên bao nhiêu mỹ nhân, chỉ sống vỏn vẹn có hai tháng, y làm sao mà chịu đựng hết được.

Bây giờ trong nhà bỗng nhiên có thêm bốn mươi lượng bạc ròng, có thể xem là một món tiền khổng lồ đối với nông dân vùng này. Để số tiền này lại cho Ấu Nương thì sau này nếu có nhắm mắt xuôi tay, y cũng ra đi thanh thản. Cho nên khi nhìn thấy chồng công văn dày cộm này, trong lòng y cũng không còn cảm thấy quá nhiều áp lực nữa.

Tâm tình không nóng vội nên cách giải quyết công việc cũng trở nên rõ ràng hơn rất nhiều, trong thời gian uống cạn hai chén trà, y đã phê duyệt được sáu bảy tờ văn kiện. Lọc những văn kiện cần đích thân Mẫn đại nhân xử lý qua một bên, y mở một tờ khác thì phát hiện tờ văn kiện này lại là một tấm văn thiếp đã ố vàng, trông không giống như mới được viết. Chẳng lẽ có ai đó đã đem trình nhầm văn kiện cũ?

Lấy làm hiếu kỳ, Dương Lăng cầm tấm văn thiếp lên xem, chỉ thấy ở trên đó bôi bôi xoá xoá, hiển nhiên người viết đã rất do dự. Có điều nét bút chữ Khải (*) viết thật là đẹp, bản thân y viết chữ bút lông cũng đẹp nhưng không thể viết kiểu chữ Khải đẹp như vậy được, y không nén được phải tấm tắc khen ngợi vài tiếng. (*: nguyên văn "dăng đầu tiểu Khải": chử Khải viết tay nhỏ bằng đầu con ruồi nên gọi là "dăng đầu")

Y mở tấm văn thiếp ra đọc cẩn thận, thì thấy trên đó viết: "Hiện nay tiêu cực trong triều đình đã nghiêm trọng đến mức cực điểm, vua không giữ đạo quân thần, đại thần không làm tròn trách nhiệm, thưởng tước quá tràn lan, công dịch quá phiền nhiễu, tiến cống vô độ, kẻ ra đi không trở lại. Triều đình xảy ra biến trước nay đều do những thứ đó mà nên. Việc tổ chức trong nội cung đều đã có quy định từ những ngày đầu lập quốc, giờ đây một giám cũng đến hơn mười người, một việc sáu bảy kẻ tham gia. Nào là hưởng lợi từ việc phân phối quận huyện hay lộc vương gia. Nào là tranh quyền thống lĩnh biên cương hay làm đại tướng. Nào là tiến cử tà môn hay hùa vào dâng hiến kỳ thuật. Ty lo gạo tiền thì lách luật ăn riêng, cống vật thì gXѡXoại yêu sách hối lộ, kẻ giết người được tha, kẻ làm sai thoát tội, không thể kể xiết..."

Dương Lăng ồ lên một tiếng, xem ra nội dung của tấm văn thiếp này là bàn về quốc sách. Sao loại văn thiếp như vậy có thể xuất hiện trong mớ công văn của một huyện lệnh được nhỉ? Dương Lăng đang mê mải đọc thì chợt nghe tiếng cười ha hả bên cạnh:

- Dương tú tài, vẫn còn đang xử lý công văn sao?

Dương Lăng ngước đầu lên: trước mặt là một lão nhân ngũ tuần, mày râu nhẵn nhụi, trông áo quần thì chỉ là một tiểu lại cấp tòng bát phẩm, còn chưa thể gọi là quan. Đó chính là vị huyện thừa lâu năm ở bản huyện, Hoàng Kỳ Dận.

Dương Lăng vội đứng dậy, chắp tay thi lễ:

- Hoá ra là Hoàng huyện thừa, học sinh thất lễ rồi.

Hoàng Kỳ Dận xua xua tay, ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Cầm tấm văn thiếp trên bàn lên liếc mắt qua, lão cười lớn nói:

- Lý Tư Tỉnh, Đặng Thường Ân à? Ồ, đây đều là những trọng thần của triều đình năm Hiến Tông, trông có vẻ như là bản thảo tấu chương của vị đại nhân nào đấy. Dương công tử từ đâu mà có được vậy?

Cũng không đợi Dương Lăng trả lời, lão tự mình đọc lướt qua nội dung, rồi ngẩng đầu hỏi:

- Dương tú tài nghĩ sao về những lời trong đó?

Đầu tiên là tình cờ thấy một bản thảo tấu chương năm Hiến Tông, cũng gần hai mươi năm trước, ở trong chồng công văn, sau đó lại thấy vị Hoàng huyện thừa "không phải ngày phát lương, không phải ngày thẩm án không ló mặt" đó đột nhiên xuất hiện thì trong lòng Dương Lăng cũng đã đoán ra được vài phần căn nguyên. Y còn cảm nhận được cặp mắt thâm thuý đang nhìn mình chằm chằm, ý như thăm dò, lại có phần khao khát, mong muốn, giống như một đứa trẻ đang hy vọng được thầy khen ngợi.

Dương Lăng đã từng làm cho công ty bảo hiểm sáu bảy năm, đã gặp rất nhiều loại người, sở trường lớn nhất của y là suy đoán tâm lý người khác, cho nên vừa thấy lão ta vô tình để lộ hàm ý trong ánh mắt thì y chợt hiểu ra. Một ý nghĩ táo bạo đột nhiên loé lên trong đầu y: "Đầu tiên là tấu chương của hai mươi năm trước, tiếp theo đó là Hoàng huyện thừa, kẻ quanh năm chẳng thấy bóng dáng đâu xuất hiện. Lão ta nói cái gì là tấu chương của vị đại nhân nào đó năm ấy phác thảo, nội dung trong tấu chương thì lại bài xích trọng thần trong triều đương thời. Chẳng lẽ... tờ tấu chương này là do lão ấy viết, vì đắc tội với triều đình nên bị giáng chức hết lần này đến lần khác, tới nỗi phải lưu lạc đến Kê Minh này làm một tiểu lại không phẩm cấp?

Vừa nghĩ tới đây, Dương Lăng một mặt phỏng đoán ý đồ của lão, mặt khác giả vờ nói:

- Vãn bối hổ thẹn không rõ sự tình về mấy vị trọng thần triều đình năm hoàng đế Hiến Tông, cho nên thật sự không thể luận bàn.

Hoàng Kỳ Dận lắc đầu bảo:

- Ài..., đều là chuyện xưa tích cũ cả rồi. Hôm nay rảnh rỗi, ta chỉ ngồi đây tán gẫu với ngươi thôi. Miệng ngươi nói, tai ta nghe, đâu thể tính là nghị luận gì. Ngươi chỉ đơn thuần là đánh giá nội dung trên tờ văn thiếp này mà thôi.

Trong đầu Dương Lăng nghĩ rất nhanh, âm thầm suy đoán: "Nếu mình đoán không sai, thì lão đại nhân bất đắc chí này hẳn đã vì tấm thiếp này mà đắc tội với thiên tử, đến nỗi bị giáng chức hết lần này đến lần khác. Hôm nay lão đến khảo sát mình, lẽ nào là muốn xem xem mình có đáng để lão ra tay giúp đỡ hay không? Thôi được, phỏng chừng mình sống cũng chẳng được bao lâu, cứ mạnh dạn mà bàn luận cũng chẳng sao. Nếu muốn lão ấy giúp đỡ thì đương nhiên phải tâng bốc một phen, nhưng nếu không có cách nghĩ đặc biệt của riêng mình sẽ khó tránh khỏi bị lão ấy khinh thường."

Vừa thầm tính trong lòng, vừa cẩn thận xem kỹ nội dung của tấu chương, Dương Lăng nói:

- Đã như vậy, học sinh đành lớn mật nói càn. Nếu nói không đúng, xin Hoàng huyện thừa chớ chê cười.

Hoàng Kỳ Dận cười nhạt:

- Không sao, không sao, ngươi và ta cũng xem như là đồng liêu, cứ việc nói thoải mái, không cần phải cố kỵ.

Dương Lăng dạ một tiếng, rồi phát biểu ý kiến:

- Mở đầu bài tấu chương này ý nói triều đình đương thời cơ cấu cồng kềnh, người nhiều hơn việc, thỉnh cầu triều đình tinh giản lại các bộ và các quan viên, có thể nói là trúng vào trọng tâm, kiến nghị đưa ra cũng có thể nói là sáng suốt, chỉ là....

Hoàng Kỳ Dận vừa nghe thấy tám chữ "cơ cấu cồng kềnh, người nhiều hơn việc," mắt chợt sáng lên, vỗ tay khen hay:

- Tuyệt diệu, thấu triệt! Chỉ tám chữ này thôi đã nói ra hết sự tình, Dương công tử thật giỏi. Chỉ là cái gì?

Dương Lăng ngây ra một chút, rồi mới chợt tỉnh ngộ: "Phải rồi, triều đại này vẫn chưa có mấy danh từ này, khó trách lão ấy cảm thấy rất đỗi mới lạ. Nhưng mà cũng đâu cần phải kích động đến đỏ cả mặt chứ? Chẳng nhẽ là vì đã tìm được tri âm à?" Dương Lăng cười thầm trong bụng, tiếp tục nói:

- Chỉ là vị đại nhân này có cái nhìn quá đỗi mô phạm đi.

Sắc mặt Hoàng Kỳ Dận thoáng không vui, lão không phục hỏi:

- Tại sao khẳng định như vậy?

Trông thấy phản ứng của lão, Dương Lăng càng chắc chắn với phán đoán của mình, thế là dùng thủ đoạn "trước nâng lên, sau đạp xuống," nói:

- Vị đại nhân này kiên quyết chính trực, không so đo được mất của cá nhân, niềm mong muốn lập lại trật tự để chỉnh đốn triều cương hiện rõ trong từng câu chữ. Có điều, tuy ông ta mang một bầu nhiệt huyết, song suy nghĩ lại hơi đơn giản.

Nghĩ đến việc càng tinh giản cơ cấu càng dẫn đến nhiều tiêu cực ở đời sau, y chậm rãi suy nghĩ nói:

- Theo học sinh thấy, mặc dù quan viên các bộ, phủ ngày một cồng kềnh, nhưng vị đại nhân này lại hy vọng rằng hoàng thượng vừa mở miệng hạ lệnh, liền sẽ có thể chỉnh đốn được kỷ cương, tinh giản được cơ cấu ngay. Đó là điều không thực tế. Đại nhân ngài hãy nghĩ xem, hoàng thượng hạ chỉ xong thì dù gì cũng cần có người thực hiện chứ? Trên dưới cả nước toàn thể hưởng ứng, triệu hồi toàn bộ các quan viên bên ngoài, vậy triều đình sẽ mất đi tai mắt. Quan lại không qua bước đệm trung gian mà lập tức bị cắt giảm, vậy không ít sự vụ sẽ khó tránh rơi vào đình đốn.

Hắn trỏ vào tờ văn thư ở trước mặt, cười khổ nói: "Tỷ như học sinh, đột nhiên để học sinh phụ trách tiền lương, thuế má, hình tụng, nhiều phương diện như vậy, bận đến đầu tắt mặt tối. Khoan nói sẽ cần rất nhiều thời gian để hiểu rõ trình tự, không có một tiền bối giàu kinh nghiệm chỉ điểm sẽ phải đi rất lòng vòng, điểm tối thiểu là học sinh bị trói chân ở đây, không thể cục cựa, như vậy công việc cụ thể đều sẽ phải giao cho kẻ khác lo liệu. Ngài làm sao đảm bảo những kẻ đó sẽ có thể tận tụy với nhiệm vụ của mình chứ?"

Sắc mặt của Hoàng Kỳ Dận trở nên hết sức khó coi, nhưng lại không nói gì. Lặng lẽ lần trong ống tay áo ra cái tẩu thuốc, lão run run nhét sợi thuốc lá vào, có vẻ hơi kích động.

Dương Lăng nói tiếp:

- Những thứ đó vẫn chưa phải là khó khăn thật sự, cũng giống như lần đầu sinh con, người mẹ phải trải qua đau đớn tột cùng, nhưng rồi sẽ đón nhận niềm hạnh phúc vô bờ bến. Cái khó đây chính là ở chỗ ... toàn quốc trên dưới có bao nhiêu quan viên? Giữa những vị quan này có không biết bao nhiêu quan hệ dây mơ rễ má, cùng nhau chèo lái sự vận hành của cái quốc gia khổng lồ này. Nếu bỗng dưng muốn chặt đứt nhiều nhánh, vậy sẽ dẫn đến sự phản đối của biết bao nhiêu người? Tuy rằng lực lượng này vô hình, nhưng nhất định là vô cùng đáng sợ, đụng chạm đến lợi ích của quan viên toàn quốc, kể cả những vị quan viên bản thân đang giữ những chức vị quan trọng, không bị xoá bỏ cũng khó tránh phải suy nghĩ. Quan vị nhiều thì lựa chọn của bọn họ cũng sẽ nhiều, quan vị ít đi thì mọi chuyện sẽ không còn thoải mái như vậy nữa, con đường làm quan của chính bọn họ khi đó sẽ ít lối hơn rất nhiều. Hơn nữa, bọn họ sao có thể cam lòng vứt bỏ những mối quan hệ dây mơ rễ má đó chứ. Kiến nghị này quả thật là kẻ địch của quan viên cả nước. Quan vị ít thì bọn thư sinh sẽ tiến thân như thế nào? Thế là cũng đắc tội những kẻ đọc sách luôn. Còn bọn thân hào địa chủ có quan hệ thân mật chống lưng bọn họ thì sao? Tất nhiên sẽ kịch liệt phản đối, lay động đến cả nền tảng nước nhà. Cho dù hoàng thượng có tiếp nhận kiến nghị này, cũng sẽ gặp phải muôn trùng trắc trở và bị ngàn vạn lớp quan viên phản đối mà phải thay đổi chủ ý. Ý kiến này tuy là vì nước vì dân, nhưng lại thực hiện không đúng cách, quá đỗi vội vàng, thành thử hại nước hại dân.

Thân là người trong cuộc, Hoàng Kỳ Dận nào có được những kinh nghiệm thi hành biện pháp chính trị đã được tổng kết qua bao nhiêu triều đại, cũng như cách nhìn thấu triệt về vấn đề tinh giản cơ cấu của các bài báo ở xã hội tiên tiến trong và ngoài nước mà Dương Lăng có thể đọc và tổng kết lại được từ sách báo tạp chí?

Nhớ lại năm đó chính lão tuổi trẻ hăng say, mắt thấy quan lại hủ bại, cơ cấu to lớn cồng kềnh thì lòng bừng nhiệt huyết, điều trần lên hoàng thượng. Quả nhiên hoàng thượng tiếp nhận, không bao lâu sau đã triệt đi một lượng lớn quan viên, giáng chức quốc sư, cắt giảm hơn năm trăm quan truyền phụng (*), đồng thời lệnh cho toàn quốc phải đồng loạt thi hành. (*: chức quan do chính hoàng đế chỉ định, không thông qua sử bộ, cũng không thông qua tuyển chọn.)

Song, chưa quá nửa tháng, mình liền bị giáng chức, điều ra khỏi kinh thành. Bọn người bị giáng chức như Lý Tư Tỉnh, Đặng Thường Ân lại được phục hồi nguyên chức, còn mình thì lại bị trù dập khắp nơi, bị giáng chức hết lần này đến lần khác. Năm năm trời, đường đường một ngự sử ngôn quan (*) đã bị rớt xuống thành một huyện thừa nhỏ bé. (*: chức quan có thể can gián vua.)

Hoàng đế khác lên ngôi, bọn người Lý Tư Tỉnh bị vấn tội. Lúc đó mình cứ nghĩ sẽ thấy lại ánh mặt trời, nào ngờ rất nhiều quan viên bị đồng đảng bọn Lý, Đặng đả kích được phục hồi nguyên chức, duy chỉ mỗi mình dường như đã bị bỏ quên, nhờ người chuyển mấy phong thư đến đồng liêu năm xưa cũng không thấy kết quả. Thì ra mấu chốt lại nằm ở chỗ này.

Tự phụ là vì nước vì dân, nhưng lại rơi vào một kết cục như vậy; căm ghét thế tục, cả đời buồn bực không vui, nào ngờ lại bị một thiếu niên chưa tròn hai mươi một lời nói đúng trọng tâm. Thì ra lão đã đắc tội đến tất cả mọi quan viên.

Vừa nghĩ thông suốt những mấu chốt bên trong, mặc dù tiết trời lạnh lẽo nhưng lưng áo Hoàng huyện thừa vẫn đẫm mồ hôi. Lão cười buồn, giọng bi thương:

- Chẳng lẽ lại khoanh tay ngồi nhìn, mặc cho tình cảnh cứ tiếp tục như vậy. Rồi cuối cùng để bọn chúng như giòi bọ của đất nước, được vỗ béo bằng thành quả lao động của dân chúng hay sao?

Dương Lăng thở dài:

- Muốn thay đổi cũng không phải là không thể, chỉ có điều... đó không phải là việc có thể làm trong một sớm một chiều. Sắc lệnh từ trên đưa xuống không chỉ cần phải thống nhất, mà còn phải làm liên tục, không thể vì một người nào đó không làm mà ngừng. Thực thi cụ thể phải bắt đầu từ trên xuống dưới, từ một điểm nhỏ mà loang ra thành diện rộng. Trước tiên bắt đầu từ kinh thành, và bắt đầu xoá bỏ từ những bộ ngành và quan viên không quan trọng. Quy mô nên nhỏ chứ không nên to, hành động cũng nên từ từ chứ không nên gấp gáp. Cứ tiếp tục như thế, phải đến ba, năm mươi năm sau mới có thể phát huy hiệu quả ổn định. Đến khi đó còn cần phải xác định lại những định chế về quan và tướng trong luật pháp, thế mới không sợ bị trở mặt. Mặc dù thời gian có hơi lâu, nhưng lại là biện pháp duy nhất có thể thực hiện. Chẳng qua là bỏ ra thời gian dăm ba mươi năm để hướng đến cơ nghiệp muôn đời. Dẫu rằng nó không phải là công lao của một người hay một đời nhưng đất nước và nhân dân sẽ được hưởng lợi muôn đời.

Dương Lăng lại đưa ra cái thuyết con ếch:

- Đại nhân có từng nghe tới một câu chuyện ngụ ngôn chưa? Đổ nước vào nồi, bỏ một con ếch vào, sau đó châm lửa đun dưới đáy nồi cho nước từ từ ấm lên. Bởi vì tốc độ ấm lên chậm nên con ếch không phát hiện ra, vì vậy cũng không gấp gáp phản kháng mà nhảy ra ngoài. Ung dung nhàn nhã cho đến khi nước nóng không thể chịu nổi nữa, muốn nhảy ra khỏi nồi thì đã muộn, khi đó nó đã không còn sức để vùng vẫy nữa rồi. Con ếch có thể nhảy ra khỏi nước sôi hay không, cái đó học sinh không biết. Nhưng quan trọng ở chỗ là nếu dùng nó để miêu tả thế nhân, học sinh lại cảm thấy rất có hình tượng. Việc thi hành chính sách quốc gia gắn liền với sự triển khai toàn cục, thành thử những thay đổi quá quyết liệt đều cần phải thận trọng dè dặt, từ tốn mà làm. Đợi đến khi bắt đầu có thành quả, lúc đó, cho dù những kẻ phản đối có phát hiện ra thì nó đã là xu thế tất yếu, bọn họ không thể phản kháng được.

Hoàng huyện thừa ngẩn người hồi lâu, rồi khàn giọng cười ha hả. Lão đứng dậy, vái sâu một cái, bảo:

- Nghe một lời của người còn hơn đọc sách mười năm. Hoàng mỗ xin thụ giáo.

Nói đoạn lão xoay người, khom lưng, trông như già đi hai chục tuổi, nhọc nhằn cất bước ra ngoài.

Dương Lăng lật đật đứng dậy, chạy đến chắn trước mặt lão, khom người chắp tay nói:

- Hoàng lão, học sinh chỉ là đàm binh trên giấy, ba hoa chích chòe mà thôi. Không ở trong cuộc mới có mấy lời này, nếu thật sự đặt mình vào trong đó thì học sinh cũng như kẻ mù mà thôi. Lão xem, chỉ mỗi công văn huyện mà học sinh xử lý còn không xong thì nói gì đến thụ giáo chứ. Thật ra, học sinh phải thành tâm thành ý thỉnh cầu Hoàng lão tiên sinh chỉ giáo cho mới phải.

Lúc này y gọi Hoàng lão mà không xưng quan hàm, chính là thật sự tự coi mình là học sinh. Sắc mặt Hoàng huyện thừa thay đổi khó đoán, ngó hắn một hồi lâu. Dương Lăng khom lưng, cung kính chắp tay giữ lễ. Đùa à, nói nhảm cả nửa ngày trời chính là muốn mời người thông thái đến chỉ điểm cho mình một phen, làm sao thả lão đi như vậy được chứ?

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 18: Khói hiệu đêm giao thừa

Trong lòng Hoàng Kỳ Dận vẫn luôn cảm thấy tràn đầy nhiệt huyết nhưng không thể tận trung báo quốc, ở trong cái ao tù nhỏ bé này quả thật làm hao mòn hùng tâm tráng chí, đến hôm nay lão mới thấy được rằng mình thất bại không oan.

Tuy tấm văn thiếp đáng tự hào ngày ấy đã khiến cho lão bị thất bại, song trong lòng lão vẫn luôn có ngạo khí của một văn nhân, cho rằng mình bị những kẻ bất đồng chính kiến đả kích. Mặc dù không thể thỏa chí quan trường nhưng sử sách ắt sẽ lưu lại thanh danh, vậy cũng không uổng phí một đời. Ngờ đâu tấu chương của mình nếu được thực thi thì cũng sẽ làm hại nước hại dân, thế nên lúc này lão chẳng những tâm chí nguội lạnh mà ngạo khí ứ đọng bấy lâu cũng tan biến hết.

Nhìn người thanh niên trẻ tuổi anh tuấn Dương Lăng này, Hoàng Kỳ Dận âm thầm suy xét:

- Vốn chỉ nghe nói hắn là tú tài trẻ tuổi nhất trong huyện, cùng lắm là tinh thông văn chương bát cổ (*) mà thôi, không ngờ lại có tầm nhìn như vậy. Bản thân mình đã chẳng có thành tựu gì, thôi thì cứ hết lòng giúp đỡ hắn, tương lai nếu hắn có thể trở thành một đại danh thần thì lúc đó mình cũng sẽ được lưu danh sử sách. Bằng không, chỉ cần hắn có thể làm quan lớn một phương thì đứa cháu sớm mất cha đó của mình cũng có thể tìm được nơi nương tựa. (*: Bát cổ gồm phá đề, thừa đề, khởi giảng, nhập thủ, khởi cổ, trung cổ, hậu cổ, thúc cổ.)

Nghĩ đến đây, Hoàng Kỳ Dận cười ha hả, bước tới đỡ Dương Lăng dậy, mặt mày rạng rỡ nói: "Dương hiền chất chớ nên khách sáo, tiếng sư trưởng hổ thẹn không dám nhận. Lão Hoàng ở trong huyện quá lâu đến nỗi sắp thành tinh rồi, hiền chất nếu có chỗ nào cần giúp đỡ thì cứ việc mở miệng, lão Hoàng đảm bảo không một chút giấu giếm".

Kê Minh là một huyện cấp ba, so với huyện giàu có như Giang Nam thì tổng số thuế thu được hàng năm kém gấp ba trăm, năm trăm lần. Mức thuế thấp đến kinh người, nhìn sơ qua có vẻ như cần phải tăng thêm mức thuế, hoặc chí ít thì huyện nhỏ như vậy không nên có nợ thuế mới phải. Nhưng trên thực tế, ở nơi này, kể cả mấy địa chủ nhỏ hoặc gia đình tự canh cũng còn bữa đói bữa no nữa là, cho nên nợ thuế nợ lương cũng đã trở thành chuyện cơm bữa.

Bởi thế mà một quan huyện ở một huyện giàu cho dù có thu thuế đến 80% nhưng đời sống sinh hoạt của người dân ở nơi đó vẫn không bị ảnh hưởng, hơn nữa còn được xưng tụng là thanh thiên, biếu tặng "vạn dân tán"(*). Nhưng mấy năm sau nếu y xui xẻo bị điều đến cái huyện nghèo như vậy, thì cho dù có tổn hao tâm sức cố ép thu 30% thuế, khi đó trong mắt người dân, y vẫn trở thành tham quan, ác quỷ hút máu người. (*: thời xưa, để ca tụng sự liêm chính của quan lại địa phương, các thân sĩ sẽ tặng những chiếc dù (tán), trên đó có thêu nhiều sợi vải lụa nhỏ.)

Huống hồ hoàng đế dựng nước Đại Minh là Chu Nguyên Chương tính toán bổng lộc của các quan viên cực kỳ chính xác. Bổng lộc phát ra chỉ đủ cho quan viên nuôi dưỡng một nhà già trẻ. Thậm chí chi phí nghênh đón, tống tiễn, tiền lương cho gia đinh phu dịch, kiệu phu mã phu, bao gồm cả trợ tá sư gia ... toàn bộ đều do quan viên tự bỏ tiền túi. Vì vậy số tiền lương mà người dân giao nộp chắc chắn là sẽ bị các quan địa phương "vay" một phần cho vào túi riêng. Quan huyện đã như vậy, các thôn trưởng, lý trưởng, giáp trưởng bên dưới ai nấy cũng giống nhau. Do đó dù thu được 100% thuế, nộp lên quốc khố cũng chỉ có tám phần.

Bởi vậy khi thu không đủ thuế, các quan địa phương liền tự thi triển thần thông. Huyện nào mà số đất đai vượt quá con số bộ Lại nắm rõ thì sẽ lấy phần đó bù vào, còn những huyện vốn đã nghèo thì liều báo cáo có thiên tai để xin miễn giảm, vừa hoàn thành nhiệm vụ thu thuế, lại được tiếng thương dân.

Tuy rằng Kê Minh có nhiều người thiếu nợ lương thuế (lương thực và thuế), song những năm gần đây nhờ có thêm người khai hoang, mà số đất đai do Bộ Hộ quản lý lại là con số từ thời dựng nước, do vậy dù số thuế thu được là rất ít, nhưng chỉ cần lấy số dư thuế thương mại bù đắp vào một phần là có thể đạt được con số mà Bộ Hộ yêu cầu.

Ngoài ra, mùa thu vừa rồi bọn Thát Tử mới vừa kéo đến cướp bóc, quan huyện có thể lấy lý do đó để báo cáo về tai họa, vẽ thêm tình tiết nghiêm trọng nhằm miễn giảm thuế ruộng nương. Do vị trí địa lý đặc thù có ý nghĩa về mặt quân sự của Kê Minh đã vượt xa phạm vi huyện lỵ, nên tuy hiểu rõ số thuế trưng thu mỗi năm ở nơi này dù có cố vắt thêm cũng không đủ, bộ Lại cũng sẽ không vì thế mà nghiêm khắc kiểm tra tình hình thực tế.

Vốn đang rầu rĩ đến thối cả ruột, thế mà khi được Hoàng Kỳ Dận chỉ điểm, Dương Lăng bỗng thấy sáng rõ. Con số 30% thuế thu được ít ỏi đến thảm thương, nhưng qua ngòi bút biến hóa của Hoàng huyện thừa không ngờ thành ra chỉ phải nộp lên trên có một nửa. Dương Lăng thấy thế mà phục sát đất.

Những công việc lặt vặt còn lại, Dương Lăng cũng đã mau chóng bắt tay vào,xử lý gọn ghẽ dưới sự chỉ bảo của Hoàng huyện thừa. Và y trở thành người nắm quyền khống chế hành chính của một huyện sau lưng Mẫn huyện lệnh. Chỉ có điều toàn bộ quyền lực của y đều đến từ Mẫn huyện lệnh. Chỉ cần đội ngài "Bồ Tát bằng đất sét" này ở trên đầu, y sẽ chính là người phát ngôn cho Bồ Tát. Nếu không có ngài Bồ Tát này thì cũng sẽ chẳng có ai nghe theo lệnh của y cả.

Được sự ủng hộ của vị huyện thái gia chính hiệu là Mẫn huyện lệnh và sự hỗ trợ hết sức mình của nhân vật đứng hàng thứ hai là Hoàng huyện thừa, công việc nội vụ của tiểu huyện thành "tuy nhỏ mà quan trọng" này đã được Dương Lăng xử lý hết sức gọn gàng. Không bao lâu, người dân, quan binh hay dịch sứ ở Kê Minh đều biết nhân vật thực sự điều khiển hoạt động của huyện này là một thiếu niên mười sáu tuổi đứng đằng sau Mẫn đại nhân. Người này tên gọi là Dương Lăng.

Hàn Ấu Nương không còn đi làm công ở tiệm may nữa. Không phải là nàng chẳng muốn đi mà là ông chủ ở đó không dám tiếp tục thuê nàng. Đùa à, nam nhân của nàng là ai chứ? Trên đầu y bây giờ chỉ có thiếu mỗi cái mũ quan của huyện thái gia mà thôi.

Thời này ở thành phố lớn như Chiết Giang đã có mấy công xưởng dệt nhuộm, kẻ làm đến cả trăm. Song những người làm thuê này đại đa số đều là nam, phụ nữ ở một địa phương nhỏ bé như vậy ra ngoài đi làm là chuyện rất hiếm gặp. Cho nên mặc dù không muốn để cho một cô gái mới mười lăm tuổi hàng ngày nằm lỳ trong nhà làm thiếu phụ trông nhà, Dương Lăng cũng đành phải nhập gia tuỳ tục, không để nàng ra ngoài nữa.

Có điều một mình Hàn Ấu Nương ở nhà thật quá nhàm chán, trừ việc bếp núc ra thì đúng là vô công rồi nghề, mà thời đại này lại không có những phương tiện giải trí như ti vi. Tuy bấy giờ phần lớn phụ nữ sau khi lấy chồng đều như vậy, song theo suy nghĩ của một người hiện đại, Dương Lăng lại cảm thấy Ấu Nương giống như đang bị cầm tù ở trong nhà.

Mỗi ngày chỉ khi nào y trở về, lúc đó nàng mới biểu lộ sự vui mừng, ngồi nhìn y ăn mà như có rất nhiều điều muốn kể, một chút chuyện nhỏ nàng cũng có thể làm cho chúng thêm thú vị mà kể hết nửa buổi. Hồi ở sơn thôn tuy gian khổ nhưng ít ra nàng còn có thể ra ngoài, giờ lại giống như chim ở trong lồng, nên ánh mắt nàng càng lúc càng thêm u ám.

Dương Lăng nhìn nàng mà cảm thấy đau lòng. Thêm vào đó là công việc của y thật sự quá bận rộn, nên y đã quyết định đưa cho nàng bộ y phục nam giới rồi dẫn đến phòng phê duyệt để giúp mình sao chép, soạn, viết văn kiện. Cũng may là Hàn Ấu Nương không giống như những cô gái khác: phụ thân nàng vốn là một tiêu đầu của tiêu cục, về sau vì mất một số tiêu lớn mà tiêu cục mới trở nên lụi bại. Cho nên hoàn cảnh gia đình nàng cũng không tệ, thuở nhỏ ở nhà nàng đã từng được dạy dỗ, đương nhiên có thể đảm nhiệm được những việc ghi chép này.

Có việc để làm, lại có thể ở cạnh phu quân mình, Hàn Ấu Nương dĩ nhiên trong lòng vui phơi phới. Dương Lăng "công tư phân minh", mặc dù mọi người trong phòng đều biết đó là nội nhân (vợ) của Dương sư gia, song y lại chỉ nói là mời nàng đến giúp đỡ, vì thế tiền lương cứ theo quy định mà trả. Chỉ có điều người y thuê riêng thì phải do y phát lương cho nên Dương Lăng cũng theo lề thói ở đây, cái nào đã nên ăn chặn thì bỏ hết vào hầu bao không thiếu một xu.

Vì Dương Lăng là do cá nhân Huyện thái gia mời, không có phẩm cấp nên bổng lộc mỗi tháng chỉ có ba thạch, tương đương với sáu chỉ bạc. Số tiền này là do Huyện thái gia chi trả. Bổng lộc hàng tháng của Huyện thái gia là ba lạng bảy chỉ, đủ nuôi sống một gia đình già trẻ. Để trả thêm cho trợ tá, phó sư gia, người hầu hay kiệu phu, nếu Mẫn huyện lệnh không xén bớt chút tiền thuế thì cả gia đình lão phải gặm đất mà ăn.

Trên quan trường gọi loại "tạm giữ" hợp lý này là "hoả hao" (*), dựa theo sự lý giải của Dương Lăng thì đó chính là: trên có chính sách, dưới có đối sách. Trước đây khi xem tiểu thuyết, đọc đến đoạn quan viên đời nhà Minh tham ô sáu mươi lạng bạc trắng, Chu Nguyên Chương liền thi hành cực hình lột da nhồi rơm. Nhưng đám quan lại tham ô đó vẫn không chừa, hết kẻ này đến kẻ khác lần lượt kéo nhau lên đoạn đầu đài, lúc đó y cảm thấy rất khó hiểu. Hôm nay bản thân tự trải nghiệm, y mới biết được tuy thật có tham quan, nhưng cho dù là thanh quan đi nữa thì việc giữ lại một số tặng phẩm cũng là chuyện cần làm. (*: vốn chỉ phần bạc hao hụt trong lúc đúc chảy bạc nén.)

May mà những quan viên này về sau đã tự hình thành nên một thông lệ: cái nào thuộc về tham ô, cái nào thuộc về quà biếu tự nhiên đã trở thành một hệ thống nằm ngoài triều cương mà quan viên trên dưới đều tự động tuân thủ. Có Hoàng lão chỉ điểm, Dương Lăng cũng vững tâm mà cất lấy phần mình.

Mai là ngày mùng một Tết. Có lẽ là do tâm tình mà rõ ràng là khí trời vẫn còn ẩm lạnh, nhưng đi trên đường lại không cảm thấy giá rét như mọi ngày. Gần xa đã nghe thấy những tiếng pháo nổ đì đùng.

Ngày mai nha môn huyện không phải đi làm, cho nên mãi đến tận khuya Dương Lăng mới xử lý xong đống công văn, rồi cùng với Hàn Ấu Nương rời khỏi huyện nha. Mọi nhà đều đã treo đèn lồng đỏ ở trước cửa, ngay cả những nhà ngày thường rất tiết kiệm, không dám dùng mà hôm nay cũng đã châm nến treo đèn lồng từ sớm.

Thời này, nữ nhân không được đi trước hoặc sóng bước ngang hàng cùng trượng phu, cho nên Hàn Ấu Nương vẫn theo quy củ đó mà đi sau nửa bước. Dương Lăng thấy lúc này trời đã tối đen không gây chú ý nhiều, hơn nữa Hàn Ấu Nương lại đang mặc đồ nam, vì thế y cố ý đi chậm lại, rồi thừa dịp nàng không chú ý, nắm lấy tay nàng.

Hàn Ấu Nương giật mình, ngượng chín cả mặt, cố giãy tay mấy cái mà không thoát. Đỏ mặt, nàng cúi đầu khẽ trách:

- Tướng công, chàng...

Dương Lăng quay đầu lại, nở một nụ cười ấm áp rồi nhẹ nhàng nói:

- Ngày mai hãy lên phố mua sắm chút đồ Tết, còn đêm nay chúng ta đến tửu quán ăn chút gì đó đi! Đi thôi!

Nói đoạn y kéo Hàn Ấu Nương đi thẳng tới một tửu điếm nho nhỏ mà y đã từng đến một lần.

Dương Lăng là một kẻ thích chỗ quen, ghé qua một lần mà cảm thấy khẩu vị dùng được thì sẽ lười tìm một quán khác, lúc muốn thay đổi khẩu vị, cũng cứ thẳng tiến đến chỗ đó. Hàn Ấu Nương trong lòng tuy có chút bất an, nhưng nàng biết tướng công của mình hiền lành tử tế, cộng với sắc trời đã tối đen, người khác cũng sẽ không nhìn rõ mặt nên để mặc cho y nắm lấy bàn tay nhỏ nhẠrồi ngoan ngoãn bước theo.

Lúc Dương Lăng và Hàn Ấu Nương rời khỏi tửu điếm thì đêm đã rất khuya, trên bầu trời chi chít ánh sao, những bông tuyết mềm mại rơi lất phất làm cho khuôn mặt vốn đã ấm lên vì rượu của y cảm thấy hết sức thoải mái.

Dương Lăng mặt mày phấn khởi, kéo tay Hàn Ấu Nương dạo bước trong thành. Tuy cả hai đều không nói lời nào, chỉ cần tay trong tay thôi thì trong lòng đã trào dâng một cảm xúc rất đặc biệt.

Đứng ở lỗ châu mai trên tường thành, Dương Lăng vốc lấy một nắm tuyết, vo lại thành một quả cầu rồi dùng hết sức ném mạnh nó vào trong màn đêm mịt mờ phía ngoài thành. Chẳng qua vì thân thể gầy còm, ít tập luyện nên lần này hơi dùng sức khiến cho cơ bắp y đau nhức một chút. Binh sỹ đi tuần qua lại nhiều làm tuyết bị đạp mòn nên mặt đất rất trơn, suýt nữa thì y bị ngã. Hàn Ấu Nương kinh hãi, vội bước tới bên cạnh đỡ lấy, giúp cho y lấy lại thăng bằng, rồi vừa thở ra một hơi vừa cười trách móc:

- Tướng công, xem chàng kìa, làm sao mà lại như một đứa trẻ như vậy chứ? Cẩn thận kẻo ngã đấy!

Dương Lăng xoay người lại, vuốt nhẹ gò má bóng mịn săn chắc của nàng rồi nhẹ giọng âu yếm:

- Nàng mới là một đứa trẻ con chưa lớn đó.

Hàn Ấu Nương bĩu môi không chịu rồi thẳng người lên. Thấy nét thơ ngây vẫn còn trên khuôn mặt nàng và đôi mắt dịu dàng ấy, con tim Dương Lăng liền đập thình thịch. Lúc này y mới phát hiện rằng y và nàng đã càng ngày càng trở nên thân thiết, y đã quen được nàng thầm lặng ở cạnh bên chăm sóc cho, y đã quen thân mật cùng nàng. Nếu một ngày bỗng nhiên y hồn về nơi chín suối, lúc đó chẳng phải sẽ khiến cho nàng càng thêm thương tâm lắm sao?

Nhưng nếu bây giờ đối xử lạnh lùng, Dương Lăng làm sao chịu được những dòng lệ của nàng? Thật sự bây giờ còn quá đột ngột để nói với nàng rằng một ngày nào đó y sẽ chết, nàng phải tự lo cho bản thân. Mà cũng không cách nào nói ra được, y chỉ biết ngây ngốc đứng nhìn Hàn Ấu Nương, chẳng biết phải nên nói những gì.

Khuôn mặt trái xoan của Hàn Ấu Nương bỗng chợt càng lúc càng nóng dần. Dưới ánh nhìn bởi cặp mắt sáng rực như sao mai của Dương Lăng, nhất là trong người y vẫn còn hơi rượu, dĩ nhiên Hàn Ấu Nương sẽ hiểu lầm ý của y, trong lòng nàng bất giác vừa sợ hãi lại vừa vui sướng đến nỗi cả người hoảng loạn, run rẩy.

Ngay vào lúc này, từ trong đôi mắt đen láy của Hàn Ấu Nương, Dương Lăng đột nhiên nhìn thấy một cột lửa loé sáng. Hàn Ấu Nương lúc này cũng tròn mắt kinh hãi nhìn qua vai Dương Lăng, ngây người nhìn chăm chăm về phía xa chân trời.

Dương Lăng lập tức quay đầu lại. Hai đầu phía đông và phía tây tường thành mỗi đầu đều có một toà phong hoả đài, mà giờ đây phong hoả đài ở phía đông tường thành đã được nhóm lên, lửa cháy bừng bừng. Ở phía xa, nơi tường thành uốn lượn kéo dài vào tận trong rừng sâu còn có mấy ánh lửa lập loè.

Y lại nhìn sang hướng tây, ngay đúng lúc đó, phong hoả đài ở phía này cũng nổ ầm một tiếng rồi cháy bùng lên, thế lửa mãnh liệt. Rất nhanh sau đó phong hoả đài ở hướng tây nơi triền núi cũng được châm sáng, truyền tiếp tới nơi ở xa hơn.

Dương Lăng há hốc mồm, mãi một lúc sau mới quay lại nhìn Hàn Ấu Nương, hai cặp mắt không hẹn mà cùng mang đến một tin: "Thát Tử đã kéo đến!"

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 19: Lão huyện lệnh điên

Tuy chưa từng tận mắt thấy lửa hiệu nhưng đã nghe nói rất nhiều lần về nó, đương nhiên Hàn Ấu Nương hiểu được việc châm lửa phong hoả đài đại biểu cho cái gì. Ấn tượng của nàng về sự hung tàn và dã man của Thát Tử cũng giống như cái nhìn của người thời nay về phát xít Nhật: đều là một bầy dã thú khát máu.

Dương Lăng thì ngạc nhiên hơn là khiếp sợ. Do ảnh hưởng bởi vô số phim ảnh và kịch truyền hình ở hậu thế, trong tưởng tượng của y, cái gọi là Thát Tử đều là những chiến sĩ Mông Cổ bộc trực mạnh mẽ, vừa mến khách lại vừa hào sảng, có lẽ chiến đấu rất dũng mãnh. Nói gì đi chăng nữa thì không phải là bọn xâm lược mất hết nhân tính được.

Chẳng là lúc này triều đình hai bên còn đang đối địch, y sẽ không ngây thơ cho rằng không may bọn họ tấn công vào được trong thành thì sẽ tha cho mình, bèn vội vàng kéo tay Hàn Ấu Nương tức tốc chạy về nha môn.

Lúc này cổng thành đóng chặt, cư dân trong thành đã sớm vì lửa hiệu mà nháo nhào đổ ra ngoài. Chuyện tiểu vương tử Thát Đát Bá Nhan Mãnh Khả kéo quân tập kích biên giới đã không phải là lần đầu, nhưng đa phần bọn chúng không dám đánh thẳng vào quan ải như Kê Minh này. Đối với những thành trì tương đối to lớn như vầy, bọn chúng sẽ không đủ năng lực mang theo các loại khí giới công thành đi một khoảng đường xa chỉ để cướp bóc; Thát Tử sẽ không chấp nhận thương vong lớn chỉ để công thành.

Thông thường thì chiến tranh quy mô nhỏ sẽ không dùng đến phong hoả đài để truyền tin. Nhưng tình hình đêm nay có vẻ hơi đặc biệt, dường như có quan ải đã bị công kích trực tiếp, những người dân này há không cảm thấy lo sợ?

Mẫn huyện lệnh tuy làm quan huyện ù ù cạc cạc, nhưng dẫu gì vẫn xuất thân quân nhân, vừa nghe được tin tức Thát Tử đến liền vội vàng từ trong hậu sảnh chạy ra ngoài, thậm chí y phục cũng chưa kịp mặc chỉnh tề.

Quân trú đóng nơi đây chỉ có hai trăm sáu mươi người, do hai bả tổng (*) thống lĩnh. Dựa theo quy củ của triều Minh, một khi phát sinh chiến sự, quan hành chính tối cao ở địa phương đó sẽ phụ trách toàn bộ hoạt động quân sự, sĩ quan quân đội không có quyền độc lập chỉ huy. Do đó bây giờ Mẫn huyện lệnh còn trở thành tư lệnh phòng ngự chiến khu. (*: võ quan trấn thủ)

Đây vốn là nghề cũ của Mẫn huyện lệnh, cho nên một mặt lão lập tức phái thám mã liên lạc với mấy trạm dịch gần nhất thăm dò thêm tin tức, một mặt phái người mau chóng thúc ngựa quay về Phủ thành điều binh, lại đồng thời phái người báo tin cho Mã dịch thừa, yêu cầu toàn bộ nhân viên quân dịch phân phát đao thương, chuẩn bị lên thành chi viện khi có yêu cầu.

Dương Lăng đứng ở một bên trợn mắt há miệng mà nhìn. Nói thật, mấy ngày nay ngày nào cũng thay Mẫn huyện lệnh xử lý sự vụ lớn nhỏ, Mẫn huyện lệnh giống như là con rối, cho nên tuy là cảm kích ân tri ngộ của lão ta, nhưng tự đáy lòng y lại xem thường lão, không ngờ lúc này lão lại xử lý chiến sự đâu vào đấy.

Văng nước miếng tứ tung điều khiển tất cả xong xuôi, Mẫn huyện lệnh mới thở ra một hơi. Chỉnh đốn lại quan phục, lão chạy ra phía sau quát lớn:

- Khôi giáp, đại đao của lão tử đâu, mau lấy ra đây!

Nói đoạn xoay đầu liếc Dương Lăng và Hàn Ấu Nương đang đứng sau lưng, cười nói:

- Mẹ nó, năm nay sợ là không dễ qua rồi. Cái đám Thát Tử này tranh thủ đến cướp ngay trước đêm giao thừa, chắc là do đông năm nay tuyết lớn làm chết quá nhiều dê bò, bọn chúng mà không vét cho đủ ăn đủ dùng thì sẽ chẳng bỏ đi đâu.

Lúc này hai tên gia bộc, một tên bê bộ tỏa tử giáp , một tên vác thanh đại đao chạy ra. Vì đây là huyện bậc ba, điều kiện gian khổ, Mẫn huyện lệnh chưa mang theo vợ con bên người, cho nên ngày thường hầu hạ lão là mấy tên gia bộc này.

áo giáp hợp lại bằng những vòng kim lại xen vào nhau, còn gọi là giáp xích (xem hình http://imgsrc.baidu.com/baike/abpic/...53f724e421.jpg)

Cũng không xem mình như người ngoài, Mẫn huyện lệnh cởi luôn áo bào quan văn, thay y phục ngay tại đại sảnh. Hàn Ấu Nương thấy vậy vội vàng lui sang phòng bên để tránh dị nghị. Giáp trụ chỉnh tề xong, Mẫn huyện lệnh khoác chiếc áo bào quan huyện lên lại, rồi chộp lấy thanh đại đao từ tay gia bộc.

Thanh đao đó e phải nặng đến bốn mươi cân. Mẫn huyện lệnh nâng đao một tay, cổ tay vừa xoay, thanh đại đao nặng trịch trong tay xoay tít một trận, sau đó chém uỳnh xuống đất, khiến cho gạch xanh trên mặt đất vỡ văng tung toé. Dương Lăng trong lòng rúng động, mặc dù biết Mẫn huyện lệnh này xuất thân võ quan, nhưng y không ngờ lão ấy lại có thể sử dụng binh khí nặng như vậy.

Mẫn huyện lệnh cả người vận đồ huyện thái gia, cánh chuồn trên mũ vẫn còn lắc lư mỗi khi đi tới đi lui, nhưng lại vác theo một thanh đại đao sắc bén, trông chẳng ra ngô ra khoai. Lão cũng chẳng chút bận tâm, uy phong lẫm liệt quay ra ngoài sảnh quát:

- Đi! Theo ta lên tường thành!

Một đám nha dịch trong sân tuần tự chạy đến ứng tiếng reo hò, đám người đông đảo rầm rộ xông ra ngoài. Dương Lăng cũng chạy theo ra khỏi nha môn. Bốn chiếc đèn lồng đỏ treo trước cửa nha môn nhẹ lay trong gió tuyết. Lúc này tuyết đã rơi dày hơn, bông tuyết bay lả tả. Đất trời mênh mông, mù mịt.

Mẫn huyện lệnh dẫn theo một đám người đeo đao cầm thương, sải bước xông lên đầu thành (*). Khắp trên các đường phố, dân chúng chạy tán loạn như kiến bò trên chảo nóng; bọn họ cũng chẳng có thời gian để tâm. (*: lầu trên tường thành)

Trên cổng thành phía nam, gần trăm quan binh đang căng thẳng chăm chú nhìn xuống dưới thành. Cổng thành này nằm trấn ngay trên đường quan đạo thông nam bắc, hai cổng đông, tây giáp núi, không thích hợp cho ngựa chiến chạy. Cho dù Thát Tử đến tấn công cũng sẽ khó điều động kỵ binh để công vào hai cổng đông, tây, có thể nói là tương đối an toàn, cho nên mỗi nơi chỉ phái bảy mươi quan binh đóng giữ, do một bả tổng cưỡi ngựa đi lại để tuần tra.

Bả tổng ở cổng thành phía nam đang đứng trên đầu thành quan sát ở phía dưới, mắt thấy huyện thái gia tự thân dẫn người đến thì vội chạy lại, quỳ một gối, hai tay ôm quyền nói:

- Ty chức Giang Bân tham kiến Mẫn đại nhân.

Mẫn huyện lệnh phất tay:

- Miễn đi! Giang bá tổng, Thát Tử đến rồi à?

Giang Bân nhe răng cười, rồi thưa:

- Đại nhân, ánh đèn không soi được đến chân thành nên nhìn không rõ lắm. Có điều từ số đuốc không nhìn rõ của bọn Thát Tử thì ít nhất không dưới trăm tên. Nhưng đại nhân cứ yên tâm, có ty chức ở đây, bọn chúng sẽ không công lên nổi đâu.

Dương Lăng quan sát kỹ người gọi là Giang bả tổng này. Vị Giang bả tổng này tướng mạo cực kỳ anh tuấn, trông cũng phải ngoài hai mươi, vóc người tráng kiện, thần thái nhanh nhẹn dũng mãnh, tựa hồ chẳng chút để tâm đến Thát Tử.

Dương Lăng không khỏi thầm gật gù. Trong ấn tượng trước đây của y, tất cả binh sĩ Đại Minh đều rất nhu nhược, bằng không thì hoàng đế Đại Minh thân chinh thống lĩnh năm mươi vạn đại quân đã không bị thái sư Dã Tiên của Ngoã Lạt dẫn mười vạn đại quân đánh cho tan tác, thậm chí ngay cả hoàng đế cũng bị bắt sống. Y còn cho rằng quan viên Đại Minh khi vừa nghe đến cái tên Thát Tử thì sẽ sợ tái mặt, không ngờ ở đây, một vị huyện thái gia, một vị bả tổng thủ thành lại có dũng khí như vậy.

Mẫn đại nhân cười ha hả, bảo:

- Đi, đi, lên trên xem nào!

Đám người bọn họ bước lên đầu thành, vịn vào ụ thành nhìn xuống, chỉ thấy phía dưới tối om, hơn trăm bó đuốc di động khắp nơi, dưới thành vọng lên những tiếng la hét kỳ quái. Chính giữa thông lộ dưới thành, ngoài một tầm tên, tập trung hơn hai mươi bó đuốc, soi thấy mấy bóng người đang ở phía xa hướng lên trên thành hét hò gì đó. Mẫn đại nhân cười nhạt nói:

- Chỉ trên trăm tên ít ỏi đã muốn chiếm được Kê Minh dịch của ta sao?

Giang Bân chỉ tay về phía hướng đông đằng xa nói:

- Đại nhân, thám mã khi nãy phái đi bị Thát Tử bắn chết một người, người quay về bẩm báo rằng bên phía Nhị Lý Bán có tiếng quân sĩ giáp chiến rền trời, chắc hẳn Thát Tử đang tấn công nơi đó.

Nhị Lý Bán, Ngũ Lý Đài và Tuần La Phố là những quan ải gần nhất quanh Kê Minh; nhưng nếu muốn tiến thêm một bước công kích ải Cư Dung thì nhất định phải từ Kê Minh Dịch đánh vào. Cho nên Mẫn đại nhân vừa nghe mũi chủ công của Thát Tử là nhằm vào Nhị Lý Bán liền hiểu ra rằng lần này bọn chúng lại vì không chịu nổi mùa đông giá rét, đã xem Đại Minh như nhà kho của mình mà kéo đến cướp bóc lương thảo.

Cho nên mục đích của bọn Thát Tử dưới thành chín phần mười là chặn cổng thành, đề phòng trong thành phái viện binh đi cứu Nhị Lý Bán. Đã hơn hai năm không động đao thương, hai tay Mẫn Văn Kiến đã ngứa ngáy lắm rồi, nên vừa thấy bên dưới Thát Tử phi ngựa quanh tường thành la hò những câu vô nghĩa thì sướng rơn. Lão quay đầu bảo Giang bả tổng:

- Giang bả tổng, chuẩn bị cho ta một thớt chiến mã, phái bốn mươi người theo ta ra ngoài thành đánh lui bọn Thát Tử.

Giang bả tổng cũng đã sớm muốn xuất chiến một trận, chẳng qua chưa có mệnh lệnh của thượng quan nên không dám vọng động, nên vừa nghe phân phó thì lập tức mừng rỡ, vội quát thủ hạ:

- Người đâu, dắt hai con chiến mã đến đây, cung thủ trên thành chuẩn bị! Lưu, Lý, hai vị đồn trưởng hãy dẫn quân theo đại nhân và ta xuất chiến!

Dương Lăng thấy bọn họ chỉ dẫn bốn mươi người đã dám xuất thành thì rất đỗi kinh ngạc. Vương bộ đầu ở cạnh bên vốn là thân binh của Mẫn đại nhân lúc còn trong quân đội, thấy vẻ mặt kinh ngạc của Dương Lăng thì cười ha hả nói:

- Xem ra Dương sư gia chưa thấy qua thần dũng của Mẫn đại nhân rồi. Đại nhân vốn là Thiên tổng dưới trướng của quan tổng binh Đại Đồng Đỗ đại nhân, võ nghệ siêu quần. Trước đây khi tiêu diệt sơn tặc, đại nhân chỉ dẫn nhân mã một đồn thì đã giết cho hơn trăm tên sơn tặc của Ngưu Đầu sơn phải trốn lủi vào trong rừng. Lần này nhất định sẽ kỳ khai đắc thắng (thắng ngay trận đầu).

Hai kỵ binh và bốn mươi tiểu binh xông ra thành nghênh chiến với những kỵ binh Thát Đát cưỡi chiến mã to lớn đó? Trong lòng Dương Lăng có chút bất an, song ngẫm lại, cây đại khảm đao nặng bốn mươi cân bị Mẫn huyện lệnh sử dụng dễ dàng như không, mà đại đao này lúc vung lên nào chỉ một, hai trăm cân; một thân võ nghệ đó hiển nhiên là bất phàm, cho dù địch không lại có lẽ cũng sẽ không gặp nguy hiểm gì, lúc này y mới có chút yên tâm.

"Két két", cổng thành bên dưới đã mở ra. Tòa thành nhỏ này không hề có luỹ hào bảo vệ, cũng không có cầu treo. Trên thành, hai mươi tay cung thủ giương cung lắp tên, thủ thế đợi sẵn. Dưới thành Mẫn đại nhân cùng Giang bả tổng dẫn bốn mươi quan binh xông ra khỏi thành.

Trong bốn mươi tay tiểu binh có hai mươi đao thuẫn binh, hai mươi trường thương binh, phân ra hai bên tạo thành hình cánh nhạn. Giang Bân ghì cương chiến mã, đang muốn lớn tiếng kêu gọi bọn Thát Đát cách một tầm tên đầu hàng, thì Mẫn đại nhân đang một tay cầm cương, tay cầm đại đao thong thả đi trên đường đột nhiên hét lên một tiếng rồi quát lớn:

- Đầu lĩnh quân giặc xâm phạm biên giới hãy mau đến đây chịu chết dưới đao của ta, xông lên!

Nói đoạn vung đao qua đầu đánh vù một tiếng, hai chân thúc ngựa phóng như bay về phía hơn chục tên Thát Đát khoác nghiêng da thú, lưng đeo cung tên ở phía trước.

Giang Bân mắt thấy mà trợn ngược. Y biết vị Mẫn đại nhân này vốn là một Thiên tổng nổi tiếng dưới trướng tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc. Đỗ tổng binh xưng là Đỗ Phong Tử (*), khi lâm trận giết địch chẳng màng đến mưu lược chiến trận gì, càng chẳng biết gì về phối hợp nhiều loại binh chủng, thông thường địch ta đôi bên vừa chạm trán liền đều lập tức dẫn quân ùa vào đánh như ong vỡ tổ, thành một vòng hỗn chiến. Tay lão cầm một thanh đại khảm đao sống dày nặng sáu mươi cân, chưa mấy ai có thể ngăn được lão ta, quả đúng là "người cản giết người, phật cản giết phật." Có điều hai quân đối chiến thì không phải cứ cá nhân làm ra vẻ anh hùng là đã có thể quyết định được thắng bại. Lão ta tuy là hiếu chiến, tự tay giết chết Thát Đát rất nhiều, nhưng lúc nào cũng đều là thua nhiều thắng ít, mỗi khi bại trận thì lấy đao chém vào khôi giáp để phát tiết. Không ngờ tác phong vị Mẫn huyện lệnh này lại giống với tổng binh đại nhân của lão ấy như đúc. (*: lão Đỗ điên)

Giang Bân cuống cả lên, nếu Mẫn huyện lệnh mà có mệnh hệ gì thì y có mười cái đầu cũng không đủ chém, thế là lúc này cũng bất kể thủ hạ đều là bộ binh, lập tức vung đao quát lớn:

- Theo đại nhân, giết cho ta!

Giang Bân này khoẻ hơn người, lại giỏi thuật cưỡi ngựa, sử dụng hai thanh trảm mã đao dài ba thước, hai tay cầm đao, chỉ dùng chân để điều khiển ngựa, điên cuồng đuổi theo huyện thái gia Mẫn Văn Kiến.

Bốn mươi tiểu binh thấy vậy đành phải ra sức đuổi theo sau đít ngựa. Đêm khuya đường trơn, tuyết phủ dày đặc, trong khoảnh khắc đã không còn bóng dáng đội hình gì nữa, trở thành một đám binh lính mất chỉ huy.

Trái lại, Huyện thái gia cưỡi một con ngựa tốt, nên chỉ trong chốc lát đã chạy hết khoảng cách một tầm tên. Lão thả lỏng dây cương, hai tay nhấc đao, như một cơn lốc đánh thốc về phía gã thanh niên tầm hai mươi tuổi đang được đám người vây quanh. "Cầm tặc tiên cầm vương" (*), vị huyện thái gia nghèo chữ này vẫn biết cái đạo lý đấy. (*: Bắt giặc trước hết bắt vua)

Dưới ánh lửa của ngọn đuốc, gã thanh niên đó vận một chiếc áo khoác bằng da hổ, vai đeo cung, tay cầm một thanh trường thương vắt ngang qua yên ngựa. Sứ mệnh của hắn chính là gây rối trú quân trong thành, hù doạ bọn họ, ngăn không cho bọn họ xuất thành cứu viện quan binh của trạm dịch Nhị Lý Bán. Nhiệm vụ này có thể nói là hết sức nhẹ nhàng.

Vừa đến dưới chân thành, hắn liền phân phó thủ hạ mỗi người cầm hai bó đuốc, phi ngựa khắp các khu đất xung quanh, phô trương thanh thế để doạ dẫm, còn bản thân hắn thì đứng ở chỗ này lớn tiếng chửi mắng. Trước đó hắn cũng đã biết sơ về quân thủ thành ở nơi này, ước đoán rằng quân phòng thủ trong thành không nhiều, chủ quản huyện lị lại là quan văn, dưới thanh thế như vậy tuyệt sẽ không dám ra thành nghênh chiến, cho nên đã có chút lơ là.

Cũng phải nói là hắn xui xẻo, hôm nay đụng phải lão huyện lệnh điên dưới trướng của lão tổng binh Đại Đồng điên, không những ra thành nghênh địch mà còn đơn thương độc mã nhào tới đánh. Vì vị tướng lĩnh Thát Đát này đứng cách cổng thành một tầm tên, mà binh sĩ thủ hạ Mẫn Văn Kiến vừa ra khỏi thành liền lao vào đánh, thậm chí đuốc cũng chưa châm, cho nên đứng ở đây hắn không hề hay biết quan binh đã rời thành. Tuy là Mẫn huyện lệnh có lớn tiếng quát ở dưới thành, nhưng vì khi đó hắn cũng đang rống họng chửi mắng quan binh trên thành cho nên không có nghe thấy, còn cho rằng quan binh Đại Minh trên thành đang chửi lại.

Lúc này tuyết rơi ngập trời, Mẫn huyện lệnh cưỡi ngựa đen, vận chiếc quan bào màu xanh, hoà cùng một khối với màn đêm. Vó ngựa tuy nhanh nhưng khắp nơi đều là kỵ binh Thát Đát đang thoả sức phóng ngựa phô trương thanh thế, cho nên bọn chúng lại càng không để ý. Mãi đến khi Mẫn huyện lệnh xông đến trước mặt, hai tay giơ đao, đánh thẳng vào trong đám người, thì lúc này, thấp thoáng dưới ánh lửa của hơn chục bó đuốc, bọn chúng mới nhìn rõ được kẻ này là người của Đại Minh.

Một bên thì không chút chuẩn bị, một bên thì phóng ngựa như bay, đến lúc phi đến gần thì gã thanh niên khoác áo da hổ đó mới kinh hãi trợn tròn đôi mắt. Chỉ thấy trước mặt một người đang cưỡi ngựa phóng đến, người trên lưng ngựa vận áo bào quan văn Đại Minh, thấy rõ trước vạt chiếc quan bào đó thêu một con chim nhỏ màu vàng đang giương cánh. Trên đầu người này còn đội một chiếc mũ ô sa, hai cánh chuồn lập loè lắc lư hết cỡ, song nhờ tính đàn hồi cực tốt mà vẫn chưa bị đứt rời.

Vị quan văn trên ngựa này mặt đen xì xì, cặp mắt bé xíu trợn tròn, râu quai nón đầy cả mặt, hai tay giơ cao lên trời, tạo nên một tư thế kỳ quái.

Ngựa phi nhanh như chớp, mấy chục tên Thát Đát nhất thời không kịp phản ứng, đến khi hai cánh tay ở tư thế quái dị đó nhằm vào vai đeo khố của gã thanh niên vận hổ bào bổ mạnh xuống, thì lúc này, dưới những ánh lửa rọi sáng một khoảng trời, bọn chúng mới phát hiện trong tay vị quan văn Đại Minh này đang cầm một thanh đại khảm đao sắc bén.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 20: Huyện thừa gầm thét

Mượn sức khoái mã vọt tới, thanh đại khảm đao nặng hơn bốn mươi cân xé gió vù vù khuấy cho tuyết trắng bay tán loạn đầy trời. Ngựa đến đao bổ, thanh niên kia đã không còn tránh kịp. Khi hắn còn đang sợ hãi, mới nhấc cán thương lên khỏi yên ngựa thì lưỡi đao đã chém chéo xuống.

Một cột máu tươi bắn lên, chiếc đầu không biết đã lăn về phía nào. Một đao này chém từ cổ bên phải xuống đến tận sườn trái, xẻ mất nửa thân người, nửa bờ vai cũng không thấy đâu. Trong cơn mưa máu, phần còn lại của cái thân thể không đầu lắc lư mấy cái rồi ngã nhào xuống ngựa.

Đại đao lóe lên, quay vòng vòng trong tay Mẫn huyện lệnh nhẹ như không. Bó đuốc trên tay đối phương chính là mục tiêu rõ ràng nhất, lão vung đao, trái đâm, phải quét, liên tục bổ, chém. Dù sao chung quanh cũng đều là kẻ địch, do đó lão chém giết mà không hề e dè.

Những kẻ này đều là anh hùng trên lưng ngựa, vốn sẽ không phản ứng chậm như vậy, có điều khi thấy thanh niên mặc hổ bào ở giữa vừa đối mặt liền bị Mẫn Văn Kiến chém chết thì bọn chúng đã bàng hoàng. Sự bàng hoàng này tuy chỉ diễn ra trong chốc lát, nhưng đại đao của Mẫn huyện lệnh đã chém chết năm tên.

Lúc này những tên khác mới hét lên một tiếng, nháo nhào phóng ngựa tháo chạy, đồng thời ném đuốc về phía Mẫn huyện lệnh. Mẫn huyện lệnh vung đao gạt những bó đuốc ra, hăng say chém giết, còn lớn tiếng cười phóng ngựa đuổi theo không tha.

Giang Bân ở phía sau thấy vậy hốt hoảng la lớn:

- Mẫn đại nhân, hãy mau trở lại!

Mẫn Văn Kiến cũng chả thèm để ý, đuổi theo một bóng đen ở phía trước, quát to một tiếng, vung đao bổ xuống. Chỉ thấy tên đó đột nhiên ghìm cương, con ngựa tung hai vó trước, hí lên một tràng. Một tiếng "keng" vang lên, Mẫn huyện lệnh cảm thấy hai cánh tay tê rần, không khỏi trừng mắt khen:

- Khí lực thật mạnh!

Tên tướng lĩnh Thát Đát đó có nỗi khổ không thể nói ra. Vũ khí mà hắn sử dụng chính là Tam Cổ Thác Thiên Xoa (đinh ba), toàn thân bằng thép, luận về cân nặng không hề kém đại đao của Mẫn Văn Kiến, luận về lực cánh tay lại càng mạnh hơn. Nhưng Mẫn Văn Kiến là vung đao bổ thẳng, còn hắn là đỡ vội, cho nên mặc dù khí lực của hắn mạnh hơn ba phần, lần này hai tay vẫn bị chấn đến tê rần. Đại đao của Mẫn Văn Kiến tuy bị mẻ một miếng, nhưng cây xoa của hắn cũng đã bị chém cong queo.

Tên này quyết đoán kịp thời, lập tức trở tay phóng mạnh cây xoa đã bị chém cong vào người Mẫn Văn Kiến, sau đó giật cương, rạp người thuận theo quan đạo phi như tên bắn về phía trước, đồng thời lấy cung đeo trên lưng xuống.

Mẫn Văn Kiến vung đao gạt văng cây Thác Thiên Xoa, đang định tiếp tục truy đuổi thì ở mặt bên đột nhiên xông ra một thớt ngựa. Tên trên ngựa cầm thương đâm tới, may nhờ những cây đuốc trên mặt đất còn chưa tắt hẳn, vừa nhác thấy tên đó, không kịp ngả người tránh, Mẫn huyện lệnh vội đưa đao lên đỡ, gạt cây thương ra.

Ngay sau đó, phía bên phải vang lên một tiếng hét, một thanh trường đao vụt chém tới. Mẫn Văn Kiến đỡ trái thì lại hở phải, ba người giáp chiến tạo thành một vòng tròn. Lúc này tuyết lớn mịt mù, hoàn toàn phải dựa vào vài cây đuốc còn chưa tắt trên mặt đất để soi sáng, cho nên bọn họ đều rất cẩn thận, không ai dám áp sát vào.

Kỵ binh Thát Tử xa gần đã phát hiện thủ lĩnh bị tập kích, bèn nhao nhao hò hét xông đến. Cũng may trời quá tối, lại có hai tướng lĩnh Thát Đát đang cùng lão loạn chiến, nên bọn người Thát Đát kia không thể phát huy sở trường cưỡi ngựa bắn cung. Bằng không, cho dù có một thân võ nghệ thì Mẫn huyện lệnh cũng khó tránh bị bắn thành con nhím rồi.

Lúc này Giang Bân đã phóng ngựa đến phía trước, cổ tay rung lên, hai thanh mã đao xảo diệu vung ra tạo thành hai đóa hoa đao. Hai chân móc chặt vào bàn đạp, y nhổm người dậy, song đao như gió táp mưa sa giao thủ với tên Thát Đát cầm thương hơn chục hiệp, bức lui hắn, sau đó lập tức quay về phía Mẫn Văn Kiến hét lớn:

- Đại nhân, một khi đuốc tắt chúng ta sẽ bị vây ở ngoài thành đó! Hãy mau về thành!

Mẫn Văn Kiến ngẩn người, vung đại đao lên, chạm với đao của tên nọ làm xẹt lên một loạt tia lửa, đoạn quay đầu ngựa nói:

- Nói đúng lắm, chúng ta về thành!

Hai người quay đầu ngựa, mở đường máu về thành. Chung quanh hơn chục tên Thát Đát cầm đao, thương không ngừng quấn lấy. Mẫn Văn Kiến cũng không biết một đao bất ngờ vừa rồi lại có thể giết chết Húc Liệt Bột Tề, con trai thứ hai của tiểu vương tử Thát Đát Bá Nhan Mãnh Khả, lúc này mắt thấy bốn bề là kỵ binh Thát Đát ùn ùn liều mạng xông tới, nếu hai người bỠvây lại thì thật sẽ không thể trở về thành, cho nên lão cũng không ham chiến nữa; vũ khí vừa chạm liền đánh bật công kích đối phương, cùng Giang Bân chém giết cướp đường quay về.

Lúc này, tên tướng lĩnh Thát Đát bị Mẫn huyện lệnh một đao chém cong cây Thác Thiên Xoa phải thảm bại bỏ chạy khi nãy cũng đã quay đầu ngựa đuổi theo. Hắn rất hận vị quan văn triều Minh này, cũng chẳng thèm quan tâm đến quan binh triều Minh đang rút về, chỉ từ xa dán mắt nhìn vào ánh sáng sắc bén loé lên lúc Mẫn huyện lệnh vung đại đao, giương cung lắp tên tìm cơ hội.

Vừa mới chạy được nửa đường, nhác thấy huyện thái gia và bả tổng đánh ngược trở về, bốn mươi tay binh sỹ lập tức quay đầu lao về phía cổng thành, bốn bề kỵ binh Thát Đát không ngừng truy đuổi. Chỉ tội cho mấy tay đao thuẫn binh, lúc này có thể nói là đã mất sạch đội hình, lại không có trường thương binh phối hợp, căn bản không chống nổi thiết kỵ của bọn người Thát Đát quá hai hiệp, trong nháy mắt đã bị kỵ binh Thát Đát đuổi tới đâm chết bảy tám người.

May mà bọn họ cách thành không xa, lúc này đã nằm trong tầm bắn của cung thủ trên đầu thành. Cung thủ trên thành thấy kỵ binh Thát Đát cầm đuốc phi đến, lập tức bắn tên như mưa, bức lui bọn chúng.

Thát Tử thấy vậy, lần lượt dừng ngựa, gác binh khí, rút cung tên sau lưng ra bắn theo. Tuy phía trước là một khoảng tối mù, không nhìn rõ bóng người, hoàn toàn không phát huy được kỹ thuật bắn tên của bọn chúng, song vẫn có gần mười binh sỹ trúng phải loạn tiễn, trong đó mấy người bị thương nhẹ, trên lưng còn cắm tên sắc, lảo đảo, thậm chí bò lết vào trong thành.

Mẫn huyện lệnh vừa phóng ngựa đến cổng thành thì tên quan quân Thát Đát kia thấy cơ hội sắp vuột mất, lập tức buông cung, một mũi tên bay "vút" ra. Áo giáp Mẫn huyện lệnh mặc chính là tỏa tử giáp, không sợ búa bổ đao chém, nhưng những kẽ hở giữa các móc khóa lại không thể ngăn cản tên bắn vào. Lão chỉ cảm thấy lưng chợt rung lên, đau rát; mũi tên nhọn kia đã bắn trúng vị trí dưới xương bả vai.

Một tên này bắn ra rất mạnh mẽ, móc khóa của tỏa tử giáp rất khít, vậy mà sau khi bị móc khóa chặn lại một phần đầu tên hình tam giác vẫn xuyên vào. Nếu không phải đã bị chặn lại một phần, một tên này e rằng đã xuyên thẳng vào tim.

Mẫn huyện lệnh vội cúi rạp người, thúc ngựa phóng nhanh vào trong thành. Đằng sau Giang Bân múa song đao, phóng vào như một cơn gió. Số binh sỹ còn lại ào ạt chạy vào thành, rầm một tiếng, cửa thành đã được đóng lại.

Đám người Dương Lăng lũ lượt từ trên tường thành kéo xuống. Mẫn huyện lệnh nhảy xuống ngựa mà vẫn cười ha hả:

- Quá đã! Quá đã! Mẹ nó, nếu lần này mà có một đội kỵ binh thì lão tử đã chém sạch cái đám Thát Tử này rồi.

Thấy trên lưng lão cắm một mũi tên lông chim mà mặt lại tỉnh như không, Dương Lăng trợn tròn mắt. Y vội vàng kêu lên:

- Đại phu, mau tìm đại phu, đại nhân bị trúng tên rồi!

Mẫn đại nhân phẩy tay cười nói:

- Vết thương vặt này thì nhằm nhò gì.

Nói đoạn lão bước tới trước mấy bước, đột nhiên cảm thấy choáng váng, đầu gối nhũn ra, suýt tý nữa ngã xuống đất, may mà Giang Bân thân thủ linh hoạt kịp thời bước tới đỡ lấy lão.

Mẫn đại nhân lắc lắc đầu, chửi đổng:

- Bọn chó Thát Tử đáng chết! Trên tên... có tẩm độc.

Lão vừa nói xong thì ngất đi. Lúc này mọi người ai nấy đều luống cuống tay chân, vội vàng ba chân bốn cẳng khiêng lão lên lầu gác trên tường thành để nằm sấp xuống giường.

Giang Bân cầm lấy một chiếc đèn dầu lớn ở trên bàn, xé áo của Mẫn huyện lệnh ra. Nhìn thấy đầu tên cắm vào trong kẽ hở của tỏa tử giáp, y cũng không dám rút bừa, lập tức quát lớn:

- Đại phu đâu? Mau đi tìm đại phu!

Vài người ở cạnh đó vội cuống cuồng chạy đi. Mấy vị đồn trưởng bên dưới cũng phái người đem hết mấy binh sỹ bị thương vào trong lầu gác, bố trí nằm trong một tầng. Chỉ một lát sau, lang trung lưng đeo hòm thuốc đã được dẫn vào. Ông ta cưa gãy mũi tên trên người Mẫn huyện lệnh, cởi khôi giáp của lão ra. Chỉ thấy chỗ tên cắm sưng lên một cục to như trứng ngỗng, đen sì bóng nhẵn, đã rỉ ra một chút máu tanh.

Giang Bân khẩn trương hỏi:

- Đại nhân thế nào rồi? Có nguy hiểm đến tính mạng không?

Lang trung kia đầu hai thứ tóc, bôn ba trong quân đội đã nửa đời người, thường hay xử lý các loại vết thương. Tuy trước mặt là Huyện thái gia, lão cũng không quá lúng túng, lập tức lấy từ trong hòm ra một con dao bạc, rạch vào chỗ vết thương sưng tấy đen sì kia, tức thì máu đen ứa ra. Mẫn huyện lệnh vẫn nằm yên, không hề có cảm giác.

Lang trung dùng vải bông thấm máu, đưa lên mũi ngửi ngửi, rồi thở phào nói:

- Thật may, đây là độc của Lang Xỉ thảo (cỏ răng sói), độc tính cũng không mạnh. Đại nhân chém giết trên chiến trường, độc tố lan nhanh nên mới hôn mê. Chờ tiểu nhân lấy hết máu độc ra, kê thêm mấy toa thuốc, nghỉ ngơi dăm ba ngày là có thể bình phục rồi.

Mọi người ở bên cạnh nghe xong mới thở phào nhẹ nhõm. Ngay lúc này một đám người đột nhiên từ bên ngoài tiến vào. Dương Lăng quay đầu lại nhìn, chỉ thấy Hoàng huyện thừa vẻ mặt u ám đang dẫn đầu, Vương chủ bộ, điển sử (sử quan) Lưu đại nhân, Phùng tuần kiểm (quan tuần sát) cùng với Hồng bộ đầu đến muộn dẫn một đám người vội vã theo sau. Y vội bước tới nghênh đón:

- Hoàng lão, ngài đến rồi.

Hoàng huyện thừa nghiêm mặt ừm một tiếng. Lão đang ở dưới thành thì nghe nói Mẫn huyện lệnh bị trúng tên độc, lúc này lạnh lùng lườm mắt hỏi:

- Mẫn đại nhân ra sao rồi?

Dương Lăng vội vàng đem mọi việc kể lại một lượt. Hoàng huyện thừa nghe xong liền đập bàn giận dữ mắng:

- Khốn khiếp! Đồ con lừa! Thật đúng là tên điên!

Dương Lăng nghẹn họng, không biết lão đang chửi mình hay là đang chửi Mẫn huyện lệnh. Mặc dù phẩm tước của Hoàng huyện thừa chỉ thấp hơn Mẫn huyện lệnh một cấp, chức vị năm đó lại cao hơn, nhưng cái kiểu ngang nhiên nhục mạ quan trên như vậy cũng quá vô lễ rồi.

Hoàng huyện thừa trán nổi gân xanh: lão đã thực sự nổi giận. Bình thường đối với những chuyện trong huyện lão không nghe không hỏi đơn thuần là vì tình cảm cá nhân, nhưng hiện giờ giặc ngoài xâm phạm, một khi thành bị phá thì gần vạn tính mạng toàn thành, bao gồm cả cha mẹ già một nhà của lão e rằng sẽ đều khó sống nổi, thử hỏi lão làm sao không giận?

Râu vểnh ngược, chỉ chỏ lung tung, Hoàng huyện thừa lớn tiếng quở mắng:

- Các ngươi cũng không biết khuyên nhủ đại nhân, lại còn hùa theo y làm càn. Hiện giờ trong thành đã loạn ra cái dạng gì rồi? Chiến sự chưa rõ ràng mà đã có hàng loạt bá tánh náo loạn ở cửa bắc, nếu không phải ta và Phùng tuần kiểm kịp thời chạy đến dẹp đuổi bọn họ thì có lẽ bây giờ bá tánh toàn thành đã bỏ chạy hết một nửa rồi.

- Thành cũng không có bố trí phòng thủ gì cả. Nếu không phải Thát Tử kéo đến vội vàng, không có sự chuẩn bị, bọn chúng há chẳng phải đã dễ dàng đánh lên thành rồi sao? Thân là quan phụ mẫu một huyện mà không tính cho toàn cục, hữu dũng vô mưu, chỉ biết khoe cái dũng của kẻ thất phu, thật chẳng đâu có cái lý này...

Hiện tại Mẫn huyện lệnh đang hôn mê bất tỉnh, quan chức cao nhất ở đây chính là Giang Bân Giang bả tổng, cũng là quan thất phẩm. Nhưng thời đấy võ quan địa vị rất thấp, phẩm cấp tuy ngang nhau nhưng địa vị lại thấp hơn huyện thái gia đến mấy bậc, quyền lực thì lại càng không thể sánh bằng, cho nên đứng trước mặt vị lão huyện thừa này y cũng không dám nói gì. Trên vọng lâu tuy có mấy chục người chen chúc, nhưng lại im phăng phắc, mặc cho con mèo già lâu nay không ra oai tha hồ lớn tiếng gầm thét...

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 21: Tình yêu đơn giản

Hoàng huyện thừa chửi gà mắng chó thậm tệ một hồi, nhưng Dương Lăng lại không đồng tình: quan văn thật là nhát gan, chẳng lẽ để mặc quân Thát đến quấy nhiễu, chỉ có thể đóng cổng thủ thành à! Vậy chẳng phải ngoại tộc sẽ càng ngạo mạn hơn sao?

Ra vẻ cung kính lắng nghe nhưng cặp mắt y lại láo liên khắp nơi. Chỉ thấy đám người Vương chủ bộ và Lưu điển sử đều đứng cung tay, vâng vâng dạ dạ, riêng có vị Giang bả tổng kia lại lấm la lấm lét, giống như một học sinh hư hỏng đang bị thầy giáo quở trách, cặp mắt cũng đảo tới đảo lui. Bốn mắt chạm nhau, cả hai cùng ngầm hiểu ý khẽ cười.

Ánh mắt Dương Lăng lướt qua mấy vị đồn trưởng đang đứng ngay cửa, chợt thấy ở xa xa một bóng dáng quen thuộc. Y nhìn kỹ lại, Hàn Ấu Nương không biết đã đến tự khi nào, đang đứng sát bên vách tường, đôi mắt đen láy sáng ngời đang nhìn mình không chớp.

Phát giác Dương Lăng đã chú ý đến sự hiện diện của mình, Hàn Ấu Nương bất giác le lưỡi, lặng lẽ nép sát vào tường. Dương Lăng trong lòng phát hoảng, không biết khi nào trên thành sẽ khai chiến, đến lúc đó tên bay đạn lạc, nàng hãy còn là một tiểu cô nương mười mấy tuổi, chẳng may bị thương thì biết phải làm sao?

Dương Lăng nghiêm mặt trừng mắt với nàng, bặm môi hất đầu ra phía cửa. Hàn Ấu Nương mím môi, cặp mắt chớp chớp, rõ ràng đã thấy động tác của y nhưng lại làm như không biết, dời ánh mắt sang bên cạnh.

Dương Lăng cau mày, nhìn chằm chằm vào nàng. Sắc mặt Hàn Ấu Nương dần dần mất tự nhiên, ánh mắt do dự, cuối cùng đành đón lấy ánh mắt của y. Dương Lăng nhướng mày, đoạn nheo mắt đảo một vòng trên khuôn mặt nàng, sau đó làm động tác vỗ mạnh xuống phía dưới, hàm ý uy hiếp.

Gương mặt Hàn Ấu Nương đỏ bừng. Từ sau cái ngày Dương Lăng phát vào mông nàng một cái, giống như đã thành lệ, về sau mỗi khi nàng không nghe lời, gia pháp họ Dương sẽ là phát vào mông. Giờ đây thấy được ánh mắt sinh động của Dương Lăng, đương nhiên nàng biết ý của phu quân là gì.

Hoàng lão phu tử đang văng nước bọt mắng chửi, bỗng dưng phát hiện Dương Lăng giống như đang bị chuột rút, lão ngỡ ngàng hỏi:

- Dương sư gia, cậu có điều gì muốn nói sao?

Dương Lăng giật nảy mình, vội vàng đáp:

- Hả? Đâu có, đâu có, Hoàng lão nói rất đúng, học sinh xin cung kính nghe dạy bảo.

Hoàng huyện thừa gật gù hài lòng, lúc này mới phát hiện mình mượn chuyện để mắng chửi hồi lâu nhưng vẫn chưa đưa ra được ý kiến gì có tính xây dựng, liền liếm môi rồi sắp xếp lại dòng suy nghĩ.

Dương Lăng lại liếc sang Hàn Ấu Nương, thấy môi nàng mím ngang, đôi mắt tròn xoe mê người đã díp lại thành hình trăng lưỡi liềm thì không khỏi có chút cảm giác bó tay: "Mình thật là đã hơi quá chiều cô nhóc này rồi. Vốn ngoan ngoãn cúi đầu phục tùng, chỉ biết vâng lời, giờ thì quá lắm, chẳng những không nghe lời mà còn cười nhạo mình nữa chứ."

Hoàng huyện thừa thong thả bước vài bước, sau đó đứng lại nói:

- Chư vị! Tuy mấy năm gần đây tiểu vương tử không ngừng quấy nhiễu biên giới chúng ta, nhưng chưa bao giờ tấn công cửa ải quân sự quan trọng. Lần này lửa hiệu ở phong hỏa đài đã được đốt lên, tất phải có đại đội nhân mã của Bá Nhan Mãnh Khả tập kích. Đêm nay cần phải canh phòng nghiêm ngặt, đợi trời sáng nghe ngóng tình hình quân địch rồi hãy tính kế sách!

Rồi lão cao giọng nói:

- Hiện giờ quân địch vừa mới xuất hiện mà dân chúng trong thành đã tự rối loạn. Phùng tuần kiểm, ngươi hãy lập tức dẫn người tuần tra trong thành, nghiêm cấm dân chúng đi lại ngoài đường, nếu có kẻ nào thừa dịp cháy nhà đến hôi của, cướp bóc, tung tin nhảm làm rối loạn lòng quân thì chém đầu ngay tại chỗ! Cần phải đảm bảo trong thành không loạn!

Phùng tuần kiểm giật mình hỏi lại:

- Việc này... Đại nhân, chưa được Tam ty (*) thẩm vấn xét xử và thánh thượng ngự bút phê chuẩn, sao có thể tùy tiện giết người?

(*) Tam ty (三司) có rất nhiều nghĩa:

Đời Hán có nghĩa là Tam công (ba chức quan cao nhất) gồm thái uý (đại tư mã), tư đồ, tư không.

Đời Đường, từ khi Võ Tắc Thiên cầm quyền, "tam ty" gồm Thượng thư bộ Hình, các ngự sử thuộc bộ Hình, Đại Lý Tự (giống như Tóa án tối cao hiện nay); cả ba bên cùng thẩm định những vụ án lớn, có thể đề nghị phạt tử hình.

Hai đời Minh, Thanh dùng từ "tam pháp ty" để chỉ bộ Hình, Đô Sát Viện (viện kiểm sát), Đại Lý Tự. Ba cơ quan này cũng thẩm xét những vụ án đại hình, dâng lên hoàng đế duyệt.

Ở đây, tác giả dùng chữ "tam ty" với các nghĩa sau.

Có thể xem thêm:

http://baike.baidu.com/view/57344.htm

http://baike.baidu.com/view/37835.htm

Hoàng huyện thừa cười lạnh nói:

- Khi chiến sự bùng nổ, quan viên địa phương có quyền quyết định, không cần trình báo lên bộ Hình. Ngay cả điều này ngươi cũng không biết sao?

Phùng tuần kiểm đỏ rần mặt, vội chắp tay đáp:

- Vâng, hạ quan tuân lệnh!

Nói đoạn lão xoay người dẫn theo một đám thuộc hạ vội vội vàng vàng chạy đi.

Hoàng huyện thừa ra lệnh tiếp:

- Hồng bộ đầu, ngươi hãy dẫn người nhanh chóng đến thương khố Dịch mã thự, bảo bọn họ chuyển cây gỗ, đá tảng, dầu tung và vôi đến tường thành bốn phía!

Hồng bộ đầu cung kính tuân lời. Hoàng huyện thừa lại bảo Lưu điển sử:

- Lưu đại nhân, phiền ngài điều một bộ phận cai ngục ở đại lao ra, sau đó thông tri cho bảo trưởng và lý trưởng (*) các nơi tuyển chọn trai tráng gấp rút đào hố bẫy ngựa, bố trí cọc chống ngựa bên trong cổng thành ba phía đông, tây, nam, để một khi chiến sự căng thẳng, những trai tráng này còn có thể lên thành trợ chiến!

(*)Thời xưa mười hộ gọi là một giáp, mười giáp gọi là một bảo, từ mười bảo trở lên là một thôn. Đứng đầu một bảo là Bảo trưởng, đứng đầu một thôn là Lý trưởng.

Lão lại ra lệnh cho Vương chủ bộ:

- Vương đại nhân, ngài hãy ở lại cố thủ nha huyện, trình báo quân tình, còn phải phụ trách thu xếp ngày ba bữa cơm cho binh sỹ.

Dương Lăng nghe Hoàng huyện thừa an bài xong, lúc này mới hoàn toàn khâm phục. Vừa nãy y thấy Mẫn đại nhân anh dũng gan dạ, khiến cho nhiệt huyết cũng bị kích thích dâng trào, chỉ cảm thấy phải đại chiến một trận oanh liệt với quân Thát Đát mới không uổng là nam nhi.

Lúc này bình tĩnh lại, nghe an bài của Hoàng huyện thừa xong, y mới thấy bất luận là công hay thủ thì trước hết đều cần phải ổn định hậu phương. Nếu để mặc cho dân chúng trong thành tụ tập ngoài phố, nghe sai rồi đồn bậy làm nhiễu loạn quân tâm thì e rằng tin vịt khắp chốn, sự sợ hãi lan truyền bệnh dịch, đến lúc dân chúng bỏ chạy như ong vỡ tổ thì đã không thể trấn an được nữa.

Hơn nữa hiện giờ trong thành mới có hơn hai trăm quan binh, nếu không lên kế hoạch chuẩn bị mọi thứ ngay từ bây giờ, đợi khi nước đến chân thì sẽ không thu xếp kịp nữa. Mình vốn dĩ cũng chỉ biết "lập mục tiêu, vạch kế hoạch", nào biết mấy thứ này, suýt nữa làm hỏng đại sự.

Tất cả quan văn đều đi hết. Giang bả tổng thấy chỉ còn lại một đám binh sỹ thủ hạ của mình, bèn sờ sờ mũi cười nói:

- Hoàng đại nhân! Quân Thát vẫn còn quấy nhiễu ở dưới thành, bổn quan sẽ dẫn người ra đầu thành tuần sát, xin cáo từ!

Hoàng huyện thừa chắp tay, đưa mắt tiễn y rời đi, đoạn thở dài một tiếng, ngồi xuống bên bàn, hỏi chuyện Dương Lăng:

- Dương hiền điệt, có phải ngươi cảm thấy lần này chiến tranh nổ ra, lão phu hơi nhát gan sợ chiến phải không?

Dương Lăng bước tới bưng bình trà rót vào chén cho lão, cung kính nói:

- Hoàng lão! Học sinh còn trẻ tuổi bốc đồng, mắt thấy Mẫn đại nhân vũ dũng hơn người, máu nóng bốc lên thì cũng muốn xông theo lên đầu thành.

- Nghĩ kỹ lại, vẫn là Hoàng lão an bài ổn thoả. Mẫn đại nhân hiện là quan phụ mẫu của một huyện, lẽ ra nên cân nhắc toàn diện, lấy đại cục làm trọng. Nếu chỉ ham muốn thống khoái nhất thời, sẽ khó tránh khỏi lợi bất cập hại. Chỉ trách học sinh không tận lực khuyên can, lúc này ngẫm lại thật sự rất hổ thẹn.

Hoàng Kỳ Dận cười khổ nói:

- Cậu đừng nhìn quân Thát bên ngoài thành không đông mà tưởng lầm! Lần này bọn chúng tấn công thẳng vào những cứ điểm quân sự quan trọng, tham vọng rất lớn. Nam nhi kiến công lập nghiệp, bảo vệ lãnh thổ, đây là cơ hội rất tốt. Cậu hãy còn trẻ, cần phải rèn luyện nhiều hơn mới được.

Dương Lăng liếc thấy Hàn Ấu Nương đang rón rén bước ra khỏi vọng lâu, vội thuận miệng đáp:

- Vâng! Hoàng lão không cần nhọc công dặn dò, học sinh cũng phải biết gánh vác trách nhiệm. Hoàng lão nghỉ ngơi một lúc đi, học sinh ra ngoài trông coi việc bố trí canh phòng một chút!

Hoàng Kỳ Dận vân vê chòm râu, vui vẻ gật gật đầu. Dương Lăng hối hả chạy ra, chỉ thấy một bóng người xinh xắn đang vội vã nấp vào trong góc tối của vọng lâu. Y không nhịn được phải phì cười.

Lúc này tuyết vẫn chưa ngừng rơi. Nơi này là chỗ cao nhất của cả tòa thành, gió núi từ giữa hai ngọn núi phía trước lùa vào khiến tuyết càng dày thêm. Dương Lăng chậm rãi tản bộ đến dưới vọng lâu, hít sâu một hơi, nheo mắt nhìn lên trời, để mặc cho gió lạnh xen lẫn bông tuyết đập vào mặt, hồi lâu không nói một lời. Gió núi lạnh thấu xương thổi vào áo dài bay phần phật.

Dưới thành quân Thát Đát đã thôi phóng ngựa quấy nhiễu. Xa xa trên mặt đất bùng lên năm đống lửa khổng lồ. Dương Lăng giật giật mí mắt: "Chỉ một nhóm nhỏ trăm người sẽ không thể công hạ được Kê Minh, bọn họ bất chấp gió tuyết đợi ở dưới thành, chẳng lẽ kế tiếp còn có đại quân tập kích?"

Trong góc tường, một đôi mắt xoe tròn nhìn Dương Lăng, gió tuyết lùa lên tấm thân cao gầy yếu đuối của y. Cuối cùng Hàn Ấu Nương không nhịn được đành chạy ra, đau lòng kéo tay áo y, giống như một đứa trẻ phạm lỗi lí nhí nói:

- Tướng công...

Dương Lăng thở dài một tiếng, cúi đầu nhìn cặp mắt trong như nước của Hàn Ấu Nương, dịu dàng nâng lấy khuôn mặt non nớt của nàng như đang vốc một ngụm nước suối, xót xa nói:

- Ấu Nương, nàng có võ nghệ, một mình thoát thân sẽ tiện hơn. Nếu như thành thật sự bị phá, nàng hãy thừa lúc hỗn loạn mà chạy đi, trốn về nhà họ Dương... không! Trốn về nhà mẹ nàng đi!

Hàn Ấu Nương nghẹn ngào nói:

- Tướng công, chàng đang nói gì vậy? Cho dù có chuyện gì thiếp cũng phải ở cùng với chàng, sao có thể bỏ lại phu quân chạy trốn một mình chứ?

Dương Lăng cười trừ, có chút xót thương và tiếc nuối. Đến lúc này y mới phát hiện rằng, cho dù không có tình yêu mãnh liệt, không có cái lãng mạn anh anh em em, nhưng không biết từ khi nào người con gái đáng yêu lanh lợi này đã đi sâu vào trong lòng của y.

Y thích người con gái này, nhưng lại không dám tiếp nhận tình ý của nàng. Có lúc y không kềm được mà thân mật với nàng, có lúc lại giữ khoảng cách với nàng, rất nhiều mâu thuẫn, cũng bởi vì y biết mạng sống của mình ngắn ngủi biết chừng nào, cho nên thà rằng cứ duy trì tình hình như hiện tại.

Mượn xác hoàn hồn, nghịch thiên cải mệnh vốn không hề dễ dàng như vậy. Khói lửa ngay trước đêm giao thừa khiến cho y càng tin rằng cái kiếp chuyển thế lắm tai nhiều nạn của mình lại sắp bắt đầu.

Y thở dài, ngón tay nhẹ nhàng mơn trớn trên khuôn mặt thuần khiết non nớt đáng yêu của Hàn Ấu Nương. Khuôn mặt của nàng mát lạnh như băng, trơn như ngọc. Trong ánh mắt đượm vẻ ưu buồn của Dương Lăng toát lên vẻ dịu dàng. Không kềm lòng được, y bất chợt ôm chặt lấy Hàn Ấu Nương vào lòng như muốn siết tan nàng ra, miệng lẩm bẩm:

- Thật may biết bao, ta có thể cùng nàng kết mối lương duyên này... Cũng tốt, nếu để ta phải chịu dày vò hết hai năm, khi đó trong lòng nhất định sẽ càng thêm đau khổ. Ấu Nương, hãy đáp ứng với ta, nếu như thành không giữ được, nàng nhất định phải trốn đi, tìm một người tốt mà lấy, đừng để ta ở dưới cửu tuyền mà vẫn phải bận lòng về nàng.

Y nghĩ lầm là đại hạn đã đến, không nhịn được mà thổ lộ chân tình. Hàn Ấu Nương lại hiểu lầm, cho rằng phu quân quyết tâm cùng sống chết với dân chúng toàn thành, cho dù thành bị phá cũng quyết không chạy trốn, nhưng vẫn lo cho mình bơ vơ không nơi nương tựa, không người chiếu cố. Nam nhân yêu dấu trong lòng nàng đột nhiên được thăng cấp thành một anh hùng khiến cho người ta phải kính trọng.

Lệ nóng trào mi, nàng ôm chặt lấy Dương Lăng, nép vào lòng y nói:

- Tướng công, chàng cứ yên tâm giúp đại nhân thủ thành là được. Ấu Nương là vợ của chàng, cho dù chàng đến nơi nào Ấu Nương thiếp cũng sẽ theo chàng đến đó. Nếu tướng công mất đi...

Nàng nghẹn ngào:

- Vậy thì Ấu Nương cũng sẽ theo chàng xuống cửu tuyền, quyết không sống cho qua ngày đoạn tháng.

Dương Lăng nghe xong phát hoảng, đẩy nàng ra giận dữ nói:

- Đáng chết, nàng thì biết gì chứ? Chết cùng ta thì có ích gì? Ta chỉ muốn nàng tiếp tục sống, sao nàng lại ngốc như vậy...

Đèn lồng treo trên vọng lâu chiếu tỏ gương mặt đẫm lệ của Hàn Ấu Nương. Dương Lăng không nhịn được trong lòng đạu xót, những lời trách mắng cũng không thể nói ra.

Hàn Ấu Nương ngẩng đầu, nước mắt lưng tròng, ngây thơ chân thật nói:

- Ấu Nương hiểu chứ. Ấu Nương biết phu quân yêu thương thiếp, lo lắng cho thiếp. Nhưng mà phu quân có biết không, kiếp này Ấu Nương đã kết đôi cùng phu quân, nếu như phu quân mất đi, Ấu Nương sống có gì vui chứ?

Tâm hồn Dương Lăng chợt run lên. Dưới ánh đèn lồng đỏ nhạt, y đột nhiên phát hiện giữa đôi lông mày của người con gái nhỏ nhắn thuần khiết này đã toát lên vẻ phong tình mị hoặc của phụ nữ trưởng thành. Phải chăng hồng nhan trong thiên hạ đều có loại phong vận nửa ngây thơ khờ khạo, nửa chín chắn trưởng thành phát ra từ đáy lòng này?

- Ấu Nương, Ấu Nương à...

Dương Lăng cảm động than, lại ôm lấy nàng vào lòng, hai mái đầu kề nhau. Đèn lồng đỏ trên vọng lâu đung đưa, ánh sáng chập chờn, hai trái tim hòa nhịp, cả thế giới như chỉ còn lại hai người. Gió lớn, tuyết bay trong thoáng chốc đều trở nên vô cùng xa xăm, chỉ còn bầu không khí nồng nàn thân ái khiến cho con tim bọn họ cảm thấy an bình và yên ả.

"Trên đời này, chỉ e không còn người con gái nào có thể khiến cho mình động lòng như nàng nữa." - Dương Lăng bất giác suy nghĩ.

Hàn Ấu Nương ôm chặt lấy người đàn ông yêu thương nàng.

"Ông trời đã ban cho ta một tướng công tốt nhất" - Nàng mãn nguyện suy nghĩ, gương mặt lộ vẻ tươi cười.

Bông tuyết tung bay, chỉ trong chốc lát đã phủ lên người đôi trẻ đang ôm nhau một lớp trang phục trắng ngần.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 22: Trận chiến lúc bình minh

"Tuuu...u..."

Dương Lăng giật mình tỉnh giấc bởi tiếng tù lệnh phát ra lanh lảnh, vội vàng bật dậy. Vì có Hàn Ấu Nương bên cạnh, không tiện nằm chung cái giường to đùng trong gác canh với bọn Hoàng huyện thừa nên y đã đến ngủ bên trong lầu Ngọc Hoàng ở phía đông bắc thành.

Hàn Ấu Nương cũng đã tỉnh giấc, dụi dụi mắt. Dương Lăng nhảy xuống đất, vừa lao ra ngoài vừa dặn vói lại:

- Quân Thát đánh thành rồi. Nàng ở yên đây, ta đi xem thử!

Khắp nơi nơi đều vang lên tiếng chém giết. Binh sĩ trên tường thành chạy qua chạy lại, không ngừng vung đao chặt đứt dây móc từ dưới thành ném lên, đồng thời dùng cung tên bắn trả.

Trên tường thành, cứ cách khoảng mười bước lại đặt một chiếc xe tời quấn dây xích, chính giữa là một khối gỗ tròn đường kính cả thước, dài khoảng một trượng. Trên khối gỗ cắm chi chít những cây đinh sắt dài chừng năm tấc, hơi giống như một cây lang nha bổng khổng lồ.

Chỉ cần hai binh sĩ nấp sau thành đóa nhấc khối gỗ lên ném xuống dưới thành là sẽ nghe một loạt tiếng hét thảm, sau đó bọn họ lại quay bánh xe ở hai đầu, kéo cây "lang nha bổng" trở về.

thành đóa: phần nhô lên trên tường thành, để ấn nấp tránh tên.

Tuy công cụ thủ thành này có hơi cồng kềnh và tốn thời gian, nhưng hai bên còn có mấy tay cung thủ phụ giúp, bù đắp cho các khuyết điểm trên, cho nên lực sát thương của nó cũng không hề nhỏ.

Dương Lăng ba chân bốn cẳng chạy đến tường thành, vừa mới vịn tay lên thành đóa, một mũi tên bén nhọn đã bay vút sượt qua mặt y, cắm "phập" vào xà ngang lầu Ngọc Hoàng, đuôi mũi tên rung bần bật càng khiến cho y toát mồ hôi lạnh.

Hoàn hồn, nấp sau thành đóa nhìn nghiêng xuống dưới, Dương Lăng không khỏi cả kinh. Sao đột nhiên lại xuất hiện nhiều quân địch như vậy?

Khắp nơi dưới chân thành đều là quân Thát Đát. Tường thành cao đến mấy trượng, bọn chúng dùng móc câu và thang dây ném lên tường thành, hung hãn không sợ chết trèo lên, phía sau có rất đông cung thủ phi ngựa tới lui bắn tên lên thành yểm trợ. Cung thủ trên thành cũng liên tục bắn trả, song vì địch đông ta ít nên dù có địa lợi vẫn bị ép không ngóc đầu lên nổi.

Dương Lăng khom người vội vã chạy đến cửa phía nam, vừa mới xông lên vọng lâu đã nghe "ầm" một tiếng, mặt đất rung chuyển, khói thuốc súng mịt mù khiến y giật bắn cả người. Nhìn xuống dưới thành y thấy mặt đất lõm một lỗ lớn, hơn chục người ngã lăn quay, còn có một thớt ngựa bị nổ đứt chân đang nằm trong vũng máu không ngừng hí thảm.

Dương Lăng không nói nên lời, không ngờ đại pháo thời này lại lợi hại như vậy. Thời đại này đã có đạn nổ rồi sao? Vậy mà y còn tưởng rằng đạn pháo thời này đều là những quả bi sắt.

Có điều khói thuốc súng thật quá nồng nặc. Dương Lăng mới vừa chạy tới, đang thở dốc thì bị thuốc súng xông vào phổi, ho sặc sụa. Khói dần tan đi, hiện ra Hoàng huyện thừa đang nấp sau công sự trên vọng lâu. Lão vẫy tay gọi Dương Lăng:

- Hiền điệt, mau qua đây! Cẩn thận đừng để bị trúng tên đấy!

Dương Lăng khom người chạy tới gần, chỉ thấy ba khẩu đại pháo trước vọng lâu chĩa xuống bên dưới, mấy tay pháo thủ đang khẩn trương nạp đạn, đổ thuốc. Lúc này ngòi nổ của khẩu đại pháo bên trái được châm cháy xì xì, mấy tay pháo thủ lần lượt bịt tai nhắm mắt lại. Chỉ nghe "oành" một tiếng, chỗ đặt đại pháo khói thuốc súng mịt mù, không nhìn ra nổi một bóng người.

Dương Lăng bị khói hun đến đỏ cả mắt. Khi màn khói dày đặc ở trước mặt tan đi, y thấy khẩu đại pháo dù đã được lắp giá đỡ bên dưới cũng đã dịch về phía sau hơn một trượng. May mà trên thân pháo còn có neo sắt giữ lại, nếu không thì chẳng biết khẩu đại pháo này đã văng đi đâu mất. Những tay pháo thủ đang đẩy đại pháo trở về chỗ cũ.

Do quân Thát ở dưới thành chạy tứ tán khắp nơi tránh hướng chính diện, nên mặc dù phát pháo này có thanh thế long trời lở đất cũng chỉ sát hại được một tên và làm bị thương vài tên nữa, có cảm giác như lấy đại bác bắn ruồi.

Dương Lăng hỏi lớn:

- Hoàng đại nhân, tại sao quân Thát đột nhiên kéo đến đông vậy? Giang bả tổng đâu rồi?

Hoàng huyện thừa chỉ tay về phía trước nói lớn:

- Nhị Lý Bán đã bị thất thủ, quân Thát tăng binh rồi. Giang bả tổng đang ở phía trước đốc chiến, trên thành chỉ còn hơn trăm binh sĩ, lo được chỗ này thì lại mất chỗ kia. Ngươi hãy mau đến sở dịch thừa yêu cầu người của sở dịch đến thủ thành.

- Được!

Dương Lăng đáp nhanh, đoạn xoay người chạy xuống dưới thành. Lúc này Lưu điển sử đã dẫn hơn hai trăm tráng đinh xông lên thành, được một đội trưởng chỉ huy phân tán ra khắp tường thành. Những tráng đinh này chỉ là dân chúng bình thường, chưa được huấn luyện quân sự nên rất lúng túng. Sau khi nghe binh sĩ hướng dẫn, bọn họ cũng chẳng quản dưới thành có quân địch hay không, tìm được đá là ném ngay xuống dưới thành, khiến cho đám binh sĩ phải giậm chân tức giận.

Đám tráng đinh này cũng không biết cách tự bảo vệ bản thân, một người vừa ló đầu ra liền bị một mũi tên bắn trúng ngực, may mắn vừa lúc Hàn Ấu Nương chạy đến nên vội đỡ lấy y. Những tráng đinh khác thấy vậy sợ co rúm cả người, mặc cho quan binh lớn tiếng quát tháo thế nào cũng nhất định không chịu ló đầu ra nữa.

Lúc này trên đường vắng tanh, quả nhiên dân chúng đã bị đám nha dịch quát đuổi nên đều ở yên trong nhà không dám chạy lung tung. Vừa chạy đến ngã tư đường, Dương Lăng đã thấy Mã dịch thừa dẫn hơn mười dịch sứ theo sau ba cỗ xe ngựa đang vội vã từ phía trước chạy đến. Y liền đứng lại, gọi lớn:

- Mã đại nhân, quân Thát bên dưới thành phân tán để công thành, quân phòng thủ không đủ người, Hoàng huyện thừa mời ngài phái toàn bộ dịch sứ lên thành giúp phòng thủ.

Mã dịch thừa nhảy xuống ngựa nói:

- Còn người đâu nữa chứ! Cửa đông và cửa tây cũng có rất đông quân Thát tấn công, bọn chúng không đủ dụng cụ công thành nên đã phân tán ra chung quanh leo lên tường thành. Toàn bộ người của ta đã phái đi hết, chỉ còn lại chừng này, đang đưa pháo đến cho Giang đại nhân.

Dương Lăng vừa nghe còn có đại pháo thì trong lòng không khỏi mừng rỡ, song nhớ lại hiệu quả khi nãy của cái thứ bằng sắt đó thì lại có chút thất vọng. Hắn giậm chân nói:

- Bây giờ quân Thát tản ra bốn phía, chủ yếu là quân sĩ thủ thành không kịp đối phó, sợ rằng tác dụng của đại pháo sẽ không lớn.

Mã dịch thừa ra lệnh cho hai cỗ xe ngựa chia ra chạy về hai cổng đông tây, còn mình thì dẫn theo một cỗ xe tiếp tục tiến về phía trước, đáp:

- Hiền điệt sai rồi, đây không phải là pháo Đại Tướng Quân. Những khẩu pháo này là "Kích Tặc Thần Cơ Thạch Lựu pháo", "Uy Viễn Thạch pháo", "Vạn Nhân Địch Lệ Chi pháo", dùng chúng để thủ thành là tiện lợi nhất.

Dương Lăng nghe mà ù ù cạc cạc. Mã dịch thừa thấy y không hiểu, bèn vừa chạy vừa giải thích cho y một hồi. Thì ra pháo mà Mã dịch thừa nói đến ở đây kỳ thực chính là tạc đạn (trái phá).

"Kích Tặc Thần Cơ Thạch Lựu pháo" có phần na ná với lựu đạn ở thời hiện đại, đúc bằng gang, hình dáng giống như một quả lựu to đã chín.

"Uy Viễn Thạch pháo" là đá được đục lỗ, bên trong chứa thuốc nổ. Trong mỗi viên đạn đá còn trộn thêm một trăm viên đá nhỏ, khi nổ có lực sát thương rất cao.

"Vạn Nhân Địch Lệ Chi pháo" có thể tích lớn nhất, bên trong bình đất sét nhét đầy thuốc nổ, còn có đá vụn, sắt vụn, chông sắt,... Khi nổ mảnh đạn văng đến mấy trăm bộ, sát thương rất nhiều kẻ địch.

Dương Lăng nghe xong mừng húm. Nhớ hồi xem "Hoả thiêu Viên Minh viên" (lửa cháy vườn Viên Minh), khi đó Đại Thanh giao chiến với liên quân tám nước chỉ dùng chiến thuật biển người, trường mâu đại đao liều chết với bọn xâm lược, không ngờ vũ khí của triều Minh đã phát triển đến như vậy. Có được thứ đồ chơi này thì cho dù là một thư sinh như mình mà đi thủ một mảng tường thành cũng sẽ dễ như trở bàn tay. Nghĩ đến đây y không khỏi hăng hái đến xoa tay.

Quả nhiên lượng tạc đạn vừa được vận chuyển đến đã phát huy tác dụng rất lớn. Những kỵ binh chuyên dùng vũ khí lạnh của Thát Đát tuy dũng mãnh không sợ chết, nhưng căn bản không thể nào chống lại được thuốc nổ. Dưới thành chỗ nào có tiếng nổ là chỗ đó tử thương vô số, đợt tấn công của quân địch phải tạm thời đình chỉ.

Trên đầu thành quân Minh tử thương hơn bốn mươi người, cộng với bọn tráng đinh không biết tự bảo vệ thành ra thương vong trên trăm người. Lang trung quân sự và những lang trung dân gian tạm thời được điều động đều bận bịu trị thương khắp nơi.

Giang bả tổng vừa tự tay chém chết mấy tay binh sĩ Thát Đát, sẵn máu đang sôi, xách hai thanh trảm mã đao đầm đìa máu lớn tiếng chửi bọn tráng đinh ngu xuẩn, thỉnh thoảng còn đá vào mông bọn họ, quát bảo bọn binh sĩ dạy bọn họ phải tác chiến ra sao. Đám người Hoàng huyện thừa và Lưu điển sử thì chạy đến hai cổng thành đông tây tuần sát, xem xét tình hình thương vong.

Dương Lăng vịn bờ tường thành, thấy bọn Thát Đát đã lui về hơn ba tầm tên, đang chuẩn bị cho đợt công kích tiếp theo. Quân Thát Đát bên ngoài hai cổng thành đông tây cũng bắt đầu kéo về tập kết ở đó, nhân số phải đến hơn ba ngàn. Hàn Ấu Nương tay cầm một cây tiêu bổng (gậy dân phòng) xin được từ chỗ mấy nha dịch quen biết đang đứng bên cạnh y cẩn thận trông chừng, mặc dù vóc người nhỏ nhắn song tư thế lại tỏ ra hiên ngang oai hùng.

Dương Lăng thấy bên ngoài thành vẫn còn nhiều quân địch như vậy, cho dù bọn chúng chỉ đơn thuần tấn công liều mạng chấp nhận hao quân đi nữa, quân thủ thành còn lại có chống chọi được với đợt công kích thứ hai hay không cũng rất khó nói. Hơn nữa, vũ khí thủ thành lợi hại nhất là những quả tạc đạn cũng chỉ còn chưa tới hai mươi quả. Y bất giác hơi lo lắng.

Nhưng lúc này quân lực triều Minh đã khiến cho y cảm thấy rất bất ngờ rồi, không ngờ khoa học kỹ thuật quân sự thời Minh đã phát triển như vậy. Trong ấn tượng của y Minh triều lúc nào cũng yếu đuối nhu nhược, hoàng đế thì không quản chính nghiệp, hoạn quan thì gây họa cho thiên hạ, còn về những thứ khác thì y lại không biết rõ.

So với những người bình thường rành những bộ phim về Thanh cung, y cũng chỉ có thể biết được hơn họ một chút. Nếu không phải vì biết đương kim thái tử tên là Chu Hậu Chiếu , lại vừa vặn đã xem bộ "Du Long Hí Phụng" thì y sẽ còn chẳng biết bây giờ ai kế vị ngai vàng sau hoàng đế Hoằng Trị chứ đừng nói là biết gì nhiều về Minh triều.

Chu Hậu Chiếu, thụy hiệu là Nghị Đế, là tên riêng của Minh Vũ Tông. Chu Hậu Chiếu kế vị vua cha Minh Hiếu Tông. Sau khi ông qua đời, Minh Thế Tông kế vị.

Vì lịch sử triều Minh là do người triều Thanh viết lại, không cần nói cũng biết trong đó sẽ có ẩn tình, cho nên những hí thuyết (một loại hí kịch diễn lại một sự kiện lịch sử), diễn nghĩa gì gì phát triển từ nó đương nhiên lại càng không đáng tin. Bản "Dương Châu Thập Nhật ký" , bản "Gia Định Đồ Thành ký lược" lại bị chôn vùi hơn hai trăm năm ngay trên đất Trung Quốc. Mãi đến hơn hai trăm năm sau mới tìm thấy chúng từ Nhật Bản, đủ thấy được sự triệt để của những vụ án văn tự thời Thanh.

"Dương Châu Thập Nhật ký" (扬州十日记): do Vương Tú Sở viết, kể lại chuyện quân Thanh phải sau bảy ngày chiến đấu gian khổ mới chiếm được Dương Châu; sau đó quân Thanh đồ sát dân chúng Dương Châu trong mười ngày, gần như đốt trụi Dương Châu.

"Gia Định Đồ Thành ký lược"(嘉定屠城记略) cũng kể chuyện quân Thanh tàn sát dân chúng thành Gia Định.

Cả hai truyện đều bị triều đình nhà Thanh cấm triệt.

Thật ra vào thời đó, triều Minh đã không cách quá xa với chủ nghĩa tư bản, sản lượng sắt bằng tổng sản lượng của cả Châu Âu, một phần ba số lượng bạc của toàn thế giới đổ về Trung Quốc thông qua mậu dịch, sản lượng công nghiệp chiếm trên 60% sản lượng toàn cầu, còn vào cái thời gọi là Càn Long thịnh thế thì sản lượng chỉ chiếm được 6% toàn cầu.

Khó trách vì sao nhà truyền giáo phương Tây thời Minh là Matteo Ricci , đã ghi chép về Trung Quốc trong bản "Trung Quốc Trát Ký" (ghi chú về Trung Quốc) như sau: "Nơi này của cải sản xuất cực kỳ dồi dào, thứ gì cũng có, đường ăn trắng hơn đường của Châu Âu, vải đẹp hơn vải của Châu Âu... Mọi người đều ăn mặc hoa lệ, tác phong nhanh nhẹn, tinh thần dân chúng vui vẻ, lịch sự lễ độ, ăn nói văn nhã."

Matteo Ricci (Lợi Mã Đậu) là một thầy tu Thiên chúa giáo người Ý nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, là người phương Tây đầu tiên được mời vào Tử Cấm thành. Xin xem wikipedia để biết thêm thông tin.

Trong khi đó thời Càn Long, đặc sứ Anh Quốc McCartney đến tìm hiểu thì lại kể rằng: "Khắp nơi nơi đều là cảnh nghèo khó kinh người... rất nhiều người không có quần áo mặc... quân đội rách rưới bẩn thỉu trông như một đám ăn mày."

Năm 1793 đặc sứ Anh Quốc McCartney (Mã Cáp Nhĩ Ni) đến Trung Quốc gặp vua Càn Long để thỉnh cầu thiết lập quan hệ thương mại. Đáp lại yêu cầu này, vua Càn Long đã viết thư trả lời đức vua Anh Quốc, nói rằng: "Thiên triều sản vật dồi dào, không thứ gì không có. Thứ lỗi không cần tích trữ thêm hàng hoá ngoại nhập."

Trung Quốc thời Minh có phần giống với Nhật Bản sau này, những gì có thể tự phát minh thì sẽ tự phát minh, phát minh không được thì sẽ bỏ ra một số tiền lớn mua lại của nước ngoài sau đó nghiên cứu bắt chước. Thời đó mỗi doanh của "Thần Cơ doanh" đặt tại kinh thành có 5000 người, 3600 khẩu Phích Lịch pháo, 200 khẩu pháo Đại Liên Châu, 400 khẩu súng tay. Rõ là trang bị hiện đại đến cỡ nào!

Thế nhưng, sự tiên tiến về kinh tế, văn hoá không thể điều hoà cùng với sự hủ bại về chính trị và quân sự, khiến cho các nền văn hoá lạc hậu hơn lại du nhập và thống trị một Trung Quốc đã tương đối văn minh. Thời gian bị quay ngược lại một cách thần kỳ, các nhà khoa học thì tuyệt tích, vũ khí tiên tiến thì bị chôn vùi.

Súng thì bị coi là "kỳ kỹ dâm xảo" (loại kỹ xảo tà quái) cần phải huỷ bỏ. Trong "chiến tranh Nhã Khắc Tát" , sau khi quân Thanh thu được kiểu súng châm ngòi bóp cò, Khang Hy chỉ giữ lại hai khẩu để mình dùng chơi, hạ lệnh cho quân sĩ không được sử dụng loại súng tân tiến này, với lý do "không được ngưng dùng cung tiễn trường mâu mà tiền nhân đã truyền lại". Đến khi chiến tranh nha phiến nổ ra, quân Thanh chuyên cầm đại đao trường mâu hoàn toàn lạ lẫm với hỏa khí, lại coi chúng là tà vật, cho rằng dùng máu chó mực là có thể hoá giải được.

Jaxa: Khu dân tộc thiểu số vùng Cát Lâm, Hắc Long Giang.

Đương nhiên Dương Lăng không hiểu nhiều lắm về những chuyện này, chẳng qua y thấy vũ khí quân Minh sử dụng đã vượt rất xa dự liệu của mình, lại nhớ đến chuyện Trung Quốc sau này bị Bát Kỳ càn quét nên nhất thời nghĩ không ra nguyên nhân trong đó mà thôi.

Bát kỳ Mãn Thanh gồm tám đội quân: Chính Hoàng kỳ, Tương Hoàng kỳ, Chính Hồng kỳ, Tương Hồng kỳ, Chính Lam kỳ, Tương Lam kỳ, Chính Bạch kỳ, Tương Bạch kỳ.

Chính Hoàng kỳ, Tương Hoàng Kỳ và Chính Bạch kỳ thường được gọi là "Thượng Tam Kỳ"(上三旗) và nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hoàng đế. Chỉ những người Mãn Châu thuộc Thượng Tam Kỳ mới được đích thân Hoàng đế lựa chọn vào đội bảo vệ riêng của mình. Những kỳ còn lại được gọi là "Hạ Ngũ Kỳ" (下五旗) và được chỉ huy bởi các hoàng tử người Mãn Châu trực hệ của Nurhachi theo chế độ cha truyền con nối, và thường được gọi theo nghi thức là "Thiết mạo tử vương" (鐵帽子王 - Các hoàng tử mũ sắt) hay các "Hòa Thạc" (和硕). Họ cùng nhau tạo thành một hội đồng quản lý quốc gia Mãn Châu cũng như bộ tư lệnh quân đội có tên gọi là Hòa Thạc Bội Cần.

Vương chủ bộ và những bô lão đức cao vọng trọng trong thành đã dẫn người lên thành đưa cơm. Ông chủ của "Hồng Nhạn lâu" còn đặc biệt mổ một con heo to mập để khao thưởng tướng sĩ. Hàn Ấu Nương tay cầm hai bát cơm tẻ và một bát thịt heo hầm bước đến gọi:

- Tướng công, ăn cơm đi thôi!

Lúc này Dương Lăng mới sực tỉnh, vội tiếp lấy đồ ăn từ tay Hàn Ấu Nương đặt lên tường thành phủ đầy tuyết, sau đó hai người đứng bên bờ tường dùng cơm. Dương Lăng đã đói meo, lùa đến quá nửa bát cơm thì mới phát hiện Hàn Ấu Nương đang vừa ăn vừa cười tủm tỉm nhìn mình. Y lấy làm lạ, bèn hỏi:

- Nàng nhìn ta làm gì thế?

Hàn Ấu Nương hé môi cười, ôn nhu đáp:

- Thiếp thấy tướng công ăn ngon miệng nên trong lòng rất vui.

Mắt Dương Lăng có chút ươn ướt. Y thấy Hàn Ấu Nương lại tranh ăn rau với mình, chừa thịt lại trong bát, tiết trời lạnh, mỡ thịt sắp đông lại đến nơi, liền gắp lấy mấy miếng bỏ vào trong bát nàng, ra lệnh:

- Mau ăn hết thịt đi! Tướng công không thích ăn thịt heo béo, hiểu không?

Hàn Ấu Nương ngoan ngoãn vâng một tiếng, đoạn lấy đũa xắn đôi miếng thịt, gắp phần nạc bỏ vào bát Dương Lăng, còn mình thì lùa cơm, ánh mắt lộ ra khỏi miệng bát chớp chớp nhìn y. Dương Lăng hết cách, đành cười trừ thuận theo ý nàng, lùa thịt vào miệng nhai ngồm ngoàm. Thấy y ăn ngon miệng như vậy, cặp mắt to tròn của Hàn Ấu Nương hài lòng tít lại thành một vầng trăng non.

Ăn xong, Hàn Ấu Nương nhanh nhẹn thu lại bát đũa muốn đem về. Dương Lăng thấy trên mép nàng còn dính một hạt cơm, không nén nổi buồn cười đưa ngón tay lên mép môi của nàng gạt xuống. Hàn Ấu Nương ngẩn người, nhìn thấy hạt cơm dính trên ngón tay của y, không khỏi cảm thấy mắc cỡ, lại thấy Dương Lăng không vất hạt cơm đi mà đưa nó vào miệng, cả khuôn mặt nàng lập tức đỏ bừng.

Nàng vội vã đưa mắt liếc xung quanh, thấy không có ai chú ý đến cử động thân mật tựa như đùa bỡn này của phu quân, lúc này bờ vai đang gồng lên vì khẩn trương mới yên tâm mà thả lỏng. Thấy tướng công vẫn còn nhìn mình cười tủm tỉm, nàng xấu hổ lườm y một cái, rồi vội vã bê bát đũa xoay người chạy đi.

Dương Lăng thấy nàng tuy mặc nam trang nhưng tấm lưng vẫn lộ ra dáng mảnh khảnh, dáng vẻ đung đưa lại có một phong thái quyến rũ, bất giác trong lòng xao động. Nghĩ đến một ngày nào đó có lẽ nàng sẽ đối xử dịu dàng và âu yếm với một người đàn ông khác như đối với mình, trong lòng y bỗng cảm thấy ghen tỵ: "Tập tục thời này như vậy, Ấu Nương nhất định sẽ không tái giá chứ? Vậy mình có thể..."

Y chợt xoay người, vốc lấy một nắm tuyết trắng tinh chà vào má: "Trời đánh chết mày đi! Sao mày lại có suy nghĩ này? Nếu để tình cảm phát triển quá nhiều, chẳng phải sẽ khiến cho cô ấy càng thêm đau khổ sao? Mày chưa thử qua, sao biết sẽ không đành lòng để cho cô ấy yêu người khác chứ?"

"Yêu người khác?" - Ý nghĩ này vừa xuất hiện trong đầu, y chợt phát hiện được rồi mất nàng càng khiến cho y khó lòng chịu đựng nổi. Cán cân của tình yêu đã bắt đầu lắc lư bất định giữa lòng ích kỷ và sự "vĩ đại". Tuyết tan trên khuôn mặt y như những giọt nước mắt long lanh.

"Tuuu...u..."

Tiếng tù và cất lên không đúng lúc cắt ngang dòng suy nghĩ, Dương Lăng bực bội chùi tuyết trên mặt, cúi xuống ôm một khối đá nặng hơn hai mươi cân.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 23: Tráng sĩ chặt tay *

Nghe tiếng tù và, đám binh sỹ đều ào ào lao lên đầu thành, lo lắng nhìn xuống phía dưới. Lúc này kị binh Thát Đát không còn phân tán công thành như một bầy ong vỡ tổ giống vừa rồi nữa, trong đám địch quân trùng trùng điệp điệp đã xuất hiện hơn chục chiếc thang công thành sơ sài, xem ra là mới chặt cây trên núi xuống tạo thành.

Tường thành Kê Minh không tính là quá cao, bắc được thang lên, cộng thêm tài bắn cung thần kì của quân Thát Đát yểm trợ, với số người ít ỏi trong thành như vậy, chỉ cần có một điểm bị công phá thì sẽ mất toàn bộ thế cuộc.

Giang Bân nắm song đao, sát khí đằng đằng nói:

- Dựng Đại Tướng Quân lên, bắn nát thang của bọn chúng cho ta!

Vài binh sỹ và dân tráng lập tức chạy tới, giúp các pháo thủ mau chóng điều chỉnh lại vị trí của đại pháo.

Xa xa, một cái đài hình thù kì quái, xung quanh dùng gỗ đan chéo lại với nhau được dựng lên. Đài cao chừng năm trượng, trên cùng là một cái bệ, bên dưới là một bệ hình vuông lớn hơn, mặt bên lộ ra hai hàng bánh lăn bằng gỗ, phía trước căng một tấm da trâu. Không thể nhìn rõ bên trong, nhưng khi nhìn thấy cái thứ kì dị đó lắc lư tiến tới, có thể đoán ra quân Thát đang nấp đằng sau tấm da trâu đẩy đài gỗ về phía trước. Quân Thát Đát ở phía sau bắt đầu lúc nhúc di chuyển theo, từ trên thành nhìn xuống trông như một phiến mây đen phủ trên đất tuyết đang tràn đến.

Mặt trời đã lên cao, nhưng lấp lóe khắp nơi lại là ánh sáng lạnh của đao thương, chói lòa khắp cả một vùng. Giang Bân vung đao chỉ về phía cái đài hình chữ "tĩnh" (井) kia hét lớn:

- Mau bắn tan chiến xa công thành đó cho ta!

Quân Thát càng lúc càng tiến đến gần, những binh sỹ đang giương cung cài tên nhoài người về phía trước chợt la lên:

- Đại nhân, phía trước là người dân của chúng ta. Giặc Thát... bọn giặc Thát đã bắt dân của chúng ta dàn hàng ở phía trước.

- Hả?

Giang Bân nghe xong vội lao lên phía trước, vịn tay vào tường đóa * nhìn xuống (*gò nhô lên trên tường). Lúc này quân Thát đã tiến đến rất gần, có thể thấy rõ ở hàng đầu có hai ba mươi người cả nam lẫn nữ, già trẻ đều có, tất cả đều mặc trang phục Trung Nguyên. Lần này thì ngay cả Giang Bân cũng sững người.

Bắn? Nhưng đó đều là con dân Đại Minh, ai có can đảm gánh tội danh đồ sát hương thân này. Không bắn? Nếu để mặc cho quân Thát đến gần, tất cả bọn họ đều sẽ chẳng còn mạng, cả Kê Minh cũng sẽ thất thủ.

Giang Bân đảo tròng mắt, giận dữ mắng:

- Bắn cho ta! Đó là quỷ kế của quân Thát, tất cả đều là bọn quân Thát cải trang, bắn chết hết cho ta!

Nòng của đại pháo đã được nhắm chuẩn vào chiếc chiến xa công thành kia. Nhìn gã pháo thủ cầm bó đuốc châm lên kíp nổ, gò má Giang Bân không khỏi giật giật. Lúc này một dân tráng đột nhiên la lên:

- Không được bắn, không được bắn! Đó là hương thân của chúng ta đấy, ta nhận ra được, người ở bên trái là cậu ta, bọn họ đều là hương lão trên Bá Lạp lĩnh ở gần thành đó!

Ngòi lửa đang cháy "xì xì", Lưu tuần kiểm nhanh tay lẹ mắt tuốt đao chém một nhát vào trên hỏa pháo, chặt đứt ngòi nổ. Hoàng huyện thừa sợ đến tái mét mặt mày, còn bọn Vương chủ bộ thì đều thở phào một hơi.

Giang Bân nóng ruột giậm chân, trán nổi gân xanh nói:

- Ta nói với chư vị lão đại nhân, nếu bị chiến xa áp sát đầu thành, chỉ với bọn người chúng ta thì căn bản không thể thủ thành được. Bây giờ không phải là lúc mềm yếu như đàn bà đâu!

Hoàng huyện thừa nói:

- Không được! Chúng ta thân là quan phụ mẫu, sao có thể làm tổn thương dân chúng của mình chứ? Hãy chọn mấy tay giỏi tiễn thuật trực tiếp bắn chết quân Thát, ngăn cản bọn chúng áp sát!

Mấy tay quan văn đứng cạnh đều gật đầu lia lịa.

Hạ lệnh bắn phá một trận không cần phân địch ta sao? Chỉ e từ đây ô danh của bọn họ sẽ bị ghi vào tư liệu của huyện, muôn đời bị người chửi rủa. Bọn họ há lại chịu nhận lấy thứ tội danh này sao? Hơn nữa, nếu để cho ngự sử ngôn quan biết được tố cáo lên triều đình, thì cho dù hôm nay có thoát khỏi đồ đao của Thát Đát, e rằng bọn họ cũng sẽ bị hoàng thượng giáng tội.

Mấy tay cung thủ kéo cung buông tên, tên bay vun vút. Song tấm da trâu được căng phía trước chiến xa đã tiến vào tầm bắn kia lại chưa được thuộc, vừa dẻo lại vừa cứng, những mũi tên căn bản không xuyên qua được. Đại đội quân Thát ẩn náu sau chiến xa công thành từ từ tiến đến gần, không hề quan tâm đến tên bắn.

Giang Bân sốt ruột quát lớn:

- Ở đây do ta chỉ huy. Pháo thủ đâu, bắn cho ta, bắn tan chiến xa cho ta!

Hoàng huyện thừa giận dữ, nghiêm mặt quát:

- Kẻ nào dám? Quân Đại Minh lại đồ sát con dân Đại Minh, ở đâu có lý này! Ta là huyện thừa của bծ huyện, khi Mẫn đại nhân vắng mặt, quan viên lớn nhỏ của bổn huyện, kể cả thống lĩnh trú quân đều do bổn quan quản lí, ai dám kháng lệnh?

Đám pháo thủ ngơ ngác nhìn nhau, không biết nên nghe theo mệnh lệnh của ai.

Mấy mũi tên bắn trúng tấm da trâu chỉ khiến cho nó rung lên mấy cái, nhiều nhất chỉ có một hai mũi vạch vào tấm da, không hề có sức uy hiếp. Một gã kị binh Thát Đát một tay cầm thương, phóng ngựa lên trước chiến xa, hét lớn bằng tiếng Hán:

- Phía trước đều là người của bọn ngươi, ai dám bắn? Các ngươi hãy nhìn cho kỹ!

Nói xong hắn quặt ngựa quay về, cúi xuống giật lấy một cái bọc trong tay một thiếu phụ, sau đó phóng ngựa trở lại. Thiếu phụ kia gào khóc chạy theo sau, thình lình một mũi tên nhọn bay đến cắm vào ngay giữa lưng, bà ta lảo đảo mấy cái rồi ngã xuống.

Mọi người trên thành đều sững sờ, trơ mắt nhìn thiếu phụ đó ngã xuống mà không cách nào cứu viện. Gã lính Thát có thân hình vạm vỡ kia cầm thương đến dưới thành, giơ cái bọc trong tay lên, mũi thương sắc bén trên tay phải lập tức đâm xuyên qua nó, chĩa cao lên trời. Gã dương dương đắc chí kêu lớn:

- Chúng ta biết quân phòng thủ trong thành không nhiều, mau mau mở cổng đầu hàng thì còn có thể giữ được mạng, bằng không thì toàn thành sẽ bị giết sạch, ngay cả trẻ nhỏ như vậy cũng quyết không tha!

Người ở trên đầu thành lúc này mới biết cái bọc trong tay mà hắn chọc xuyên qua chính là một đứa trẻ, ai nấy đều giận đến nổ đom đóm mắt. Mấy tay cung thủ đang giương cung chẳng biết vì sợ hãi hay giận dữ mà cánh tay run lên, cũng không kéo cung được nữa.

Thấy máu tươi chảy dọc theo cán thương, từng giọt rơi xuống trên mặt tuyết, Hàn Ấu Nương đưa tay bụm miệng, tay kia thì bấu chặt vào cánh tay Dương Lăng, nước mắt đã nhạt nhòa trên mi.

Mãi một lúc sau, Giang Bân mới đột nhiên rống lên:

- Tất cả đứng ngây ra đó làm con mẹ gì? Khai pháo! Khai pháo cho ta! Cái đám mọt sách ngu xuẩn các người, phải để quân Thát xông lên giết sạch chúng ta thì mới vừa lòng sao?

Hoàng huyện thừa miệng cứ lập cập: "không được... không được...", nhưng lại không nói ra được câu nào hoàn chỉnh. Dương Lăng cũng không ngờ quân Thát lại tàn nhẫn như vậy, chứng kiến cảnh tượng đẫm máu này, cú sốc tâm lí khổng lồ mới khiến cho hắn nhận ra một hiện thực: hiện tại chính là hiện tại, ngoại tộc của hiện tại chính là ngoại tộc, bọn chúng đều là cầm thú không chút tính người.

Nhìn thấy một đứa trẻ còn quấn trong tã bọc bị một kẻ dã man khát máu một thương đâm chết mà không hề chớp mắt, con ngươi của Dương Lăng đã đỏ ngầu. Gạt mạnh tay Ấu Nương ra, y lao đến trước đại pháo, giật lấy bó đuốc trong tay gã pháo thủ, châm vào ngòi nổ, căng cổ khản giọng hét lớn:

- Mẹ nó! Giết! Giết! Giết!

"Ầm" một tiếng, đại pháo giận dữ gầm lên, đạn pháo chuẩn xác rơi vào trên chiến xa khiến cho phần bệ nổ tung thành từng mảnh. Mấy người dân ở phía trước và quân Thát đang ở dưới bệ đẩy chiến xa công thành đều bị bắn tan xác, máu thịt bay tứ tung, cái khung khổng lồ lắc lư rồi đổ sập. Những người Hán không bị nổ chết bỏ chạy tứ tán, song lại bị mấy mũi tên lông chim bắn theo lần lượt giết chết ngay trên tuyết.

Tên lính Thát vừa uy hiếp khiêu chiến dưới thành thấy vậy liền khiếp sợ, lập tức quay đầu ngựa định chạy về. Nhưng ngựa vừa mới xoay đầu, một mũi tên nhọn đã xuyên qua sau gáy hắn, lộ ra bên dưới cổ. Tên lính Thát kia không kịp kêu lên một tiếng, ngửa mặt lên trời rơi xuống, một chân vẫn móc vào bàn đạp ngựa, cái xác bị chiến mã lôi về.

Trên đầu thành, Hàn Ấu Nương mắt đỏ hoe, tay giơ cây chiến cung vừa đoạt lấy từ trong tay binh sĩ ở bên cạnh, lại lắp một mũi tên nữa vào. Loại cung lớn thủ thành này có tốc độ bắn rất nhanh, không giống như nỏ ngắn dùng trong khoảng cách gần mà lại khá giống với loại trường cung mà nàng hay dùng khi đi săn thú ở trong núi. Năm mười hai tuổi nàng đã từng dùng trường cung bắn trúng con báo đang chạy băng băng trong rừng rậm, đương nhiên chẳng phí chút sức để bắn trúng tên lính Thát không hề được che chắn này.

Thấy tấm "khiên người" đã mất đi tác dụng, bọn quân Thát liền hò hét khiêng hơn mười chiếc thang gỗ phân làm mấy đội lao về phía tường thành.

Đại pháo lại bị bật ra khỏi vị trí. Khói thuốc súng tan đi, chỉ thấy Dương Lăng tay cầm cây đuốc, cả người run lẩy bẩy như một chiếc lá vàng rơi trong gió. Mặt y bị khói hun đen thui, mở cặp mắt đỏ kè chậm rãi xoay người nhìn về phía bọn người Hoàng huyện thừa và Mã dịch thừa, cất giọng khàn khàn nói:

- Bị rắn cắn tay, tráng sĩ chặt bỏ. Đại cuộc... đại cuộc làm trọng!

Hoàng huyện thừa nhìn hắn chằm chằm, đột nhiên hét lớn một tiếng, điên cuồng lao tới, dùng hết sức ôm một khối lôi thạch ném mạnh xuống dưới thành. Đám người Vương chủ bộ và Mã dịch thừa cũng như hoá điên, tất cả đều xông lên. Giang Bân không dám để cho bọn họ chết hết ở đây, lập tức gọi mấy binh sĩ cả ôm lẫn nhấc kéo đám người đọc sách kia vào trong gác canh.

Y bước đến trước mặt Dương Lăng, vỗ mạnh lên vai khen:

- Thể hiện rất tốt, mềm yếu như đàn bà thì làm được đại sự gì chứ! Cho dù người khác thấy thế nào, gần vạn dân chúng Kê Minh nếu có thể giữ được tính mạng đều là nhờ ngươi đó.

Nói đoạn y nhổ một bãi nước bọt xuống đất, quát lớn:

- Tiếp tục khai pháo, bắn nát hết thang gỗ của quân Thát đi!

Nhưng lúc này quân lính Thát Đát dưới thành đã tránh cổng chính, phân làm hai cánh dựng thang lên tường thành, bắt đầu tấn công mạnh mẽ, vì vậy tác dụng của đại pháo đã giảm đi.

Dương Lăng lùi qua một bên, bất luận là tiếng hí của chiến mã, tiếng tên bay xé gió, hay là tiếng la hét chém giết, mọi thứ dường như đã trở thành âm thanh của một thế giới khác. Trên vài chiếc thang gỗ đã có người leo lên tới đầu thành, nhưng lại bị Giang Bân dẫn người mạnh mẽ ép xuống. Y vẫn hồn bay phách lạc đứng đấy, giống như còn chưa tỉnh lại. Mặc dù biết rằng biện pháp lí trí nhất lúc đó chính là phải nhẫn tâm nã pháo, nếu không thì sẽ còn chết nhiều người hơn, nhưng những người dân đó chết là do chính tay mình, y vẫn có một cảm giác tội lỗi nặng nề.

Tạc đạn đã dùng hết, những dân tráng vốn nhát gan sợ chiến dường như cũng đã bị kích động khiến cho sự dũng cảm ẩn giấu trong người trỗi dậy, ném đá, lăn gỗ, rải vôi, tất cả đều được sử dụng, không ít người còn nhặt lấy đao thương của quân sỹ đã chết tham gia giáp chiến. Quân Thát hoàn toàn là lấy thịt đè người hòng mở ra một con đường, thề phải hạ Kê Minh cho bằng được.

Ở không xa, trên một chiếc thang đã có bốn gã lính Thát xông lên thành, đang kịch chiến với quân Minh, phía sau còn có người không ngừng leo lên. Giang Bân thấy tình thế không ổn, liền múa hai thanh mã đao nhuộm máu lao tới như một cơn lốc.

Dương Lăng bị tiếng hét thảm thiết ở ngay bên cạnh làm cho bừng tỉnh. Lúc này quan binh thủ thành đang thiếu người, chỗ bị khuyết đó đã không còn quân bổ sung. Y không cần suy nghĩ, liền nhặt lấy một cây trường thương rồi xông đến.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 24: Phong Ma côn pháp

Hàn Ấu Nương sử dụng một cây phong hỏa côn, nàng đứng cùng với những pháo thủ đã bỏ đại pháo tay lăm lăm đao thương ở trên đầu thành chống địch, luôn để mắt tới Dương Lăng, thấy y không ngờ lại lượm thương xông về phía lũ giặc Thát thì sợ đến kinh hồn bạt vía. Tướng công là một kẻ đọc sách, thân thể xương cốt lại yếu ớt, đánh với một tráng hán bình thường sợ đã không nổi rồi, sao có thể là đối thủ của những tên giặc Thát giết người không chớp mắt này chứ? Nàng vung côn đập lên vai một tên giặc Thát vừa mới nhảy tót lên đầu thành, quét gã rơi xuống, đoạn co chân phóng đi.

Địch ta giáp chiến trên chiến trường không hề màu mè hoa lá, hoàn toàn đều là những động tác chém, bổ, đâm, đơn giản và trực tiếp nhất. Song vừa mới giao thủ, Dương Lăng mới biết hoàn toàn không chỉ là như vậy, sức lực và tốc độ của hắn căn bản không cách nào so được với những kẻ quanh năm rong ruổi trên chiến trường này. Một gã giặc Thát vừa cầm đại đao cứa qua cổ một binh sỹ, thuận thế khều một cái đã hất văng cây thương trong tay Dương Lăng.

Một tiếng quát vang lên chói tai, đại đao bổ xuống ngay đầu, Dương Lăng nhìn thanh đại đao ập xuống mà trong lòng chỉ nghĩ: "Đến rồi, mình lại chết nữa. Ấu Nương đâu rồi?" Y không tránh được nên cũng chẳng muốn tránh, trong tích tắc đối diện với cái chết này, y chỉ muốn được nhìn thấy Ấu Nương một lần nữa.

Mới quay đầu được nửa vòng, y đã trông thấy Hàn Ấu Nương đang phóng nhanh về phía y như một con báo mẹ bảo vệ con, khăn vấn trên đầu đã rơi xuống, bím tóc tung bay trong gió, khuôn mặt ửng đỏ như hoa đào.

Người và côn như biến thành một đường thẳng, vù một tiếng, đầu côn đã nhanh chóng điểm tới bên trên đỉnh đầu Dương Lăng. Một tiếng "coong" vang lên, thanh đại đao vừa mới tới đỉnh đầu bị Hàn Ấu Nương điểm trúng khiến cho thế đao đang chém thẳng xuống bị đẩy lệch đi, bổ chệch xuống đất thành một đường sâu hoắm.

Hàn Ấu Nương vừa đến, liền tì vai xuống đất mượn thế lộn một vòng về phía trước, búng người vung côn, điểm bộp vào giữa ngực tên giặc Thát đó. Lực đạo của một côn này cực mạnh, gã lui lịch bịch mấy bước về phía sau, chân còn chưa vững, Hàn Ấu Nương đã nhún chân xoay eo phóng tới hai bước. "Bộp bộp bộp", bóng côn như gió táp mưa sa quất vào bên trái cổ, bên phải cổ, giữa trán, hạ bộ; đánh cho gã ngã cũng không thể ngã mà la cũng không kịp la.

Dương Lăng trố mắt ra nhìn, chỉ thấy Hàn Ấu Nương múa côn quanh người, nắm giữa thân bổng, mũi côn sạt qua trước ngực Dương Lăng, mang theo tiếng gió rít vù vù. Thân người vừa xoay, tay đã trượt xuống đầu cô cả cây vẩy lên như đuôi báo, quất mạnh vào yết hầu của gã giặc Thát. Dương Lăng nghe rõ thấy tiếng xương cổ họng vỡ nát răng rắc. Một côn này vậy mà đã đánh văng cả tấm thân to lớn đó bay lên, lộn một vòng trên đầu thành rồi rơi xuống dưới đất.

Mấy chiêu này của nàng đều độc địa mãnh liệt, côn pháp vừa nhanh lại vừa hiểm, khiến cho người ta hoa mắt, bộ pháp lại càng mạnh mẽ có lực. Vừa thấy đầu thành lại ló ra một cái đầu người, đầu côn liền đâm tới như chớp. Một côn như mũi kích điểm ngay mi tâm gã đó, gã chưa kịp thấy rõ địch nhân thì đã ngã ngửa mặt lên trời.

Hàn Ấu Nương thu côn lùi lại về bên cạnh Dương Lăng, hai gối mềm nhũn gần như sắp quỵ xuống, nàng vội lấy côn chống xuống đất, lúc này mới ổn định lại thân hình. Còn Dương Lăng thì vẫn đang trợn mắt há mồm mà nhìn, thấy sắc mặt nàng trở nên trắng bệch, trán vã mồ hôi, y sợ hãi vội vàng dìu lấy nàng hỏi han:

- Ấu Nương, nàng sao rồi, bị thương ở đâu? Bị thương ở đâu?

Hàn Ấu Nương run giọng:

- Tướng công, Ấu Nương không sao, chỉ là... chỉ là một đao đó làm cho thiếp sợ muốn chết, hu hu hu...

Đương sự chẳng làm sao cả, còn nàng thì lại không ngớt nức nở.

Lúc này Giang Bân mới nhận thấy kẻ hậu sinh võ nghệ siêu quần đó không ngờ lại là một cô bé, còn cho rằng nàng vì vừa mới giết người cho nên thấy sợ, hắn vung đao liên tiếp chém mấy tên giặc Thát rồi cười ầm lên:

- Sợ gì chứ, lão tử lần đầu trên chiến trường thì chân cẳng cứ co rúm lại, tiêu trưởng phải túm cổ bắt ta xông lên phía trước đấy. Giết thêm mấy tên nữa thì cô sẽ hết sợ thôi.

Giang Bân đã chém giết đến say máu, hắn nhảy vọt lên tường thành, một cước đạp bay tên địch vừa mới bò lên, tay vung mã đao điên cuồng chém liên tiếp mấy đao, chặt đứt giây thừng buộc thang gỗ. Mấy tên giặc Thát vừa mới leo lên được nửa thang đã kêu thảm ngã xuống.

Nhất thời dưới thành tên bắn lên như mưa, tất cả đều nhắm vào Giang Bân. Giang Bân đứng trên đầu thành, song đao trong tay múa tít đến mức gió mưa không lọt, chặn rớt hết những mũi tên đó. Trông thấy võ tướng thống lĩnh thần dũng như vậy, những binh lính vốn đã chớm khiếp sợ ở chung quanh lập tức phấn chấn sỹ khí, tạm thời áp chế được thế công của giặc Thát.

Hàn Ấu Nương dìu đỡ Dương Lăng, nói:

- Tướng công, chàng hãy mau chạy lên lầu gác đi

Dương Lăng giậm chân chán nản. Khốn khiếp, thực đúng là tay không thể nâng vai không thể gánh, một chút hữu dụng cũng không có. Ngoài việc ném đá xuống dưới thì chỉ còn cung tên, mà cái nào cũng không phải là thứ mà người chưa từng đụng vào như mình có thể chơi được.

Thế nhưng bản thân Dương Lăng cũng tự hiểu, vừa rồi suýt nữa thì bị người ta chém chết, lại thấy Hàn Ấu Nương vì mình mà hoảng sợ như vậy, y cũng không dám làm tàng nữa, chỉ đành ngoan ngoãn lủi thủi đi lên lầu gác, trước khi đi còn hỏi vội một câu:

- Không ngờ võ nghệ của nàng lại giỏi như vậy. Đó là côn pháp gì vậy?

Hàn Ấu Nương đỏ mặt, bẽn lẽn nói:

- Là do cha thiếp dạy cho, Ấu Nương cũng không rõ nữa.

Thấy y đã bước vào lầu gác, lúc này Hàn Ấu Nương mới yên tâm, nàng lập tức xách côn chạy về bên Giang Bân cùng sát vai tác chiến. Chỉ cần chỗ nào bị giặc Thát đánh hở ra, bọn họ một đao một côn liền tấn công như sấm sét, nhanh chóng đẩy lui được bọn giặc Thát.

Giang Bân dũng mãnh thì Dương Lăng đã từng chứng kiến tận mắt, nhưng y không ngờ võ nghệ của Hàn Ấu Nương cũng xuất chúng như vậy. Một cây phong hỏa côn trong tay nàng múa đủ loại động tác: đập, đâm, quét, hất; côn ảnh mù trời như giao long xuất thủy. Thật không ngờ một cô bé con ngày thường nhu hòa nhút nhát như vậy, thế mà bây giờ lại nhe nanh múa vuốt hệt như một con sư tử hung mãnh.

Dương Lăng say mê ngắm nhìn, hai nắm tay siết chặt lại, trong lòng không ngừng kích động. Y thầm hạ quyết tâm, nếu hôm nay có thể thoát chết thì nhất định phải bảo nàng dạy cho vài ngón bộ côn pháp này. Đang xem đến nhiệt huyết dâng trào, bên cạnh bỗng có người vỗ lấy vai y. Quay đầu lại nhìn thì thấy Vương chủ bạ đã theo sát đến bên cạnh, trên khuôn mặt loang lổ vệt xanh vệt đen. Dương Lăng cũng bị khói thuốc súng hun đen thui, chỉ còn mỗi tròng mắt là còn trắng. Hai người bọn họ trông như một cặp tiểu quỷ vậy.

Lão đứng sát Dương Lăng, song cặp mắt lại chằm chằm nhìn phía tướng sỹ đang giáp chiến khắp nơi, giống như đang cùng y sóng vai theo dõi tình hình quân địch, hắn khẽ mở miệng nói:

- Dương sư gia, cậu làm không hề sai, đó là sự lựa chọn bất đắc dĩ, các đồng liêu sẽ không ai nói ra nói vào gì. Chỉ có điều... cậu nên coi chừng Mã dịch thừa.

Dương Lăng ngơ ngác, cũng khẽ hỏi:

- Tại sao phải coi chừng ông ta?

Vương chủ bộ gượng cười đáp:

- Dịch thừa là một chức nhỏ không đáng tính, cậu nói xem lão ta dựa vào cái gì để ngồi ngang hàng với huyện thái gia?

Lão húng hắng vài tiếng, đoạn nói tiếp:

- Dịch thừa của Đại Minh chúng ta hết thảy đều là mật thám của cẩm y vệ, cẩn thận là trên hết.

"Cẩm y vệ?" Dương Lăng thầm giật mình. Y vốn vẫn cho rằng cẩm y vệ đều là đại nội thị vệ bên cạnh hoàng đế, không ngờ một "cục trưởng bưu chính" kiêm "chủ nhiệm kho lương" lại cũng có thể dây dưa với cả cẩm y vệ. Mạng lưới tình báo của Đại Minh này đúng là phát triển thật đấy.

Nghĩ đến mối quan hệ giữa mình và Mã dịch thừa, y hơi yên tâm, nhưng vẫn cảm thấy có chút bất bình, bèn nói:

- Dân chúng dưới thành rõ ràng đã không còn đường sống, cho dù có thể sống đi chăng nữa, đem hai thứ lên cân, mấy vạn mạng người so với mấy chục mạng, chẳng lẽ còn không phân biệt được bên nào nặng bên nào nhẹ sao?

Vương chủ bạ cười khan vài tiếng, thở dài nói:

- Trừ phi kéo được bọn ngôn quan ngự sử cao cao tại thượng ở trong kinh thành lên đầu thành này, bằng không chỉ sợ bọn họ sẽ không nghĩ như vậy đâu.

Nói xong Vương chủ bạ lặng lẽ bỏ đi.

Dương Lăng quay đầu liếc nhìn thì thấy Hoàng huyện thừa đang đứng cùng với Mã dịch thừa trò chuyện gì đó. Ánh mắt thoạt giao nhau, y liền nhận thấy sự quan tâm của lão, Dương Lăng lập tức hiểu ra lão đã cố ý giữ chân Mã dịch thừa để Vương chủ bộ đến căn dặn y những lời này.

Trong lòng y có chút nghi hoặc: "Nhưng mình đã cứu lấy con trai của lão ấy mà, chẳng lẽ Cẩm Y Vệ đều lãnh khốc vô tình như vậy sao? Hoàng huyện thừa căn dặn như vậy cũng khẳng định là muốn mình tìm cơ hội hối lộ Mã dịch thừa thật tốt đây. Khục! Dù gì thì mình cũng chẳng sống được bao lâu nữa, muốn mình chết thì còn được, chứ muốn moi tiền ta thì còn khuya. Bằng không Ấu Nương của mình sẽ sống như thế nào?"

Ấu Nương của mình? Nghĩ đến đây, con tim của "kẻ keo kiệt số một" chợt rung lên một chập. Ngước nhìn lên thành, chỉ thấy bóng lưng Hàn Ấu Nương đang múa côn vun vút, hai bím tóc đen nhánh rũ xuống đến tận hông đang vung vẩy sau lưng.

Đúng vào lúc này, Lưu tuần kiểm giơ cung la rầm lên:

- Quân Thát bị đánh lui rồi, quân Thát bị đánh lui rồi.

Hai người Hoàng huyện thừa và Mã dịch thừa đang trò chuyện vừa nghe thấy nhất tề chen nhau chạy lên. Chỉ thấy quân Thát rút về như thuỷ triều, vừa lui vừa không ngừng bắn tên lên đầu thành yểm trợ cho bọn binh sĩ đang leo thang công thành rút xuống.

Trông thấy bọn chúng tiến lui có trật tự không hề hoảng loạn, tuy không hiểu trận hình nhưng Dương Lăng cũng nhận ra đội hình những tên giặc Thát đó tuy hỗn tạp nhưng không loạn, vẫn lờ mờ lộ ra vài đội hình tấn công, y không khỏi buột miệng thốt lên:

- Quân Thát đang làm gì vậy? Chỉ cần bọn chúng cường công một lần nữa thì sẽ có thể trèo lên đầu thành rồi, sao lại đột nhiên thoái lui thế?

Vương ban đầu cười ha hả nói:

- Dương sư gia, cậu nói quân Thát thì không sợ chết sao? Bọn chó đẻ đó đã bị chúng ta đánh cho cong đít rồi.

Trực giác của Dương Lăng cảm thấy có chút không đúng, nhưng lại không nói ra được nguyên nhân. Trái với những quan văn đang hết sức cao hứng, đầu óc y vẫn còn tương đối minh mẫn. Ngẫm nghĩ một chút, y đột nhiên kêu lên:

- Không hay, chẳng lẽ bọn chúng muốn tấn công hai cổng đông tây sao? Chúng ta vừa mới rút đi một phần nhân lực ở hai cổng đó về, chỗ đó thực lực yếu đi rồi.

Lúc này Giang Bân cũng đã vội vã chạy về. Trời rét căm căm, nhưng y đã cởi bỏ chiến bào, để trần hai cánh tay, song đao trong tay đã oằn cả lưỡi, bên trên bầy nhầy máu thịt. Nghe được Dương Lăng nói vậy, hắn liền tiếp lời:

- Chắc không đâu, hai phía đông tây đường phố chật hẹp, bình thường cổng thành đều đóng chặt, chúng ta tuy ít người nhưng bọn chúng cũng sẽ không thể phái đại đội nhân mã chiến đấu. Có điều, ta thấy giặc Thát tất có quỷ kế.

Hàn Ấu Nương đã chạy trở về, trong lầu gác là một đám lão gia đại nhân nên nàng cũng không tiện bước vào, bèn đứng ở bên ngoài cửa nhìn Dương Lăng, hai má ửng đỏ, tóc ướt bệt lên cả trán. Dương Lăng khẽ mỉm cười với nàng, đoạn bước tới mấy bước, che tay lên trán nhìn xuống phía dưới thành.

Trên mặt đất phủ đầy tuyết, quân Thát dạt ra thành một lối đi, chính giữa xuất hiện bốn thớt tuấn mãkéo hai vật đen ngòm tiến về thành. Dương Lăng còn chưa kịp thông báo phát hiện của y, Giang Bân đã như một con gà bị cắt tiết nhào tới phía trước, ngẩn ra một chút rồi nhảy dựng lên, căng họng hét lớn:

- Khốn khiếp! Là "Oanh Thiên Phích Lịch Mãnh Hỏa Pháo"!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 25: Thời khắc hiểm nguy

Hoàng huyện thừa mắt không được tốt nên không thấy rõ hai vật đó, nhưng ở trong cái tiểu trấn chốn biên thuỳ này đã nhiều năm nên lão đương nhiên biết "Oanh Thiên Phích Lịch Mãnh Hoả Pháo" là gì, vừa nghe xong sắc mặt lão lập tức trắng bệch.

"Oanh Thiên Phích Lịch Mãnh Hoả Pháo" có thể dùng để thủ thành, nhưng công thành mới đúng là sở trường của nó, uy lực của đạn pháo đủ để phá huỷ cổng thành, đánh sập tường thành. Hiện giờ quân Thát dưới thành có hơn ba ngàn quân, một khi cổng thành bị phá hủy, trạm Kê Minh tất sẽ không giữ được. Có điều không biết bọn chúng kiếm ở đâu ra loại đại pháo này.

Vốn là Bác Đạt Nhĩ Mô - chủ tướng của quân Thát trong cuộc tiến công ba quan ải Nhị Lí Bán, Ngũ Lí Phố và Kê Minh lần này - vừa dẫn quân đi công phá trạm Nhị Lí Bán, đang phóng hoả chém giết cướp bóc trong thành thì nghe nói thằng con Húc Liệt Bột Tề của Bá Nhan Mãnh Khả đã bị quân Minh giết chết. Hắn lập tức hạ lệnh cho phó tướng Hất Lâm Đạt Đạt dẫn quân đến Kê Minh, thề phải giết sạch toàn thành để báo mối thù này.

Hắn cũng biết Kê Minh khó đánh hơn Nhị Lí Bán nhiều, cho nên đích thân thống lĩnh hơn một ngàn quân, mang theo "Oanh Thiên Phích Lịch Mãnh Hoả Pháo" vừa đoạt được từ Nhị Lí Bán tiến thẳng tới Kê Minh. Khi vừa đến nơi, nghe nói quân sỹ công thành đã tử thương hơn ngàn, hắn lập tức hạ lệnh cho đại quân rút lui, định dùng hoả pháo bắn sập huyện thành.

Giang Bân tuy kiêu dũng, song giờ phút này cũng biết đại thế đã mất, y quẳng hai thanh mã đao đã quăn hết lưỡi xuống đất, nói với Hoàng huyện thừa:

- Hoàng đại nhân, bỏ thành thôi!

Hoàng Kỳ Dận mặt xám như tro, chòm râu dài dưới cằm run rẩy không ngừng, trả lời:

- Bỏ thành ư? Ngươi và ta có nhiệm vụ giữ mảnh đất này, nếu bỏ thành chạy trốn thì sẠphải bẩm báo với Thánh thượng ra sao? Hoàng mỗ nguyện cùng sống chết với thành!

Giang Bân trợn tròn hai mắt nhìn đám quan viên huyện nha, gầm lên tức giận:

- Nếu cổng thành bị phá, đương nhiên Kê Minh sẽ thất thủ, chẳng lẽ mọi người lại phải chịu chết một cách vô ích hay sao? Lúc cần quyết đoán thì phải quyết đoán, nếu không sẽ sinh họa đó!

Sau đó y chợt xoay người lại, quát bảo một tên binh sỹ:

- Mẫn đại nhân đã tỉnh chưa? Ta muốn bẩm báo quân tình với Mẫn đại nhân!

Tên lính đó nơm nớp sợ hãi thưa:

- Mẫn đại nhân vẫn sốt cao, hãy còn chưa tỉnh.

Giang Bân nghe thế thì nghiến răng ken két, đi tới đi lui trong phòng như con gấu bị nhốt trong chuồng. Đám quan viên đưa mắt nhìn nhau, trong bọn họ đã có kẻ lộ vẻ kinh sợ, nhưng không ai dám đầu têu xướng lên hai chữ "bỏ thành".

Dương Lăng không hiểu các vấn đề rắc rối bên trong, y chỉ nghĩ không thủ được thì lui, hà tất phải so đo chuyện được mất của một vùng, sau này quy tụ lực lượng quay về chiếm lại là được rồi. Y nào biết đối với cổ nhân hai chữ khí tiết so với tính mạng còn quan trọng hơn nhiều, cho nên có đôi khi chuyện bọn họ làm sẽ là hành vi vô cùng ngu xuẩn ở thời hiện đại, nhưng trong thời đại này thì lại rất bình thường.

Y bước tới thưa với Hoàng huyện thừa:

- Đại nhân, kết cục đã rõ rồi, sao không thừa dịp quân Thát chưa tiến đánh mà mau chóng rút lui? Quân nhu vật tư tuy không kịp mang đi, nhưng bảo vệ được tính mạng của mọi người quan trọng hơn mà. Núi xanh còn đó, sao phải lo không có củi đun?

Hoàng huyện thừa không lớn tiếng mắng y, lão chỉ mệt mỏi khoát tay, thở dài đáp:

- Bọn quân Thát đều giỏi cưỡi ngựa, bây giờ dù có bỏ thành cũng không thể chạy thoát, tiếp tục thủ thành thì còn có thể giết thêm được mấy tên.

Dương Lăng vội hiến kế:

- Vậy thì chúng ta tiếp tục ở lại nơi này kéo dài thời gian, đồng thời phái vài vị đại nhân tổ chức cho dân lành mau chóng trốn ra ngoài theo cổng bắc, sau khi ra khỏi thành lập tức chạy lên núi. Kỵ binh của quân Thát dù có lợi hại hơn đi chăng nữa thì cũng chẳng cách nào truy sát được dân chúng trong vùng sơn dã bạt ngàn. Vả lại đám quân Thát này còn chưa đủ năng lực để đoạt lấy giang sơn Đại Minh ta đâu, chẳng qua chỉ sắm vai cường đạo kéo đến cướp bóc một phen mà thôi. Vào được thành thế nào bọn chúng cũng sẽ đi lục soát vơ vét của cải, ít nhiều cũng phải mất một quãng thời gian.

Hoàng huyện thừa hai mắt sáng rực, khen:

- Chính thế! Lão phu đã hồ đồ rồi.

Lão lập tức quay sang hạ lệnh cho Vương chủ bạ và mấy vị hương thân chưa kịp rời đi:

- Vương chủ bạ, ông và Mã dịch thừa hãy cũng các vị Lý trưởng, Bảo trưởng (*) tổ chức cho dân chúng rời thành theo cổng bắc, sau đó chia nhau trốn lên núi!

(*) Thời xưa mười hộ gọi là một giáp, mười giáp gọi là một bảo, từ mười bảo trở lên là một thôn. Đứng đầu một bảo là Bảo trưởng, đứng đầu một thôn là Lý trưởng – ND.

Vương chủ bạ ngạc nhiên hỏi lại:

- Đại nhân, còn ngài thì sao?

Hoàng huyện thừa cương quyết:

- Tuy lão phu là một thư sinh, không thể cầm kiếm giết địch, nhưng cũng sẽ cùng các tướng sỹ thủ thành đồng sinh cộng tử!

Giang Bân thấy lão định hy sinh cùng thành như thế, thầm đoán chắc hẳn lão còn có ý ở lại giám sát và đôn đốc mình tác chiến. Y cười rộ, đoạn nghiến răng quay sang phía gần trăm tàn binh đều đã thương tích đầy mình, cười gằn:

- Được, hơn trăm cân (*) thịt này của lão tử sẽ ở lại đây, giết thêm được tên nào thì hay tên đó. Các ngươi mau trở về vị trí, thề chết không lui! Kẻ dám tự ý thoái lui, giết không tha!

(*) Cân Trung Quốc, hai cân tương đương 1kg – ND.

Hoàng huyện thừa liếc nhìn Dương Lăng, bảo:

- Hiền điệt, ngươi... hãy đưa Mẫn đại nhân rời thành đi!

Dương Lăng một mặt cảm phục khí phách của Hoàng lão phu tử, mặt khác y nghĩ dù có trốn thoát thì mình cũng chẳng còn sống được bao lâu, chi bằng cứ ở lại đây. Mặc dù thời đại này chưa có khái niệm về việc chăm sóc gia đình liệt sỹ, nhưng nếu như mình tử trận tại đây, ngày sau ắt hẳn Mẫn huyện lệnh và Vương chủ bạ sẽ chiếu cố cho Ấu Nương!

Nghĩ đến đó, y cất giọng hiên ngang lẫm liệt:

- Không! Tại hạ cũng sẽ ở lại đây, cùng giữ thành với Hoàng lão và các tướng sỹ.

Vương chủ bạ được lãnh nhiệm vụ sơ tán dân lành, quả thực trong lòng cũng nhẹ nhõm đi nhiều, lúc này thấy hành động của Dương Lăng thì vô cùng hổ thẹn, khí phách thư sinh nổi lên cũng lập tức nói:

- Ăn lộc vua mà chẳng thể giúp gì cho vua! Ôi, hổ thẹn làm sao, thật đã uổng công đọc sách thánh hiền! Dương sư gia, xin cậu hãy dẫn đại nhân rời đi, ta sẽ ở lại.

Dương Lăng còn trông cậy lão sau này chiếu cố cho Hàn Ấu Nương, sao nỡ để lão ở lại chịu chết cơ chứ? Y vội vàng khom người vái lão một cái thật sâu rồi bảo:

- Vương chủ bạ phải phụ trách sự an nguy của trăm họ cùng tính mạng của Mẫn đại nhân cùng gia quyến, trách nhiệm nặng nề, sao có thể ở lại được chứ? Ngài hãy mau đưa Mẫn đại nhân rời đi, còn chậm trễ nữa sẽ không kịp đó. Có điều... tiểu điệt có một chuyện muốn nhờ. Sau này xin đại nhân chiếu cố chuyết kinh (bà xã - cách nói xưa) Ấu Nương nhiều cho một chút!

Vương chủ bạ cảm động khôn cùng, nước mắt chảy dài trên mặt. Lão thấy Dương Lăng lấy vai tiểu điệt mà nhờ mình, bèn lập tức đáp luôn:

- Hiền điệt cứ yên tâm, chỉ cần lão phu còn một hơi thở, quyết sẽ không phụ sự uỷ thác!

Nói đoạn lão lập tức gọi người lên lầu khiêng Mẫn huyện lệnh xuống.

Mã dịch thừa sớm đã khiếp sợ trong lòng, lão vốn chỉ là Dịch thừa, lại mới tới nơi đây, chưa có tình cảm sâu nặng gì với Kê Minh, chỉ mong mau chóng dẫn hai con lập tức trốn đi. Thấy tình hình như vậy lão vội ra đứng ở cửa chỉ huy đám hương thân phụ lão nhanh chóng rời đi, chuẩn bị sơ tán dân lành ra khỏi thành.

Dương Lăng ba chân bốn cẳng chạy đến cửa lầu gọi Hàn Ấu Nương:

- Ấu Nương! Thành đã không thể giữ được nữa rồi, nàng hãy lập tức theo Vương chủ bạ bảo vệ Mẫn đại nhân rời thành chạy lên núi đi!

Hàn Ấu Nương vội hỏi:

-Tướng công, vậy còn chàng?

- Ta... Nàng và bọn họ cứ đi trước một bước, ta sẽ theo sau ngay.

Dương Lăng thuận miệng đáp bừa.

Hàn Ấu Nương tỏ vẻ ngờ vực nhìn y, sau cùng kiên quyết:

- Không, thiếp theo chàng. Nếu đi thì chờ chàng cùng đi.

Dương Lăng sốt ruột, nghiêm giọng quát:

- Sao nàng hồ đồ vậy? Lời của vi phu (chồng, nói khiêm) mà nàng một câu cũng chẳng thèm nghe... Có phải là muốn ta bỏ nàng ngay bây giờ không hả?

Y càng thúc hối, Hàn Ấu Nương càng tin y đã quyết tâm sống chết cùng thành, chỉ có điều nàng không biết sự "vĩ đại" của y hoàn toàn là vì tình cảm riêng tư mà thôi. Tiểu cô nương này vốn tính tình đáo để, chẳng qua nàng chưa từng tỏ ra ương bướng trước mặt y bao giờ. Tuy nhiên lúc này nàng cũng chẳng để tâm tới "tam tòng tứ đức" gì đó nữa, gân cổ lên cãi:

- Thiếp chưa từng phạm vào thất xuất chi lệ , vì lẽ gì mà tướng công đòi bỏ thiếp?

- Nàng...!

Dương Lăng nổi nóng, vung tay định đánh. Hàn Ấu Nương nhắm mắt đứng yên, hoàn toàn không hề có ý tránh né. Dương Lăng đã giơ tay lên, lại thấy khuôn mặt non nớt của nàng, sao có thể đành lòng ra tay được chứ?

Chính vào lúc này hai tiếng nổ "ầm, ầm" chợt vang lên, Giang Bân la lớn:

- Quân Thát bắn pháo rồi!

Dương Lăng không nghĩ ngợi gì, lập tức ôm Hàn Ấu Nương nhào xuống đất, đè lên người nàng.

Sau một hồi chấn động, đất bụi mịt mù bay khắp nơi, một góc ngôi lầu bị bắn trúng, cả toà lầu sụp xuống non nửa. Gạch, đá, ngói, gỗ không ngừng rơi xuống, đám thân sỹ quan viên trong phòng bị gạch đá văng tung toé đập trúng, ít nhiều đều bị thương. Quá nửa số thương binh vốn đang nằm ở góc tường bị chôn sống trong đống gạch ngổn ngang.

Thật ra không chỉ đám người trong phòng ngu ngốc, những binh sỹ bên ngoài cũng căn bản chẳng hiểu đạo lý nằm sấp xuống đất sẽ có thể giảm thiểu tối đa lực sát thương của vụ nổ. Chúng ta bây giờ xem riết nên quen, cứ tưởng rằng đây là một chuyện vặt vãnh mà con người vốn đã biết từ lúc sinh ra, thực ra con người đã phải mò mẫm tìm hiểu qua bao thế hệ mới phát hiện được chuyện này.

Hàn Ấu Nương bị Dương Lăng xô ngã xuống đất, lại bị y nằm đè lên người, trong lòng hơi có chút mơ hồ, không rõ đây là gia pháp mới phát minh gì của phu quân, sau vụ nổ mới chợt hiểu rằng phu quân sợ mình bị thương. Vội vàng trở mình ra khỏi người Dương Lăng, lập tức nng nhìn thấy một đống ngói vụn bên người Dương Lăng, trên lưng y còn bị một nửa khung cửa sổ đè lên. Nàng hoảng sợ, vội vã lôi khung cửa sổ ra, lo lắng hỏi:

- Tướng công, chàng có bị thương không?

Vào lúc này, một thân sỹ vốn đã chạy tới bên cầu thang run rẩy đứng dậy rồi hốt hoảng la to:

- Mau cứu người, Mã dịch thừa bị chôn ở bên dưới rồi.

Cùng lúc ấy Giang Bân đang nằm bò trên tường thành đột nhiên phát ra một tràng cười điên cuồng:

- Mụ nội nó! Bắn hay lắm, bắn hay lắm! Ha ha ha ha...

Giang bả tổng điên rồi sao? Lúc này đám người Hoàng huyện thừa tóc tai mặt mũi đầy đất bụi, không hẹn mà cùng trợn tròn mắt nhìn y. Chỉ thấy Giang bả tổng vung tay chỉ xuống dưới thành điên cuồng cười mãi không ngớt.

Mọi người dõi mắt nhìn xuống dưới thành, chỉ thấy có một khẩu "Oanh Thiên Phích Lịch Mãnh Hoả Pháo" của quân Thát văng ra khỏi chỗ cũ mấy trượng, giá pháo bay lên trời rồi rơi vào giữa đám đông, khiến tử thương mất một mớ. Khẩu đại pháo kia thì chỉ còn trơ lại một cái nòng đang nằm trong một cái hố đen ngòm, một bánh của giá pháo vẫn còn chậm rãi lăn trên tuyết, mãi một lúc mới ngã xuống.

Ai nấy đều lộ vẻ kinh ngạc, không rõ đã xảy ra chuyện gì. Giang bả tổng cười ha hả kể:

- Quân Thát không biết cách dùng đại pháo của chúng ta, chúng không niềng pháo để cố định. Một khẩu thì bị nổ văng cả thân đi, khẩu khác thì lại cho quá nhiều thuốc nổ, nổ banh mẹ họng nó rồi. Ha ha ha...

-----*-----

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 26: Cứu binh bất ngờ

Nghe xong lời giải thích của Giang bá tổng, mọi người ai nấy đều vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Dương Lăng chạy ra ngoài thấy được cảnh quái dị đó, cũng cảm thấy hết sức tức cười.

Sau một hồi hỗn loạn, dưới sự chỉ huy của một tên tướng lĩnh, quân Thát Tử đã bắt đầu chạy tới lật khẩu đại pháo kia lại. Dương Lăng thấy thế bèn lập tức hét lên:

- Đừng đứng đó mà nhìn nữa! Vương đại nhân, nhân cơ hội này hãy mau dẫn người tổ chức cho trăm họ rời thành đi! Nhanh lên nào! Vài người nữa qua bên này, mau đi cứu Mã dịch thừa và các binh sĩ bị thương!

Giang Bân nghe thế mới sực nhớ ra giờ mọi người vẫn còn đang bên bờ sinh tử, không phải là lúc xem náo nhiệt. Gã vội xoay người lại quát lớn:

- Pháo thủ đâu? Có ai còn sống không? Mau lấy đại pháo của chúng ta bắn nát đại pháo của bọn Thát Tử đi!

Trên lầu thành lập tức trở nên nhộn nhịp. Mẫn đại nhân may mà vừa mới được khiêng xuống tầng hai, bằng không đã mất mạng trong phát pháo hồi nãy. Giờ thì lão xem như là người hạnh phúc nhất rồi, thân là "nhà lãnh đạo tối cao" của Kê Minh, một mình một ngựa xông vào trận địa quân địch, một đao chém rơi đầu đứa con út của tiểu vương tử Bá Nhan Mãnh Khả, sau đó bỏ lại bãi chiến trường hỗn loạn cho người khác dọn dẹp.

Vương chủ bạ ra lệnh cho người khiêng Mẫn tri huyện theo, rồi cùng với một đám hương thân cấp tốc chạy xuống dưới thành. Dương Lăng và Lưu tuần kiểm thì gọi hơn chục binh sĩ mang cuốc xẻng lại, đào bới đống đổ nát để cứu người. Sau một hồi lâu, bọn họ đã lôi ra được năm sáu người từ trong đống gạch ngói, ngoại trừ một người bị đá đè chết, những người còn lại đều may mắn không bị nguy hiểm về tính mạng.

Mã dịch thừa trước đó đứng ở cửa lầu chỉ huy các hương thân rút lui ra ngoài, sau khi kéo được đầu lão ra ngoài, lắc vai mấy lượt nhưng vẫn không động đậy. Đến khi Dương Lăng và mọi người dọn sạch đám gạch ngói vụn dính trên người lão thì đều rùng mình kinh sợ. Một cái xà nhà đang nằm đè lên bụng Mã dịch thừa, phần thân dưới của lão bầy nhầy máu thịt, người đã tắt thở.

Ở bên kia, Giang Bân vất vả lắm mới tìm ra được mấy tay binh sỹ biết sử dụng hỏa pháo trong đám tàn binh, đáng tiếc hai trong ba tay pháo thủ chính đã bỏ mạng trong lúc giáp chiến để thủ thành khi nãy, chỉ còn lại một người thì lại bị thương và mới vừa được bới ra từ trong đống đổ nát. Y trước đó đã trúng một đao vào hông, nay lại bị gạch rơi vỡ đầu. Giang Bân cũng chẳng quan tâm nhiều đến vậy, gã kêu người đưa ngay tay pháo phủ mặt đầy máu me lên trên đài pháo.

Tay pháo thủ mặt mày vẫn còn choáng váng chỉ huy đám trợ thủ điều chỉnh góc độ pháo. Một quả pháo được bắn ra, nổ cách khẩu pháo của phe bên kia hơn mười trượng (33m), tuy không gây tổn hại gì cho nó nhưng cũng nổ chết hơn mười tên Thát Tử. Bọn Thát Tử đang lúng túng nạp đạn nhồi thuốc ở đó lập tức cuống cả lên.

Thời này vẫn chưa phát minh ra thước ngắm cho đại pháo, tất cả đều dựa vào phán đoán bằng mắt thường và kinh nghiệm của pháo thủ. Khi nãy bọn họ có thể bắn một phát nổ tan chiến xa của Thát Tử hoàn toàn là vì cái vật cồng kềnh đó ở rất gần, có thể bắn thẳng. Nhưng hiện giờ đối phương đã để đại pháo của chúng ở ngoài ba tầm tên, cho dù người pháo thủ kia đang ở trong trạng thái tốt nhất lúc bình thường cũng chưa chắc đã có thể bắn trúng đối phương, huống chi là bắn kiểu vòng cung trong tình hình như lúc này.

Giang Bân cũng chẳng hy vọng gì mình có thể một phát bắn tan đại pháo của đối phương, gã lập tức lệnh cho người nạp đạn vào ba khẩu đại pháo chờ bắn, sau đó kêu người dìu tay pháo thủ chính đi điều chỉnh cho từng khẩu, rồi liên tiếp bắn ra hai phát. Kết quả một phát pháo bắn quá gần, lãng phí cả đạn pháo, nhát kia thì lại bay quá xa, rớt oành vào giữa đám Thát Tử.

Mấy người Hoàng huyện thừa, Dương Lăng và Giang Bân đang đứng trên tường thành quan sát đều sốt hết cả ruột, hai tay siết chặt đến độ toát cả mồ hôi, nhưng lại chẳng giúp được gì. Lần đầu tiên trong đời Dương Lăng lại cảm thấy căm ghét cái nghề bảo hiểm của mình, nếu khi xưa mình là một tay pháo binh thì... Cơ mà, có làm pháo binh e cũng chẳng dùng được cái thứ pháo cổ lỗ sĩ này!

Bỗng mười mấy tên Thát Tử đang dựng lại khẩu đại pháo kia nhảy tót lên ngựa rồi quay đầu bỏ chạy. Dương Lăng và mọi người thấy khẩu đại pháo nổ vang, miệng pháo phụt lửa, đồng thời một đám khói lớn bốc lên mịt mù. Trong đám khói, thân pháo bay lên không trung rồi nặng nề rơi uỳnh xuống đất.

Đám người Dương Lăng chỉ cảm thấy dưới chân rung rinh một chút rồi thôi, chẳng có gì lạ. Mọi người kinh ngạc đưa mắt nhìn nhau, tất cả đều cảm thấy kỳ lạ: đạn pháo đâu? Tường thành không bị nổ chỗ nào cả, sao lại không thấy bóng dáng của đạn pháo đâu?

Giang Bân cười khan hai tiếng, nói:

- Bọn Thát Tử dù có ngu ngốc đến đâu đi chăng nữa thì chắc cũng không đến nỗi quên cho đạn vào pháo chứ nhỉ?

Miệng tuy cười nhưng trong lòng gã lại tràn ngập một cảm giác lo lắng khó tả, nụ cười trên mặt vì vậy trông hết sức gượng gạo.

Dương Lăng còn chưa kịp nói gì thì từ dưới thành đã vọng lại một loạt những tiếng la hét long trời, đó là tiếng hoan hô của quân Thát Tử. Đưa mắt trông xuống, chỉ thấy một rừng đao thương trong đám người đông nghìn nghịt.

Dương Lăng kinh hãi đưa mắt nhìn sang Giang Bân, trong mắt của cả hai bất chợt hiện lên nỗi khiếp sợ, bọn họ không hẹn mà cùng đồng thanh la lên: "Cổng thành!"

Một phát pháo bay thẳng này của Thát Tử đã bắn nát cổng thành bằng gỗ, giữa hai cánh cổng bị bắn vỡ vẫn còn ít khói chầm chậm bốc lên. Mọi người đang đứng trên tường thành đều ngây ra như phỗng. Trăm ngàn kỵ binh đang ùn ùn kéo tới, Kê Minh thất thủ đến nơi rồi!

Tiếng la hò chém giết vang trời đã át đi tiếng kêu la kinh hoàng của các binh sỹ và dân binh đang hoảng sợ, lúc này họ đã hoàn toàn mất hết ý chí chiến đấu. Dương Lăng lặng lẽ quay đầu lại, ánh mắt dò tìm của y chạm phải một đôi mắt trong veo.

Trong đôi mắt ấy ẩn chứa một mối thâm tình và sự lưu luyến vô hạn. Dương Lăng bất chợt cảm thấy đôi mắt ấy sao mà thân thiết thế, như thể từ lâu, lâu lắm rồi vẫn luôn chăm chú quan sát y một cách nồng nàn như vậy. Chẳng lẽ mối duyên phận ngắn ngủi này quả thật đã được định sẵn từ kiếp trước? Nếu vậy, liệu kiếp sau hai đứa mình còn có thể gặp lại nhau không?

"Thông thông mỹ mộng nại hà thiên, ái đáo thâm xử liễu vô oán..." (*) (Mộng đẹp nào ngờ thật ngắn ngủi, đã đắm say rồi oán trách chi...)

Vào phút giây này, lòng y tràn ngập niềm quyến luyến với sự sống và một nỗi sợ hãi không tên. Ngoài một vài cảm giác đó, y còn chưa kịp suy nghĩ gì khác thì ý thức đã rơi vào tình trạng đình trệ, đầu óc trở nên trống rỗng.

Đột nhiên, một khuôn mặt quỷ hung tợn bất chợt xuất hiện trước mặt Dương Lăng, che khuất bóng dáng Ấu Nương. Trên khuôn mặt quỷ đó loang lổ những vết máu, miệng quỷ há rộng, họng phát ra tiếng kêu như ống bễ. Nó nắm chặt lấy vai Dương Lăng rồi ra sức lắc mạnh, điên cuồng cười lớn: "Đến rồi, ha ha, rốt cuộc đã đến rồi, ha ha ha..."

Hắn ta khỏe thật, Dương Lăng bị lắc đến nỗi gần nôn mửa. Y đột ngột đẩy bật được khuôn mặt quỷ hung tợn đang lắc lư ở ngay trước mặt mình ra, tầm nhìn đã trở lại cự ly bình thường. Lúc này y mới nhìn rõ thì ra khuôn mặt quỷ đó là của Giang Bân, vì hưng phấn mà khuôn mặt vốn trắng bóc của gã đã biến thành đỏ ửng, cơ thịt trên mặt không khống chế được trở nên méo mó.

Bị Dương Lăng đẩy ra, gã chẳng hề có vẻ không vui, vẫn tiếp tục khoa tay múa chân, cười điên cuồng:

- Đến rồi, ha ha ha, cát nhân tất có thiên tướng, Tham tướng Vĩnh Ninh đã đến rồi!

Dương Lăng ngẩn người, giờ mới nghe thấy một loạt những tiếng súng nổ vang như rang lạc. Y đã thay Mẫn huyện lệnh xử lý chính vụ bấy lâu, đương nhiên hiểu được lời của Giang Bân. Quân biên phòng ở Tuyên Hoá có một Tổng binh, một Phó tổng binh, dưới là bảy Tham tướng. Tham tướng Vĩnh Ninh chính là tướng quân phụ trách phòng ngự khu vực Hoài Lai (một huyện thuộc Trương Gia Khẩu, tỉnh Hà Bắc.)

Sự thay đổi đột ngột giữa hai thái cực, từ tuyệt vọng đến vui sướng, khiến cho mắt y chợt tối sầm lại, suýt ngất. Không biết tự khi nào, Hàn Ấu Nương đã chạy đến trước mặt, Dương Lăng kéo nàng vào lòng, toàn thân run lên vì hạnh phúc.

Khi Hàn Ấu Nương dìu y về phía tường thành, hai chân y vẫn còn loạng choạng, tựa như vừa mới uống hai cân rượu trắng. Quân Thát Tử dưới thành đã tiến vào phạm vi một tầm tên bắn, nhưng ở cổng thành cũng đã có một lượng lớn quan binh xuất hiện, dẫn đầu là một đội quân sử dụng súng hỏa mai. Tiếng súng nổ đì đoàng, trong đám khói súng mịt mù, bọn Thát Tử ở phía trước ngã rạp xuống hàng lọat như lúa mùa gặt.

Súng hỏa mai thời này uy lực chưa đủ mạnh, cự ly bắn cũng không bằng tên, nếu đối phương khôi giáp đầy đủ thì đạn chì chưa chắc đã bắn xuyên qua được. Nhưng hiện giờ quân Thát Tử đang vô cùng đắc ý, thúc ngựa như điên, tranh nhau vào thành trước để cướp vàng bạc và gái đẹp. Khi súng hỏa mai khai hỏa, bọn chúng đã xông tới khoảng cách nửa tầm tên, phần lớn binh sỹ lại chỉ mặc áo vải bình thường, cho nên lập tức chết như rạ.

Súng hỏa mai tuy không bắn chết được chiến mã, nhưng chiến mã bị bắn trúng lại rất đau đớn, không chịu lao lên phía trước mà hoảng loạn bỏ chạy, giẫm đạp lên nhau. Số lượng quân địch tử thương vì chuyện này có lẽ cũng chẳng kém gì số bị súng hỏa mai bắn trúng.

Thấy những tay súng của quân Minh rất hỗn loạn, Dương Lăng nhớ lại lúc xem mấy bộ phim nước ngoài có bối cảnh ở thế kỷ 17. Những tay súng trong phim khi đứng nguyên tại chỗ bắn thì chia làm ba đội, đội thứ nhất nằm sấp, đội thứ nhì quỳ một gối, đội thứ ba đứng thẳng, lần lượt bắn và lắp đạn. Nếu vừa bắn vừa di chuyển thì chia làm hai đội, đội thứ nhất sau khi bắn xong thì lui về, đội thứ hai lại tiến lên, cứ thế bắn đan xen để khắc phục khuyết điểm tốn thời gian lắp đạn sau khi bắn của loại súng hỏa mai thời bấy giờ.

Thế nhưng quân Minh dưới thành lại xông bừa lên bắn như ong vỡ tổ, sau đó thì vội vội vàng vàng rút về phía sau, để cho kỵ binh vừa mới xông ra đánh bọc sườn quân Thát Tử từ hai cánh. Các tay súng ở tuyến đầu chưa kịp rút về đã bị cung tên của Thát Tử bắn chết và bị thương một loạt.

"Chẳng lẽ quân Minh vẫn chưa biết dùng phương pháp chia hàng để bù đắp cho khuyết điểm của súng hỏa mai hay sao?" Dương Lăng nghĩ bụng: "Đợi lát nữa có lẽ nên hỏi bọn Giang bá tổng một chút xem sao, biết đâu kẻ đến từ thời hiện đại như mình lại có cơ hội thật sự để khoe khoang kiến thức."

Thật ra, phương pháp bắn theo ba hàng trước đây đã được đại tướng quân Mộc Anh dùng để dẹp loạn trong những năm Hồng Vũ. Sau đó hỏa khí được phân phối trong quân đội càng ngày càng nhiều, mà triều Minh lại chưa từng xem trọng việc huấn luyện quan quân và binh sỹ, nên mấy phương thức vận dụng chiến thuật này không được phổ cập rộng rãi. Vì thế khi sử dụng hỏa khí, quân Minh vẫn thường là nổ súng đồng loạt, để rồi sau đó quân địch xông đến ngay trước mặt, súng hỏa mai khi đó chỉ còn là que cời lò.

Chủ lực của quân Minh vẫn không ngừng ào ra ngoài thành, lao về phía bọn Thát Tử. Tuy tốc độ triển khai trận địa của họ không nhanh bằng đối phương, nhưng một là vì người Thát Tử không hề chuẩn bị tâm lý, hai là vì loạt súng càn quét ban nãy đã khiến cho bọn chúng bị rối loạn đội hình, thế nên tình thế hết sức có lợi cho quân Minh.

Dương Lăng siết chặt hai tay, nhiệt huyết sôi trào. Chính vào lúc này, phía sau y chợt có người gọi lớn:

- Tham tướng Hà đại nhân, Giám quân Diệp đại nhân, Phó giám quân Lưu công công ở Hoài Lai, Vĩnh Ninh đến! Tri huyện Kê Minh cùng các quan viên thủ thành đâu?

Chú thích:

(*) Hai câu trích trong lời bài hát "Tiền thế kim sinh" trong bộ phim truyền hình "Tân bạch nương tử truyền kỳ"

Mạc phi tiền thế na nhất nhãn

Chích vi kim sinh kiến nhất diện

Thông thông mĩ mộng nại hà thiên

Ái đáo thâm xử liễu vô oán

Thiên sơn trở cách vạn lí viễn

Lai thế tái tục kim sinh duyên

Ninh nguyện tương thủ tại nhân gian

Bất nguyện tập tác thiên thượng tiên

Nhượng na triền triền nhiễu nhiễu đích tình ý vĩnh triền miên

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 27: Giám quân, gian quân

Dương Lăng xoay người lại, thấy Hoàng huyện thừa, Giang Bân và các quan viên huyện nha đang bước vội lên phía trước, quỳ xuống chào:

- Hạ quan Hoàng Kỳ Dận, Huyện thừa huyện Kê Minh, cùng Bá tổng Giang Bân tham kiếm các vị đại nhân.

Tham tướng Vĩnh Ninh khoát tay:

- Đứng lên đi, Mẫn tri huyện đâu?

Lão vừa chuyển động, những phiến giáp trên người lập tức phát ra tiếng kêu loảng xoảng. Vị Tham tướng Hà đại nhân ở Vĩnh Ninh này tuổi trạc ngũ tuần, vóc người không cao, hai má gầy hóp, cặp mắt sắc bén nổi bật trên màu đen của da mặt, kết hợp với bộ giáp trụ sáng loáng, càng làm toát ra khí thế không giận mà uy của kẻ bề trên.

Đi theo sau tay Tham tướng là một đám Hiệu úy (tên gọi của sỹ quan quân đội thời xưa) giáp trụ sáng choang, bên cạnh thì có hai người đang đứng, một trái một phải. Người đứng bên trái tuổi ngoài bốn mươi, mày trơn mặt trắng, là một quan văn dáng dong dỏng cao, khắp người toát ra vẻ tri thức. Lúc này hắn ta đang đưa mắt đánh giá Hoàng huyện thừa.

Vừa liếc thấy bổ phục (**) của hắn, cộng với hiểu biết của bản thân, Dương Lăng nhận ra người này là một quan văn tòng ngũ phẩm. Đại Minh quả nhiên có truyền thống quan văn nắm quân quyền, không ngờ lại phái một quan văn tòng ngũ phẩm đi giám sát một Tham tướng chánh tam phẩm. (**:loại hình thêu trên quan phục (trước ngực và sau lưng) để phân biệt cấp bậc. Ví dụ như quan văn thêu chim, quan võ thêu thú)

Đối với Dương Lăng mà nói, thái giám có thể coi là sinh vật hiếm lạ nhất, cho nên y chăm chú quan sát đến mấy lượt. Không giống với đám thái giám giả trong phim luôn mang vẻ tươi cười xiểm nịnh, vẻ ngoài quái quái, vị Lưu công công đứng bên phải tuổi hơn năm mươi, cằm nhọn, đôi mắt tinh minh mà ôn hòa, ngoại trừ da thịt có vẻ hơi nhão và trắng bóc ra, trông lão ta không có gì đặc biệt.

Mấy người Hoàng huyện thừa và Giang Bân lật đật đứng dậy. Hoàng huyện thừa khom người báo cáo:

- Bẩm đại nhân, Mẫn huyện lệnh trúng phải tên tẩm độc của Thát Tử nên đã hôn mê bất tỉnh. Khi nãy do tình thế nguy ngập nên hạ quan đã sai Chủ bạ trong huyện khiêng Mẫn đại nhân xuống dưới thành, hiện giờ hạ quan và Giang bá tổng Giang Bân phụ trách việc thủ thành.

Dưới thành, tiếng trống trận ầm ầm vang lên, tiếng chém giết rền rĩ vang trời. Lúc này quân Minh đã đánh cho bọn Thát Tử không kịp trở tay, từ trong thành quân đổ ra cuồn cuộn như thác. Bác Đạt Nhĩ Mô còn tưởng đã trúng phải gian kế của quân Minh, lập tức lệnh cho Hất Lâm Đạt Đạt đoạn hậu, đại quân bắt đầu rút lui.

Vị Lưu công công đó thấy quân Thát Đát rút lui thì cười lớn nói:

- Tướng quân thần dũng, đại quân vừa đến đã chiếm lại được Kê Minh, mới đánh đã giành thắng lợi. Đây thật đúng là một món quà mừng năm mới đầy ý nghĩa dâng lên cho Thánh thượng.

Giọng lão ta không đến nỗi quá chói tai, nhưng ngữ điệu quả thật hơi có chút ẻo lả.

Hà tham tướng khẽ cười, khoát tay nói:

- Lưu công công quá khen rồi! Người đâu, truyền xuống, lệnh cho Hạ Sĩ Kiệt, Vương Thừa Hiến, Trịnh Nhất Ngạc chia ra đóng ở phía đông, nam và tây thành, còn Tất Xuân, Tôn Đại Trung truy sát tướng địch!

Diệp ngự sử nghe vậy vội lên tiếng:

- Tướng quân, xin hãy chậm đã! Quân ta vừa đến, chưa rõ tình hình bên địch thế nào, làm sao có thể liều lĩnh khinh địch được? Binh thư có câu: biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Bọn người Thát Đát sống dựa vào ngựa nên năng lực di chuyển vượt xa quân ta. Theo tình hình hiện giờ, ta trước hết nên cố thủ thành trì, phái người do thám, hiểu rõ tình thế rồi hãy bàn tiếp.

Giang Bân nghe xong cũng vội nêu ý kiến:

- Đại nhân, trận thế của địch đã loạn, nếu bây giờ thừa cơ tập kích, tất sẽ thu được hiệu quả bất ngờ, ấy gọi là binh quý ở chỗ thần tốc. Nếu chờ cho bọn chúng ổn định lại thế trận, ung dung bố trí đội ngũ thì khi đó chúng ta sẽ gặp nhiều rắc rối hơn rồi.

Diệp ngự sử thấy gã chỉ là một quan viên cấp dưới, không khỏi phẩy áo cười nhạt:

- Buồn cười! Binh giả, thiên hạ chi hung khí dã, dụng chi thận chi (việc dùng binh là điều hại cho thiên hạ, cần phải cẩn thận). Mỗi lần dụng binh, khinh xa ngàn chiếc, trọng xa ngàn cỗ, mười vạn giáp quân, lương thảo phải vận chuyển từ xa ngàn dặm, mỗi ngày tiêu tốn ngàn vàng. Đại quân ta vừa tới, vẫn chưa ổn định, lương thảo cung ứng thì đều bị tụt lại. Hiện giờ phía sau thì không có viện binh, phía trước tình hình còn chưa rõ, cứ liều lĩnh tấn công như vậy, chẵng lẽ là vì tham công hay sao?

Giang Bân tuy cũng hiểu chút ít binh thư, nhưng tri thức có hạn, nghe thấy mấyngàn ngàn vạn vạn gì đó thì chóng mặt ù tai, mịêng lưỡi cứng đơ không đáp lại được câu nào. Dương Lăng tuy không hiểu binh pháp, nhưng cũng thấy rõ rành rành Thát Tử vừa bị đánh cho không kịp trở tay, nếu lúc này thừa cơ truy sát, bọn chúng tất sẽ khó mà tổ chức phản kích một cách hiệu quả được.

Vả lại thời đó hệ thống chỉ huy quân đội còn chưa phát triển, tính tổ chức của binh sĩ rất kém, mà lòng tận trung thì lại càng kém hơn. Đám sĩ tốt đánh trận hầu hết đều dựa vào nhuệ khí, thế nên thi thoảng có chuyện mấy vạn nhân mã đánh bại mấy chục vạn đại quân, thì cũng chẳng phải là chuyện lừa lọc trong tiểu thuyết mà là chuyện có thật.

Một đội quân mà bị đổ soái kỳ, đại quân rất có khả năng sẽ lập tức tan vỡ, dù muốn tổ chức lại cũng sẽ hết sức khó khăn. Hiện giờ Thát Tử rõ ràng là đang tan vỡ, vậy mà cái con mọt sách này lại cẩn thận như vậy: chẳng mong có công, chỉ cầu không có tội, bê nguyên xi mấy điều cứng nhắc trong binh thư ra, đúng là nhảm nhí!

Có điều, tuy Diệp ngự sử chỉ là quan văn tòng ngũ phẩm, nhưng Hà tham tướng lại chẳng dám xem thường ý kiến của hắn. Giám quân, trách nhiệm nào chỉ là giám sát quân đội không thôi, thật ra đó mới là kẻ nắm quyền quyết định cuối cùng. Ông ta trầm ngâm một chút, sau đó quay sang hỏi Giang Bân:

- Quân địch công thành có bao nhiêu tên?

Giang Bân vội đáp:

- Bẩm đại nhân, đêm qua chỉ có hơn trăm tên Thát Tử kéo đến quấy nhiễu, nhưng rạng sáng hôm nay đột nhiên có gần ba ngàn tên tấn công ào ạt vào thành, ban nãy lại có thêm khoảng ngàn tên kéo theo hai khẩu đại pháo đến. Nếu không phải vì tướng quân kịp đến thì thành này hiện đã thất thủ rồi.

Diệp ngự sử nghe vậy liền bảo:

- Thế nào? Quân địch không ngừng tăng lên, hiển nhiên là còn có hậu viện, sao có thể không cẩn thận ứng phó chứ?

Hà tham tướng do dự một lúc rồi quay sang bên cạnh hỏi:

- Lưu công công thấy thế nào?

Hai vị giám quân này đều là bị triệu tới nhậm chức tạm thời cho có. Diệp ngự sử là người của kỳ đại khảo hạch ba năm một lần sắp tới, đến Tuyên phủ để kiểm tra thành tích của quan viên địa phương. Lưu công công là thái giám chưởng quản ty Chung Cổ (đội kèn trống trong cung) trong Nhị Thập Tứ nha môn của nội cung, phụng chỉ xuất kinh mua sắm. Trên đường quay trở lại kinh thành thì lão bị khoái mã chạy liền tám trăm dặm chặn lại, sau đó được sai nhậm chứGiám quân cùng với Diệp ngự sử.

Tuy rằng địa vị thấp kém nhưng lão ta lại là người có thể thường xuyên thấy mặt Hoàng đế nhất, Hà tham tướng cũng không dám xem thường ý kiến của lão. Vị Lưu công công này ở trong cung đình chức vụ thấp hèn, thế nên mặc dù là Giám quân nhưng lão cũng không dám kiêu ngạo, suốt dọc đường đều hết sức cẩn thận, chỉ sợ sẽ để lộ cái xấu.

Vừa rồi nghe ý kiến của Diệp ngự sử, trong lòng lão ta âm thầm tính toán: "Đại quân chúng ta vừa mới tới đã đoạt lại được trạm Kê Minh ngay, có thể nói là một đại công. Nếu đưa quân đánh tiếp, lập thêm được chiến công thì đúng thật là như thêu hoa trên gấm. Nhưng nếu đúng như lời Diệp ngự sử nói, lỡ Thát Tử còn có phục binh, quân ta mà thất bại thì ta không làm tròn trách nhiệm một Giám quân, há chẳng phải sẽ bị Thánh thượng trách mắng sao? Cẩn thận vẫn hơn!"

Nghĩ đến đây, Lưu công công mỉm cười nói:

- Hà tướng quân có dũng, Diệp ngự sử thì có mưu, còn ta tầm nhìn hạn hẹp, cũng chẳng dám nói là có kiến giải gì. Có điều, đại quân lặn lội đường xa nên mệt mỏi không kém địch nhân, nếu tùy tiện truy kích, lỡ như có gì sơ suất thì sẽ không được tốt cho lắm. Hiện giờ Trịnh tham tướng và Tống tham tướng đang dẫn quân từ Trác Lộc, Xích Thành đến giáp công quân Thát Đát. Ngoài ra còn có tướng quân du kích Tề Quảng Thắng đang gấp rút chi viện cho trạm Nhị Lý Bán. Mấy cánh đại quân cùng tới như vậy, quân Thát Đát nhất định sẽ thất bại, ta nghĩ cứ cẩn thận một chút cũng tốt.

Thấy hai vị Giám quân đã có ý kiến tương tự nhau, Hà tham tướng bèn nói:

- Được, các tướng nghe lệnh đây! Lệnh cho Tất Xuân, Tôn Đại Trung lập tức thu binh, đồn trú trước cổng thành và phòng bị thật nghiêm ngặt! Sai thợ thuyền trong quân và thợ địa phương lập tức sửa chữa cổng thành! Phái thám mã thăm dò thực lực quân địch và tình hình hiện tại của Nhị Lý Bán và Ngũ Lý Phố!

Dương Lăng nghe vậy thầm lắc đầu: "Chẳng sợ kẻ địch giống hổ, chỉ e tướng nhà như heo. Rõ ràng là thời cơ cực tốt, không ngờ lại bị một gã thư sinh với một tên thái giám nói hươu nói vượn một hơi thành ra phải bỏ phí như vậy. Thật đáng tiếc!"

Hà tham tướng bảo thêm:

- Hoàng huyện thừa, Giang bả tổng, hai người cùng bản quan đi tuần tra quanh thành! À... Dịch thừa bản địa đâu?

Hoàng huyện thừa vội đáp:

- Đại nhân, Mã dịch thừa... đã chết trận!

Hà tham tướng lại hỏi:

- Chủ bạ đâu?

Hoàng huyện thừa thi lễ, đáp:

- Đại nhân, Vương chủ bạ đã đưa Mẫn đại nhân xuống thành, đường đến đây đã bị nghẽn bởi đại quân nên tạm thời ông ấy chưa tới kịp. Vị này là Dương sư gia, phụ trách lo liệu toàn bộ chuyện dân sự trong thành. Tướng quân xin cứ việc phân phó!

Hà tham tướng liếc mắt nhìn Dương Lăng, thấy y còn trẻ như vậy thì không khỏi giật mình. Hoàng huyện thừa thấy thế bèn mỉm cười cung tay nói:

- Đại nhân, Dương sư gia tuổi trẻ đầy triển vọng, đã giúp Mẫn đại nhân quản lý Kê Minh trên dưới rất trật tự, ngăn nắp và rõ ràng. Đại nhân cứ yên tâm!

- Vậy sao?

Hà tham tướng đưa mắt đánh giá Dương Lăng một chút, vẻ mặt nghiêm nghị đã hòa hoãn hơn một chút, ông ta chỉ tay vào Dương Lăng, bảo:

- Ngươi giao tất cả sự vụ ở huyện nha cho Hoàng huyện thừa! Từ bây giờ ngươi sẽ tạm thay chức Dịch thừa của Kê Minh, phụ trách liên lạc và vận chuyển lương thảo. Còn nữa, đêm nay bản tướng cùng hai vị Giám quân đại nhân sẽ ở lại sở dịch thừa, ngươi hãy đi sắp xếp một chút đi!

Dương Lăng vội khom người đáp:

- Vâng! Ti chức tuân lệnh!

Hà tham tướng lại quay sang phía Diệp ngự sử và Lưu công công, hòa nhã nói:

- Hai vị Giám quân đại nhân, mời! Chúng ta đi xem xét tình hình phòng thủ của thành một chút!

Hoàng huyện thừa vội sai Vương ban đầu (đội trưởng Vương) theo Dương Lăng đi tiếp quản sở dịch thừa, sau đó lão và Giang Bân cùng ba vị đại nhân rời đi. Dương Lăng đứng thẳng lưng lên, hơi hoang mang một chút. Hàn Ấu Nương thấy y đứng đó, bộ dạng như thất thần thì không khỏi tò mò, hỏi:

- Tướng công, làm Dịch thừa là thăng quan hay giáng chức thế?

Dương Lăng lắc đầu:

- Là choáng váng!

- Ối!

Hàn Ấu Nương lo lắng nói:

- Tướng công vừa rồi đã bị thương, sao gã Giang bả tổng đó còn nắm lấy mà lắc chứ? Thật là! Tướng công thân thể không khỏe, vậy mà hắn còn mạnh tay như thế!

Hàn Ấu Nương vừa nói vừa tức giận trừng mắt nhìn theo bóng Giang Bân.

Dương Lăng cười nhăn nhó:

- Không phải thế đâu! Đó là tại vì ta chưa từng làm Dịch thừa bao giờ nên giờ không biết phải làm gì cả. Hoàng lão lại cùng với mấy vị đại nhân đi tuần thành rồi, thế là chẳng còn ai chỉ điểm cho.

Hàn Ấu Nương bảo:

- Thế thì... đi hỏi Vương chủ bạ đi! Bây giờ vẫn chưa tới trưa, thời gian để sắp xếp chỗ ở cho các vị đại nhân vẫn còn dư dả lắm.

Dương Lăng vỗ trán:

- Ừ đúng, giờ ta phải đi, nàng hãy về nhà nghỉ ngơi một chút! Vi phu lo xong sẽ về ngay, mệt thật đấy!

Ấu Nương nghe xong bèn vâng một tiếng, Dương Lăng và Vương ban đầu thì lập tức xuống dưới thành.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 28: Dịch thừa tạm quyền

Lúc này đại quân đã tập trung trong thành, trạm Kê Minh nhỏ nhoi đầy ắp binh lính. Trong quân đội nhà Minh có hai loại biên chế: quân thuộc vệ sở và quân thuộc về doanh. Quân biên phòng là quân đội thuộc về doanh. Dưới trướng Hà tham tướng có năm vị quan đô ty, mỗi vị đô ty thống lĩnh một nghìn một trăm hai mươi người, tổng số quân lính trong thành lúc này đã tới năm nghìn sáu trăm người, bất luận là binh lực hay là khí thế đều vượt hẳn giặc Thát.

Khi nãy nếu nhân lúc giặc Thát vẫn còn kinh hoàng thất thố chưa kịp chuẩn bị, đưa quân tiên phong chọc thẳng vào trung khu làm rối loạn thế trận đối phương rồi lại dẫn đại quân chia làm hai cánh giáp công, ít ra cũng có thể khiến nhân mã của bọn chúng tổn thất một nửa. Đáng tiếc lại lỡ mất cơ hội tốt, thật khiến người ta phải nuối tiếc.

Vương chủ bạ đang ở gần huyện nha. Vốn lão đã khiêng Mẫn huyện lệnh theo tới gặp các nhân sỹ, định tổ chức cho trăm họ chạy trốn thì lại thấy đại quân từ thành ắc kéo vào, đương nhiên không cần phải thực hiện kế hoạch đã định từ trước nữa. Lão đưa Mẫn đại nhân về huyện nha trước, trong lúc đang hối hả quay trở lại thì gặp Dương Lăng và Vương ban đầu đang cùng cưỡi ngựa tới.

Tuy Dương Lăng không biết cưỡi ngựa, nhưng vì muốn tranh thủ thời gian nên y cũng gắng gượng leo lên chiến mã. Mặc dù ngựa không phi nước đại nhưng cũng đủ xóc nảy khiến cho hai chân y mỏi nhừ, lưng như muốn gãy sụm.

Vừa thấy Vương chủ bạ, Dương Lăng vội báo cho lão biết chuyện mình tạm thời nắm quyền Dịch thừa, sau đó khiêm tốn thỉnh giáo lão một lúc lâu. Nắm được yếu lĩnh công việc rồi, y lập tức đến sở dịch thừa.

Sở dịch thừa là một công thự dạng ngũ tiến liên hoàn viện xây bằng gạch và gỗ. Cụm kiến trúc này hết sức rộng lớn, từ ngoài bước vào là dịch quán, tiếp theo là dịch thương (bộ phận coi kho), dịch học (nơi học của con quan), giang phòng (nhà tang lễ), còn phòng làm việc và phòng ngủ của Dịch thừa thì nằm ở trong cùng.

Nhận được quân lệnh do Vương ban đầu truyền, vì "không trâu phải bắt chó đi cày" nên tạm thời sở dịch thừa do Dương Lăng quản lý. Trạm Kê Minh nhỏ xíu, không có quan trông kho riêng nên Dịch thừa kiêm luôn chức này. Thủ hạ của Mã dịch thừa gồm sáu tên tiểu lại, trong đó có bốn tên phụ trách sự vụ của sở dịch thừa, còn hai tên quản lý nhà kho.

Trong trận chiến vừa rồi, quân thủ thành tử thương rất nhiều. Sáu tên tiểu lại lên thành hỗ trợ phòng thủ chỉ còn sống sót bốn người, một kẻ lại bị trọng thương, thành thử chỉ còn ba tên để cho Dương Lăng sai bảo. Ba người này đều mặt mày đen thui vì khói lửa chưa kịp rửa ráy, tuy không đến nỗi giống hệt ông táo bếp như Dương Lăng, nhưng trông cũng đủ tức cười rồi.

Dương Lăng sai bọn họ thu dọn mấy căn phòng tốt nhất, chuẩn bị mời ba vị đại nhân vào ở. Sau đó y lại yêu cầu bọn họ đi dọn dẹp nhà kho, lần lượt là lương thảo và đồ dùng, kê khai xác nhận số lương thảo cấp dưỡng đã thu nhận được ngay tại chỗ một cách rõ ràng, rồi lập sổ, tổ chức cho đám dịch sứ phân phát tới các doanh.

Phân phó xong xuôi, Dương Lăng đưa mắt ngó quanh, nhớ lại đây chính là nơi Mã dịch thừa thường ngày làm việc, y không khỏi cảm khái vô cùng. Kể ra thì thật hai người rất có duyên, lão ấy chỉ đến trạm Kê Minh sớm hơn mình một ngày, và mình thì nhờ vụ kiện của nhà lão nên mới kết thân được với Huyện thái gia, kiếm được một chức vị để mưu sinh.

Thế mà Mã dịch thừa mới nhậm chức hơn một tháng thì đã phải chết thảm ở nơi đây, còn mình, kẻ bất cứ lúc nào cũng chuẩn bị chết lại vẫn còn sống sờờ ra đó, thế sự thật khó lường! Dương Lăng thầm nghĩ: "Có nên đi thăm huynh muội Mã Ngang một chút không nhỉ? Giờ bọn họ chắc đã biết tin dữ của Mã đại nhân, mình cũng nên đi thăm hỏi bọn họ một chút mới phải!"

Có điều hiện giờ xe ngựa chở quân nhu của quân doanh đang kéo tới nườm nượp, phải đón tiếp quan viên, cho lương thảo nhập kho, tính toán nhu cầu cấp dưỡng của từng đội quân, thu xếp việc cung ứng quân nhu cho các doanh. Y và mấy tên tiểu lại đang bận đến tối tăm mặt mũi, chẳng còn thời gian để đi chia buồn.

Hơn nữa Mã dịch thừa vừa mới chết, y lại đang tạm nắm quyền dịch thừa, nếu y đang đứng trước mặt anh em họ Mã mà một đám dịch sứ, tiểu lại cứ thỉnh thoảng lại chạy đến xin chỉ thị, e rằng trong lòng anh em Mã Ngang sẽ càng thêm khó chịu. Cho nên nghĩ lui nghĩ tới một hồi rồi y buộc lòng phải thôi.

Cái mớ thóc gạo lương thực ra ra vào vào này thật quá ư là lộn xộn. Dương Lăng nghĩ mãi không thông, chỉ là quân lương cho hơn chục ngày thôi, để yên trong quân doanh thì cũng có sao đâu? Điều động tới tấp như vậy, tốn của hao người, vừa mất thời giờ vừa tốn sức lực, cho dù làm vậy là để quan văn nắm giữ lấy mạch máu của quân đội, nhưng cũng không khỏi tốn hao công sức quá mức cần thiết.

Y quay mòng mòng như chong chóng, liên tục phải cưỡi ngựa áp tải lương thảo đưa đến từng cổng thành. Lúc tạt qua nhà, y bèn vội vàng nhảy xuống ngựa, định vào nhà thay chiếc áo khoác, chiếc đang mặc trên người thật đã quá bẩn thỉu.

Vừa nhảy xuống ngựa, Dương Lăng chợt cảm thấy hai chân hụt hẫng như mới vừa bước từ trên thuyền xuống. Do không biết cưỡi ngựa, hai bắp đùi non của y bị cạ đến nổi mẩn, đi đứng rất khó khăn. Sợ Ấu nương trông thấy sẽ đau lòng, lúc vào tới cửa y liền chậm bước, cố đi đứng ra vẻ tự nhiên hơn.

Vừa bước vào nhà, y đã trông thấy Hàn Ấu Nương đeo tạp dề bằng vải hoa xanh lam đang ngồi trước bếp bọc bánh cảo. Thấy tướng công trở về, nàng liền như một con chim khách vui vẻ, vô cùng phấn khởi chạy ào ra đón, khuôn mặt đỏ bừng tràn ngập vui mừng.

Trong không khí có mùi nhân bánh, Dương Lăng đưa mũi hít hít vài hơi. Ừm, đó là cảm giác gia đình, một cảm giác thật an bình. Thấy trên gò má của Hàn Ấu Nương còn dính chút bột bánh, đáy mắt y chợt dấy lên một tia yêu thương ấm áp. Hiện giờ càng lúc y càng thích nhìn vẻ mặt vừa như con nít, vừa như một người vợ bé nhỏ dịu dàng của nàng.

Thoáng thấy trên vung nồi đã xếp chỉnh tề bốn hàng bánh cảo, mỗi chiếc bánh đều như một thỏi bạc trắng tinh, y khẽ mỉm cười trách nhẹ:

- Nàng thật! Bảo về nhà nghỉ ngơi, làm mấy món ăn bình thường là được rồi, nàng còn phí sức gói bánh cảo làm gì vậy?

Hàn Ấu Nương vừa giúp y cởi chiếc áo khoác dơ dáy ra, vừa vui vẻ đáp:

- Tướng công, hôm nay là Tết mà, sao có thể qua loa chứ. Đây là... đây là năm đầu tiên chúng ta cùng ăn tết đó.

Dương Lăng ngẩn ngơ. Một ngày đầy rẫy những sự cố nguy hiểm đã khiến y sớm quên béng hôm nay là mồng một Tết. Đêm giao thừa đầu tiên ở triều Minh không ngờ lại là đêm giao thừa mà y cùng đón với Ấu Nương trong bóng đao ánh kiếm. Trông thấy vẻ mặt tràn đầy hạnh phúc cùng nụ cười ngọt ngào không chút trách móc của Hàn Ấu Nương, lòng y chợt đau nhói. Qua cái tết này, liệu ta sẽ còn có may mắn cùng nàng đón cái tết thứ hai hay không?

Sợ Hàn Ấu Nương thấy được vẻ mặt của mình, y vội quay lưng cầm lấy chiếc áo khoác, vừa mặc vào vừa nói với nàng:

- Ừm, ta quên mất. Để lát nữa đi mua thêm chút rượu và đồ ăn, chờ ta về chúng ta sẽ cùng đón năm mới, bù cho đêm giao thừa.

Hàn Ấu Nương cất giọng trong vắt vâng một tiếng, rồi báo:

- Chiếc áo mới may của tướng công thiếp đang để ở đầu giường, đợi khi nào chàng về rồi hẵng thay.

Dương Lăng ừ một tiếng rồi vội vã trở ra ngoài, nhảy tót lên lưng ngựa, cùng hai tay dịch sứ chạy về phía nam thành. Ngoài thành phía nam đồn trú hai doanh binh mã, lúc này đang chôn nồi làm cơm, gỗ đốn tạm từ trên núi ẩm ướt khó nhóm nên nhất thời khói bay mù mịt khắp nơi.

Lên lầu thành hỏi thăm thì biết Hoàng huyện thừa và Giang bả tổng đã đưa mấy vị đại nhân đến lầu Hồng Nhạn ăn uống, thợ thuyền đang tu sửa cổng thành cũng đã đi nghỉ cả rồi. Dương Lăng ngó thấy không còn chuyện gì nữa, bèn dẫn theo vài tên tiểu lại quay về.

Bôn ba từ sáng đến giờ y mới ăn một bữa cơm, bụng đã đói đến lép kẹp. Vả lại, tuy rằng y đã dần nắm được chút yếu lĩnh cưỡi ngựa nhưng giờ vẫn cảm thấy cưỡi ngựa vất vả hơn đi bộ nhiều. Cưỡi ngựa thì cả người đều phải dùng sức, mệt đến rã rời, miệng lưỡi khô khốc.

Chớm thấy một cái giếng ven đường, y liền nhảy tót xuống ngựa chạy lại quay ròng rọc gỗ kéo lên một thùng nước. Nước giếng trong vắt, trôi nổi vài mảnh băng nhỏ trong suốt. Dương Lăng vốc lấy một vốc nước giếng ngọt lịm lạnh buốt uống ừng ực mấy ngụm lớn một cách sảng khoái. Nước giếng lạnh buốt trôi xuống dạ dày, cái lạnh xen lẫn trong vị ngọt khiến dạ dày lâm râm buôn buốt. Y hít thở mấy hơi, rồi cứ thế xối nước giếng rửa mặt mũi. Đứng thẳng người lên, y vươn vai, uốn người, hà hơi ra một màn sương trắng, những sợi tóc dính nước trong nháy mắt đã trở nên cứng ngắc.

Lúc này từ trong quân doanh ngoài thành có hơn chục kỵ binh cưỡi khoái mã cấp tốc phi tới. Khi thấy mấy kẻ vận trang phục của sở dịch thừa đang đứng bên giếng nước, tay tướng lĩnh cầm đầu liền vội vàng ghìm cương, nhưng vì ngựa phi quá nhanh nên phải lao hơn chục trượng gã mới ghìm chiến mã quay đầu lại được.

Dương Lăng kinh ngạc nhìn tay tướng lĩnh giữa đám binh sỹ kia. Vị này tuổi trạc tứ tuần, thân hình còm nhom, da dẻ đen nhẻm, dưới hàm là một chòm râu be bé. Có điều nhìn kỹ thì thấy xương gò má nhô cao, cặp mắt tam giác, tròng trắng nhiều hơn tròng đen, phần nào đã phá hỏng khí chất nho nhã của gã.

Sắc mặt gã lạnh lùng, có vẻ như đang cố nén sự oán giận. Chiến mã vừa đến trước mặt bọn Dương Lăng, gã ngạo mạn ghì cương, một tay nắm chặt roi ngựa, hỏi bằng giọng kẻ cả:

- Các ngươi là người của sở dịch thừa hả?

Phà hơi vào hai tay đã lạnh đến ửng đỏ, Dương Lăng hỏi ngược lại:

- Tướng quân là vị nào thế? Có việc chi sao?

Thân binh bên cạnh gã đó lớn tiếng quát:

- Hỗn láo! Đây là Tất đô ty của bọn ta, còn không mau trả lời?

Biết gã là tướng quân hàm chánh tứ phẩm thì Dương Lăng không dám coi nhẹ, vội thẳng lưng lại chắp tay nói:

- Ty chức chính là dịch thừa tạm quyền của bổn huyện, không biết tướng quân có điều chi sai khiến?

Gã tướng quân đó nghe xong liền lập tức vung roi, "chát", ngọn roi rít lên một tiếng sắc lẻm sượt qua bên tai Dương Lăng khiến y giật nẩy mình. Thấy thế mấy tên thân binh phá ra cười ầm ĩ. Dương Lăng giận tím mặt, ngẩng đầu giận dữ nhìn gã đô ty. Chỉ thấy gã Tất đô ty nghiến răng, cười lạnh nói:

- Một tên dịch thừa cỏn con như ngươi mà cũng thật là lớn mật. Bổn tướng dẫn quân trong đêm gấp rút chi viện, đã cứu gần vạn lê dân trạm Kê Minh, vậy mà hôm nay lại định để cho binh sỹ của bổn tướng phải chịu đói, thật là quá vô lý!

Thấy vị tướng quân này ngang ngược như thế, vốn Dương Lăng đang tím mật bầm gan, nhưng khi nghe xong lời này lại không khỏi giật mình, cơn giận lập tức tiêu tan. Y nhíu mày hồ nghi hỏi:

- Sao lại có chuyện như thế?

Y quay đầu nhìn về phía cửa nam thành vẫn đang để ngỏ, chỉ tay về phía những làn khói bếp đang lượn lờ, hỏi:

- Ta đã sai người đi phân phát lương thảo, ngoài thành rõ ràng đã có khói bếp, sao có thể nói là để binh lính bị đói được?

Tất đô ty tím mặt cười gằn, đáp:

- Đó là quân doanh của Tôn Đại Trung. Thủ hạ của Tất Xuân ta cũng là quan binh Đại Minh, cho đến tận bây giờ, tướng sỹ trong quân ta chỉ được chia một nửa số gạo. Thường có câu rằng hoàng đế không để quân bị đói, chẳng nhẽ trạm Kê Minh nhà ngươi lại muốn bọn ta mang bụng đói ra trận giết địch hay sao?

Trong đầu Dương Lăng thoáng qua ý nghĩ: "Tham ô tiếm của ư?" Lúc y rời sở dịch thừa đã từng đích thân đi kiểm tra kho, lương thảo vận chuyển tới tối thiểu phải chất đầy hai phòng trong kho, đủ để cung cấp cho năm nghìn quan binh dùng trong trong mười ngày. Kẻ nào mà lớn mật như vậy, không ngờ lại dám ăn bớt mất một nửa, hơn nữa lại đang giữa lúc đánh nhau như thế này, quả thật là gan lớn bằng trời.

Lúc này thậm chí trong lòng y còn nảy sinh ý muốn giết người, mặt mày cũng lập tức xám xịt. Cố chế ngự lửa giận, Dương Lăng quay về Tất đô ty chắp tay khom người vái một vái, thốt từng chữ như chém đinh chặt sắt:

- Đại nhân, đây là sơ suất của ty chức, mong đại nhân lượng thứ cho! Xin đại nhân hãy lập tức phái nhà bếp trong quân đến sở dịch thừa trước, ty chức sẽ về đó ngay bây giờ đích thân phân phát quân lương ngay.

Một tên tiểu lại đứng bên cạnh không ngừng giật giật ống tay áo y như thể muốn nói điều gì. Dương Lăng chẳng chút quan tâm, hai mắt vẫn nhìn thẳng vào gã đô ty nọ.

Nghe Dương Lăng nói xong, nét hung bạo trên khuôn mặt của Tất đô ty từ từ dịu lại. Gã khẽ nghiêng người, vươn thân, cặp mặt tam giác nhìn chằm chằm vào Dương Lăng một hồi không chớp. Đột nhiên gã hỏi:

- Ngươi tên là gì?

Dương Lăng đáp:

- Ty chức Dương Lăng, dịch thừa tạm quyền của huyện Kê Minh.

Tất đô ty gật đầu, ngồi thẳng người lên rồi cười ha hả:

- Hay, hay cho một dịch thừa tạm quyền Dương Lăng, bổn tướng sẽ nhớ kỹ. Khâu Đại Bằng, ngươi hãy mau đuổi theo Quan Thụ Anh, kêu bọn chúng hãy ngoan ngoãn không được cướp lương nữa, cứ nói là Dương dịch thừa sẽ lập tức tới mở kho. Bổn tướng trở về đại doanh chờ tin tức của các ngươi, ha ha ha...

một loại kiến trúc cổ, có năm gian (năm cụm kiến trúc) đi theo chiều dọc, ăn sâu vào trong. Ngoài ra còn có thất tinh liên hòan viện, ngũ tiến liên hòan viện, cửu liên hòan viện.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 29: Mở kho phát lương

Tất đô ty dẫn theo đám thân binh phóng ra khỏi thành nhanh như chớp.

Dương Lăng hiểu được ý tứ trong lời của Tất đô ty. Y thật không ngờ gã đã phái người đến sở dịch thừa cướp lương rồi, thế là không màng đến hai bên đùi vẫn còn đau nhức, y vội vã lên ngựa phi nhanh về sở dịch thừa.

Tên tiểu lại vừa kéo ống tay áo y lúc nãy cũng vội phóng ngựa theo bên cạnh, lo lắng nói:

- Đại nhân, ngài không nên đồng ý cung cấp quân lương cho hắn! Giờ phải làm sao đây?

Bị xóc lên xóc xuống như một con rối, nhưng Dương Lăng vẫn quát:

- Có gì mà không nên chứ? Chẳng lẽ ngươi muốn để các tướng sỹ mang bụng đói đi đánh giặc hay sao? Việc ăn bớt quân lương ở triều nào đại nào cũng là tội chém đầu!

Gã tiểu lại cười nhăn nhó đáp:

- Đại nhân, đám tiểu lại như chúng tôi đây sao dám tuỳ tiện ăn bớt quân lương. Là tự bọn họ không mang đủ quân lương, trách được ai chứ?

Dương Lăng cả giận mắng:

- Nói xàm! Rõ ràng là có hai kho chất đầy quân lương, đủ dùng cho mười ngày. Ngươi dám gạt ta sao?

Tiểu lại vội giải thích:

- Tiểu nhân nào dám, trong kho tuy có lương thực dư, nhưng là của quân chính quy. Đám này là quân dự bị, chỉ mang theo có chừng ấy lương thực, có liên can gì tới chúng ta nào? Đại nhân, trong quân lương của Tôn đô ty cũng có tới ba phần là lấy từ quân lương của quân chính quy đó.

Dương Lăng hỏi:

- Chậm đã chậm đã! Ngươi hãy giải thích từ từ, chuyện này là thế nào?

Tên tiểu lại vừa phóng ngựa vừa giảng giải tường tận cho Dương Lăng rõ. Thì ra trong năm doanh binh mã dưới trướng Hà tham tướng, những doanh đóng ở phía đông, phía tây và phía nam thành chính là thân tín của y, là quân chính quy khu vực Hoài Lai, cũng là quân đội đóng giữ dài hạn ở vùng này.

Trong hai doanh binh mã xông ra ngoài thành đánh trận đầu thì quân đội của Tôn Đại Trung được gọi là khách quân, cũng chính là quân ngoại tỉnh. Mặc dù xuất phát từ nhu cầu đóng giữ mà bọn họ đã bị điều đến đồn trú lâu dài ở vùng này, song cung cấp lương thảo, bổ sung nhân lực, thậm chí là cung ứng ngựa, đao hay thương cho bọn họ vẫn đều do phía nguyên quán là Hà Nam phụ trách.

Còn quân của Tất Xuân thì được gọi là quân dự bị, được tạm thời điều từ vệ sở Chiết Giang tới, vì vào thời điểm mấy tháng này hàng năm, người Mông Cổ có nhiều khả năng xâm phạm biên cương nhất. Sau đó họ sẽ phải quay về lại Chiết Giang.

Lần này người Thát đồng thời tấn công hơn mười trạm dịch giữa mấy huyện kề nhau, khói lửa của những trạm phong hỏa đài truyền đến tận kinh thành. Tổng binh Tuyên phủ phái ra ba vị tham tướng cấp tốc chi viện cho Trác Lộc, Hoài Lai và Xích huyện, ngoài ra còn sai hai vị tướng quân du kích tác chiến cơ động, đại quân đi rất vội. Doanh quân nhu là đơn vị thuộc quyền quản lý của tham tướng Vĩnh Ninh, lương thảo vận chuyển đến đương nhiên được ưu tiên cho nhân mã bản bộ trước, vì vậy quân của Tôn Đại Trung và Tất Xuân đều không đủ lương.

Tuy quân của Tôn Đại Trung là khách quân, nhưng vì họ đồn trú lâu dài ở vùng này, cho nên tạm thời rút một ít lương thảo của quân chính quy ra cũng không sao, trở về trình báo xin quan coi kho ở Phủ thành khấu trừ vào quân lương từ Hà Nam chuyển tới là được. Nhưng quân dự bị là quân đội không cố định, qua xuân là họ trở về lại nơi đóng quân cũ. Vào thời điểm đó vận chuyển bất tiện khiến hiệu suất làm việc của quan viên địa phương thấp đi, nên tranh cãi đùn đẩy nhau, khất nợ quân lương là chuyện thường. Ngộ nhỡ bọn họ còn chưa thanh toán xong hết nợ nần mà đã thu quân về bản xứ thì ai sẽ chịu trách nhiệm về số lương thảo thâm hụt này đây?

Nghe tên tiểu lại giải thích xong, Dương Lăng cảm thấy hơi khó tin. Trong quân đội, khâu này quan trọng như vậy thế mà lại không thể làm theo kiểu "chi trả tập trung". Chế độ cung ứng quân nhu cứng nhắc, thiếu linh hoạt vàthực tế. Y thật không biết là do thằng ngu nào đặt ra nữa, chẳng trách khi nãy đi khắp toàn thành thấy chất lượng quân phục và vũ khí của binh sỹ các doanh chênh lệch nhau và không đồng đều.

Lúc này y cũng biết mình đã đáp ứng quá mức rồi, nhưng nếu như tướng sỹ ngay cả cơm còn không được ăn no, lòng quân và khí thế làm sao có thể đảm bảo chứ? Huống hồ quân nhu của Tất Xuân chẳng qua chỉ là chưa kịp vận chuyển đến, chỉ cần kịp thời viết thư đến nhà kho Phủ thành xin điều chỉnh lại sổ sách một chút, có lẽ sẽ không có vấn đề gì. Nghĩ đến đó Dương Lăng dần cảm thấy yên tâm.

Mặt trời đã ngả bóng về tây, được bao phủ bởi lớp tuyết trắng, sở dịch thừa đang tắm mình trong ánh mặt trời trông càng lạnh lẽo. Trên đường truyền tin dưới vách núi phía đông, cứ cách hai mươi bước lại treo một chiếc đèn lồng mặt giấy đã cũ kỹ, mờ đục, đang nhẹ đung đưa trong gió.

Có năm chiếc xe ngựa đang dừng trên đường truyền tin thoai thoải dốc, phía trước huyên náo tiếng người, đều là khẩu âm của người phương Nam. Đám này khoảng hơn bốn chục tên, cầm đao giương súng, sát khí đằng đằng. Trước nhà kho của trạm dịch, hơn chục tên dịch tốt cầm côn đứng chắn trước cửa kho dưới sự chỉ huy của một viên tiểu lại, đang giằng co cãi nhau như gà chọi với đối phương.

Thấy tình hình đã căng như dây đàn, Dương Lăng vội phi ngựa tới la lớn:

- Tất cả hãy dừng tay cho ta, có chuyện gì cứ nói với ta là được!

Thân binh của Tất đô ty là Trịnh Đại Bằng đi tới cạnh gã cầm đầu ghé tai nói mấy câu. Kẻ này vai đang vác đại đao, ống tay áo xắn cao, mặt đầy sát khí, hệt như một gã đồ tể. Hắn liếc xéo Dương Lăng rồi khoát khoát tay, bọn binh sỹ lập tức im lặng.

Trông thấy Dương Lăng, viên tiểu lại canh giữ cửa kho vội gọi lớn:

- Dịch thừa đại nhân đến rồi. Đại nhân, những tên lính này muốn cướp quân lương! Hê hê, lão tử mới bò ra từ đống xác chết, còn sợ mấy tên lính to đầu các ngươi sao?

Mấy tên lính kia vừa nghe thế thì lập tức lại ầm ỹ lên, Dương Lăng vội giơ cao hai tay hô lớn:

- Im lặng một chút nào, vị Trịnh huynh đây chắc đã truyền đạt quân lệnh của Tất đô ty rồi, các vị tướng sỹ chớ gây náo động! Cho hỏi ở đây vị nào quân chức cao nhất, xin mời bước lên để tính toán việc chia lương cùng với bổn Dịch thừa. Sau khi ký tên xác nhận là có thể lĩnh lương thảo về.

Gã quan quân đứng cạnh Trịnh Đại Bằng thong thả bước ra, ưỡn ngực ưỡn bụng nói:

- Coi như ngươi thức thời! Bọn ta xông pha bán mạng ở tiền tuyến, nơi này có lương thực mà lại để cho chúng ta phải đói. Tưởng bọn ta dễ bị ức hiếp lắm hay sao?

Tiểu lại trông kho lắp bắp nói:

- Đại nhân, số lương thảo này không thể tự tiện chia cho bọn họ đâu, bọn họ là...

Dương Lăng ngắt lời gã:

- Ta biết, bọn họ là quân dự bị, là khách quân, lương thảo quân nhu của bọn họ vẫn chưa được vận chuyển tới!

Y đưa mắt nhìn khắp mọi người, cao giọng:

- Đồng thời ta cũng biết, bọn họ là cánh quân dũng mãnh, là cứu tinh của bổn huyện. Khi trạm Kê Minh đang đối mặt với nguy khốn, chính bọn họ xông lên tiền tuyến đánh đuổi giặc Thát, bảo vệ tính mạng dân chúng toàn thành.

Y quay về phía các binh sỹ hỏi:

- Nếu như ta không nhìn lầm, đội quân dùng súng đó thuộc doanh của các vị phải không?

- Không sai!

Gã quan quân đó mặt đầy vẻ kiêu ngạo, dương dương tự đắc ngó quanh, cao giọng:

- Các tay súng trong quân phương Bắc quá ít, chỉ có quân phương Nam chúng ta mới có đội quân chuyên dùng súng mà thôi!

Dương Lăng gật đầu:

- Ừm, giờ đây quân địch đã lùi bước, bổn huyện từ trên xuống dưới, bao gồm cả cha mẹ vợ con của các vị huynh đệ đều có thể vững bụng ăn no, ngủ một giấc lành, đó là nhờ vào cái gì? Chính là nhờ vào những binh sỹ dũng cảm này giúp chúng ta canh giữ thành trì, vậy nên giặc Thát mới không dám đến xâm phạm và quấy nhiễu nữa!

Y cao giọng tiếp:

- Các ngươi nói xem, dựa vào cái gì mà trong kho có lương nhưng lại không chia? Chẵng lẽ để cho những binh sỹ chiến đấu anh dũng này vác bụng đói đi giúp chúng ta phòng thủ bên ngoài thành sao? Những anh hùng đang vì chúng ta mà đổ máu, chúng ta không thể nào để cho anh hùng đã đổ máu lại còn rơi lệ được!

Những lời này có sức kích động thật quá lớn. Thời đó có ai mà quan tâm xem mấy tên binh sĩ quèn này nghĩ gì chứ? Ai lại thực sự để ý đến tác dụng của bọn họ chứ? Đó là cái thời mà thành tích chiến thắng cả trăm trận cũng không bằng một bài văn chương hoa lệ.

Những binh sỹ đang cầm đao giương súng đó đều lặng lẽ hạ tay xuống, vẻ hung hãn trên mặt đã hoàn toàn biến mất. Bọn họ vừa tự hào vừa cảm động, mắt đã hơi ươn ướt, cơ mặt nanh ác của gã quan quân trông như tay đồ tể kia cũng đang co giật.

Tiếp đó, Dương Lăng lại đổi giọng:

- Hơn nữa... Chúng ta có gì phải lo lắng chứ? Bọn họ đến từ vùng Giang Chiết (tên gọi tắt của Giang Tô và Chiết Giang), mà Giang Chiết vốn là nơi cá lắm thóc nhiều, thuế hằng năm của cả nước mười phần thì đến bảy, tám phần là của Giang Chiết, Hồ Quảng. Địa phương trù phú như vậy mà còn sợ mượn lương không trả sao?

- Không sai, Quan Thụ Anh ta lấy cái đầu ra đảm bảo, chờ khi quân lương của quân ta vận chuyển đến, nhất định sẽ trả lại cho kho ngay, nửa hạt cũng không thiếu!

Được Dương Lăng vừa tâng vừa bốc, gã quan quân đó cũng cảm thấy mình giống như một anh hùng dân tộc, vỗ ngực bồm bộp, cao giọng hứa hẹn.

Dương Lăng thở phào một hơi, nháy mắt ra hiệu với viên tiểu lại giữ kho, sau đó quát:

- Còn không mở kho chia lương?

Rồi y lại quay về phía Quan Thụ Anh cười nói:

- Quan tướng quân, làm chậm trễ giờ ăn các huynh đệ, thật sự là có lỗi quá! Có điều nhà kho là nơi quan trọng, vẫn mong Quan tướng quân trông giúp các vị huynh đệ, chờ người của ta cân đong xong rồi hãy vận chuyển lương thảo, chớ nên làm rối trình tự!

Được y gọi là tướng quân, lập tức Quan Thụ Anh tươi cười rạng rỡ, chấp thuận ngay:

- Chuyện nhỏ, chuyện nhỏ thôi, không cần nhọc công Dịch thừa đại nhân căn dặn!

Đoạn hắn trừng mắt, quay về phía đám binh sỹ thủ hạ quát lớn:

- Tất cả các huynh đệ hãy bình tĩnh một chút, không được làm mất mặt quân Chiết Giang chúng ta.

Đám quân lính nhao nhao vâng dạ ầm ỹ. Quan Thụ Anh vỗ mạnh vai Dương Lăng, cười hà hà nói:

- Huynh đệ là đội trưởng đội thân binh dưới trướng Tất đại nhân. Dương dịch thừa, chúng ta làm bằng hữu nhé.

Trách nhiệm của thân binh chỉ là phụ trách an nguy cá nhân của tướng lĩnh, lúc có chiến tranh thì tạm kiêm đốc thúc binh lính chiến đấu. Gã đội trưởng này tuy rằng chức quan không lớn, song quả thực là tâm phúc của Tất Xuân. Đương nhiên Dương Lăng cũng nhún nhường, tâng bốc thêm mấy câu kiểu chiến sỹ là con em của nhân dân, khiến cho Quan Thụ Anh như gặp được tri kỷ, cảm thấy thân thiết gấp bội.

Đối đáp khó khăn lắm mới tống được cái đám âm binh đó đi, Dương Lăng lật đật trở về nhà. Mãi đến lúc này y mới thấy cả người ê ẩm, xương cốt như nhũn ra. Vừa vào trong nhà, y liền ngả thẳng lưng xuống giường thở một hơi thật dài.

Hàn Ấu Nương thấy y mặt mày mệt mỏi thì liền vội tới cởi giày giúp, để hai chân y gác lên giường rồi mới ngồi bên cạnh nhẹ nhàng đấm chân cho y. Nàng dịu dàng thăm hỏi:

- Tướng công, chàng mệt rồi phải không? Nghỉ ngơi một chút rồi chúng mình ăn cơm nhé!

Đầu giường gần nơi lò lửa nên rất ấm áp dễ chịu, hai tay Hàn Ấu Nương lại hết sức nhẹ nhàng, cảm giác thoải mái khiến cơn buồn ngủ ùa đến, làm y chẳng muốn mở mắt. Mãn nguyện gối đầu lên tấm chăn, y lẩm bẩm:

- Ấu Nương, ta mệt quá, cả người đau nhức.

Hàn Ấu Nương đổi từ đấm chân sang xoa bóp nhẹ nhàng các cơ bắp đau nhức của y từ cẳng chân lên, miệng nàng hé cười:

- Ấu Nương xoa bóp cho tướng công, giờ nếu có thêm chút rượu thuốc nữa thì tốt hơn, bảo đảm ngày mai sẽ không còn đau nhức chút nào nữa.

Một cảm giác ngứa lâm râm dễ chịu từ cẳng chân truyền lên đến bụng. Dương Lăng sảng khoái "ô" lên một tiếng, thả lỏng thân thể hưởng thụ sự dịu dàng của nàng. Một lúc sau, y đột nhiên nhớ tới cái gì đó, vội mở bừng mắt, nói:

- Thân thể ta thật yếu quá đi, sau này chắc phải rèn luyện một chút. À đúng rồi, hôm nay ở trên tường thành ta thấy côn pháp nàng dùng lợi hại quá! Đó là côn pháp gì vậy?

Hàn Ấu Nương thoáng đỏ mặt, vừa ngượng nghịu xoa bóp hai chân cho y vừa lí nhí đáp:

- Là chút võ vẽ quê mùa thôi. Tướng công hỏi chuyện này làm gì?

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 30: Mồng một Tết

Dương Lăng nghe giọng nàng có chút ngượng nghịu, bèn chăm chú ngắm nhìn. Nàng vừa mới gội đầu, mái tóc xõa xuống ngay ngắn sau lưng, óng ả mượt mà, toát ra nét tươi trẻ dịu dàng. Bên dưới hai hàng mi cong vút là một đôi mắt tròn xoe, ngây thơ chớp chớp như đang tránh né một điều gì.

Dương Lăng nghĩ thầm: "Chẳng lẽ lại là thứ tuyệt học gia truyền gì đó tuyệt đối không được truyền cho người ngoài."

Mặc dù y biết Ấu Nương đã trao trọn trái tim thiếu nữ cho mình, nhưng nếu gia tộc của nàng thật sự có quy định như vậy thì y cũng không thể trách nàng được, tuy tận đáy lòng y vẫn thấy có chút mất mát. Y gượng cười nói:

- Ồ, thì ra là công phu gia truyền của Hàn gia nhà nàng. Không cho phép người ngoài học sao? Ha ha, là ta lỗ mãng quá."

Theo phong tục xưa nay, con gái lớn lấy chồng phải xem nhà chồng như nhà mình, trong khi nhà cha mẹ ruột lại trở thành người ngoài. Nếu thiên vị bên ngoại hơn, vậy đã vi phạm thất xuất chi lệ (đã có giải thích ở chương trước) rồi. Với Hàn Ấu Nương, câu nói vừa rồi của Dương Lăng có thể xem như một lời trách móc hết sức nặng nề.

Nàng không khỏi lo lắng phân trần:

- Không phải, không phải đâu. Thiếp nào dám giấu giếm tướng công chuyện gì, nếu chàng muốn học, thiếp sao dám không dạy chứ? Bộ côn pháp này do cha thiếp học được từ Thiếu Lâm tự ở Hà Nam, gọi là... gọi là Phong Ma côn pháp.

Thời buổi này, quy định về xuất gia cực kỳ nghiêm ngặt, người dưới sáu mươi tuổi muốn đi tu phải được cha mẹ và quan viên địa phương đứng ra chứng nhận, sau đó lên kinh tham gia khảo thí, người nào tinh thông kinh văn mới được phát cho độ điệp (giấy chứng nhận công tác của thầy chùa – ND.) Các chùa chiền lớn do thiếu người kế tục, đành phải thu nhận rộng rãi đệ tử tục gia, cho nên cả vùng Hà Nam, Hà Bắc có rất nhiều môn đồ Thiếu Lâm tục gia. Thuở nhỏ phụ thân của Ấu Nương cũng vì gia cảnh bần hàn nên đã tới chùa Thiếu Lâm kiếm cơm, nhờ đó mới học được một thân võ nghệ.

Nghe thấy cái tên "Phong Ma côn pháp," lại liên tưởng đến vẻ mặt giấu giấu diếm diếm của Ấu Nương, Dương Lăng chợt hiểu ra. Nhìn vẻ mặt thẹn thùng và vóc dáng yêu kiều của Ấu Nương, y càng cảm thấy đáng yêu, không khỏi bật cười lớn. (Phong ma nghĩa là điên khùng – ND.)

Bị y cười, Hàn Ấu Nương lúng túng vô cùng, bối rối nhìn chồng. Thấy Dương Lăng cứ khoái chí cười mãi mặt nàng bất giác đỏ lựng, ngượng ngùng nói:

- Ấu Nương vốn không muốn nói, đều tại tướng công ép người ta... Nghe xong rồi còn cười người ta nữa.

Nói rồi nàng dẩu môi lên. Dương Lăng cười đau cả bụng một hồi, thấy khuôn mặt nàng đầy vẻ ấm ức thì vừa cười vừa khẽ ôm Hàn Ấu Nương vào lòng vào lòng:

- Ha ha ha, ta vốn không thấy buồn cười, chỉ tại nàng quá nhạy cảm khiến ta chợt nghĩ tới cảnh một nữ tử yêu kiều như nàng nhe nanh múa vuốt sử dụng Phong Ma côn pháp gì đó thôi, thật sự không nhịn được cười.

Dương Lăng cười bật ngửa ra sau. Hàn Ấu Nương làm mặt nghiêm không nói, nhưng trong ánh mắt dần có nét vui vẻ, cuối cùng không nén được phải phì cười. Nàng ấm ức đánh mạnh lên chân Dương Lăng một cái, hờn dỗi nói:

- Tướng công xấu lắm, cố ý trêu người ta!

Dương Lăng bị nàng đánh cho một phát đau điếng, hít vào một hơi rồi nói:

- Ui da, nhẹ chút đi mà! Yên ngựa cứng quá, ta cưỡi đến nỗi bắp đùi sắp rã ra rồi.

Hàn Ấn Nương hoảng quá, vội vàng lấy hai tay xoa bóp, dáng điệu thiếu điều muốn kề miệng vào thổi. Nàng nhẹ nhàng, từ tốn xoa bắp đùi y, ánh mắt chăm chú nhìn y hỏi:

- Giờ còn đau không? Đợi ăn cơm xong thiếp đi mua thuốc kim sang cho chàng nhé.

- Ặc... khụ... khụ...

Dương Lăng hắng giọng, cất tiếng hơi khàn khàn nói:

- Không cần đâu, chỉ tại ta không rèn luyện thường xuyên thôi. Được rồi... ừm, không cần xoa nữa.

Tiểu nha đầu này cũng đã trưởng thành rồi, nhưng có lúc lại hết sức "ngây thơ". Cách chỗ "hiểm" của y gần như vậy mà hai bàn tay mềm mại của nàng cứ xoa xoa bóp bóp, rõ là khiêu khích lửa dục trong người y mà. Chỗ đó giống cái phao cứu sinh dẹp lép ném xuống biển, chốc lát là phình to lên, chỉ thẳng lên trời như ma thuật.

Dương Lăng vội vã co người lại. Cảm ơn ông trời! À không, cảm ơn bác thợ may mới đúng, vì đã làm cái đũng quần rộng rãi, đủ để che lấp cái "biểu hiện tội lỗi" của y. Y không khỏi thở phào một tiếng, nhưng ngay lập tức lại phát hiện khuôn mặt xinh xắn của Hàn Ấu Nương đang cách môi mình rất gần. Trên khuôn mặt non nớt cùng làn da không chút tì vết kia, mấy sợi tóc cứ vuốt ve vào mũi y, khiến y ngứa ngáy muốn hắt hơi.

Khuôn mặt Hàn Ấu Nương mang theo một mùi hương thoang thoảng của thiếu nữ, thật khiêu gợi khiến Dương Lăng rục rịch muốn làm bậy. Y cảm thấy bàn tay đang để trên đùi mình của nàng lúc này nóng tựa hòn than, không chịu nổi nữa, y bèn ôm lấy nàng, hôn lên mặt một cái.

Thân thể Ấu Nương thoáng run lên, rồi cứng đờ. Khuôn mặt nàng mịn màng trắng trẻo, làn da tựa như mỡ đông nhưng lại căng mịn, Dương Lăng như chưa đã thèm, chồm tới hôn thêm một cái thật dài. Mặt Ấu Nương trong nháy mắt đã trở nên nóng bừng, toàn thân cứng đờ, thế nhưng đôi mắt nàng lại trở nên long lanh quyến rũ. Nét mặt nàng vừa kinh ngạc, thẹn thùng, xen lẫn với niềm vui sướng bất tận và tình ý miên man.

Đôi môi nàng đỏ mọng, trơn bóng như trái đào chín, có thể hái xuống bất cứ lúc nào. Cố nén lại dục vọng đang trào dâng mãnh liệt, Dương Lăng khàn giọng bảo:

- Ta... đói rồi, đi ăn bánh cảo thôi.

- Ưm...

Hàn Ấu Nương đáp bằng giọng mũi, nhưng thân thể vẫn không nhúc nhích, cặp mắt long lanh như mặt nước hồ thu cứ say đắm nhìn Dương Lăng, mê hoặc khôn tả.

Túc tịch bất sơ đầu,

Ti phát phi lưỡng kiên,

Uyển chuyển lang tất thượng,

Hà xử bất khả liên!

(Đêm trước không chải đầu, tóc xoã xuống hai vai, dịu dàng sà lên đùi chàng, chỗ nào chẳng đáng yêu! Trích Tử dạ ca.

Đêm trước em chẳng chải đầu,

Bờ vai tóc xoã một mầu tơ xanh,

Dịu dàng sà nhẹ đùi anh,

Đâu đâu cũng vẻ long lanh yêu kiều.)

Hàn Ấu Nương để lộ thần thái mê người, như thể "đón chào Dương Lăng tới hái hoa." Trong tiềm thức của y, nụ hoa tươi này đang phơi bày một vẻ tự nguyện dâng hiến.

Nếu như Hàn Ấu Nương là một khóm cỏ non, vậy trên đầu Dương Lăng lúc này đã bắt đầu lú ra một cặp sừng trâu thật lớn. Y bây giờ chỉ muốnnuốt trọn Hàn Ấu Nương vào bụng, sau đó bắt đầu tận hưởng hương vị tươi mát của nàng.

Dương Lăng hếch mũi hít lấy mùi hương xử nữ toả ra từ thân thể Ấu Nương, rốt cuộc không kiềm lòng được, hai tay y bất chợt vòng ra sau đầu nàng kéo sát lại, miệng ôm lấy đôi môi ngọt ngào.

Hai bờ môi tiếp xúc, Hàn Ấu Nương vừa thở vừa rên khe khẽ, để Dương Lăng khai phá khuôn miệng xinh xắn trong trắng của mình, hoàn toàn khác vẻ dũng mãnh và bá đạo như lúc huyết chiến trên tường thành. Dương Lăng thưởng thức hương vị tinh khiết của một trinh nữ, ngón tay không tự chủ vén cổ áo nàng ra, khám phá làn da mịn màng thơm mát.

- Ưm...

Hàn Ấu Nương thốt ra một tiếng rên nhẹ, thần trí mê man mặc cho y xâm chiếm, thân thể yếu ớt ngả vào lòng y. Mùi hương trinh trắng thuần khiết của cơ thể nàng khiến cho bao mệt mỏi trong ngày của Dương Lăng vụt tan biến. Rất lâu sau y mới thoả mãn, tách miệng mình ra khỏi bờ môi đỏ ửng của Ấu Nương.

Càng lúc Hàn Ấu Nương càng toát ra phong vị vốn có của nữ nhân, ánh mắt nàng xao động như mặt nước hồ thu, đôi môi mọng đỏ bị y hôn đến ướt mềm, dáng vẻ trông mỹ miều khôn tả.

- Chụt...

Hai đôi môi lại chạm vào nhau, nhưng lần này chỉ là một nụ hôn phớt, tiếp đó Dương Lăng cười nhỏ, bảo:

- Nương tử à, có thể làm cơm cho ta được không?

Hàn Ấu Nương vốn đang si mê nhìn y, đôi mắt long lanh mọng nước, nghe thấy lời này nàng dường như sực tỉnh khỏi một giấc mộng dài, a lên một tiếng. Thẹn thùng kéo cổ áo lên, nàng bối rối bước xuống giường, lâng lâng như bước trên không. Ngoài phòng vang lên tiếng nồi niêu chén bát loảng xoảng, hiển nhiên tâm trí của nàng vẫn còn chưa bình tĩnh lại.

Dương Lăng mỉm cười, khẽ vân vê những đầu ngón tay, nơi đó vẫn còn sót lại cảm giác mềm mại, ấm áp của ngực nàng. Con tim của y đã bắt đầu dao động, lần đầu tiên y cảm thấy căm ghét lời nói dối trá kia của mình.

Nếu như không có lời nói dối đó thì có phải giờ này mình đã có thể tận hưởng thân thể xinh đẹp trinh nguyên của nàng rồi không? Mấy ngày nay, ít nhiều y cũng đã hiểu được phần nào về tính nết nàng. Dương Lăng biết rằng, cho dù nàng vẫn còn là xử nữ, cả đời này nhất định chỉ là nữ nhân của y, tuyệt không cải giá. Niềm tin được hình thành từ nhỏ của một người, y có thể thay đổi được sao?

Vừa nghĩ đến thời hạn hai năm, đến sự chia ly đang rình rập và đã được báo trước ấy, y không còn dũng khí chiếm hữu nàng nữa. Đã không thể hứa hẹn với nàng điều gì, y sao có thể thản nhiên hưởng thụ quyền lợi của một người chồng? Thế nhưng, cho dù có phải sống trong cảnh nghèo túng ở thời đại này hay không, y đều không nỡ rời xa, bởi vì nơi đây còn có người vợ y vẫn bận lòng, người vợ y luôn quyến luyến.

Dương Lăng lặng thinh nghĩ ngợi, trái tim bắt đầu thắt lại như thể đang có kim đâm...

"Hữu phục chương chi mỹ vị chi hoa, hữu lễ nghi chi đại vị chi hạ" (*), Hoa Hạ, chữ "Hoa" trong cái tên của dân tộc lâu đời ấy xuất phát từ những phục sức mỹ lệ của nó. Trong lịch sử Trung Hoa, Hán phục nhà Minh có nhiều kiểu dáng nhất, và đương nhiên cũng đẹp đẽ nhất. Nhờ đôi bàn tay khéo léo của Ấu Nương, bộ trang phục ngày Tết đơn giản đã được khâu cắt lại trông rất hợp với dáng người Dương Lăng, mặc vào rất đẹp. (* lấy cái đẹp của phục sức gọi nó là Hoa, lấy cái quý của lễ nghi gọi nó là Hạ)

Dương Lăng mặc trường bào cổ tròn, vạt áo màu xanh, tay áo rộng, đầu đội khăn vuông, vóc dáng cao ráo, mắt sáng như sao. Khí chất nho nhã ấy khiến Ấu Nương vui sướng vô bờ.

Ấu Nương mặc quần hoa, bên ngoài khoác bằng chiếc váy kẻ ô màu lam, thân trên mặc một chiếc bì giáp (**) màu hồng lạt. Eo thon ôm sát, váy xoè đung đưa, mái tóc đen nhánh thắt thành hai bím buông dài tới eo, cả người toát ra vẻ thanh nhã thuần khiết. (**Một loại áo thời cổ, không có cổ áo và tay áo. Ảnh: http://hiphotos.baidu.com/potsong/pi...04a08bb70a.jpg)

Bên dưới ống váy lấp ló một đôi hài thêu hoa mũi vểnh. Nàng bưng bánh cảo mới ra lò, còn nghi ngút khói đến đặt xuống chiếc bàn vuông con con được để trên giường. Dương Lăng thẳng lưng, ngồi xếp bằng ngay ngắn bên cạnh bàn, ánh mắt vô cùng chăm chú.

"Đàn ông không có tiền đồ mới chui đầu vào bếp," đó là câu mà Hàn Ấu Nương vừa mới nói, so với câu "quân tử không đứng gần bếp," ý nghĩa thật không khác là bao. Dương tú tài tuân mệnh ngồi yên, nhưng trong đầu cứ suy đoán bậy bạ, ánh mắt láo liên lén thưởng thức vẻ đẹp của vị thê tử nhỏ bé đang bận bịu của mình, dĩ nhiên y cũng không hề quên cặp chân thanh tú dưới váy nàng.

Đôi bàn chân của Hàn Ấu Nương rất đẹp. Thời thơ ấu, Dương Lăng đã từng chứng kiến tục bó chân, khi ấy trông vô cùng kinh dị. Để có được " Kim Liên Tam Thốn" (***) (gót sen ba tấc,) bàn chân người phụ nữ bị biến dạng khủng khiếp, xấu xí đến thảm thương. Còn đôi chân của Hàn Ấu Nương may mắn không bị bó, Dương Lăng nghĩ có thể do gia cảnh nhà nàng bần cùng, con gái cũng phải ra đồng làm ruộng, nên mới m giữ gìn được vẻ đẹp này. (*** Chân bị bó rồi được gọi là "liên", các "liên" kích thước khác nhau thì được chia vào các đẳng cấp khác nhau, trên bốn thốn là thiết liên, bốn thốn là ngân liên, còn ba thốn thì là kim liên.)

Thật ra lúc ấy, tục bó chân vẫn chưa thịnh hành cho lắm, con gái bó chân không nhiều, mãi đến cuối triều Minh tục lệ mới bắt đầu trở nên phổ biến; đến đời nhà Thanh, thứ phong tục bệnh hoạn này mới đạt đến tầm ảnh hưởng cao nhất. Bằng không với nguyện vọng cao cả của Ấu Nương là trở thành một người vợ hiền thục đức hạnh, có lý do gì để nàng không bó chân cơ chứ? Nếu như thế, hôm nay Dương Lăng đã không thể thấy được vẻ oai hùng, mạnh mẽ của nàng khi quật ngã tên cường đạo Thát Đát trên tường thành rồi.

Bánh cảo nhân củ cải trắng thịt heo được bê lên bàn, còn có một đĩa bò muối, một đĩa thịt thái miếng, và một bình rượu trắng nhỏ.

Đây đích thực là ngày tết ấm áp và hạnh phúc nhất của đôi uyên ương trong đêm đông lạnh giá, ngay sau một trận chiến sinh tử. Ấu Nương ngồi đó ăn uống ngon lành, đôi mắt sáng long lanh, hòa hợp với khung cảnh xung quanh tạo nên bức tranh lãng mạn nhất trong mắt Dương Lăng.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 31: Hai con hổ

Vừa cơm nước xong Ấu Nương đã vội vàng dọn dẹp nhà cửa. Dương Lăng bưng ấm trà nhìn nàng bận bịu mà thấy bứt rứt khó chịu trong lòng. Quá thối nát, quá sa đọa rồi! Y cảm thấy như mình đang phạm tội. Nếu ở thời đại của mình, đàn ông mà hưởng thụ như thế này tất sẽ gặp quả báo!

Quả báo lập tức tới ngay. Dương Lăng vừa đứng dậy, định trơ mặt tới xin Ấu Nương cho phép mình rửa mấy cái bát, quét dọn linh tinh thì "rầm", cửa nhà bỗng bị đá tung, gió lạnh táp thẳng vào mặt. Vừa mới ngẩng đầu lên, Dương Lăng đã thấy một bóng người màu trắng xộc thẳng đến, giáng ngay một cú đấm rất mạnh vào vai y. Dương Lăng loạng choạng, suýt chút nữa thì ngã phịch xuống đất.

Gượng đứng vững lại, Dương Lăng thấy một nam một nữ đang đứng giữa cửa, chính là hai anh em Mã Ngang đang mặc đồ tang. Mặt Mã Ngang đỏ phừng phừng, có vẻ đang rất tức giận. Còn Mã Liên Nhi trông như một đóa sen trắng xinh đẹp thấm đầy sương mai đứng lẻ loi, chỉ có điều vào lúc này, khuôn mặt yêu kiều như tranh vẽ đó lại tối sầm đầy vẻ bất mãn, đôi mắt long lanh pha chút khinh bỉ đang trừng mắt nhìn Dương Lăng.

Dương Lăng bối rối hỏi:

- Mã huynh, Mã tiểu thư, các vị.... thế này là thế nào?

Mã Ngang lớn tiếng mắng:

- Đồ cẩu tặc vong ân phụ nghĩa, ai xưng huynh gọi đệ với ngươi hả?

Mắng xong, hắn lại nhào tới trước vung quyền đánh. Không biết võ, Dương Lăng làm sao dám đánh nhau với hắn. Y vừa lùi được hai bước, Hàn Ấu Nương đã từ bên cạnh nhanh nhẹn vọt lên. "Chát" một tiếng, nàng đỡ được quyền chưởng của Mã Ngang.

Phòng ngoài không lớn, quyền chưởng của Mã Ngang hùng dũng mạnh mẽ, khí thế uy mãnh, bao trùm cả không gian. Hàn Ấu Nương giữ vững môn hộ (*), không hề tránh né, bàn tay nhỏ nhắn quẫy đảo dập dờn, khéo léo dùng kỹ xảo cầm nã thủ giằng co với hắn, không lùi nửa bước.

(*): từ võ hiệp, ý là phòng thủ vững chắc.

Dương Lăng không biết vì sao hai anh em nhà họ lại kiếm mình gây chuyện. Y vừa bị Mã Ngang đấm một cú, giờ lại thấy hắn chẳng thèm nói năng gì mà đã ra tay đánh nhau với Ấu Nương, lửa giận trong người bốc lên.

Thấy quyền chưởng của Mã Ngang bá đạo mạnh mẽ, nếu như thân thể nhỏ nhắn đáng yêu của Ấu Nương bị dính một đòn thì nguy mất, y bèn lớn tiếng cảnh cáo:

- Mã Ngang, chuyện đâu còn có đó! Nếu ngươi đánh Ấu Nương bị thương, ta thề không đội trời chung với ngươi!

Mã Liên Nhi vốn chỉ đứng ở một bên cười lạnh xem đánh nhau, thấy y thề độc như vậy thì không khỏi dựng cặp lông mày liễu. Nàng nhoáng người lướt qua bên cạnh hai người đang giằng co, xông thẳng tới Dương Lăng. Thân thể nàng vốn yêu kiều thướt tha như liễu rủ ven hồ, nhưng khi động thân lại rất mạnh mẽ.

Hàn Ấu Nương cực kỳ nóng ruột, mặc dù giận tên thô lỗ kia đã đấm tướng công nàng một cú, nhưng biết hai anh em nhà họ từng qua lại thân thiết với tướng công cho nên nàng ra tay còn nể nang vài phần. Lúc này Mã Liên Nhi đã lao vào nhà, nàng có muốn cản cũng không kịp nữa, nên vừa lập tức rùn người xuống tránh một quyền của Mã Ngang, nàng rút ngay một đôi đũa, rướn mình vút một cái đã dí sát vào cổ họng Mã Ngang, quát lớn:

- Dừng tay!

Mã Liên Nhi cũng đã lao tới bên người Dương Lăng, cổ tay trắng nõn vươn ra, tóm lấy tay Dương Lăng vặn ra đằng sau, tay phải rút từ trong thắt lưng ra một con dao găm bén ngót, kê ngay vào cổ họng y. Vừa ngẩng đầu lên đã thấy anh trai bị Hàn Ấu Nương khống chế, nàng không khỏi giật mình kinh hãi.

Quay đầu nhìn lại thấy Dương Lăng bị tóm, Hàn Ấu Nương bèn tì mạnh đầu đũa thêm một chút nữa, lạnh lùng quát lớn:

- Thả tướng công của ta ra!

Cùng lúc đó, Mã Liên Nhi cũng quát:

- Thả anh của ta ra!

Quát xong, cả hai đều ngẩn người, bốn mắt nhìn chằm chằm vào đối phương, không ai chịu buông tay trước.

Dương Lăng nhẹ nhàng lấy hơi để khỏi bị lưỡi dao sắc bén cứa vào cổ họng, rồi nói với Hàn Ấu Nương:

- Ấu Nương, thả Mã huynh ra!

Hàn Ấu Nương không cam lòng:

-Tướng công, nhưng mà chàng...

Dương Lăng trừng mắt, đầy khí phách ngắt lời:

- Thả y ra!

Hàn Ấu Nương trề môi, đành phải hạ đôi đũa xuống. Mã Liên Nhi cười khẩy, nói kháy:

- Đại trượng phu oai phong lẫm liệt đấy nhỉ! Ngươi cho rằng ta không dám giết ngươi sao?

Dương Lăng đành hỏi:

- Dù sao giết người cũng phải có tội danh chứ? Dương Lăng tự thấy chưa hề đắc tội với hai anh em các vị, cô nương giết ta làm gì?

Tuy y không biết vì sao anh em nhà này lại tức giận như vậy, thế nhưng trong mắt hai người lại không hề có sát ý, cho nên y cực kỳ bình tĩnh.

Mã Liên Nhi nâng tay trái lên khiến tay của Dương Lăng bị kéo ngược lên cao hơn một chút. Dao sắc kề cổ nên y không dám khom lưng, chỉ đành đau đớn rên rỉ. Hàn Ấu Nương thấy vậy cực kỳ đau lòng, nhưng lúc này tướng công ở trong tay người ta nên dù muốn cũng chẳng dám động đậy. Mã Liên Nhi nghiến răng cười gằn:

- Ngươi đã từng giúp ca ca ta một bận, nhưng lẽ nào Mã gia ta đã bạc bẽo với ngươi chăng? Ngươi... vì sao ngươi lại ức hiếp người quá đáng như vậy?

Dương Lăng kinh ngạc hỏi lại:

- Mã tiểu thư, cho đến giờ ta vẫn chưa biết mình sai trái điều gì, cô nương có thể nói rõ được không?

Mã Ngang phẫn uất quát:

- Cha ta vừa qua đời, bây giờ ngươi làm dịch thừa bản huyện phải không? Ngươi giỏi lắm, xương cha ta còn chưa lạnh, ngươi vì lấy lòng Hà tham tướng và các giám quân từ kinh đô tới mà tống cổ chúng ta ra khỏi sở dịch thừa. Thiên hạ còn có kẻ lòng lang dạ sói như ngươi sao?

Mã Liên Nhi run giọng:

- Cứ coi như là ngươi muốn trục xuất anh em ta ra khỏi sở dịch thừa đi, nhưng chúng ta vừa mới đến đây hơn nửa tháng, chưa quen với sinh hoạt nơi đây. Cuối cùng chỉ xin một gian phòng ở sở dịch thừa để lập linh đường cho gia phụ mà cũng bị người của ngươi từ chối. Người đi thì trà lạnh nhưng đến mức này thì.... Họ Dương kia, Mã Liên Nhi nhìn lầm ngươi rồi!

Nàng nhớ lại ngày đó ở Hồng Nhạn lâu, mình đã nhất thời nảy sinh tình cảm, thậm chí còn bùi ngùi "hoàn quân minh châu song lệ thùy, hận bất tương phùng vị giá thời" với Dương Lăng. Ai dè người đàn ông duy nhất mình yêu mến, ngưỡng mộ lại là một kẻ bạc bẽo, mà người của sở dịch cũng hám lợi tuyệt tình như vậy, khiến lòng nàng không khỏi chua xót.

Dương Lăng ngẩn người, một hồi lâu sau mới bắt đầu kêu oan với trời:

- Mã Huynh, Liên Nhi tiểu thư, Dương Mỗ không hề làm việc quá đáng như vậy! Mã bá phụ mất ở trên thành, ta cũng rất đau lòng, chẳng qua hôm nay đại quân vừa mới tới, ta cũng vừa tiếp nhận sự vụ của sở dịch, nhiều việc còn chưa rõ, bôn ba cả ngày tới mức chân tay rã rời, vốn định ngày mai tới phúng điếu. Sao có thể đuổi hai người ra khỏi sở dịch, hai vị xem ta có phải là loại người đó không?

Mã Ngang tức giận quát:

- Lòng người khó đoán, ai biết ngươi là cái dạng quái thai gì?

Mã Liên Nhi nghe xong hơi ngớ người, từ từ buông tay Dương Lăng, cặp mắt long lanh nhìn thẳng vào trong mắt y, gằn từng tiếng một:

- Ngươi không làm như thế à?

Dương Lăng không hề e dè nhìn lại nàng, khẽ lắc đầu đáp:

- Ta không làm!

Nhìn thấy ánh mắt trong sáng đầy chân thành của hắn, Mã Liên Nhi liền tin ngay, nàng cười chua xót, đau khổ nói:

- Người còn nhân tình còn, có lẽ mấy tên tiểu lại dở trò cáo mượn oai hùm rồi. Hai anh em ta quả là lỗ mãng đã quấy rầy vợ chồng hai vị. Anh, chúng ta đi thôi!

Nàng cụp mắt, chán nản, đau khổ lướt qua người Dương Lăng, kèm theo một mùi hương thơm ngát. Dương Lăng không khỏi nhớ tới bộ dáng hứng khởi của nàng vào ngày đầu gặp nhau.

Phụ thân của Mã Liên Nhi vốn ở tận Liêu Đông, Mã Liên Nhi lớn lên ở đó, không những rành cưỡi ngựa mà còn biết rõ tiếng Thát Đát, tính tình của nàng cũng cởi mở phóng khoáng như phụ nữ Thát Đát, rất khác với phụ nữ Trung Nguyên. Từ lúc quen nàng tới giờ, đây là lần đầu Dương Lăng nhìn thấy nàng yếu đuối bơ vơ như vậy.

Dương Lăng không khỏi nhiệt tình nắm lấy cánh tay nàng, hỏi:

- Từ từ đã! Mã thế bá gọi ta là hiền điệt, cũng xem như ta là vãn bối của ông. Tình hình cụ thể ở đó ta còn chưa rõ ràng lắm, có thể kể lại cho ta rõ không?

Mã Liên Nhi ngoảnh đầu lại, cặp mắt như nước hồ thu của nàng đảo lên tay hắn, Dương Lăng vội vàng buông ra. Y nhất thời nóng lòng mà quên mất ở thời đại này, nếu tùy tiện cầm tay con gái nhà người ta thì quả là một hành động cực kỳ thất lễ.

Vốn là cảnh kiếm bạt cung trương, nhưng nhờ sự tín nhiệm và thầm hiểu giữa Dương Lăng với Mã Liên Nhi nên tình hình căng thẳng đã được hóa giải. Dưới ánh mắt chăm chú vẫn đầy tức giận bất bình của Mã Ngang, Mã Liên Nhi kể lại sự việc một lượt. Hóa ra là vào buổi chiều, Dương Lăng có giao viên tiểu lại ở sở dịch đi chuẩn bị mấy gian phòng tốt. Kẻ này liền vào sở dịch cho người thu dọn các phòng đã được cấp làm chỗ trú ngụ cho Mã đại nhân cùng hai con. Hắn muốn dành những gian phòng này cho các vị quan to từ kinh đô tới ngụ. Trạm dịch nhỏ bé này chưa từng đón một vị tai to mặt lớn nào, mà những phòng tốt nhất của sở dịch cũng đúng là những gian phòng này.

Lúc đó Mã Ngang và em gái biết phụ thân đã mất, liền chạy tới đầu thành nhận xác nên không biết việc này. Đến lúc họ trở về thì phòng ốc đã bị dọn trống trơn rồi. Mã Ngang bộp chộp bèn tặng cho tên tiểu lại kia mấy cái bạt tai vào mặt.

Phụ thân của hắn vừa mới nhậm chức được hơn một tháng, vẫn chưa kịp có uy đức với cấp dưới. Tiểu lại kia vốn còn định lịch thiệp mời bọn họ chuyển sang phòng bên cạnh để thờ phụng nhưng bị ăn mấy cái bạt tai nên nổi nóng, gọi dịch tốt tới đuổi bọn họ ra ngoài.

Mã Liên Nhi nghĩ tới thi thể phụ thân ở trên xe ngựa ngoài cửa còn chưa đượcthu xếp nên xin mượn một gian phòng để bày linh đường. Trong lúc nóng giận, viên tiểu lại lấy cớ cấp trên ngụ tại chỗ này nên từ chối, không cho lập linh đường để khỏi cản trở cảnh quan.

Anh em họ Mã đáng thương buổi sáng còn là chủ nhân của sở dịch thừa, đến chiều lại phải vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Hai người lại mang theo một thây người nên ngay cả khách sạn cũng không chịu nhận. Trong lúc đau khổ hoang mang, cho rằng kẻ bày trò là tên Dương Lăng vong ân phụ nghĩa nên họ mới đùng đùng nổi giận đánh tới cửa.

Hàn Ấu Nương vốn cũng là người mềm lòng, chính nàng cũng đã phải trải qua cảnh xa lìa người thân, bơ vơ không nơi nương tựa, nếm trải cảm giác bị ức hiếp, chỉ nghe kể chuyện mà đã nước mắt lưng tròng. Nàng rưng rưng nhìn tướng công như muốn khẩn cầu, chỉ mong chàng có thể giúp đỡ hai anh em nọ một phen, nàng đã sớm bỏ qua sự xấc xược của đôi huynh muội này rồi.

Nghe xong, Dương Lăng cực kỳ phẫn nộ, y bèn bảo Mã Ngang:

- Mã huynh! Bá phụ đối xử với ta như con cháu, việc này cứ giao cho ta đi, coi như là một chút lòng hiếu của ta với lão nhân gia. Ta phụ hai người đi sửa soạn linh đường, sớm ngày mai, ta sẽ cùng chư vị đồng liêu trong huyện tới viếng Mã bá phụ!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 32: Ngầm tỏ tấm lòng

Dương Lăng dẫn huynh muội Mã Ngang ra ngoài, quả nhiên thấy trước cửa có một cỗ xe đang đậu. Tên tiểu lại (*) đó xem ra cũng không quá tuyệt tình, hắn vẫn còn để lại cỗ xe này. Ba người đi mua quan tài, cờ tang, vàng mã chất hết lên xe rồi chở tới sở Dịch Thừa. Tới nơi, y sai người dọn dẹp phòng ốc để bố trí linh đường. (* tiểu lại: các chức dưới quyền quan gọi là lại, chức vụ không có phẩm cấp.)

Tên tiểu lại trực đêm nghe nói Dịch Thừa đại nhân đến liền vội vàng chạy tới trình diện. Dương Lăng thấy hai má hắn đang sưng vù thì lập tức nhíu mày. Y là người hiện đại nên không đồng tình với tư tưởng "vì mình là người thuộc giai cấp cao nên có tư cách và danh dự cao hơn người khác." Nếu đổi lại là y bị người khác đùng đùng bạt tai mấy cái thì chỉ sợ đã điên tiết lên rồi.

Do vậy nên y không vì bênh vực Mã Ngang huynh muội mà quát mắng gã tiểu lại, chỉ nhẹ nhàng nhờ hắn gọi mấy người tới giúp bố trí linh đường. Tên tiểu lại kia thấy cấp trên ra mặt, đành ngượng ngập tìm mấy tên dịch tốt đến, giúp đại nhân giải quyết công chuyện.

Vào thời điểm này cũng không thể kiếm đâu ra đầy đủ đồ cúng được, phía trước bát hương chỉ bày biện qua quýt vài món. Bên cạnh quan tài là câu đối phúng điếu và cờ trắng. Trong bồn gốm có giấy lụa, vàng mã và còn hai cây nến trắng đang cháy trên linh cữu. Mã Ngang và Mã Liên Nhi đang túc trực trước linh cữu, vừa đốt tiền giấy vừa lã chã rơi nước mắt.

Dương Lăng không chịu nổi bầu không khí đau thương buồn bã này nên khuyên giải an ủi vài câu rồi cáo từ ra về, bỗng sau lưng y có người gọi:

- Dương huynh...

Dương Lăng ngoái đầu lại, thấy Mã Liên Nhi từ cuối hành lang đang chậm rãi bước tới. Ánh đèn lay động trong gió rọi xuống bộ quần áo trắng tinh của nàng, eo thắt đai tang, bóng hình thon thả như muốn nương theo cơn gió. Ánh mắt của y bỗng dưng khẽ ngẩn ra.

Mã Liên Nhi bước tới bên người Dương Lăng, khẽ nói:

- Dương huynh, hoạn nạn mới thấy chân tình, Liên Nhi đa tạ huynh!

Nói xong nàng liền gập người vái, Dương Lăng vội vàng ngăn lại rồi nói:

- Liên Nhi tiểu thư, cô quá khách sáo rồi. Bá phụ là trưởng bối của ta, chuyện nhỏ này là trách nhiệm ta phải làm hết sức nên không thể nhận đại lễ này được.

Mã Liên Nhi nhẹ nhàng đứng thẳng lên, cười khổ nói:

- Ta muốn cảm tạ huynh là bởi vì bản thân mình mà thôi. Gia huynh ngoại trừ sức lực, thích đánh đấm thì chẳng có sở trường gì cả. Còn ta chỉ là một cô gái, nếu như không có huynh thì hôm nay chúng ta muốn làm tròn đạo hiếu của con cái cũng chẳng thể được.

Giọng nàng nghẹn ngào, than thở:

- Ta vẫn luôn hận cha đã bức mẹ phải chết, luôn luôn hận người, cho nên mặc dù đau lòng nhưng cũng không đến nỗi bi thương hết muốn sống.

Nàng lại cười khúc khích rồi nhìn thẳng vào Dương Lăng hỏi:

- Những lời mà ta vừa nói có phải là đại nghịch bất đạo không nhỉ?

Ở kiếp trước truyền thông phát triển, Dương Lăng từng thấy rất nhiều mỹ nữ, sắc đẹp đều tuyệt vời, sợ rằng đế vương của thời này chắc gì đã có khả năng thấy hết tuyệt sắc trong thiên hạ. Lẽ ra với sự hiểu biết của hắn thì không thể bị Mã Liên Nhi mê hoặc được.

Thường có câu "nữ yếu tiếu, nhất thân hiếu" (con gái mặc đồ tang trông sẽ đẹp hơn), và cả câu "đăng hạ khán mỹ nhân, dũ tăng tam phân nhan sắc" (nhìn mỹ nhân dưới đèn, sẽ thấy nhan sắc nàng đẹp hơn ba phần.) Diện mạo của Mã Liên Nhi vốn đã rất đẹp, rất quyến rũ rồi, lúc này lại mặc một bộ đồ tang màu trắng mộc mạc, toát lên vẻ thánh khiết không tì vết. Lúc này cặp mắt như sao ấy lại ngân ngấn nước, vẻ nhu mì đáng thương đó khiến người ta cảm động nói không nên lời. Rốt cuộc, Dương Lăng lại không dám đối diện với nàng.

Mã Liên Nhi yếu ớt nói:

- Ta đau lòng, mà nói thật ra là có một phần hối hận. Bởi vì cho tới tận bây giờ, ta mới biết nếu như không có cha thì ta đã không thể sống thoải mái như vậy. Dù sao đi nữa, cha ta cũng đã đối xử với ta rất tốt, ta không nên thù ghét, lúc nào cũng làm cha giận như vậy.

Dương Lăng thầm than thở: "Đây có phải là minh chứng cho câu 'tử dục dưỡng nhi thân bất tại' (**) không? Vì sao lúc nào cũng phải để mất rồi mới biết quý trọng cơ chứ?" (**: Con muốn báo hiếu cha mẹ nhưng cha mẹ không còn)

Mã Liên Nhi cười cay đắng, nói:

- Khi gia phụ lĩnh chức dịch thừa, vốn có hai huyện còn chỗ trống. Do ở đây gần vùng quan ngoại, mà ta lại cảm thấy rất thích cuộc sống ở những nơi như thế này cho nên mới năn nỉ cha ta tới đây. Chính ta đã hại cha rồi, nếu như ta có thể đoán trước được việc sẽ xảy ra, thì có lẽ...

Dương Lăng an ủi:

- Ai có thể biết trước được tương lai chứ? Liên Nhi tiểu thư, đây không phải là lỗi của cô.

"Biết trước thì có gì hay cơ chứ, nếu như không phải biết mình chỉ còn sống được hai năm thì không biết bây giờ ta và Ấu Nương đã vui vẻ tới cỡ nào rồi." Dương Lăng thương cảm khuyên nhủ:

- Đã không thể biết trước tương lai thì nên sống một cách nghiêm túc từ ngay bây giờ, nắm bắt hiện tại mới đáng quý, tương lai sẽ không hối hận. Tiểu thư thấy có phải không?

Mã Liên Nhi thấy ánh mắt trong veo của y chăm chú nhìn mình, trong ánh mắt đó chất chứa nhiều tình cảm phức tạp, tâm tình thiếu nữ khẽ rộn ràng. Nàng đâu biết Dương Lăng vì nghĩ tới Hàn Ấu Nương nên mới xót xa như vậy, liền hiểu nhầm: "Nắm bắt lấy hiện tại mới đáng quý ư? Y... muốn ám chỉ điều gì với mình sao? Nhưng y đã thành thân rồi mà."

Mã Liên Nhi cảm thấy mặt mình như phát sốt, bị Dương Lăng nhìn nên càng hoảng hốt, nàng lắp ba lắp bắp:

- Nắm bắt hiện tại... mới đáng quý sao? Ta có thể nắm bắt được cái gì đây? Nhà thì chẳng có, đất cũng không, mặc dù gia phụ cũng có chút tích góp nhưng 'miệng ăn núi lở.' Ở đây huynh muội ta lại chẳng có ai thân thích, có lẽ... có lẽ vài hôm nữa ta cùng ca ca khiêng linh cữu về quê cũ.

Nàng nói xong, tim đập mạnh như ngựa phi nước đại: "Y có giữ ta lại không? Nếu như y giữ ta lại, ta phải làm sao đây? Ta cũng nhìn ra được là y rất yêu thương Hàn Ấu Nương, nhất định sẽ không vì ta mà bỏ nàng ấy đâu. Nhưng nếu như y bày tỏ tình yêu với ta, ta... Mã Liên Nhi này lẽ nào phải chịu làm thiếp cho người ta sao?"

Mã Liên Nhi cũng không muốn chịu cảnh nhục nhã phải làm thiếp nhà người nhưng lại ái mộ phong độ lịch lãm của Dương Lăng. Và nhất là, chỉ có người đàn ông này mới có thể hiểu và bao dung cho cách nhìn của nàng mà theo quan điểm của phụ nữ Trung Nguyên là đại nghịch bất đạo

"Hiện tại, gia cảnh của mình chắc chắn là sa sút, mà y chưa đầy hai mươi tuổi đã ngồi tới chức vị mà cha mình phải vất vả cả nửa đời người mới đạt được, có thể nói là tiền đồ không giới hạn. Liệu y có phải là người mà mình có thể lựa chọn hay không?" - Mã Liên Nhi hoảng hốt không muốn đối mặt với tình cảm đang dâng lên trong lòng, quả thật là vô cùng mâu thuẫn và bối rối.

Dương Lăng nợ Hàn Ấu Nương một mối thâm tình nặng như núi còn chưa biết lấy gì báo đáp, nào có tâm tư dây vào một mối tình khác, dù dung mạo xinh đẹp của Mã Liên Nhi quả thật khiến những người đàn ông bình thường đều yêu thích. Có điều y cũng không biết rằng Mã Liên Nhi đang dịu dàng kín đáo giãi bày tâm sự với y như vậy cũng chỉ là cho y một cái cớ để giữ nàng lại mà thôi.

Dương Lăng chợt trở nên nghiêm túc, mà sự nghiêm túc này lại xuất phát từ góc độ suy nghĩ của bằng hữu. Y cảm thấy tòa thành nơi biên cương này không thích hợp để huynh muội Mã Liên Nhi lưu lại, bèn nói:

- Tòa thành nhỏ ở vùng biên cương này lúc nào cũng có thể xảy ra chiến tranh loạn lạc, rời đi cũng tốt, trở về đất tổ dù sao cũng có họ hàng thân hữu giúp đỡ.

Tiếng lòng của Mã Liên Nhi vừa vang lên đã vụt tắt, bàn tay đang nắm chặt cũng buông lỏng ra, trong mắt chớp qua sự thất vọng khó mà che giấu được.

Lúc Dương Lăng cáo từ rời đi đã không chú ý tới ánh mắt vô cùng u oán của Mã Liên Nhi. Y yêu cầu tiểu lại đưa đến một con ngựa rồi phi một mạch tới huyện nha tìm bổ đầu trực đêm, bảo hắn sớm ngày mai khi chư vị đại nhân đến hãy mời bọn họ đến sở dịch thừa để phúng điếu Mã dịch thừa.

Trong đám quan viên huyện nha này, Hoàng huyện thừa có chức vị cao nhất, lại luôn quan tâm tới Dương Lăng. Y lại là sư gia của Mẫn đại nhân nên những người khác cũng luôn đối xử với y rất lễ nghĩa. Dương Lăng tự tin thân phận đặc thù của mình vẫn đủ sức kêu gọi.

Dặn dò xong, Dương Lăng định trở về nhà, nhưng nghĩ tới Mẫn đại nhân chắc đã được chuyển về huyện nha, cũng không biết bệnh tình thế nào rồi, liền đi vào trong xem thử. Y đi vào phía sau nha môn, thấy trong gian nhà chính có hai tên đầy tớ đang ngồi trên giường đất uống rượu, trên bàn bày một đĩa lạc rang và một đĩa tai heo. Nhìn thấy Dương sư gia, người được đại nhân coi trọng nhất đi vào, hai người vội vàng bước xuống giường. Lý lão đầu nhe răng cười chào:

- Dương sư gia, ngài tới thăm lão gia đấy à?

Dương Lăng gật đầu rồi hỏi:

- Đại nhân ra sao rồi?

Lý lão đầu tới cầm lấy áo choàng cho Dương Lăng, cười trả lời:

- Cơn sốt của lão gia đã lui rồi, chẳng qua là vẫn chưa tỉnh mà thôi, để tôi đưa ngài vào trong!

Dương Lăng xua tay nói ngay:

- Thôi không cần, đang tết nhất, hai ngươi lại hiếm khi được nghỉ ngơi, đi nghỉ cả đi, ta vào thăm đại nhân rồi về ngay!

Y vén rèm bông, bước vào phòng ngủ của Mẫn Văn Kiến. Trên chiếc bàn nhỏ phía trước giường đất đặt một ngọn đèn dầu, còn Mẫn đại nhân thì nằm ở đầu giường, đang quấn chăn kê cao gối ngủ say. Dương Lăng bước tới ngồi trước giường, thấy Mẫn Văn Kiến ngủ ngửa mặt lên trời, râu vểnh ngược, không nhịn được liền khẽ cười.

Xem xét kỹ thì thấy khuôn mặt đen thui của Mẫn huyện lệnh đã hồng hào hơn một chút. Nhẹ nhàng sờ lên trán của lão, cơn sốt đã lui, xem ra độc tố trên người đã được tẩy trừ nên không còn nguy hiểm gì nữa rồi. Dương Lăng thở phào rồi xoay người chuẩn bị rời đi thì đột nhiên Mẫn tri huyện rên rỉ một tiếng, lẩm bẩm nói:

- Nước, nước, lão tử.... muốn uống nước!

Dương Lăng mừng quá, vội cầm lấy ấm trà trên bàn, kê vòi ấm tới sát miệng lão. Mẫn huyện lệnh liền như cá voi hút nước, đã bắt đầu thì không dừng lại được nữa, quá nửa ấm trà đã trôi thẳng vào dạ dày, bấy giờ Mẫn râu xồm mới chậm rãi mở mắt.

Nheo mắt một hồi lâu lão mới nhìn rõ trước mặt là sư gia Dương Lăng của mình, Mẫn huyện lệnh chớp chớp mắt, nhìn quanh bốn phía, lầm bầm hỏi:

- Ta đang ở nhà à? Quân tình hiện tại như thế nào rồi?

Dương Lăng cười trả lời:

- Đại nhân, ngài đã ngủ một ngày một đêm rồi. Hôm nay đại quân của Vĩnh Ninh tham tướng đã đến, Thát Tử đã rút lui vào núi rồi, vòng vây ở Kê Minh đã được giải trừ, đại nhân chớ nên lo lắng!

Mẫn tri huyện nghe vậy sắc mặt liền lộ vẻ vui mừng, mắt khép hờ một lát rồi lại mở to ra, nhìn chung quanh than thở:

- Chỉ có ngươi ở đây thôi à? Đúng là đường xa mới biết sức ngựa, hoạn nạn mới biết lòng người. Mẹ nó, tất cả đều tưởng lão tử chết chắc rồi sao?

Dương Lăng cảm thấy thẹn thùng. Hôm nay có quá nhiều việc, mấy vị quan viên có chức sắc đều đi tiếp đón đám Hà tham tướng. Mọi người biết Mẫn tri huyện không gặp nguy hiểm gì đến tính mạng nên mới không tới thăm lão. Còn riêng mình, nếu không phải vì chuyện của Mã gia thì tối nay cũng đã không tới huyện nha làm gì. Không ngờ người thô lỗ như Mẫn tri huyện lại nhạy cảm như vậy. Xem ra câu "lễ đa nhân bất quái" (lễ phép nhiều thì chẳng ai trách) quả không sai, cổ nhân cực kỳ coi trọng lễ tiết, sau này mình phải luôn chú ý mới được.

Dương Lăng vội vàng giải thích thay mọi người, lúc này Mẫn đại nhân mới trở nên thoải mái. Từ lúc trên giường bệnh tỉnh lại, chỉ có Dương Lăng ở bên, khiến lão cực kỳ vui mừng, xem ra trực giác của mình coi y là thân tín quả là không nhầm.

Dương Lăng nhớ tới việc Hà tham tướng ra lệnh bổ nhiệm tạm thời liền kể lại cho Mẫn tri huyện, lão nghe xong liền trợn mắt quát:

- Như thế sao được? Ngươi đi rồi thì nha môn của ta do ai quản?

Quát xong, lão lại nghĩ rằng cũng không nên đối xử quá tệ với người của mình, liền nói tiếp:

- Thế cũng tốt, coi như là ngươi đã chính thức bước vào quan trường rồi. Em rể của ta là tri phủ Đại Đồng, ngày mai ta sẽ sai người báo cho y biết để giúp ngươi trở thành một viên dịch thừa chính thức. Chuyển từ tạm thời lên chính thức rất dễ dàng, không tới hai ngày đâu.

Lão cười gian hai tiếng nói:

- Hê hê, chớ nên coi thường chức dịch thừa này! Chức quan mặc dù không lớn, nhưng lại rất béo bở. Chức vị này để cho ngươi làm cũng tốt, nếu để người khác chiếm mất thì ta cũng không cam lòng.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 33: Mã Ngang tòng quân

Sáng sớm tinh mơ, Dương Lăng cưỡi ngựa phi về phía sở Dịch thừa. Kẻ nói vô tâm, người nghe hữu ý, hôm qua y nói ra câu "yên ngựa cứng quá", thế là Ấu Nương cả đêm làm cho y một cái đệm dày, vắt lên yên ngựa vừa nhẹ vừa êm, khiến y suốt đường cứ lo mình bị đu đưa lắc lư đến ngã.

Như một tân khoa trạng nguyên diễu hành trên phố, y lắc lư đến cổng sở Dịch thừa. Đột nhiên từ xa có tiếng vó ngựa gấp rút vọng lại, hơn mười thớt khoái mã lao vút tới. Dương Lăng quay đầu nhìn sang, thấy một đám vệ sỹ áo giáp sáng choang đang vây quanh một tướng quân đầu đội khôi giáp, chính là vị Tất Xuân Tất đô ty đó.

Tất đô ty mặt mày tươi rói, chẳng giống gì với khí thế vênh váo ép người ngày hôm qua. Y gấp roi ngựa, chắp tay cười lớn nói:

- Được Dương lão đệ quan tâm chiếu cố nhiều, bổn tướng đặc biệt đến để cảm ơn đây.

Đêm qua Quan Thụ Anh vận chuyển lương thảo về doanh và có thuật lại nguyên xi những lời của Dương Lăng cho y. Trong lúc nhắc lại, nét mặt Quan Thụ Anh vẫn tràn ngập vẻ kiêu ngạo, tay đội trưởng thân binh tính thẳng như ruột ngựa này cảm thấy lời của Dương Lăng rất hay.

Tất Xuân đã lăn lộn trên quan trường bấy lâu, sẽ không vì mấy câu đầy sức truyền cảm đó mà xem Dương Lăng là tri kỷ cả đời, tuy vậy y vẫn cảm thấy vô cùng sảng khoái, càng thêm hảo cảm với Dương Lăng. Sáng sớm rong ngựa trong thành, chợt nhớ tới vị Dịch thừa này, y nhất thời cao hứng, bèn phóng thẳng đến sở dịch để tỏ lòng biết ơn.

Dương Lăng vội bước lên nói mấy lời khách sáo. Tất Xuân nghe nói y muốn đi viếng một vị trưởng giả nên không tiện bỏ đi ngay, thế là cũng vào viếng để tránh phải thất lễ.

Nhóm người bọn họ tiến vào sân thì thấy cỗ kiệu màu xanh lục quen thuộc của Mẫn huyện lệnh dừng ở trong sân. Thì ra các vị đồng liêu đã đến huyện phủ từ sớm để vấn an đại nhân trước. Vết thương trúng tên của Mẫn tri huyện không sâu, nhưng vì mũi tên có độc nên mới hôn mê lâu như vậy, đã tỉnh lại rồi thì không còn đáng ngại nữa. Lão nghe nói Mã dịch thừa đã mất, lại nhớ hồi hôm chỉ có Dương Lăng bồi tiếp mình nên không khỏi phát sinh cảm giác bầu bí thương nhau (nguyên văn "thố tử hồ bi" - thỏ chết cáo thương), thế là chẳng màng can ngăn, lão lập tức ngồi kiệu chạy đến phúng viếng.

Huynh muội Mã Ngang không ngờ Dương Lăng có thể gọi nhiều người có thân phận đến viếng đến như vậy. Chớ thấy ngày thường Mẫn tri huyện và Mã dịch thừa xưng huynh gọi đệ mà lầm. Thứ nhất là có tiền bạc "phúng điếu", thứ hai là Mã dịch thừa tốt xấu gì cũng giắt một lệnh bài Cẩm y vệ ở trên người, bằng không, phải cực kỳ nể nang lắm thì kém tới mấy cấp mới được người ta đến viếng.

Còn như vị tướng quân mà Dương Lăng đang đưa vào... Cứ thử tưởng tượng một cục trưởng cục bưu chính huyện qua đời mà lại được lãnh đạo cấp phó tỉnh đến dự tang lễ, thì sẽ biết ngay người nhà có cảm giác gì.

Những người này, có một số hai huynh muội đều chưa gặp qua lần nào, hiển nhiên bọn họ đều là nể mặt Dương Lăng mà đến. Vừa nghĩ đến đây, Mã Ngang thật sự cảm kích Dương Lăng đến rơi nước mắt. Đối với Mã Liên Nhi thì ngoài vẻ cảm kích, trong ánh mắt của nàng nhìn về phía y còn mang thêm vài phần u oán, khiến Dương Lăng cảm thấy khó hiểu.

Tất Xuân vốn chỉ định lướt vào rồi ra, nhưng vừa trông thấy Mã Liên Nhi đã không nỡ bỏ đi. Y không ngờ ở vùng đất nhỏ này lại có thể gặp được một tiểu mỹ nhân đẹp tuyệt như hoa như ngọc vậy; nàng tuổi trạc mười lăm mười sáu, duyên dáng thướt tha, thân mặc áo tang, lộ ra dáng vẻ rất đỗi mảnh mai yếu ớt.

Dung nhan mỏng manh như cánh hoa chớm nở đọng giọt sương mai, thật sự yêu kiều đến không thể diễn tả bằng lời. Ba cô vợ lớn nhỏ của mình cũng có thể xem là giai nhân xứ Giang Nam, ấy vậy mà không được sáu phần xinh đẹp của nàng ta.

Đến tận lúc hai huynh muội đến trước mặt vị quan trưởng phẩm bậc cao nhất này để bái tạ, thì Tất đô ty mới thu lại ánh mắt quyến luyến, ngồi ngay ngắn nhận một lễ của bọn họ, sau đó đưa tay phải đỡ hờ, nói:

- Hai vị hãy đứng lên đi! Lệnh tôn vì nước hy sinh, Tất mỗ rất là tôn trọng, đến đây bái tế cũng là việc nên làm.

Hai huynh muội bái một lạy nhưng lại không đứng lên, Mã Ngang nói:

- Tướng quân đại nhân, Mã Ngang muốn gia nhập quan binh, giết Thát tử, bảo vệ Đại Minh, vì phụ thân báo thù, xin đại nhân thành toàn.

- Việc này...

Tất Xuân không khỏi do dự một chút. Nếu như y là binh thuộc doanh thì tuỳ tiện thu mấy người cũng dễ. Nhưng quân đội của y lại thuộc biên chế vệ sở, lính dưới trướng đều là quân hộ , cha truyền con nối. Tuy cũng có kẻ lén lút mạo danh đi lính thay, thế nhưng công khai thu nạp trước mặt biết bao người như vậy thật sự rất bất tiện.

Mã Liên Nhi ngẩng đầu xin:

- Tướng quân đại nhân, huynh trưởng ta học được một thân võ nghệ, làm lính hầu cũng được. Cầu xin đại nhân có thể cho y cơ hội vì cha tận hiếu, vì nước tận trung.

Thấy mỹ nhân cất giọng êm ái thỉnh cầu, xương cốt Tất Xuân đã mềm nhũn cả ra. Cặp mắt tam giác hơi díp lại, đầu óc nóng lên, y bảo:

- Được rồi, mau đứng lên đi! Ngươi đã am hiểu võ nghệ, lại biết viết lách, trước hết hãy đến làm thân binh cho ta, nhận chức Thập trưởng . Sau này lập được chiến công ta sẽ lại thăng quan cho ngươi.

Mã Ngang hết sức mừng rỡ, dập đầu bái tạ rồi đứng dậy. Thập trưởng tuy là chức nhỏ, nhưng suy cho cùng vẫn xem như là một quan quân. Mã Ngang vẫn luôn tự cho mình tài giỏi, tự tin rằng dựa vào võ nghệ của bản thân y chẳng những sẽ có thể thay cha báo thù, mà còn có thể kiếm một chức quan trong quân đội.

Thấy huynh trưởng nhà mình đã có lối đi, Mã Liên Nhi cũng mừng cho y. Chỉ là nghĩ đến chuyện huynh trưởng tòng quân rồi, sẽ trơ trọi lại mỗi mình, thâm tâm nàng không khỏi buồn rầu.

Chiến sự chưa yên nên Tất Xuân không dám nán lại lâu. Ngồi thêm một chốc y liền cáo từ trở về quân doanh, còn căn dặn Mã Ngang tang sự xong xuôi hãy đến quân doanh báo danh. Mẫn đại nhân vết thương chưa khỏi nên cũng không thể ngồi lâu, mà đám quan viên nha huyện đều có sự vụ cần làm, thành thử cũng tuần tự cáo từ rời đi.

Đáng lý huynh muội nhà họ Mã nên túc trực bên linh cữu (thủ linh) bảy ngày, sau đó mai táng để cha an nghỉ. Có điều thời đó xem trọng chuyện "lá rụng về cội", nếu như chết ở quê người, thường đều để quan tài lại ở những nơi như chùa chiền, miếu mạo, chờ khi có dịp sẽ đưa về quê nhà an táng. Một số nhà gia cảnh bần hàn, không chịu nổi chi phí vận chuyển đường dài, quan tài thậm chí phải lưu lại hơn chục năm.

Sau một hồi bàn bạc, hai huynh muội quyết định gửi quan tài ở chùa Phổ Độ nơi Kê Minh, đợi sau này mới chuyển về quê. Hiện tại Mã Ngang sốt ruột báo thù, nóng lòng muốn tòng quân, tuy không để tang theo quy định, nhưng cũng xem như là đã tận hiếu, đương nhiên sẽ không có ai trách móc.

Nhưng lúc này, sắp xếp cho Mã Liên Nhi như thế nào lại trở thành chuyện khó. Thấy Mã Ngang đưa mắt về phía mình, Dương Lăng liền trấn an:

- Mã huynh không cần phải lo lắng, tiểu thư cứ ở lại nơi này là được!

Mã Liên Nhi lạnh nhạt liếc y, nghiêm mặt bảo:

- Huynh muội ta bây giờ không còn quan hệ gì với sở Dịch nữa, ở lại nơi này há chẳng phải là danh bất chính ngôn bất thuận sao.

Phụ nữ thích nhất là thù dai, nhất là mấy người đẹp hay được nuông chiều. Dương Lăng chỉ nghĩ nàng vẫn còn giận tên tiểu lại kia nên bảo:

- Vậy có sao đâu? Lát nữa để ta đi sắp xếp cho nàng là được.

Mã Liên Nhi hếch mũi:

- Ta với huynh không thân thích, lại chẳng phải bạn bè gần gũi, đến lúc đó không chừng sẽ nảy sinh những lời đồn đại ác ý đấy.

Mã Ngang trừng mắt:

- Ai dám? Hơn nữa... không họ hàng thân thích thì còn đúng, chứ sao lại không bạn bè gì? Huynh và Dương lão đệ cũng đã xem như là bằng hữu tốt rồi, giúp huynh chăm lo cho muội tử một chút thì có sao đâu chứ?

Mã Liên Nhi giậm chân, quay ngoắt đầu không thèm để ý tới tên ngốc đó nữa. Dương Lăng thầm trù tính, cũng cảm thấy Mã Liên Nhi nói có lý. Vì y chỉ là Dịch thừa tạm thời, ngay cả gia quyến của y cũng chưa dọn vào sở Dịch thừa ở, nếu như để thêm một cô nương trẻ tuổi sống ở chỗ này, chắc chắn sẽ dẫn đến những lời ong tiếng ve.

Mẫn huyện lệnh vừa nãy trước lúc rời khỏi cũng nói đã cử người đi thông báo cho em trai vợ lão, tốt hơn trước tiên cứ để nàng ở cùng với Ấu Nương vài hôm, còn mình thì chuyển tới ở trong sở Dịch, chờ đến khi chính thức nhận bổ nhiệm, lúc ấy nhường lại căn nhà nhỏ của mình cho nàng ấy là được. Trong bụng trù tính như vậy, y nói với Mã Ngang:

- Tiểu thư nói cũng có lý, ở lại nơi này đúng là có điều bất tiện. Ta thấy nên mời tiểu thư về nhà ta ở trước...

Y vừa nói đến đây, thấy Mã Ngang miệng hả to như hà mã đang ngáp, cặp mày liễu của Mã Liên Nhi cũng xếch ngược lên nên liền vội bổ sung:

- Úi... trước để bầu bạn với tiện nội, còn ta dọn đến sở Dịch ở là được rồi. Chờ khi Thát Tử rút lui, tiểu thư hãy quyết định đi hay ở cũng không muộn.

Mã Ngang vui mừng khôn xiết, sắp xếp như vậy còn có gì phải lo lắng chứ. Mã Liên Nhi lườm Dương Lăng một cái, suy nghĩ một chút rồi cũng không nói thêm gì. Chuyện này coi như đã được giải quyết.

Ngay trong hôm đó, Thát Tử chỉ phái ra một toán lính nhỏ do thám quân Minh. Hai phe đều thăm dò thực lực của đối phương, bên nào cũng không đưa ra quân đội tác chiến chủ lực.

Lúc trời gần tối, Dương Lăng dẫn người giúp huynh muội Mã Ngang đưa quan tài của Mã dịch thừa gởi ở chùa Phổ Độ. Mọi chuyện bố trí thoả đáng xong, Mã Ngang liền đến quân doanh của Tất đô ty báo cáo, còn Dương Lăng dẫn Mã Liên Nhi về nhà. Ấu Nương là một phụ nữ rất nhiệt tình, lại hết sức đồng cảm với vị đại tiểu thư gặp nạn này, nên sau khi nghe nói nàng ta chỉ tá túc vài hôm thì không chần chừ mà đáp ứng luôn.

Mã Liên Nhi đối xử với y thì lạnh lùng băng giá, nhưng khi thấy Hàn Ấu Nương thì lại trở nên thân thiết, thấy vậy Dương Lăng không khỏi thở phào một hơi. Cả ngày nay, thái độ của Mã Liên Nhi đối với y, thậm chí ngay cả lúc cười cũng đều lạnh nhạt, giả tạo. Dương Lăng cũng chẳng biết mình đã đắc tội với nàng ta ở chỗ nào. Y thật sự vẫn lo vị thiên kim họ Mã này đến nhà rồi vẫn sẽ giở tính khí tiểu thư. Y nhịn được, nhưng y không thể chịu được bất cứ kẻ nào làm Ấu Nương buồn giận.

Ấu Nương ít đọc sách, nhưng tính tình thuỳ mị, thông minh lanh lợi, biết cái gì nên nói, cái gì không nên nói. Mã Liên Nhi từ nhỏ lớn lên ở vùng tắc ngoại, ghét nhất là dáng vẻ làm bộ làm tịch của bọn con gái đọc nhiều thi thư ở Trung Nguyên, nên rất hợp với nàng. Chỉ một lúc sau hai người đã rất thân thiết.

Nơi sở Dịch thừa chợt xuất hiện một bóng người lặng lẽ bước vào trạm gác (môn phòng), hỏi tên lính gác cổng:

- Dịch thừa đại nhân có ở đây không?

Tên lính gác cổng này vốn là dịch tốt, do bị thương lúc ở trên thành nên cử động khó khăn. Sở Dịch hiện nay đang thiếu người, thế là để cho gã và tên lính gác cổng ban đầu tạm thời hoán đổi nhiệm vụ. Hắn tưởng kẻ kia tìm Dịch thừa tạm thời là Dương Lăng, nên vẫn ngồi ở trên đầu giường hỏi:

- Đại nhân vừa mới ra ngoài, ngươi có chuyện gì?

Vừa hỏi hắn vừa dò xét một lượt, thì thấy kẻ đến trên người mặc áo quần thường dân, mũ trùm đầu da chó sụp sát xuống tận lông mày, nét mặt đầy vẻ phong sương.

Kẻ đó nghe xong liền lấy từ trong ngực ra một phong thư được dán kín bằng sáp, đưa cho hắn, bảo:

- Ta từ quan ngoại đến, còn phải trở về ngay trong đêm nay. Phiền ngươi chuyển cái này tới cho Dịch thừa đại nhân. Cáo từ!

Tên lính gác cổng gật đầu nhận lấy bao thư. Người nọ đẩy cổng, biến vào giữa màn đêm mù mịt. Tên lính gác cổng nhìn phong thư, thấy chỗ phong ấn vẽ một con quái ngư. Hắn cũng chẳng để tâm, ngáp một cái, rồi đặt phong thư lên đầu giường.

Chú thích:

Nguyên văn "khoa quan": trong chế độ khoa cử thời xưa, tân khoa trạng nguyên sau khi thi đình được đức vua khâm điểm (tự thân chấm điểm), quan viên lại bộ, lễ bộ sẽ giơ cao thánh chỉ, gõ chiêng dẹp đường. Trạng nguyên thân vận hồng bào, mão cắm cung hoa (hoa trong ngự uyển), cưỡi tuấn mã, diễu hành trên ngự nhai ở hoàng cung kinh thành, được vạn dân chúc tụng.

Nguyên văn "thanh tình tịnh mậu": nghĩa đen chỉ cỏ cây phong phú um tùm, nghĩa bóng chỉ sự truyền cảm và lôi cuốn (trong biểu diễn).

thời xưa tòng quân ở Trung Quốc, các hộ gia đình được phái đi làm quân sai. Thời Đông Tấn, Nam Bắc triều, hộ tịch của binh sỹ và những người thân trong gia đình đều thuộc về quân phủ, gọi là quân hộ. Các thế hệ trong quân hộ cha truyền con nối đều phải đi lính, chưa được phép sẽ không thể thoát khỏi quân tịch. (theo bách khoa).

một kiểu quân hàm trong quân đội thời xưa: cứ năm người lập ra một Ngũ tràng (trường), hai mươi người là Thập tràng (trường). Một trăm người là Bách phu tràng (trường), năm trăm người là tiểu đô thống, một nghìn người là Đại đô thống. Ba nghìn người là Chính thiên tướng, năm nghìn người là Chính thiên nha tướng, một vạn người thì thiết lập Chính phó tướng quân. (Theo bách khoa)

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 34: Mưa gió kéo tới

Hà tham tướng và hai vị giám quân sau khi cùng với người thủ bản địa là Giang bá tổng tuần sát ba thành thì đi đến doanh trại của Tất Xuân. Tất Xuân chỉ là quân dự bị, tạm thời do Hà tham tướng quản lý, cho nên không được thuần phục như bọn tướng lĩnh khác.

Đêm hôm qua, trong doanh trại của Tất Xuân lại náo loạn cả lên, nguyên nhân là do thiếu hụt lương thảo. Vốn dĩ Hà tham tướng chỉ quan tâm đến lương thảo cho quân chính quy của mình, nên chẳng thèm dòm ngó tới quân của Tất Xuân. Nếu không phải nhờ Dương dịch thừa hào hiệp xuất lương, có lẽ đến bây giờ quân của Tất Xuân sẽ vẫn còn ôm bụng đói, nên trong lòng y có vài phần ác cảm. Chính vì vậy khi gặp Hà tham tướng, y cũng tỏ thái độ lạnh nhạt.

Hà tham tướng cũng chẳng để bụng, sau khi xem xét việc phòng thủ trong doanh xong, đang lúc muốn đi sang doanh của Tôn Đại Trung thì thám mã trong quân doanh đã đuổi tới đại doanh của Tất Xuân. Lúc này y vừa mới rời khỏi lều của Tất Xuân, lại nhận được quân tình cấp báo nên bèn quay về quân doanh rồi thắp đèn, mở quân thư ra xem.

Quân thư được gởi tới từ Tổng binh phủ. Xem xong quân tình cấp báo, lập tức Hà tham tướng đem thư truyền xuống cho các chư tướng. Về phần mình thì đi tới đi lui trong lều, vẻ mặt không ngừng biến đổi, thần sắc cực kỳ ảo não.

Thì ra lần này tiểu vương tử Bá Nhan Mãnh Khả của Thát Đát tập trung binh mã các bộ lạc, tổng cộng có hai vạn người, chia nhau quấy phá mười mấy dịch trạm dọc biên giới nhằm cướp lương thực vật tư để bù lại những tổn thất do trời đông tuyết lớn, đồng thời để có thể qua được mùa đông này một cách yên ổn. Hy vọng những tài vật cướp được có thể giúp cho các bộ lạc của mình thuận lợi vượt qua mùa đông này. Do đó trong chiến lược lần này của bọn họ, không hề có ý định đánh lâu. Thật ra, từ sau khi Minh Thành Tổ năm lần đánh Thát Đát , Ngoã Lạt, cho đến tận bây giờ dị tộc ngoài biên ải vẫn chưa hồi phục được nguyên khí, vì vậy về căn bản trước mắt vẫn chưa đủ thực lực để công thành cướp trại.

Sau khi lửa hiệu truyền tới, mấy cánh quân Minh đồng loạt xuất phát. Do tuyết lớn lấp đường nên cánh quân ở Hoài Lai là đội đến sau cùng, ngoài ra còn có hai nhánh quân khác. Trong khi người Thát Đát vẫn chưa đánh hạ được Trác Lộc thì đại quân phía bắc của tham tướng Thạch Mã Doanh đã đuổi đến. Quân địch khoảng chừng năm ngàn người, vừa mới cướp bóc được vài thôn xóm dọc đường thì đã hốt hoảng bỏ chạy, nửa đường lại bị quân của du kích tướng quân Cát Uy chặn đánh, bị tổn thất nặng nề, đại quân còn lại không đến ba ngàn. Do vậy, có thể nói nhánh quân phía bắc vừa mới xuất quân đã chiến thắng giòn giã, lập được công đầu.

Tiểu vương tử Bá Nhan Mãnh Khả tự mình dẫn một vạn kỵ binh Thát Đát công đánh Xích huyện, đã liên tục chiếm được ba toà thành nhỏ. Tham tướng Úy Quảng và du kích tướng quân Dương Gia Long ở phía nam, cùng với tướng phòng thủ Xích huyện là Vương Thừa Hiến. Ba nhánh đại quân hợp lại số lượng cũng vừa đông tới một vạn, vì vậy đôi bên giao chiến không phân thắng bại, rơi vào thế giằng .

Nhưng mà rạng sáng hôm nay, đại quân của tiểu vương tử bỗng nhiên chia thành hai nhánh rút lui, tham tướng Uý Quảng dẫn quân liên tục đuổi theo. Trong đó một nhánh quân chuồn lên phía bắc, nhánh còn lại thì chẳng biết đã trốn đi đâu. Thư từ tổng binh yêu cầu Hà tham tướng phối hợp với đại quân hai cánh tả hữu, chiếm lại các dịch trạm đã thất thủ, đồng thời tìm cơ hội gây tổn thất cho kẻ địch.

Mặc dù tham tướng Vĩnh Ninh đã thành công bảo vệ được Kê Minh, nhưng chiến tích đó so với hai vị tướng lĩnh đồng liêu thì vẫn còn kém xa. Hơn nữa qua tình huống được miêu tả trong thư, nắm rõ được ý đồ tác chiến của quân địch, y mới hay hôm qua quân Thát không hề có viện binh, đồng thời cũng chẳng ham chiến, vậy mà khi đó y lại không thể chớp lấy thời cơ để lập đại công, bây giờ nghĩ lại không khỏi có chút cảm giác phiền muộn.

Xem xong quân thư, sắc mặt của Diệp ngự sử cũng cực kỳ khó coi. Y sợ bị vặn hỏi, bèn giành mở miệng nói trước:

- Quân ta mới đến, không rõ tình hình của quân địch thì dùng binh cẩn thận một chút cũng không có gì là không thỏa đáng. Bây giờ chúng ta đã biết quân địch không có ý đánh lâu, vậy thì ngày mai chúng ta nên truy tìm tung tích quân địch, chủ động xuất chiến!

Lưu công công cũng gật đầu đồng ý, nói:

- Hôm nay tuy quân ta không có truy kích, nhưng quân Thát cũng không biết nội tình của quân ta, chưa chắc đã chạy xa. Ngày mai nếu chúng ta tấn công bất ngờ, thì việc lập đại công sẽ dễ như trở bàn tay.

Tất Xuân suy nghĩ một chút rồi nói:

- Tham tướng đại nhân, hai vị giám quân đại nhân, ty chức cho rằng quân Thát thành thạo dã chiến hơn chúng ta. Thêm vào đó hai nhánh quân Trác Lộc và Xích huyện đã có hai vị du kích tướng quân hợp tác, ngoài ra số lượng quân ta lại không chiếm ưu thế so với quân địch, mặt khác phía trước lại có nhiều đường núi, rất bất lợi cho đại quân truy kích, vì vậy ty chức nghĩ rằng...

Diệp ngự sử ngắt lời y:

- Bây giờ đã rõ tình hình quân địch, cũng chính là lúc thừa thắng truy kích, khiến cho Thát Tử không dám khinh thường uy thế của quân Minh ta. Tất tướng quân nói như vậy, có phải là nhát gan sợ chiến hay không?

Cặp mắt tam giác của Tất Xuân trợn lên, hiển nhiên cơn giận đã lên tới cực điểm. Y hít vào một hơi, mặt tím lại không nói lời nào, nhưng trong lòng thì lại chửi ầm: "Lúc ông đây muốn thừa thắng truy kích, mày nói ông tham công liều lĩnh, bây giờ ông không muốn đuổi nữa thì mày lại nói ông nhát gan sợ chiến, đúng là bọn văn nhân chó má đáng bị chém đầu!"

Lúc này Giang Bân nhớ tới trong thư có nói đến trong hai cánh quân trốn chạy ở Xích huyện, có một cánh quân khoảng năm ngàn người, không biết đã chạy về hướng nào, không khỏi thầm suy nghĩ. Nhưng lập tức y nghĩ đến chuyện quân Thát nếu có chạy hẳn cũng chạy về biên giới phía bắc, chẳng có lý do nào mà chạy về hướng đông, đến Hoài Lai tìm chết, cho nên lời vừa đến miệng thì lại nuốt trở vào.

Hà tham tướng liếc nhìn Tất Xuân, rồi mỉm cười nói:

- Tất đô ty từ phương nam đến, không rõ địa lý, không biết tình hình quân địch nên cũng không thể trách được. Đường núi quả thật khó đi, nhưng chính vì khó đi nên kỵ binh Thát Đát mới không thể phát huy hết sở trường được. Thuộc hạ của ta đều là người bản địa, nắm rõ địa thế nơi này, ngày mai đại quân khởi hành cứ cho nhân mã chính của ta làm tiên phong là được.

Tất Xuân cười nhạt không nói: "Đây rõ ràng là biết quân Thát rút lui, muốn quân chính quy của mình tranh chiếm quân công mà."

Hà tham tướng cũng chẳng để ý tới thần sắc của y, lập tức hăm hở truyền tin triệu tập ngay chủ tướng các lộ đến quân doanh của Tất Xuân, bắt đầu nghiên cứu bàn bạc chuyện xuất binh ngày mai.

Dương Lăng trở về sở Dịch, tạm thời ở tại phòng làm việc thường ngày của Mã dịch thừa. Căn phòng không lớn, sảnh ngoài rất nhỏ, nhưng phía trên đầu bàn cũng có treo một tấm biển. Phía sau là một gian nhỏ dùng để nghỉ tạm, chiếc giường chiếm đến hai phần ba không gian, bên cạnh giường là một dãy tủ bằng gỗ lê nặng trịch.

Từ khi đến thế giới này, đây cũng là lần đầu tiên Dương Lăng ngủ một mình. Đêm nay khi bên cạnh không có Hàn Ấu Nương nằm chống cằm ở đầu giường cùng y rủ rỉ mấy mẩu chuyện phiếm, trong lòng y tự nhiên cảm thấy trống vắng không ngủ được. Dương Lăng cười khổ, cô bé này không ngờ lại có sức hấp dẫn đến như vậy, vô tình đã chi phối tình cảm của mình, khiến cho mình như một thằng bé mới biết yêu phải lo nghĩ thiệt hơn.

Vừa nhớ đến Ấu Nương, y cảm thấy toàn thân ấm áp và dễ chịu, trong lòng như thể được rót mật. Từ sau lần hôn trước, tiểu cô nương đó dường như cũng đã nếm được mật ngọt, mặc dù không dám chủ động hôn y, nhưng mỗi khi lên giường cũng không vội vã chui tọt vào trong chăn, trùm kín người chỉ thò ra mỗi mái tóc như trước nữa, mà lúc nào cũng nằm sấp ở đầu giường, chớp đôi mắt to đen láy tròn xoe như quả nho nhìn y cười.

Nhađó không biết là cô nàng chỉ để lộ vỏn vẹn mỗi bờ vai trong chiếc áo ngủ bằng vải thô thôi, vậy mà vẻ yêu kiều thuần khiết non nớt tựa như một đoá hoa bé nhỏ thẹn thùng đó đã ẩn chứa sức hấp dẫn vô hạn rồi. Ông trời hãy rủ lòng thương, Dương Lăng đã cảm thấy mình có thể sẽ biến thành người sói đêm trăng tròn bất cứ lúc nào rồi đây nè.

Dương Lăng càng lúc càng mất tự tin về khả năng khống chế của mình, y không biết mình còn đang khăng khăng giữ vững cái gì. Hình bóng xinh đẹp của Ấu Nương đã chiếm hết cả con tim y. Nói một cách ích kỷ, tình cảm của y dành cho Ấu Nương từ sự yêu mến thương xót lúc ban đầu cho đến yêu thương sâu đậm như hôm nay, ý niệm vĩ đại sắm vai người dẫn dắt hạnh phúc cho nàng, trao nàng vào vòng tay kẻ khác sớm đã bị y vứt đi rồi.

Nhưng đối với việc chiếm hữu nàng, để cho Ấu Nương hoàn toàn trở thành người của mình, y lại càng lúc càng lo sợ hơn. Chính vì do dự lúc ban đầu, y cảm thấy mình đã lãng phí quá nhiều thời gian, không biết là mình còn sống được bao lâu. Giống như là một con bạc, đánh đến khi trong tay chỉ còn lại một ít vốn cuối cùng, thì trở nên lo sợ, loại cảm giác lo lắng được mất mãnh liệt này khiến y không dám dễ dàng đặt xuống số tiền cược cuối cùng.

Lắc lắc cái đầu, lắc cho tan cái cảm giác vừa chua xót vừa ngọt ngào ấy, y thuận tay mở một cái tủ ra. Sau khi Mã dịch thừa chết, xâu chìa khoá của lão cũng được chuyển giao cho Dương Lăng. Hồi chiều đến chỗ này làm việc, Dương Lăng còn làm một chuyện khiến người ta cười. Một dãy bốn cái tủ bên giường được khoá bằng bốn cái khoá đồng lạ lùng khác nhau. Mẫu khoá chia ra làm các loại chó, ngựa, tôm, cá. Dương Lăng phí biết bao sức lực mới mở ra được ổ khoá chó đồng và ngựa đồng, còn cái ổ khóa tôm đồng thì vặn đến cong cả chìa cũng không mở ra được, đành phải xấu hổ gọi một tên tiểu lại vào giúp. Té ra ổ khoá hình con tôm đó không phải là vặn để mở, mà là móc ra ngoài.

Sau cùng là cái ổ khoá con cá, theo lời tên tiểu lại đó, bởi vì cá ban đêm không nhắm mắt, cho dù khi ngủ mắt vẫn mở thao láo, thành thử dùng ổ khoá con cá, ngụ ý là lúc nào cũng phải trông chừng; vì thế đây nhất định là chiếc tủ mà đại nhân cất những văn kiện quan trọng nhất. Chính vì vậy, cái ổ khoá này cũng rất là đặc biệt, chìa khoá tra vào khe xong, vặn một cái rồi còn phải đẩy vào trong thêm một cái nữa thì mới mở được.

Lúc ấy Dương Lăng vội chạy đi kiếm con dấu về, đóng dấu lên mấy công văn khẩn rồi quay về linh đường. Tủ vẫn không khoá, nên y bèn thuận tay kéo cửa, mở luôn chiếc tủ có ổ khoá con cá bằng đồng kia, thì thấy thư tín bên trong đều đã mở niêm phong, bên cạnh tất cả dấu xi niêm phong đều có một con cá hình thù quái dị.

Dương Lăng ko chiếc bàn nhỏ gần lại, vặn sáng bấc đèn của chiếc đèn dầu lên rồi vội vã soi đèn xem sơ qua một lượt. Chỉ lật vài phong thư, y đã ý thức được đây hẳn là những tin tức tình báo của hệ thống Cẩm Y Vệ.

Những tin tức tình báo này không chỉ dừng lại ở mấy chuyện đời tư thầm kín của đám quan lại, mà còn có cả phong tục dân tình, thậm chí là cả ruộng đất thu hoạch, thời tiết hạn lụt, có thể nói là đủ thứ trên đời, không cái gì là không có.

Dương Lăng không ngờ được mạng lưới tình báo của Cẩm y vệ lại rộng lớn như vậy. Không những thế mà định hướng của việc thu thập tình báo cũng không chỉ bó hẹp ở sự trung thành và chính trực của quan lại. Nếu lợi dụng tốt được mạng lưới tình báo khổng lồ như thế này, chắc hẳn người cầm quyền triều đình nhà Minh sẽ có thể trực tiếp nắm vững mọi tình huống ở mọi mặt một cách tỉ mỉ và chân thật nhất. Điều đó hẳn là có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với việc cai trị quốc gia. Tiếc là, hình như chưa bao giờ nghe nói có Cẩm y vệ nào của triều Minh làm được chuyện gì tốt cả.

Sau một thời gian tiếp tục lục lọi, Dương Lăng lấy ra một phong thư từ nửa tháng trước, khi đọc thì không khỏi sững người. Trong này nói rõ, mùa đông năm nay bên ngoài biên ải tuyết lớn liên miên, vô số trâu dê của rất nhiều bộ lạc bị chết vì lạnh, một số bộ lạc nhỏ đã hết cách sinh tồn, do vậy các bộ lạc đã nhiều lần liên lạc với nhau, có thể sẽ gây bất lợi cho nhà Minh.

Dương Lăng nghĩ đến phong thư mà không ngớt cười khổ: "Tiếc cho những mật thám phải nhận lệnh liều mạng bôn ba ẩn náu khắp nơi trên đất khách quê người. Các loại tin tình báo ở mọi nơi trên toàn quốc đều đã tập trung nơi kinh thành cả rồi, nhưng cấp cao của Cẩm y vệ sẽ chỉ chú ý tới những thứ mà bọn họ cảm thấy hứng thú, phần lớn các tin tình báo còn lại sẽ bị bỏ lên giá cao không ai quan tâm. Nếu có quan viên đắc lực chú ý đến phần tình báo này từ trước thì có phải người dân ở vùng biên giới đỡ gặp tai họa hơn rồi không?"

Cảm khái một hồi lâu, Dương Lăng chợt bật cười khanh khách:

- Mình chẳng qua chỉ là một tên dịch thừa nhỏ nhoi, lại ở đây thở ngắn than dài lo cho nước cho dân, như thế có thể có ảnh hưởng gì đến cái đế quốc khổng lồ này cơ chứ? Thay vì theo đuổi những thứ xa vời, không bằng mình cứ tập trung làm những việc thiết thực đã (hảo cao vụ viễn, bất như cước đạp thật địa) , chăm sóc cho người mình yêu thật tốt, cố làm tròn bổn phận của mình là được rồi. Vòng quay của lịch sử, bản thân mình có thể đẩy cho chuyển động sao?

Sáng sớm hôm sau, tuyết lớn lại rơi. Dương Lăng khép sát hai tay áo lại, đứng ở ngoài hành lang thưởng thức tuyết bay đầy trời. Tuyết thời đó trắng hơn những đời sau này, bông tuyết cũng rất to, tung bay ngay trước mắt, trong suốt long lanh. Dương Lăng đưa một tay ra đón lấy vài bông tuyết rơi xuống, bông tuyết vừa chạm vào tay liền tan ra, nhanh đến mức không kịp nhìn thấy vẻ mỹ lệ của nó.

Dương Lăng thở dài tiếc nuối, vừa mới phẩy nước tuyết đọng trên lòng bàn tay thì một giọng nói yêu kiều trong trẻo vang lên từ cuối hành lang:

- Tướng công!

Chú thích:

Minh Thành Tổ hay Minh Thái Tông (1360 - 1424), tên thật là Chu Lệ (hay Chu Đệ), thụy hiệu là Văn Đế. Năm lần đánh Thát Đát gồm:

- Một lần trước 1410, ông sai một viên tướng đi đánh nhưng thất bại, phải rút về. Năm 1410 ông đem mười vạn quân với ba vạn cỗ xe chở lương thực, quân nhu, và một số tặng vật để lấy lòng người Oyrat (Ngoã Lạt), yêu cầu họ trung lập. Quân Mông đại bại trong cuộc chiến này. Minh Thành Tổ còn thân chinh ba lần nữa, một lần năm 1422 - ông dẫn một đoàn quân hai mươi ba vạn năm nghìn người, mười một vạn bảy nghìn cỗ xe, mỗi cỗ hai con lừa. Quân Mông Cổ trốn thoát về phía Tây, quân Minh cướp bóc được rất nhiều rồi trở về. Hai cuộc chiến sau, năm 1423 và 1424, kết quả cũng như vậy, và trong cuộc chiến cuối ông đột ngột qua đời. (Trích wiki)

Xuất xứ của từ "cước đạp thật địa": Thời kỳ Tống Anh Tông, Tư Mã Quang phụ trách chủ biên "Tư Trì Thông Giám". Ông nghiên cứu rất nhiều thư tịch lịch sử, thu thập tài liệu khắp nơi, dựa theo trình tự niên đại trước sau tập trung biên soạn, cuối cùng hoàn thành 294 quyển "Tư Trì Thông Giám". Về sau vì phản đối Vương An Thạch cải cách hiến pháp ông nên chuyển đến Lạc Dương định cư. Thiệu Ung của Lạc Dương đánh giá ông là một người "cước đạp thật địa" (làm những việc thiết thực đến nơi đến chốn).

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 35: Phục binh bốn bề

Nghe tiếng gọi, Dương Lăng ngoái đầu lại, nhìn thấy Hàn Ấu Nương và Mã Liên Nhi mỗi người cầm một chiếc ô, uyển chuyển nhẹ nhàng băng qua khoảng sân về phía y. Mã Liên Nhi khoác một chiếc áo lông cừu, xinh đẹp như tranh vẽ chứ không phải người trần mắt thịt.

Hàn Ấu Nương thấp hơn Mã Liên Nhi một chút. Nàng mặc váy kẻ ô màu lam, khoác bì giáp màu hồng nhạt, tuy không lộng lẫy như người bên cạnh, nhưng sở hữu khuôn mặt thanh tú và nụ cười dịu dàng giống như một cô bé láng giềng xinh đẹp.

Nàng xách một chiếc giỏ phủ vải bố màu xanh lam, ô che lệch sang hướng đó, nửa thân còn lại bám đầy tuyết rơi. Dương Lăng liền chậm rãi bước xuống thềm, trước tiên gật đầu chào Mã Liên Nhi, sau đó bước tới đón lấy chiếc giỏ trong tay Ấu Nương, rồi kéo nàng vào dưới mái hiên. Y vừa phủi bông tuyết trên vai và trán dùm nàng, vừa hỏi:

- Tuyết lớn thế này, mới sáng sớm nàng đến làm gì?

Hàn Ấu Nương gấp ô lại, phà hơi lên ngón tay đã ửng đỏ vì lạnh, chiếc mũi nhỏ nhắn nhíu lại như sóng gợn mặt hồ mùa xuân, cười ngọt ngào, nói:

- Để đưa cơm nước cho tướng công mà! Thiếp còn luộc hai quả trứng gà đó. Tướng công vất vả việc công, không thể để bụng đói được!

Dương Lăng trách:

- Nàng đó! Ta đã ở sở Dịch thừa rồi còn lo bị đói hay sao?

Đoạn y kéo Ấu Nương, quay đầu nói với Mã Liên Nhi:

- Mã tiểu thư, mau vào trong nhà đi, dưới hiên có gió lùa, cẩn thận kẻo trúng phong hàn đấy!

Mã Ngang tòng quân, muốn chuyển từ dân tịch thành quân tịch bắt buộc phải đến nha huyện đăng ký. Hôm nay tuyết lớn, Mã Liên Nhi định hôm khác hẵng đi, nhưng thấy Ấu Nương muốn ra khỏi nhà, liền đi cùng rồi rẽ vào sở Dịch thừa trước.

Lúc này nhìn người ta có đôi có cặp, tình nồng ý ngọt, Mã Liên Nhi cảm thấy có chút cảm khái trong lòng. Nàng dỡ mũ xuống, vén mái tóc đen tuyền, suôn mượt và mềm mại hơn cả tấm vải sa tanh ra đằng sau, giậm chân rũ tuyết đọng trên ủng, rồi im lặng bước vào trong nhà.

Dương Lăng hối hả ăn cho xong bữa, vừa buông đũa thì tên lính gác cổng liền khập khà khập khiễng bước vào. Thấy phu nhân của vị dịch thừa mới nhậm chức và con gái của người tiền nhiệm đều ở trong phòng, y không dám nán lại lâu, vội lấy phong thư nhận được đêm hôm qua ra giao cho Dương Lăng, kèm theo một nụ cười, nói:

- Đại nhân, đây là thư đưa đến đêm qua, người mang thư bảo rằng nhất định phải giao cho đại nhân.

Dương Lăng không biết ai lại viết thư cho y, bèn cầm lấy phong thư bóc chỗ dán, nhận ra bên cạnh dấu xi niêm phong ở mặt sau có một hình vẽ quái ngư. Y không khỏi giật mình: "Là mật hàm của Cẩm Y Vệ sao? Những mật hàm mình xem hôm qua đều đã mở sẵn, cho nên không có gì phải sợ. Nhưng mình không phải là người của Cẩm Y Vệ, bây giờ lại tùy tiện mở mật thư của họ ra xem, mong sao đừng xảy ra chuyện gì!"

Thư đã mở, lúc này lo nghĩ này nọ cũng vô ích. Y rút bức thư ra, chỉ hy vọng nội dung là mấy chuyện vặt vãnh nào đó, vậy cho dù bị người ta biết được có lẽ cũng không có gì to tát lắm.

Cẩn thận đọc qua thư một lượt, Dương Lăng liền cảm thấy yên tâm. Trong thư không hề đề cập đến chuyện cơ mật nào, ngược lại nó còn mang đến một chuyện vui có thể công khai. Y vội cất thư vào, hưng phấn nói:

- Hoá ra tên thủ lĩnh phe địch Mẫn đại nhân chém chết đêm trước là vương tử Thát Đát, lần này Mẫn đại nhân lập được đại công rồi!

Y phấn khởi vỗ tay, nói tiếp:

- Giờ ta phải đi báo cho đại nhân một tiếng. Ấu Nương, nàng và Mã tiểu thư hãy chờ ở đây nhé, đợi cho ngớt tuyết rồi hẵng về nhà!

Hàn Ấu Nương ngoan ngoãn gật đầu. Dương Lăng vội vã bước ra ngoài. Mã Liên Nhi nhớ tới một chuyện, đột nhiên lên tiếng:

- Dương huynh, ta đi cùng huynh, hôm qua anh trai ta phải đi gấp, ta muốn đi giúp anh ấy thay đổi dân tịch.

Dương Lăng đương nhiên không thể khước từ, lập tức kêu người của sở Dịch thừa dẫn thêm một con ngựa nữa tới, hai người phi thẳng đến nha huyện. Mẫn huyện lệnh đang nằm trên giường cho lang trung thay thuốc, nghe xong tin tức Dương Lăng mang đến, lão há hốc mồm, to đến nỗi có thể nhét trọn một quả trứng vào. Ngẩn ra hồi lâu, lão đòi kiểm tra lại nội dung thư mấy lượt; rồi như mụ gà mái già đẻ trứng, lão cất tiếng cười "khục khục khục".

Lão vốn lo rằng cười lớn sẽ động vào vết thương cho nên mới nén cười như thế, ai dè càng khiến cho cơ thể run lên bần bật.

Dương Lăng thấy lão cười nhưng phải khổ sở như vậy, bản thân cũng cảm thấy khá khôi hài: "Hoá ra lỗ mãng cũng có chỗ tốt của nó. Có ai biết lão già này chỉ tiện tay vung đao, đã "hái" được công lao to lớn như vậy chứ?"

Đang vui vẻ, bỗng nhiên nụ cười trên mặt của Mẫn đại nhân tắt ngúm, lão nghĩ ngợi một chút rồi biến sắc, nói:

- Không hay! Con trưởng của Bá Nhan Mãnh Khả là một gã tàn phế, nghe nói hắn rất xem trọng nhị vương tử Húc Liệt Bột Tề này. Hôm nay con hắn đã bị ta giết chết, đại quân Thát Đát lại dễ dàng rút lui như vậy, thật sự khả nghi.

- Khi nãy có thông báo, sáng sớm hôm nay quân ta đã dỡ lều truy tìm tung tích quân địch. Nếu như Bá Nhan Mãnh Khả dẫn đại quân đến báo thù cho con trai mình, vậy sẽ cực kỳ không ổn. Phải lập tức cho Hà tham tướng biết chuyện này mới được. Dương sư gia, ngươi hãy mau đuổi theo Hà tham tướng, đem tin tức này báo cho y!

Dương Lăng nghe xong, biết được sự tình khẩn cấp, vội vàng vâng dạ rồi nhanh chóng chạy ra ngoài. Lúc này Mã Liên Nhi đã đổi dân tịch, đang chờ y ở phòng bên tiền sảnh.Thấy Dương Lăng gấp gáp leo lên ngựa, hơn nữa lại có vẻ cấp bách, nàng cũng vội vàng dắt ngựa theo, hỏi:

- Dương huynh, có chuyện gì mà hoảng hốt vậy?

Dương Lăng cao giọng đáp:

- Sáng nay đại quân đã dỡ lều đi truy kích Thát Tử. Kẻ mà Mẫn huyện lệnh chém chết hôm trước không ngờ lại là vương tử Thát Đát, chỉ e quân Thát lui binh chưa hẳn đã là thật. Nếu như bọn chúng mang lòng báo thù, sợ rằng sẽ lấy lùi làm tiến, âm thầm mai phục. Tôi phải đuổi theo Hà tham tướng, đem tin này báo cho ngài biết.

Nói đoạn Dương Lăng liền cưỡi ngựa phóng thẳng ra phía nam thành.

Mã Liên Nhi phóng lên yên, quay ngựa tại chỗ mấy vòng. Nàng nhớ đến ca ca của mình cũng đang ở trong đại quân, nếu thật sự có quân Thát mai phục, liệu có thể sống sót trong đám loạn quân hay không? Rốt cuộc nàng không yên lòng, vụt roi cho ngựa đuổi theo Dương Lăng.

Đại bản doanh bên ngoài thành lúc này chỉ còn một ít binh lính già yếu trông coi. Dương Lăng hỏi ra mới biết đại quân đã xuất phát được một canh giờ, lòng như lửa đốt, y lập tức đuổi theo bằng con đường vốn đã bị đoàn ngựa và xe của đại quân cày nát. Có điều mặt đường ngoại thành không được bằng phẳng thênh thang như đường sá nội thành, Dương Lăng lại mới học cưỡi ngựa, tay cầm cương trong khi miệng thở hồng hộc vì căng thẳng, coi bộ còn mệt hơn cả con ngựa y đang cưỡi.

Đi được hơn một dặm, y chợt nghe thấy tiếng vó ngựa vang lên từ phía sau, quay đầu lại thì thấy Mã Liên Nhi cũng đang thúc ngựa phi nhanh tới. Chiếc áo khoác lông cừu của nàng không biết đã cởi ra từ khi nào, lộ ra bộ đồ màu xanh biếc, thân trên khoác chiếc áo da cáo, dáng vẻ đẹp mê hồn, động tác phóng ngựa phi nước đại càng thêm ưu mỹ vô cùng.

Khi ngựa của nàng phi đến bên cạnh, Dương Lăng vội nói:

- Liên Nhi tiểu thư, sao cô lại đến đây? Cũng tốt, cô giỏi cưỡi ngựa, hãy mau đuổi theo đại quân bảo họ ngừng truy bắt, đề phòng bất trắc!

Mã Liên Nhi khẽ cau mày, đáp:

- Việc hành quân của quân đội há lại để một phụ nữ như ta xen vào sao? Huynh có mang theo bức mật thư đó không?

Dương Lăng vỗ trán, thốt:

- Thôi chết, tôi để quên nó ở chỗ Mẫn đại nhân rồi!

Nghe xong Mã Liên Nhi lạnh nhạt hứ một tiếng, đột nhiên đưa tay ấn xuống lưng ngựa, eo nàng ưỡn lên, nhún người đứng thẳng trên lưng ngựa. Ngựa vẫn đang phóng băng băng, phải khen thuật cưỡi ngựa của vị cô nương này quả thật rất cao. Nàng nói với Dương Lăng:

- Thả dây cương ra, để ta xử lý!

Dương Lăng ngỡ ngàng buông dây cương, không hiểu nàng sẽ điều khiển như thế nào. Chỉ thấy hai thớt ngựa sóng đôi, Mã Liên Nhi nhún người nhảy lên, nhẹ nhàng khéo léo đáp xuống trước người Dương Lăng, đế giày thúc về phía sau, ra lệnh:

- Nhường bàn đạp ngựa cho ta!

Dương Lăng rút hai chân ra khỏi bàn đạp, chỉ cảm thấy thân thể chênh vênh, vội cuống cuồng ôm lấy chiếc eo thon của Mã Liên Nhi. Đột nhiên bị đàn ông ôm eo, mặc dù sớm có chuẩn bị, song Mã Liên Nhi vẫn thoáng sững người, cơ bụng căng cứng lại.

Nàng hít sâu một hơi, cố làm ra vẻ tự nhiên, cầm dây cương lên, nói:

- Ôm chặt vào, ta sẽ đưa huynh đi gặp Hà tham tướng!

Mã Liên Nhi vốn lớn lên tại vùng biên thùy, tài cưỡi ngựa rất cao. Hiện giờ cơ thể cả hai lại rất nhẹ, cộng lại còn chưa bằng một giáp sĩ, hai người một ngựa chở đôi chẳng những không hề ảnh hưởng đến tốc độ; ngược lại dưới kỹ thuật cao siêu của nàng, ngựa phi càng nhanh càng vững.

Lúc này đại quân của Hà tham tướng đã tiến vào Ngoạ Hổ sơn. Thám tử được phái đi tối qua, sáng nay đã mang tin trở về: Quân Thát đã vơ vét sạch trâu, dê, xe ngựa của Nhị Lý bán và Ngũ Lý phố rồi phái người vận chuyển về biên ngoại. Nhưng địch quân vẫn chưa rút lui, sau khi thất bại ở Kê Minh, bọn chúng rút về thủ ở Du Mộc đồn, phân ra nhiều tốp lính nhỏ cướp bóc ở những thôn trấn lân cận.

Nhận được tin báo chuẩn xác, Hà tham tướng vui mừng khôn xiết. Dù gì phía trước chỉ có một con đường độc đạo dẫn đến Kê Minh, y không sợ bị đối phương mai phục, nên mới dốc toàn bộ năm đại đội mạo hiểm vượt tuyết đuổi theo, muốn giáng cho quân Thát một cuộc tập kích bất ngờ.

Dựa theo lời của Diệp ngự sử, nhờ trận tuyết lớn, quân Thát tuyệt đối không đoán được quân ta sẽ bất ngờ tấn công. Năm xưa Lý Tố nhân đêm tuyết mịt mù tiến vào Thái châu, lập được chiến công lẫy lừng*. Lần này y đột kích, diệt sạch địch quân, cũng có thể được lưu danh sử sách, sánh kịp cổ nhân.

Đại quân đã đi được được sáu dặm, đang tiến vào Hồ Lô cốc. Sơn cốc này hai bên vách là núi cao kéo dài, chính giữa tạo thành một sơn cốc hình hồ lô. Hà tham tướng tuy nóng lòng lập công, nhưng cũng không phải là một tướng lĩnh non nớt, vẫn chưa bị công danh lợi lộc làm cho u mê, lập tức ra lệnh cho đại quân tạm thời dừng lại, phái thám mã đi dò xét phía trước.

Diệp ngự sử thấy Hà tham tướng không thúc quân tiến tới, liền giục ngựa lên, chỉ roi về sơn cốc phía trước, nói:

- Đại nhân, hẻm núi phía trước sườn núi hai mặt không dốc, hai bên cách đỉnh núi tới mấy trăm trượng, trên núi lại không gì che lấp, căn bản không thể giấu phục binh. Nếu như quân Thát đặt mai phục trên đỉnh núi, với khoảng cách xa như vậy, cung tên kiếm kích sẽ không thể uy hiếp được đại quân ta. Có cái dốc thoai thoải dài mấy trăm trượng này, cây và đá (không chắc, giữ nguyên bản biên dịch) cũng khó mà phát huy được tác dụng. Đại nhân chớ nên lo lắng!

Lưu công công ở trong kiệu nhoài người ra quan sát chung quanh, nói:

- Ừm, tuy là tôi đây không biết việc binh, nhưng thấy trên ngọn núi này trụi lủi, quả thật không thể giấu người. Hai bên có dãy núi bao quanh, Quân Thát hoàn toàn không có khả năng đánh phủ đầu hay tập hậu chúng ta. Vả lại số lượng quân Thát kém hơn chúng ta, sao có thể lấy ít chọi nhiều chứ? Chúng ta có thể tuyệt đối yên tâm tiến về phía trước đấy!

Hà tham tướng mỉm cười, nói:

- Ha ha, hai vị giám quân nói chí phải. Bổn tướng chẳng qua lo sơn cốc này chật hẹp, quân ta phải chuyển đội hình thành một hàng dài, trước và sau không phối hợp tốt được; lỡ như quân Thát bố trí mai phục ở phía trước, binh mã ở phía sau sẽ khó bề chi viện, thành ra không thể phát huy ưu thế về quân số, tất sẽ chịu nhiều thương vong hơn. Tạm thời cứ chờ thám thính rõ ràng tình hình quân địch rồi hãy quyết định cũng không muộn.

Qua độ nửa giờ, bốn tay thám mã lần lượt trở về, báo rằng phía trước không thấy địch quân, trên lớp tuyết trong sơn cốc cũng không thấy dấu vết do ngựa, xe giẫm lên. Nên biết hiện giờ tuy tuyết rơi dày, nhưng nếu có đại đội nhân mã hành quân, cũng không thể nào che giấu hết mọi vết tích như vậy. Hà tham tướng nghe xong liền cảm thấy yên tâm, lập tức truyền quân lệnh xuống, yêu cầu toàn quân trước và sau gia tăng tốc độ, nhanh chóng vượt qua sơn cốc, nhằm hướng Du Mộc đồn thẳng tiến.

Năm ngàn binh lính tuân theo hiệu lệnh, liền tiếp tục lên đường. Đội ngũ trùng trùng điệp điệp, giống như một con rồng dài trong dãy núi tuyết. Hạ đô ty Hạ Sĩ Kiệt dẫn quân chủ lực đi đầu, vừa vượt qua đoạn cuối của Hồ Lô cốc. Ngay khi sắp sửa ra khỏi sơn cốc, đột nhiên cửa cốc phía trước vang lên tiếng trống trận "tùng tùng tùng" như sấm nổ, cờ xí phất lên ngợp trời. Cùng lúc này, hai bên sườn núi nổi lên vô số tiếng gõ mõ, trong khoảnh khắc trên sườn núi trắng xoá bỗng hiện ra vô số bóng người, loạn tiễn bắn xuống như mưa, đuôi tên rợp trời, trông dày đặc như một trận bão tuyết.

(*): Lý Tố (hay Lý Sách) (773 - 821) là đại tướng nhà Đường, tự là Nguyên Trực, người Lâm Đàm Thao châu (giờ thuộc Cam Túc), con của Lý Thành, am hiểu binh thư, giỏi bắn cung cưỡi ngựa. Ban đầu ông nhậm chức Thứ sử hai châu Phường, Tấn. Năm Nguyên Hoà thứ mười một (năm 816 TCN), ông nhận chức Tiết độ sứ Đường, Tuỳ, Đặng, lĩnh binh thảo phạt quân phiến loạn của Ngô Nguyên Tế. Ông sở trường về quan sát tình thế, lựa chọn thời cơ. Mùa đông năm sau, thừa lúc địch quân lơi lỏng, nhân đêm tuyết ông dẫn quân đánh chiếm Thái châu, bắt sống Ngô Nguyên Tế, được trao chức Sơn Nam Đông Đạo Tiết độ sứ, phong tước Lương quốc công.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 36: Cướp đường mà chạy

Bọn giặc Thát đứng trên cao bắn ra một trận mưa tên dày đặc, khiến quân Minh tử thương rất nhiều. Cũng may đội quân của Hà tham tướng rất dày dạn kinh nghiệm trận mạc, sau một hồi hoảng loạn liền nghe theo mệnh lệnh lập ra xa trận, đưa chiến xa ra hai bên dựng thành các vách chắn, giống như một thành lũy nhân tạo.

Những quân lính cầm khiên cao bằng thân người cũng kết hợp với nhau ghép thành những tấm lá chắn bảo vệ hai cánh. Chờ đến khi đội hình phòng ngự được lập xong, quân Minh mười phần đã chết mất một phần. Diệp ngự sử vội vàng nhảy xuống ngựa, chui vào xe của Lưu công công, run giọng:

- Nhìn xung quanh trống không thế này, Thát tử từ đâu chui ra thế?

Trên nóc và hai bên thành xe đều được làm từ gỗ dày, vốn không sợ tên bắn thủng. Nhưng nghe tiếng tên cắm vào thân xe không ngừng vang lên, Diệp ngự sử không khỏi lo sợ trong lòng. Lưu công công vốn là thái giám, nhưng lá gan lại to hơn Diệp ngự sử khá nhiều, tuy nhiên cũng không tránh khỏi việc cơ mặt giật giật, đa phần do sự căng thẳng tột độ khi lần đầu tiên phải trải qua cảnh chiến tranh khốc liệt thế này.

Hai bên vách núi bằng phẳng, trụi lủi, một lớp tuyết trắng xóa phủ dài từ chân đến đỉnh, căn bản không phù hợp để giấu phục binh. Nhưng lúc này trên sườn núi bọn Thát Đát lại mặc đủ thứ trang phục chạy qua chạy lại bắn tên, làm địa hình xáo trộn lên, nhờ đó quân Minh mới hiểu ra được điều bí mật phía sau đợt phục kích.

Vốn trên hai sườn núi, mỗi bên có xây một dãy tường cao hơn nửa thân người, vách tường đâm xéo lên trên, lại được thiên nhiên ngụy trang bằng một lớp tuyết dày. Theo góc nhìn từ dưới lên, quân Minh chỉ thấy một vách núi thẳng tắp kéo dài lên tận đỉnh.

Người Mông sống tại vùng thảo nguyên và sa mạc, di chuyển theo nguồn nước, sinh sống theo lối du mục, từ lâu đã phát minh ra một cách dựng thành trì đơn giản. Trong những cơn gió lạnh ào ào của mùa đông, họ dùng cỏ và những cành cây khô đặt quanh khu lều trại, sau đó rưới nước lạnh lên cho đông thành một bức tường chắn gió rét. Bọn giặc Thát nhân ban đêm đã âm thầm đào hố đun nước, rồi dùng các dụng cụ có sẵn để xây hai bức tường thành trên hai vách núi, chỉ mất chưa tới một đêm đã xong.

Bá Nhan Mãnh Khả biết tin quý tử chết thảm liền lập tức hạ lệnh rút lui. Hắn dẫn quân đi suốt ngày đêm tới Du Mộc truân (truân là ngọn núi nhỏ); sau khi hợp quân với Bác Đạt Nhĩ Mô, binh lực đã vượt qua quân Minh, nên hắn mới dám bỏ ngựa chuyển thành bộ binh giao chiến với quân của Hà tham tướng.

Hiện giờ quân Minh ở Trác Lộc và huyện Xích đã tạo thế gọng kìm vây chặt từ hai bên cánh. Bá Nhan Mãnh Khả dùng kế này mục đích dồn sức đánh một trận diệt hết quân Minh ở Hoài Lai, báo thù cho con, sau đó tiếp tục lui quân.

Hà tham tướng ổn định lại hàng ngũ một chút rồi lập tức hô lớn:

- Phất cờ hiệu, ra lệnh cho Hạ Sĩ Kiệt cố thủ phía trước, Vương Thừa Hiến đem quân tấn công hai bên sườn, nhất định phải phá được một khe hở. Lệnh cho Tôn Đại Trung, Tất Xuân chuyển hậu đội thành tiền đội, nhanh chóng lui về sau. Trịnh Nhất Ngạc chỉ huy trung quân!

Vương Thừa Hiến ra lệnh cho cung thủ bắn tên kiềm chế quân địch ở hai cánh, tự mình dẫn lính cầm đao khiên và giáo dài công phá hai sườn núi để đại quân có thời gian rút lui. Đại tướng Bác Đạt Nhĩ Mô đang chỉ huy quân Thát, mắt thấy phe địch nhanh chóng ổn định thế trận, giờ đã bắt đầu phản công, hắn lập tức hạ lệnh:

- Bắn chết tên vẫy cờ hiệu trong quân Minh, giết chết chiến mã, không được để chúng thiết lập đội hình!

Mệnh lệnh vừa phát ra, một làn mưa tên đã được trút xuống. Tên lính vẫy cờ hiệu bị tên cắm như con nhím, chết ngay tại chỗ, đồng thời có vô số chiến mã thụ thương, đau đớn hí lên, chạy loạn xạ trong sơn cốc. Quân Minh bị chính ngựa của mình dày xéo, thế trận lập tức đại loạn, không cách nào phản công được.

Vương đô ti bất chấp mưa tên, cố gắng dẫn nhân mã của mình tấn công vách núi bên phải. Chỗ này vốn không cao lắm, nếu khống chế được điểm chiến lược này, quân Minh có thể bố trí cung thủ áp chế ngược lại bọn Thát tử, có khả năng lập tức ổn định được tình hình, nếu không đại quân co cụm trong sơn cốc đành bó tay chờ chết.

Hắn tự mình cầm đao ứng chiến, quân Minh khắp nơi như con thú bị vây khốn, liều mạng phát động hàng loạt các đợt tấn công lên sườn núi. Từng thi thể ngã xuống, không ai kịp khóc thương cho người chết, thậm chí chẳng ai buồn chú ý người ngã dưới chân mình là ai. Trên chiến trường khốc liệt này, cái chết đã trở thành chuyện cơm bữa, cho dù người có tình cảm đến đâu cũng trở thành chai lì như gỗ đá.

Dưới sự chỉ huy của các Thập trưởng và Tiêu trưởng, quân Minh lũ lượt xông lên, giẫm đạp thi thể các đồng đội để tìm lấy cơ hội sống còn. Bọn Thát tử trên sườn núi, với lợi thế địa hình và tiễn thuật siêu việt, mỗi mũi tên bắn ra đều chí mạng.

Diệp ngự sử nấp trong xe run rẩy thét:

- Hà đại nhân, Hà đại nhân! Giặc Thát đã sớm sắp đặt mai phục, mau mau rút lui đi thôi!

Hà tham tướng cầm cây Nhạn linh đao, mặt mày xanh lè, đáp:

- Ta đã phái người thông báo cho Tất Xuân rồi. Hẻm núi này chật chội, không thích hợp cho quân ta tập kết, nếu hậu quân không chịu lui, chúng ta không cách nào xông ra được!

Diệp ngự sử tức giận nói:

- Đại quân trúng mai phục trong khi Tất Xuân còn chưa có động tĩnh gì. Bọn ta sắp chết ráo đến nơi rồi! Ta thề sẽ tố cáo hắn cái tội làm lỡ cơ hội giết giặc! Hà đại nhân, ta phải đến hậu trận đốc chiến!

Hà tham tướng đang bận chỉ huy đại quân, dĩ nhiên không có kiên nhẫn nghe họ Diệp lải nhải. Lão nghe thấy hắn bảo muốn đi đến chỗ Tất Xuân, tránh được chuyện y hoa tay múa chân làm rối chuyện ở đây bèn lập tức lệnh cho hai mươi lính cầm khiên hộ tống hắn và Lưu công công rời đi. Một thư sinh, một thái giám - hai vị chỉ huy tối cao - lập tức lảo đảo chạy về phía hậu doanh.

Sơn cốc dưới núi Ngọa Hổ này có hình như trái hồ lô, miệng cốc hướng về phía trạm Kê Minh. Đại quân của Tất Xuân vừa tiến vào cốc, Dương Lăng và Mã Liên Nhi đã thúc ngựa đuổi kịp. Nghe Dương Lăng kể lại tình hình, Tất Xuân cũng nhận ra chuyện đã trở nên quá nghiêm trọng, vừa định dẫn y đi gặp Hà tham tướng thì giặc Thát đã phát động thế công.

Được một làn mưa tên yểm trợ, giặc Thát từ chỗ ẩn nấp trên sườn núi tràn xuống miệng cốc, cắt đứt đường lui của quân Minh. Cửa cốc vốn chật hẹp, chỉ cần mấy chục cung thủ không ngừng bắn tên, cho dù thiên quân vạn mã cũng đừng mong xông ra nổi.

Quân Thát ở sơn cốc chỉ muốn ngăn cản quân Minh thoát ra nên không công kích mà chỉ lo canh giữ chỗ quan trọng này. Mỗi tên giặc Thát mang trên lưng ít nhất bốn ống tên, trong khi Nam quân của Tất Xuân chủ lực là đao thuẫn thủ và hỏa thương thủ (lính bắn súng), căn bản không cách nào chống lại được bọn giặc Thát dũng mãnh thiện chiến, lấy một địch mười, lại chiếm được địa điểm chiến lược này.

Chỉ trong phút chốc, ngoài cốc đã la liệt trên trăm thi thể quân Minh. Mã Liên Nhi lần đầu tiên nhìn thấy cảnh máu chảy đầu rơi khốc liệt thế này, sắc mặt liền trắng bệch, còn Dương Lăng từng trải qua trận chiến thủ thành, tâm lý đã có sức chịu đựng nhất định. Y kéo nàng nấp vào giữa hai thùng xe, nhờ thế mới tránh khỏi tên bay đạn lạc.

Đòn phản công của quân Minh đã lập tức bị cung tiễn của giặc Thát cản lại, từng thi thể gục xuống giữa miệng cốc chật hẹp. Quân Minh vừa phải tranh đoạt lối thoát duy nhất với đối phương, vừa phải ứng phó với mưa tên ào ào từ phía trên, nên thương vong không ngừng gia tăng.

Dương Lăng chú ý thấy phe mình đã hết sức hỗn loạn, căn bản không thể tạo ra sư uy hiếp lên phe địch. Phải công nhận tướng chỉ huy của quân Minh vô cùng dũng cảm, ai cũng đều liều mình xông pha nơi tiền trận, nhưng tóm lại mấy gã đó chỉ biết khoe khoang cái dũng mãnh cá nhân, tuyệt đối không biết bày binh bố trận một cách có hiệu quả.

Nói thẳng ra, nếu để bọn họ ở nơi đất bằng, nghe theo chỉ huy của cấp trên để lập trận thì còn mong ra dáng ra vẻ một chút; nhưng một khi phát sinh hỗn chiến như vầy, mệnh lệnh của thượng cấp không thể bao quát toàn quân, đám quan quân cấp thấp vô học kia chỉ biết dấn thân lên trước quân lính, vung đao đốc chiến, không hề biết cách phối hợp cái loại binh chủng sao cho hiệu quả.

Dương Lăng thấy tình hình của quân như vậy, lưng liền ướt đẫm mồ hôi. Mã Liên Nhi lại đang lo lắng cho sự an nguy của anh mình, nhưng khi thấy hắn đứng làm tùy tùng cho Tất đô ti nàng mới yên tâm được.

Chính vào lúc này, Diệp ngự sử và Lưu công công nhếch nhác chạy tới. Diệp ngự sử đang muốn trách móc Tất đô ti về việc không phá nổi vòng vây, bỗng nhìn thấy một cô gái mặc áo màu lục đứng gần đó, tưởng rằng Tất đô ti còn mang theo gia quyến đi hành quân, trong lòng không khỏi nổi cơn đại nộ.

Tất đô ti thấy giặc Thát trong cốc dựa vào địa thế hiểm yếu để phòng thủ, phe ta khó có thể công phá nhanh chóng; y định ra lệnh chuyển sang tấn công quân địch trên sườn núi, rồi từ trên dùng uy lực của súng ống áp chế bọn giặc Thát ở cửa sơn cốc. Nhưng theo suy nghĩ của Diệp ngự sử và Lưu công công, nhất định phải đánh phá cửa sơn cốc mới có đường sống, nếu chờ Tất Xuân tấn công lên sườn núi rồi mới quay lại chiếm lại cửa cốc, chỉ sợ lúc đó toàn quân đã bị tiêu diệt sạch rồi.

Hai người bèn thống nhất lấy thân phận Giám quân lệnh cho Tất đô ti bằng bất cứ giá nào phải mở được một lối ra. Tất đô ti đành hậm hực hạ lệnh thôi tấn công sang hai bên, chỉ lo điều động binh lực ra sức công kích cửa cốc. Hắn giận tới mức mặt vồng gân xanh, ra lệnh:

- Kỳ bả tổng, Lư bả tổng, tập trung hỏa lực vào cửa cốc, chỉ được tiến, không được phép lùi, nhất định phải mở ra một con đường máu!

Hắn lại quát bảo đội trưởng đội thân binh:

- Quan Thụ Anh ra trước trận đốc chiến, một người lui chém một người, toàn đội lui chém đội trưởng, đội trưởng hi sinh mà toàn đội lui, giết sạch không cần bàn!

Quân lệnh như sơn, hai vị Bả tổng cũng biết đây là thời điểm ngàn cân treo sợi tóc, đành phải hạ lệnh cho quân mình đội mưa tên toàn lực đánh về hướng cửa cốc. Phía trước tên bắn như rợp trời, sườn núi hai bên tuy có hỏa lực của quân Minh áp chế nhưng tên vẫn bắn ra không ngớt, rất nhiều binh sĩ mới vừa xông ra ngoài đã bị tên ghim đầy người, máu nhuộm lênh láng.

Hỏa thương thủ xông đến vừa tầm ngắm liền bắn ra một loạt, tuy cũng giết chết rất nhiều quân Thát, nhưng đao thuẫn thủ phía sau chậm chạp không xông lên kịp, thành ra giặc Thát có dịp bắn trả một lượt, một lần nữa phong tỏa cửa sơn cốc.

Dương Lăng nhìn sang cỗ xe nặng chịch nằm dưới đất, lại liếc thấy một xác ngựa trên đất, liền nghĩ ra một biện pháp, lập tức la lớn:

- Tất đại nhân, điều khiển ngựa làm khiên thịt, đại quân đi sau ngựa, chắc chắn có thể mở ra một đường sống!

Lưu công công, Diệp ngự sử nghe được vô cùng mừng rỡ, lập tức ra lệnh cho Tất Xuân làm theo. Phải biết thời bấy giờ chiến mã có giá tới gần bốn trăm quan một con, trong khi quân Minh trước nay lại khan hiếm chiến mã, cho nên tướng sĩ chưa từng nghĩ tới chuyện dùng chiến mã làm lá chắn. Nhưng lúc này đại quân đang lâm nguy, làm sao lo cho ngựa được nữa. Họ lập tức tập trung những chiến mã còn lại ra trước trận, được đại khái hơn bốn mươi con, hỏa thương thủ liền lấy thuốc súng rắc lên đuôi ngựa, sau đó châm lửa dốt. Chiến mã bị cái nóng làm đau, tức thì hí lên điên cuồng, phi nước đại về phía trước.

Hất Lâm Đạt Đạt đang dẫn quân giữ cửa cốc bỗng thấy mấy chục con ngựa đang điên cuồng phi nước đại tới, tiếng vó ngựa vang rền, bèn kinh hoảng ra lệnh cho quân sĩ bắn tên. Một loạt tên bắn ra, nhưng sinh lực của ngựa dẫu sao cũng mạnh hơn con người, nên chỉ có vài con hí thảm ngã xuống, còn đại đa số vẫn mang tên mà chạy, phá tan đội hình của giặc Thát, điên loạn chạy ra khỏi cốc. Có mấy tên lính Thát không kịp lui liền bị ngựa giày xéo nát bét như cám, đến mức la cũng không kịp.

Nhân cơ hội này, Tất đô ti chỉ huy đại quân đội mưa tên xông thẳng ra ngoài, Hất Lâm Đạt Đạt lập tức dẫn hơn bốn trăm tên giặc Thát còn lại đón đánh. Cửa sơn cốc vốn chật hẹp, chỉ cần khoảng hai trăm người đã bịt kín hoàn toàn, hai phe trộn lẫn vào nhau đánh xáp lá cà.

*: Một đơn vị trong biên chế quân đội thời cổ, tiêu chuẩn các thời khác nhau, không rõ thời Minh là bao nhiêu

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 37: Lằn ranh sống chết

"Chíu...!" Dây cung ngân lên, rít những tiếng ghê người, hơn trăm đốm sáng bắn về phía trước. Lúc này đã còn không thấy rõ vẻ mặt của từng binh sĩ, cả đoàn quân Minh đang như nước lũ phá đê hơi dừng lại một chút, phía trước đồng loạt ngã xuống cả dãy. Nhưng đây đã là đợt tên cuối cùng mà bọn Thát tử có thể bắn ra.

Quân Minh được thôi thúc bởi ý chí cầu sinh cực lớn, thế nên dù không ai đánh trống trận hay phát lệnh xung phong, nhưng mọi người vẫn không có cách nào dừng chân lại được. Bởi lẽ người trước chỉ hơi dừng lại một chút là lập tức bị người phía sau đẩy phải tiếp tục chạy lên, hết lớp này đến lớp khác, tựa như sóng biển lớp sau đè lớp trước.

Bọn giặc Thát chắn ở cửa sơn cốc giống như tảng đá ngầm trong cơn sóng lớn, đao bén hung hãn cắt lên thân thể quân Minh, làn sóng đang tràn tới kia bắn tung bọt nước, những bọt nước màu đỏ tươi.

Trên sườn núi, các cung thủ của giặc Thát đã không còn cách nào áp chế được quân Minh, bởi vì lúc này người của hai phe đã chen lẫn vào nhau, mắc kẹt ở cửa sơn cốc, đang liều chết đánh xáp lá cà. Bọn chúng chỉ còn cách quẳng cung tên xuống, cầm lấy đao thương, từ chỗ nấp hai bên sườn núi xông xuống chém giết giữa đám quân Minh.

Liền đó, dưới sự chỉ huy của các tướng tá, những binh sĩ vốn chỉ có thể chen chúc phía sau bị động chịu đòn đã bắt đầu xông ngược lên trên sườn núi, thọc sâu chém giết về phía sau, một chỗ hở được mở ra. Tựa như dãy domino bị ngã, cả vòng vây hoàn mĩ liền mất đi tác dụng khiến giặc Thát chỉ đành lao xuống chém giết.

Trên hai khoảnh đất bằng phẳng hình bán nguyệt của Hồ Lô cốc đồng thời diễn ra cuộc chiến xáp lá cà. Mà nơi hai đường mòn sơn cốc chật hẹp thì người chen người, người lấn người, ai ai cũng muốn cuồng chân chạy nhanh về phía lối ra, nhưng đều bị dòng người cuốn lấy, lôi chầm chậm mà hung hãn về phía trước, gần như chân không chạm đất.

Mùi máu tanh lan trong không khí lạnh lẽo, tuyết lớn vẫn tung bay. Tiếng kim loại ma sát làm người ta cảm thấy ghê răng, tiếng kim loại đâm vào thịt khiến người ta cảm thấy run rẩy, hai âm thanh ấy cứ thay nhau vang lên. Máu thịt trong mưa tuyết tạo thành một bức tranh đẹp đến thê lương.

Phía sau người lúc nhúc, nhưng các binh sĩ có thể chiến đấu ở phía trước lại không quá trăm người. Ở cả hai bên, người phía trước vừa tử thương thì lập tức có người phía sau hăng hái xông lên thế chỗ. Nơi quân hai bên giao chiến dần dần bị xác người và máu tươi chồng chất lên nhau thành một đường ranh giới.

Trong đám thi thể trên mặt đất liên tục có những binh sĩ ôm nhau vật lộn, những người xông lên tiếp theo căn bản không có thời gian phân biệt địch ta, cũng chẳng hở chút thời gian để giúp đỡ nên cứ thế đạp lên thân thể và máu tươi của họ, và lúc ấy lớp quân địch mới cũng đã hùng hổ lao đến.

Khung cảnh tráng lệ của vạn quân quần nhau đã bắt đầu. Đây là một trận đánh hỗn loạn thực sự, lính không thấy tướng, tướng không thấy lính. Mỗi người đều nắm chặt binh khí trong tay, chăm chăm tìm kiếm một đôi mắt thù địch, để rồi rống lớn xông lên.

Trước sau trái phải đều là đao thương kiếm kích, thỉnh thoảng còn có tên bắn lén bay qua. Lúc này mạng người tuyệt đối bình đẳng, một tướng lĩnh chỉ huy ngàn quân cũng có thể bị một tên lính quèn nhất đâm chết. Võ công kỹ xảo gì cũng không dùng được, căn bản đến chỗ tránh né cũng chẳng có, chỉ là chặt chặt chặt, giết giết giết! Sơn cốc lúc này như nồi nước đang sôi, thứ nước đỏ rực màu máu, mà chỗ thoát duy nhất chính là cửa sơn cốc, vị trí mấy người bọn Dương Lăng đang đứng.

Bộ hạ của Hất Lâm Đạt Đạt đều là những kẻ dũng mãnh giết người không chớp mắt, nhưng sức ép tìm chỗ thoát của dòng "nước lũ" thật quá lớn, mạng chúng liên tiếp bị đối phương lấy đi, mở cửa sơn cốc chỉ còn là vấn đề thời gian.

Những binh sĩ cầm khiên bảo vệ Diệp ngự sử và Lưu công công tay nắm đoản đao, cố gắng hết sức vây quanh hai lão di động về phía cửa sơn cốc. Nhưng dòng người chen chúc quá chật chội, Diệp ngự sử chỉ lảo đảo ngã xuống đất một cái là lập tức bị vô số đôi chân đạp lên, của giặc Thát có, của những sĩ tốt mà hắn vẫn xem là cấp thấp cũng có.

Không ai có thời gian nhìn xem đám thịt mình giẫm dưới chân là của một sĩ tốt quèn hay là của một đại nhân cao quý. Đao thương đoạt mạng đang múa may trước mắt, bản năng duy nhất còn lại là vung vũ khí để tìm đường sống.

Hai binh sĩ bảo vệ muốn nâng hắn dậy nhưng mới vừa cúi xuống liền bị làn sóng người không thể kháng cự cuốn ngã và hàng loạt đôi chân giẫm lên. Điều này khiến lòng dạ những binh sĩ khác trở nên cứng rắn hơn, không ai nhìn lại một lần nào nữa. Cả dòng người bất luận địch ta đều bị một sức mạnh to lớn ép di chuyển về phía cửa sơn cốc một cách không thể tự chủ.

Dương Lăng đã trở nên ngây ngốc. Trong loạn quân kiểu này, cá nhân dù thần dũng đến đâu cũng chẳng ăn thua gì, huống chi thể lực y chẳng bằng một tên lính quèn, phản ứng bản năng của y chỉ là chỗ nào ít người thì chen tới đó. Trong bóng đao kiếm cùng tiếng thét gào chém giết không dứt thì trách nhiệm duy nhất mà y còn nhớ là giữ chặt tay Mã Liên Nhi, nàng đã theo mình tới đây, tuyệt đối không được bỏ trốn một mình.

Ai cũng đều muốn xông ra khỏi cửa sơn cốc, đó mới là đường sống. Nhưng Dương Lăng cũng biết trong đám loạn quân này mình căn bản không có năng lực chạy tới cửa sơn cốc, cho dù không bị giặc Thát giết chết thì thân thể gầy yếu của y cũng sẽ bị người ta chen ngã thành một đống thịt vụn thôi.

Dương Lăng kéo Mã Liên Nhi đang đờ đẫn thoát khỏi dòng lũ đó, chạy lên sườn núi. Phạm vi chém giết ngày càng mở rộng bởi sự phản công của quân Minh nên hai người chỉ có nước chạy lên cao hơn.

Giặc Thát phát hiện trên sườn núi có hai người đang đứng, lập tức có kẻ vung đao xông tới, hoàn toàn là phản ứng bản năng muốn tiêu diệt mọi sinh mạng đối địch.

Nhìn thấy quần áo trang sức không giống mình, phản ứng bản năng của chúng chính là chém giết. Hiện giờ người của hai bên đều trở thành những sinh vật khát máu và điên cuồng nhất, đôi tròng mắt đỏ ngầu đã không còn chút lý trí nào, chỉ chăm chăm tìm sinh mạng theo bản năng để mà hủy diệt đi.

Dương Lăng thầm kêu khổ, y bây giờ chỉ còn lại một loại bản năng, đó là chạy trốn. Dòng người trong sơn cốc giống như một dòng sông đang chảy xiết, chen chúc cuốn lẫn nhau, va đập vào nhau, với khí thế ấy, chỉ cần rơi vào trong là sẽ lập tức bị xé thành mảnh vụn nên y chỉ có thể chạy lên chỗ cao hơn.

Dưới sự truy đuổi ráo riết của mấy tên giặc Thát đang kêu những tiếng ồ ồ như dã thú, hai người cố hết sức chạy lên đỉnh núi. Lúc đầu là Dương Lăng kéo Mã Liên Nhi đang sợ hãi kinh hoàng chạy, khi còn cách đỉnh núi hơn hai chục mét thì Dương Lăng đã mệt phờ, bắt đầu được Mã Liên Nhi kéo chạy lên trên.

Thân thể đúng là thiếu luyện tập quá rồi, Dương Lăng cảm thấy tim đập thình thịch, hai tai lùng bùng, cơ bắp trên đùi run rẩy, cảm giác đau đớn đến nghẹt thở ấy khiến y gần như muốn buông bỏ việc chạy trốn, thà chịu bị Thát tử chặt đầu còn hơn.

Thế nhưng Mã Liên Nhi rõ ràng không nghĩ thế, tuy cổ họng nàng đã phát ra tiếng thở gấp hoàn toàn không phù hợp với bề ngoài như tiên nữ của mình, nhưng nàng đã thức tỉnh khỏi sự choáng váng do cảnh máu me, bắt đầu dùng hết sức kéo Dương Lăng chạy trốn.

Nếu lúc này có người ngồi ở không gian khác nhìn bọn họ, nhất định sẽ cho rằng đang coi phim chiếu chậm. Trong gió tuyết tung bay, phía trước một nam một nữ chầm chậm cất bước, phía sau mấy kẻ như hung thần ác sát cầm đao rõ ràng chỉ cần chạy mấy bước là có thể đuổi kịp, nhưng vẫn cứ chậm chạp bước đi, trợn trừng đôi mắt như muốn ăn tươi nuốt sống người ta, cặm cụi đuổi theo.

Hai người cuối cùng cũng lên tới đỉnh núi, Mã Liên Nhi vừa nhìn thấy tình hình trước mắt thì không khỏi thầm giật mình sợ hãi, tia hy vọng chạy thoát cuối cùng đã tan tành. Đỉnh núi chật hẹp, sường dốc gần bảy mươi độ, căn bản không có đường nào để chạy. Tuyệt vọng buông tay Dương Lăng, nàng quay đầu nhìn bọn giặc Thát đuổi riết không tha, rồi bỗng thò nhanh tay vào ngực rút ra cây trâm vàng mà trước khi phi ngựa khỏi thành nàng đã cất vào ngực, đặt lên yết hầu.

Dương Lăng thở phì phò chỉ tay vào nàng, y thở gấp đến mức không thể nói nổi thành lời. Mã Liên Nhi ngực phập phồng nhìn y, ánh mắt hết sức phức tạp. Liếc sa thấy mấy tên giặc Thát đang cười hung tợn đã gần bò tới đỉnh núi, nàng không nén nổi tiếng cười bi thương. Quay đầu nhìn Dương Lăng một cái thắm thiết, rồi nhắm hai mắt lại, nàng nắm chặt cây trâm đâm mạnh vào yết hầu mình.

Cơ bắp toàn thân Dương Lăng đều run bần bật vì dùng sức quá độ. Đã mệt đến mức không muốn cử động chút nào, nhưng thấy hành động của Mã Liên Nhi, y vẫn cố hết sức lao lên đập cái "bốp" vào tay Mã Liên Nhi, năm ngón tay xước qua gò má nàng.

Mã Liên Nhi bị mũi trâm vạch một vết xước trên cổ nhưng trâm vàng đã bay khỏi tay, dấu năm ngón tay hằn rõ trên mặt. Nàng ngẩn ngơ đứng đó, kinh ngạc nhìn Dương Lăng. Biết nàng sợ bị giặc Thát làm nhục nên mới muốn tự tận, nhưng lúc này y đã vô cùng mệt mỏi, cũng không có thời gian để giải thích nữa rồi. Y thất tha thất thểu nhào tới trước dốc, phía trước tuy không có đường, nhưng muốn chạy trốn thì đó dường như là con đường duy nhất.

Quay lại tay không đánh nhau với mấy chiến binh Mông Cổ dũng mãnh kia ư? Khỏi cần nghĩ cũng biết, bóng đao lướt qua là cái đầu xinh đẹp của y sẽ lập tức lìa khỏi thân. Y đưa mắt xem xét vách núi gần như thẳng đứng khiến người ta chóng mặt. Vừa gấp rút tính toán cơ hội sống, y vừa vẫy tay gọi Mã Liên Nhi, cất giọng khàn khàn: "Qua... khục khục... Qua đây!"

Trong đám giặc Thát đuổi theo đã có hai tên đã leo lên sườn núi. Bọn chúng mới vừa chém giết một hồi lâu trong sơn cốc, thể lực đã hao tổn rất nhiều, bây giờ đuổi một hơi lên núi nên hai tên đều thở dốc như trâu. Thấy địa hình, bọn chúng biết hai người phía trước không có đường chạy nữa nên cũng cảm thấy yên tâm. Chúng chống đao xuống đất thở hồng hộc, giờ cũng cần phải khôi phục sức lực để vung đao chém người.

Hai tên giặc Thát đưa ánh mắt hung ác đánh giá một nam một nữ trước mặt, vẻ tàn bạo hung dữ trong mắt dần dần mất đi, bắt đầu thay bằng ánh mắt dâm tà. Hai đôi mắt đầy dục vọng như muốn lột sạch quần áo của Mã Liên Nhi, sức lực đã mất bắt đầu khôi phục lại rất nhanh vì bản năng của giống đực.

Lúc cha Mã Liên Nhi làm công tác thu thập tin tình báo cho Cẩm y vệ ở vùng Tái Ngoại, thân phận công khai là một nhà buôn đồ da, thường giao thiệp với các bộ lạc Thát Đát. Mã Liên Nhi từ nhỏ đã từng nghe nói giữa các bộ lạc Thát Đát, vì tranh chấp thảo nguyên tươi tốt mà không ngừng nổ ra chiến tranh, vợ con của phe bị thua phải làm nữ nô chịu đủ thứ lăng nhục. Nữ nhân rơi vào trong tay loại người dã man này thì giá trị không bằng một con gia súc, kết quả so với rơi xuống địa ngục quả thật còn thảm hơn.

Mã Liên Nhi thấy thân hình hai tên giặc Thát ấy bề ngang bề dọc to bè như nhau, vẻ ngoài chẳng khác d nhân là mấy, mắt bừng bừng lửa dục thì không khỏi giật mình run rẩy, khắp người lạnh buốt tới xương. Lựa chọn duy nhất của nàng chính là chạy theo Dương Lăng, trong lòng chỉ nghĩ: "Thôi, không thể giữ vẹn thi thể, đành nhảy xuống núi cho dã thú lấp bụng vậy, thế cũng hơn là bị người giày vò tới chết."

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 38: Đêm dài đằng đẵng

Dương Lăng ôm Mã Liên Nhi nhảy xuống sườn núi phủ đầy tuyết. Tuyết đọng ở bên này ít bị ánh nắng mặt trời chiếu phải nên mặt ngoài đã đông cứng thành lớp băng trong suốt. Hai người nương theo lực quán tính bắt đầu trượt xuống sườn dốc đứng. Mã Liên Nhi theo bản năng hét lên một tiếng chói tai, ôm chặt lấy cổ Dương Lăng.

Tiếng gió không ngừng vang vun vút bên tai do hai người đang trượt xuống rất nhanh. Vốn Mã Liên Nhi không sợ chết nhưng ở trong cảnh hung hiểm này nàng lại sợ đến hồn phi phách tán, áp sát cả thân hình vào người Dương Lăng, nhắm nghiền hai mắt.

Dương Lăng đã từng chơi trượt cát nên y ước đoán chỉ cần tốt số không bị va quệt vào cọc gỗ, gốc cây thì sẽ còn cơ hội sống sót. Y ôm chặt Mã Liên Nhi, căng thẳng nhìn chăm chăm vào sườn núi phía dưới. Ở bên này không có cây gỗ lớn, những bụi cây thấp nhỏ bị tuyết đọng che phủ và những đám cỏ dại đã cào rách áo của y nhưng không làm tổn thương đến da thịt.

Mắt thấy sắp tới chân núi, với độ dốc như thế và tốc độ lao xuống như hiện tại, bọn họ sẽ bị đập thẳng xuống mặt tuyết như một viên đạn. Dương Lăng đột ngột ngửa mặt lên trên, ngả người ra phía sau chuyển từ ngồi thành nằm, đồng thời cố sức giữ đầu cách mặt tuyết một chút để tránh va vào đá và chạc cây.

Bị bất ngờ, Mã Liên Nhi chúi người về phía trước, môi bập vào miệng Dương Lăng, tạo thành một nụ hôn môi rất chi là không lãng mạn. Cả hai cùng rên lên một tiếng, trong miệng ứa ra vị tanh mằn mặn.

Mã Liên Nhi trợn tròn cặp mắt, cô nàng còn chưa kịp nói gì thì "phịch" một tiếng, tuyết văng tung toé, thân thể của Dương Lăng nện mạnh xuống mặt đất, tiếp tục trượt đi. Chân phải Dương Lăng bỗng đạp phải một gốc cây nhỏ, ngay cùng lúc ấy, chỉ nghe rắc một tiếng, thân thể của hai người liền chuyển hướng, xoay ngang rồi lăn long lóc.

Lăn vòng vòng một hồi mới dừng lại được. Hoàn hồn, Dương Lăng đưa mắt dáo dác nhìn quanh, thấy mình đã lọt vào trong một khu rừng, chếch về phía sau khoảng hơn chục mét là gốc cây bị y đạp gãy khi nãy, hai mét trước mặt chính là một khối đá to phủ một lớp tuyết dày.

Mã Liên Nhi cũng đã bớt căng thẳng, lúc này nàng mới phát giác mình đang nằm trong lòng Dương Lăng với một tư thế hết sức ám muội. Khuôn mặt thanh tú thoáng đỏ bừng, nàng ra sức nện mạnh lên ngực Dương Lăng một quyền. Dương Lăng đang vui mừng vì "thân thể mềm mại" vốn luôn yếu ớt của mình lần này bình an không tổn thương gì, bị cô nàng nện cho một cú mới phát hiện là trên người mình còn có một thân thể mềm mại khác đè lên, y giật nảy mình vội buông tay ra, Mã Liên Nhi đỏ mặt bò dậy.

Dương Lăng dày mặt đứng dậy bước tới trước Mã Liên Nhi, ngẩng đầu nhìn lên đỉnh núi hai người vừa trượt xuống. Lúc này tuyết rơi mờ mịt, trong rừng tầm nhìn không quá trăm bước nên y không thấy rõ được tình hình trên đỉnh.

Tim Mã Liên Nhi đập thình thịch như ngựa chạy, nàng lén đưa mắt nhìn chiếc áo dài của Dương Lăng đã rách bươm, để lộ chiếc quần vải bông màu xanh bên trong, hai miếng bông vải trên mông cũng lộ cả ra, hình dạng cực kỳ thảm hại.

"Y thật dũng cảm! Một thư sinh yếu đuối thế mà dám nhảy từ trên đỉnh núi băng dốc đứng thế này." Nhớ tới lúc lăn xuống núi, y vẫn luôn ôm chặt lấy mình, để mình nằm trên, làm đệm cho mình, Mã Liên Nhi thầm cảm thấy ngọt ngào, trong mắt bất giác dấy lên một tia âu yếm.

Dương Lăng không hề hay biết mình giống như một công đực đang khoe đuôi, có điều là đang nhìn từ phía sau. Y quay lại hào hứng nói với Mã Liên Nhi:

- Giặc Thát không dám nhảy xuống núi như vậy đâu! Chúng ta hãy vào rừng trốn một lúc, tránh sự lùng sục của bọn chúng.

Nhìn cánh rừng bao la heo hút, trong rừng im ắng không vết chim bay, không dấu chân người, Mã Liên Nhi hơi do dự:

- Sườn núi dốc như vậy, chắc bọn chúng sẽ không dám xuống đâu. Nếu chúng ta lạc trong rừng, sẽ bị mắt kẹt lại ở nơi này đó.

Dương Lăng thoáng chau mày, gượng gạo:

- Nếu chỉ một mình tôi, quân Thát chưa chắc sẽ đuổi theo. Nhưng có thêm cô thì khó nói lắm, hay là cứ trốn đi đã.

Mã Liên Nhi bỗng nhướng mày:

- Huynh có ý gì vậy? Chẳng lẽ tôi là họa... Ư ừm... Vậy chúng ta trốn đi!

Nàng chợt đổi thái độ, ngượng ngập đồng ý.

************************

Dương Lăng vốc một nắm tuyết cho vào miệng, ngậm tan từ từ, đến lúc nước không còn lạnh nữa mới chậm rãi nuốt xuống, đồng thời cẩn thận ngó chung quanh. Mã Liên Nhi cũng nhếch nhác không thể tả, mồ hôi nhễ nhại, thoa lệch tóc rối, vạt váy cùng ống tay áo bị xé thành mấy mảnh rách bươm.

Tuyết đã ngừng rơi, trời bắt đầu chạng vạng tối, ngọn núi trống trơn vắng vẻ, bốn bề mênh mông. Khung cảnh

đối với cặp ăn mày này tựa như trong chốn Dao Trì tiên cảnh vậy. Đá tảng, cây tùng, mặt đất, hết thảy đều được tuyết che phủ, khoác lên mình một bộ áo trắng tinh khôi...

Cảnh sắc rất đẹp, rất nguyên thủy, đủ khiến người ta lưu luyến khó quên, tinh thần vui tươi thanh thản. Có điều, đó là nếu bọn họ không bị lạc đường, và sau lưng không có một con sói bám theo.

Ban đầu hai người chỉ muốn trốn trong rừng một lúc, nhưng khi bọn họ đang loạng choạng bước vào rừng rậm, một con sói đang kiếm mồi bỗng dưng xuất hiện sau lưng bọn họ như ma quỷ. Phản ứng đầu tiên của hai người là chạy trốn, con sói cứ thong thả lững thững theo sau, chờ đợi bọn họ cạn kiệt hết sức lực.

Mã Liên Nhi đã sinh sống trên thảo nguyên nhiều năm, nàng biết không thể cứ tiếp tục chạy như vậy, bằng không sẽ dễ dàng trở thành món ăn trong miệng con sói này. Nàng lượm một cành cây bị tuyết đè gãy ở trên nền đất đầy tuyết, đứng lại đương đầu vói con sói đen to lớn đó.

Dương Lăng thấy nàng không chạy, cũng nhặt một cành cây lên, tham gia vào cuộc chiến. Có lẽ người hiện đại ngay từ nhỏ đã nghe quá nhiều truyện đồng thoại về những con sói xám to đùng, nhưng khi thật sự gặp loài động vật trông không khác mấy so với "chó hoang" này, một người trưởng thành đang cầm cây gậy to sẽ khó mà sinh ra cảm giác sợ hãi chúng.

Mã Liên Nhi biết rõ sự đáng sợ của loài sói, Dương Lăng thì không, mà không biết thì không sợ. Dương "tú tài" hăm hở vung gậy lên, quát to một tiếng, nhắm đầu sói nện mạnh một gậy. Tuy thể trạng y không được tốt, nhưng cú đánh dùng toàn lực này cũng đủ sức đập vỡ sọ một người thân thể tráng kiện.

Cây gậy rắn chắc vừa phang trúng ngay đầu của con sói, Dương Lăng còn chưa kịp cao hứng thì Mã Liên Nhĩ đã thét lớn:

- Cẩn thận!

Rồi nàng vung gậy quét ngang tới.

Bị trúng một gậy nặng nề của Dương Lăng, con sói to lớn lăn ra mặt đất kêu ăng ẳng như chó, rồi trở mình bò dậy, hung tợn nhảy chồm lên lao về phía y.

Dương Lăng giật nẩy mình trước phản ứng mau lẹ của con sói, y đã thấy rõ những chiếc nanh trắng hếu lởm chởm trong miệng nó. May thay chiếc gậy trong tay Mã Liên Nhi mang theo tiếng gió rít cũng đã đánh đến, cây gậy quét mạnh trúng chân sau của con sói. Nó rơi xuống đất tru lên thảm thiết rồi khập khà khập khiễng lủi vào một lùm cây, nhưng vẫn hung hãn nhìn chằm chằm bọn họ không rời.

Hai tay Mã Liên Nhi nắm chặt cây gậy, giải thích với Dương Lăng:

- Xương sọ của sói rất cứng, muốn đánh phải đánh vào chân và lưng của nó. Sói là loài "đầu đồng chân đất, đuôi sắt hông bùn", cứ nhè vào đó mà đánh!

Con sói cũng nhận ra hai sinh vật này không phải là thứ dễ đối phó, nhưng lại vẫn không chịu bỏ đi. Hai người đuổi theo, sói liền bỏ chạy, hai người quay đi, sói lại bám theo. Cứ đánh đánh chạy chạy lòng vòng như vậy cho đến giờ, con sói không biết đã đi đâu, còn hai người cũng đã lạc lối.

Bọn họ bây giờ đã mệt đến nửa bước cũng khó lê nổi. Bên trong quần áo ướt đẫm, mồ hôi trong xiêm áo đã nhanh chóng đóng băng, cái lạnh khiến cả người bọn họ co ro run rẩy. Lúc này đã là buổi hoàng hôn, nếu cứ như vậy qua đêm, hai người không bị sói ăn thì cũng sẽ chết cóng. Thế là dưới sự hướng dẫn của Mã Liên Nhi, Dương Lăng đã học được một chút kỹ năng sinh tồn nơi dã ngoại: đào tuyết làm ổ.

Trong rừng tuyết đọng phủ lên không ít cây cổ thụ cao chọc trời, cổ thụ đổ xuống, ở dưới liền hình thành mấy cái hố. Lòng hố tuy không rộng nhưng có khe hở để có thể hít thở. Dương Lăng khoét rỗng cái hố bị tuyết lấp đầy, chất mấy cành cây khô vào. Hai người cuộn người ngồi vào trong, vừa có thể chống rét, vừa tránh được dã thú.

Màn đêm đã hoàn toàn buông xuống, hai chân của Dương Lăng đã tê cóng. Không biết tự lúc nào Mã Liên Nhi đã cuộn người sát vào Dương Lăng, đầu gục xuống vai y mệt mỏi như muốn ngủ.

- Không được ngủ, chúng ta phải trò chuyện để tỉnh táo, nhất định phải cố chịu đựng cho tới khi trời sáng!

Mí mắt Dương Lăng cũng sắp díp lại, y nhéo mình một cái, cố sức hét gọi Mã Liên Nhi.

- Ôi..., Dương tú tài, Dương dịch thừa, Dương đại ca, huynh rủ lòng thương một chút đi mà! Muội vừa mệt, vừa đói, vừa buồn ngủ. Cho muội dựa một chút, dựa một chút, chỉ một chút xíu thôi, đến trời sáng... là được rồi.

Mã Liên Nhi yếu ớt rên rỉ đáp, giọng điệu thỏ thẻ chừng như như đang làm nũng. Nếu đang ở trong khuê phòng ngan ngát hương trầm mà nghe được âm thanh nỉ non như thế chắc chắn sẽ khiến cho người ta cảm thấy ướt át nóng bỏng đến thấu xương, lòng không kìm nổi nghĩ bậy nghĩ bạ.

"Không được!" Tuy tự bản thân Dương Lăng chưa từng trải qua những chuyến sinh tồn nơi dã ngoại bao giờ, nhưng lại xem quá nhiều câu chuyện trong báo và tạp chí nói về việc người ta chết cóng vì lạnh lúc ngủ. Y muốn gọi Mã Liên Nhi tỉnh dậy nhưng Mã Liên Nhi mệt đến độ không hề muốn cử động, cả thân thể mềm mại không xương uể oải dựa vào người Dương Lăng, rõ là đang ương bướng không chịu tỉnh dậy.

- Không được, ngồi dậy cho ta! Đợi đến lúc trời sáng thì cô cũng đã chết cóng rồi, cả người đóng một lớp băng cứng đến nỗi ngay cả sói cũng gặm không nổi! Ta không muốn kéo một bức tượng băng về đâu!

Dương Lăng nóng ruột, đưa tay vỗ vào mặt nàng.

Cảm thấy đôi môi hơi đau, Mã Liên Nhi mở mắt. Trong hố tối như bưng, nhưng hơi thở của Dương Lăng đang không ngừng phả vào mặt nàng, thật ấm, đó là hơi ấm duy nhất. Mã Liên Nhi càng buồn ngủ hơn, nàng lẩm bẩm:

- Nói... nói cái gì thế? Để muội... ngủ một chút đi mà!

- Không được ngủ!

Dương Lăng nóng ruột:

- Phấn chấn tinh thần lên đi, thân thể xương cốt của ta sợ sẽ không qua nổi đêm nay đâu. Mỡ của phụ nữ dày hơn, chịu lạnh tốt hơn đàn ông, để ta cởi đồ cho cô mặc. Không được ngủ, có thể sống được người nào thì sống người đó!

Đầu óc đang lơ mơ, nhất thời Mã Liên Nhi không tiêu hoá được lời của Dương Lăng. Nàng tham lam rúc sát hơn vào người y, giọng mơ màng:

- Cái gì... Mỡ gì cơ?

- À, là lớp mỡ dưới da... Chà, có nói cô cũng chẳng hiểu, cứ coi nó như là thịt mỡ là được.

-...

Một lúc lâu sau, dưới hố tuyết trong bóng tối tĩnh mịch của núi rừng chợt vang lên một giọng nữ cao vút:

- Thịt mỡ ư? Ta béo lắm sao?

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 39: Không lòng dạ nào để ngủ

Phụ nữ yêu cái đẹp, xưa nay vẫn vậy. Thật không ngờ, cái chết đe dọa không làm nàng tỉnh ngủ được, mà một từ "thịt mỡ" lại khiến nàng kích động hệt một chú gà chọi. Dương Lăng phải hết hơi giải thích mãi, Mã Liên Nhi mới bình tĩnh lại.

Tỉnh ngủ rồi thì cảm giác lạnh buốt càng lúc càng khó mà chịu đựng nổi, hai hàm răng nàng đánh vào nhau lách cách. Cảm thấy trên vai hơi nặng, nàng thử đưa tay sờ vào, thất thanh kêu lên:

- Huynh lấy áo đưa cho ta, thế còn huynh thì sao?

Dương Lăng thở dài:

- Tôi sợ mình sẽ không cầm cự nổi đến sáng đâu.

Vừa dứt lời, chiếc áo đó đã trở về trên người y và một đôi tay choàng qua ôm chặt lấy y. Mã Liên Nhi run rẩy nói khẽ:

- Chúng ta... kề sát lại một chút, có lẽ sẽ vượt qua được. Hoàn cảnh... hoàn cảnh cấp bách thì cũng nên linh động, đúng không?

Kề sát lại quả nhiên ấm hơn nhiều, Dương Lăng cũng lặng lẽ ôm chặt Mã Liên Nhi, lấy chiếc áo dài bọc cả hai người lại. Có lẽ do căng thẳng, hai người hít thở có phần gấp gáp. Dương Lăng nghĩ đến Ấu Nương, nhớ tới đêm đông giá lạnh bọn họ ôm nhau sưởi ấm ấy, lòng bỗng không yên.

Một lúc sau, từ bên ngực y vang lên tiếng hỏi rụt rè:

- Không phải huynh nói là muốn tán gẫu ư? Sao không nói gì hết vậy?

-Ừm? Ồ... nghe nói cô sống ngoài biên thùy từ nhỏ, quê cô ở đâu vậy?

Dương Lăng trấn tĩnh lại, vớ đại lấy một đề tài.

Sau chút xấu hổ và lúng túng ban đầu, Mã Liên Nhi đã dần quen với sự thân mật của hai người, nàng khẽ cựa thân thể mềm mại để tư thế thêm thoải mái, tự nhiên.

- Quê ta à...?

Nàng ngáp một cái, nép sát vào bộ ngực ấm áp của y, đáp:

- Quê ta ở kinh đô, nhưng ta chưa tới đó bao giờ, chỉ biết đại thúc (bác) và thúc thúc (chú) vẫn còn ở đó.

- Kinh đô ư? Quê cô ở Bắc Kinh à?

- Cái gì? Huynh thế mà cũng là tú tài à?

Mã Liên Nhi phì cười:

- Kim Lăng mới là kinh đô, Bắc Kinh là kinh sư.

- Ồ!

Dương Lăng toát mồ hôi, hỏi:

- Kim Lăng sao? Vùng đất nổi tiếng phồn hoa từ xưa đó à? Đại Minh chúng ta tại sao chuyển kinh sư đến Bắc Kinh thế? Ở đó vừa gần Thát Tử, thời tiết lại giá lạnh.

Mã Liên Nhi hứ một tiếng:

- Tú tài của ta ơi, muốn đùa với ta cũng không cần phải giả đò như vậy đâu! Hay là huynh đang kiểm tra ta đó hử? Thiên tử thủ quốc môn (vua phải giữ biên cương), hiểu chưa?

Không để ý thái độ của mình với Dương Lăng đã càng lúc càng thân mật, nàng nói tiếp:

- Từ nghìn năm nay, mối uy hiếp đối với Trung Nguyên đa phần đến từ phương bắc, phía bên kia tường thành là kẻ địch. Yến Kinh (tên cũ của Bắc Kinh) nằm nơi hiểm yếu, phía bắc thì núi non hùng vĩ, phía nam có thể khống chế Trung Nguyên, lại thông với vùng Giang Hoài , liền sa mạc, hơn nữa lại gần vùng giặc Thát. Thành Tổ dời đô về đây, chính là để giữ biên giới!

- Huynh nghĩ xem, kinh sư nằm ở đây, triều đình không muốn chú trọng đến phương bắc cũng không được. Nếu không tại sao lại phải lập trọng binh đồn trú ở cửu biên ? Tại sao Cẩm y vệ lại phái nhiều mật thám quanh năm ẩn náu ở quan ngoại như vậy?

Dương Lăng còn tưởng vì thấy Yến Kinh có điềm lành xuất hiện nên Chu Lệ mới dời đô về đấy, ai ngờ còn bởi nguyên nhân này. Ngẫm lại, hoàng đế Đại Minh các triều đại dù ngu dốt cỡ nào, phần nhiều vẫn chấp thuận thực thi chính sách "thiên tử thủ quốc môn". Vào cuối thời Minh, khi mạng sống bị đe doạ mà hoàng đế Sùng Trinh vẫn không sử dụng tinh binh ở Sơn Hải Quan , đại thế mất rồi, ông ta vẫn không chịu lánh xuống phương Nam mà tự vẫn tại Môi Sơn. Rốt cuộc thì ông ta đã không làm nhục khí tiết người Hán, đến chết cũng làm tròn sứ mệnh "Thiên tử thủ quốc môn".

Mã Liên Nhi đau lòng nói:

- Sau khi cha ta gia nhập Cẩm y vệ liền bị phái đến vùng quan ngoại làm thám tử, chịu đựng nửa đời người, khó khăn lắm mới được trở về quan nội, kết quả lại... hiện giờ cũng không biết ca ca đã ra sao rồi?

Nói đoạn nàng bật khóc nức nở.

Dương Lăng an ủi:

- Yên tâm đi! Lúc đó binh mã hoảng loạn, nhưng Mã huynh ở bên người Tất đô ty sẽ không có gì đáng ngại đâu. Cố qua đêm nay, ngày mai chúng ta tìm đường quay trở về thành, Mã huynh nhất định đã ở trong thành rồi đó.

- Ừm...

Mã Liên Nhi lau nước mắt, nói:

- Chỉ mong chúng ta có thể qua được đêm nay. Huynh kể chuyện cho ta nghe được không? Vậy sẽ không buồn ngủ nữa.

Dương Lăng vắt óc suy nghĩ một hồi lâu, cố nhịn cơn đói đang réo ùng ục trong bụng, bắt đầu kể:

- Ngày xưa có một ngọn núi tên là Ngũ Chỉ Sơn, trên núi có một đám cường đạo, kẻ đứng đầu tên là Chí Tôn Bảo ...

Chẳng lẽ người ở thời đại này không ai biết đến bộ "Tây Du Ký" hay sao? Dương Lăng buồn bực nghĩ thầm. Thế là vừa mới kể được một chút, y đã phải bắt đầu kể lại từ Đông Thắng Thần Châu, Hoa Quả sơn, Thuỷ Liêm động, giới thiệu bằng hết lai lịch xuất thân của Tôn Ngộ Không. Vừa mới kể thêm được một hồi, y lại phải kể sang chuyện Đường Tăng, từ lúc còn là Kim Thiền tử đến quá trình phiêu lưu của lão.

Mã Liên Nhi thoải mái ngồi tựa trong lòng y, im lặng nghe kể chuyện. Nhưng Dương Lăng kể rất gượng gạo, bởi vì y cảm thấy có mấy đoạn hết sức khôi hài mà Mã Liên Nhi lại chẳng cười lấy một tiếng. Chẳng lẽ phụ nữ thời Minh không có tế bào hài hước à?

Khi kể đến Tử Hà Tiên Tử, Mã Liên Nhi mới trở nên hứng thú. Nghe đến đoạn Tử Hà Tiên Tử đòi Chí Tôn Bảo hôn mình, nàng chợt nhớ đến "nụ hôn" vô ý của hai người lúc trượt xuống núi. Vừa nghĩ đến chuyện này, môi nàng lại thoáng đau, song trong lòng lại có phần bồi hồi.

Nàng không kìm được, bật hỏi:

- Tại sao Chí Tôn Bảo không tiếp nhận nàng ấy vậy? Bạch Tinh Tinh là yêu tinh, y là đại thánh bị đày xuống phàm trần, hai người vốn chẳng phải một đôi. Tử Hà tiểu thư mới là thần tiên, vả lại Chí Tôn Bảo nói đúng đó, duyên phận là do ông trời an bài, ông trời là lớn nhất!

Sặc, lần đầu nghe thấy có người lấy môn đăng hộ đối ra giải thích "Đại Thoại Tây Du"! Đến phút cuối Mã Liên Nhi lại hỏi:

- Vậy cuối cùng Chí Tôn Bảo thích ai?

- Ơ... Tử Hà Tiên Tử.

- Hứ! Đàn ông, miệng một đằng tim một nẻo!

Mã Liên Nhi hậm hực. Dương Lăng đỏ mặt biện bạch:

- Có lẽ cô nói đúng, cho dù là Tề Thiên Đại Thánh cũng không thể đấu với ông trời. Trời cao định sẵn duyên phận mà, y cũng đành nghe theo vận mệnh an bài mà thôi.

Mã Liên Nhi rúc vào trong lòng y như một con chim nhỏ, im lặng một hồi lâu, nàng bỗng nhiên run rẩy nói:

- Vậy chúng ta... chúng ta có thể xem như là duyên phận do ông trời an bài hay không?

Lấy hết dũng khí nói xong câu đó, nàng cảm thấy hoàn toàn kiệt sức. Mặt nóng rần, nàng vùi đầu vào trong lòng y chẳng dám ló ra. Dương Lăng giật mình kinh hãi, ngớ ra một hồi lâu mới nói:

- Cô... đừng nên nghĩ ngợi lung tung, tuy rằng chúng ta má ấp vai kề nhưng không quan hệ bất chính, hơn nữa... hơn nữa cô không nói, ta không nói, cũng chẳng ai biết.

- Trời biết đất biết, huynh biết ta biết, hôn huynh cũng đã hôn rồi, ôm cũng đã ôm rồi, còn bảo ta làm sao xuất giá đây?

Trong màn đêm che phủ, Mã Liên Nhí nói một cách "hùng hồn", song con tim lại đập loạn thình thịch, nàng tiếp:

- Bất kể lần này thắng hay bại, Mẫn đại nhân cũng đã giết chết được một vương tử, nhất định sẽ được thăng quan. Huynh là tâm phúc của lão, lại trẻ tuổi có tài, có lẽ thêm vài ba năm nữa, ắt có thể làm quan phụ mẫu của một huyện. Ta... Ta tuy là con gái nhà tiểu lại, nhưng cũng biết đọc sách hiểu lễ nghĩa. Huynh làm quan rồi, cũng cần một người vợ xứng với huynh.

Nàng nói mà xấu hổ không thôi, trong lòng thầm nghĩ: "Mã Liên Nhi ta vẫn luôn tâm cao khí ngạo, hôm nay dày mặt tự tiến cử mình như vậy đã là việc xấu hổ chết người rồi, còn muốn xúi dục người ta bỏ vợ. Nhìn thế nào cũng đều thấy mình giống một nữ nhân xấu xa vô liêm sỉ nhất, nhưng... nhưng ai mà không có một lần ích kỷ chứ?"

Nghe nàng có ý bảo mình bỏ vợ tái hôn, Dương Lăng bừng giận, y ưỡn thẳng lưng, lạnh lùng nói:

- Mã tiểu thư, cô từ nhỏ đã trưởng thành ở vùng biên ngoại, ta thích nhất chính là cá tính hào phóng thẳng thắn của cô, cũng không tin cô sẽ để ý đến những thứ cổ hủ ngu xuẩn. Hôm nay ta có thể vì cô mà bỏ nàng ấy, sau này lẽ nào sẽ không vì người khác mà bỏ cô sao? Tử Hà Tiên Tử nói rất hay: "Nếu như không thể ở cùng với người ta thích, cho dù để ta làm Ngọc Hoàng đại đế ta cũng sẽ chẳng vui vẻ gì." Ta cũng vậy, nếu như muốn ta bỏ Ấu Nương, cho ta làm Hoàng đế ta cũng không làm!

Bị y trách mắng Mã Liên Nhi xấu hổ vô cùng, nàng vừa ngượng vừa thẹn nói:

- Vậy ta... ta... ta nguyện làm tiểu thiếp của huynh, như vậy... như vậy huynh có chịu không?"

Dương Lăng ngây người, trong lòng vừa cảm động lại vừa khó xử, y cười nhăn nhó:

- Liên Nhi tiểu thư, tội tình gì cô phải đày đoạ bản thân như vậy? Dương Lăng không tiếp nhận nổi tấm lòng của cô đâu.

Mã Liên Nhi bỗng vùng ra khỏi lòng y, trừng mắt giận dữ nói:

- Huynh chê ta không đủ xinh đẹp hay bởi vì ta không phải là một người phụ nữ tốt?

Dương Lăng vội nói:

- Liên Nhi tiểu thư, cô rất xinh đẹp, rất đáng yêu, và ta cũng tin cô là một người con gái kiên cường, có lòng tự trọng. Cô coi thường đám nam nhân xem nữ nhân như đồ chơi, miệt thị cái gọi là vợ phải theo chồng của bọn họ. Chính vì như vậy, một khi cô đã thích một người, nhất định sẽ không bao giờ chùn bước. Được xem trọng như thế, Dương Lăng thật sự ghi khắc trong tim.

- Nói thật dễ nghe! Ta đã nguyện lòng ở dưới người khác rồi, chỉ bởi ta tin huynh sẽ thật sự đối xử tốt với ta, tại sao huynh còn... Trong lòng huynh, trên đời này không có ai sánh được với Ấu Nương phải không?

Dương Lăng cảm khái nói:

- Cô sai rồi! Trong lòng ta, Ấu Nương là một cô gái rất bình thường. Cô ấy không phải là người xinh đẹp nhất, cũng không nhất định là đáng yêu nhất. Thế giới rộng lớn, chưa xem hết toàn bộ phong cảnh, ai dám nói là đã nhìn thấy phong cảnh đẹp nhất chứ? Nhưng với phong cảnh, cô vẫn có thể đi đến từng nơi để thưởng thức, lựa ra một chỗ đẹp nhất làm chốn cự ngụ cho mình, nếu có năng lực cô thậm chí còn có thể chiếm giữ tất cả. Nhưng với phụ nữ lại không giống vậy, yêu không chỉ là thưởng thức và chiếm hữu, mà đôi bên còn phải có trách nhiệm với nhau, đã yêu nhau thì nên hết lòng tuân thủ ước hẹn "cho tới bạc đầu."

- Biển người mênh mang, phụ nữ xinh đẹp rất nhiều. Không lẽ ta gặp ai cũng yêu, gặp người tốt hơn thì vứt bỏ người cũ đi? Nếu vậy thứ ta chiếm được cũng sẽ chỉ là thể xác của phụ nữ mà thôi! Như lời cô đã nói ở Hồng Nhạn lâu, nếu chỉ coi vợ như đồ vật, không hề có tình cảm chân thành thì dựa vào cái gì để đòi họ thật tâm đối đãi với mình đây chứ?

Mã Liên Nhi yên lặng một hồi lâu, đột nhiên bật cười:

- Ngài tú tài thao thao bất tuyệt, nói tràng giang đại hải, tại hạ cam bái hạ phong. Người ta trêu huynh thôi, sao kích động quá vậy?

Dương Lăng ngẩn ra, không biết cô nàng thật sự nói đùa hay đang che giấu sự xấu hổ của bản thân. Tiếc là trời tối đen như mực nên y không nhìn thấy được vẻ kỳ dị trong mắt nàng và cả nụ cười chứa đầy ẩn ý trên môi nàng nữa. Đó là nụ cười của người thợ săn khi đã xác định được con mồi nhất định phải bắt.

Mã Liên Nhi ngẫm lại lời của Dương Lăng, rồi trong lòng thầm nghĩ: "Đứa con gái từ vùng biên ngoại như mình đây mà là khác thường ư? Gã tú tài này mới thật sự là khác thường. Biển người mênh mang, có lẽ y quả thực không phải là phong cảnh đẹp nhất, nhưng lại là phong cảnh thích hợp với mình nhất. Ông trời đã đưa y đến trước mặt, không giữ chặt lấy y há chẳng phải là có lỗi lắm sao? Hì... tương lai còn dài mà!"

Sau một hồi lâu tâm tình nàng đã bình ổn trở lại, thoáng mang vẻ tươi cười, nàng bắt chước lời thoại mà Dương Lăng vừa nãy đã kể:

- Đêm dài đằng đẵng, không lòng dạ nào để ngủ, chi bằng Dương huynh hãy kể cho ta thêm một câu chuyện xưa nào đặc sắc hơn chút đi. (Câu này bắt chước lời thoại trong Đại thoại Tây Du)

Dương Lăng cũng cười thầm: ai nói phụ nữ thời Minh không biết hài hước là gì chứ? Đoạn y phấn chấn tinh thần nói:

- Được, ta sẽ kể cho cô một câu chuyện giúp tinh thần hưng phấn. Câu chuyện này có tên là Hoạ Bì!

Chú thích:

Chỉ vùng đất nằm giữa Trường Giang và Hoài Hà. Gồm có Giang Tô, An Huy và một bộ phận nhỏ của Giang Tây, Hồ Bắc, Hà Nam.

Tên gọi chín điểm quân sự cần trấn giữ vùng biên tái bắc bộ thời Minh. Sau khi nhà Minh được thành lập, quân Nguyên lẩn trốn ở biên tái phía bắc vẫn không ngừng quấy nhiễu, uy hiếp nghiêm trọng đến sự thống trị của nhà Minh. Để củng cố biên phòng khu vực bắc bộ, Minh thái tổ Chu Nguyên Chương nhiều lần phái tướng bắc chinh, đồng thời phân đất phong hầu cho các con là Chu Lệ, Chu Quyền đem trọng binh trú thủ biên tái bắc bộ. Minh thành tổ Chu Lệ vừa xuất quân ra sa mạc phía bắc, vừa bố trí trấn giữ vùng biên duyên, phái binh trấn thủ. Ban đầu thiết lập bốn trấn giữ ở Liêu Đông, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Diên Tuy, kế tiếp lập trấn ở Ninh Hạ, Cam Túc, Kế Châu, rồi lại lập hai trấn ở Sơn Tây, Cố Nguyên, ấy là cửu biên.

Sơn Hải Quan là cửa ải đầu tiên của Trường Thành, bắc dựa dãy Yên Sơn, nam liền biển Bột Hải, non xanh nước biếc, quang cảnh hùng vĩ, nằm ở nơi giáp ranh giữa hai tỉnh Hà Bắc và Liêu Ninh, khởi điểm của Trường Thành. Người đầu tiên xây dựng Sơn Hải Quan là Từ Đạt, vị tướng nổi tiếng của nhà Minh. Với con mắt sắc bén về quân sự, Từ Đạt đã xây dựng Sơn Hải Quan để kiểm soát được núi, lại khống chế được biển. Ải này có 4 cửa, cửa phía Đông có một bức hoành phi với dòng chữ "Thiên hạ đệ nhất quan". (sưu tầm)

đây là bộ "Tân Tây Du Ký" (Đại thoại Tây Du) gồm 2 phần do Châu Tinh Trì thủ vai chính. Chí Tôn Bảo trong phim là hậu thân của Tôn Ngộ Không 500 năm sau.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 40: Thoát hiểm

- A...!

Trong tiếng thét chói tai của Mã Liên Nhi, Dương Lăng đã kể xong truyện "Oan quỷ lục". Hê hê! Thật là thành công rực rỡ. Mã Liên Nhi đang sợ run cầm cập, cực kỳ giống một chú chim cun cút, nói chung y đã vớt vát được một chút mặt mũi cho "Đại thoại Tây Du".

Cười thoả mãn, Dương Lăng nhìn lên miệng hố trắng nhờ nhờ bên trên. Mặc dù trời vẫn chưa sáng nhưng trong không khí đã thoáng có chút hơi ấm của buổi sớm mai.

Mã Liên Nhi vẫn co ro trong chiếc áo choàng, có thể là vì lạnh, cũng có thể là vì sợ. Dương Lăng buồn cười, vỗ vỗ vai nàng, khích lệ:

- Trời sáng rồi, chúng ta đã chịu đựng được.

- Trời sáng rồi ư?

Từ trong lòng y, Mã Liên Nhi chầm chậm ló đầu ra, tham lam nhìn những tia sáng dịu nhẹ trên miệng hố. Trời sáng thì tốt rồi, trời sáng thì sẽ không cò phải sợ nữa. Không ngờ tên tú tài đáng ghét này lại biết kể không ít truyện, nhưng mấy truyện ma quỷ đó cũng kích thích thật.

Dương Lăng cười thầm trong bụng, cả đêm kể liền mấy truyện đã được y gia công chỉnh sửa như "Oán quỷ lục", "Hồn ma hoa anh đào", "Ký túc xá nam sinh số 17", nói thật, ngay bản thân y cũng thấy nổi da gà.

Thấy vẻ cười cợt trên mép y, Mã Liên Nhi hậm hực lườm y một cái, làm mặt giận:

- Là huynh cố ý phải không?

Dương Lăng giật mình, thái độ của cô nàng trông không được thoải mái lắm, có lẽ do nằm trong lòng mình quá lâu. Một bên má nàng đã bị ép đến đỏ lựng, tóc tai rối bời, dáng vẻ càng thêm mấy phần quyến rũ, tựa như một cô vợ vừa mới thức dậy, lười biếng và yêu kiều, vẻ mặt hờn dỗi trông lại càng động lòng người quá đỗi.

Dương Lăng vội quay đầu, múa may chân tay đang tê rần một hồi rồi chầm chậm chui ra khỏi hố tuyết. Như chiếc lưới trong tay người đánh cá, màn đêm đang được từ từ thu lại, trời đất chìm trong màu xám bạc. Mặt trời vẫn chưa xuất hiện, song chân trời đã bắt đầu ửng sáng.

Thật là lạnh. Đối với một người đang đói như y, cái cảm giác khi không có một tia nắng nào quả thật giống như đang ở dưới địa ngục. Phóng mắt nhìn chung quanh chỉ thấy một màu trắng xoá, không biết mình đang ở nơi nào, không có ánh nắng, thậm chí y không thể nhận ra phương hướng giữa núi rừng bị băng tuyết bao phủ như thế này.

Mã Liên Nhi cũng chui ra khỏi hố tuyết, nàng ngó quanh rồi vui mừng:

- Thật may trời không âm u, tuy mặt trời chưa ló dạng nhưng cũng có thể thấy được đông tây nam bắc rồi. Đi theo muội, chỉ cần ra khỏi khu rừng này, chúng ta sẽ có hy vọng trở về.

Hai người đã không thể nào tiếp tục chịu đựng thêm một đêm trong núi rừng nữa rồi, phải nhân lúc còn tí sức lực mà cố gắng nhanh chóng rời đi. Trải qua một đêm khốn đốn, thể lực của bọn họ đã kém trước nhiều, hai người đành phải vừa dìu nhau vừa khập khiễng đạp tuyết men theo một dòng suối đã bị đóng băng mà đi từ từ. Cùng sóng vai dắt nhau đi, Mã Liên Nhi và y lại giống như một đôi bạn đồng hành đang "đạp tuyết tìm mai".

Đã chẳng thể nhìn ra được diện mạo ban đầu của dòng suối là như thế nào nữa, lớp tuyết dày đặc đóng trên bề mặt giống như một con đường uốn lượn giữa núi rừng. Chỉ có những cột băng cao ngất thỉnh thoảng mọc lên ở hai bên bờ nhắc nhở người ta rằng đây từng là một dòng suối nhỏ nước reo vang chảy siết. Từng cơn gió nhẹ thổi qua, trút những hạt tuyết trên cây xuống cổ hai người, thỉnh thoảng có tiếng chim kêu qua những tầng cây.

Đi được hơn nửa canh giờ, hai người đã ra khỏi khu rừng rậm, lên tới một sườn núi tuyết cây cối thưa thớt. Ngẩng đầu nhìn quanh, từ phía tây trải dài về hướng đông bắc đều là những ngọn núi không cao lắm nhấp nhô đan xen. Ngoại trừ những thân cây có màu tàn tro, khắp ngọn núi chìm trong thế giới màu bạc trắng xóa.

Tia nắng đầu tiên ló dạng mang đến chút hơi ấm cho hai người. Hai người đang hăng hái muốn tiếp tục đi về phía trước thì một con sóc chợt nhảy phốc qua trước mặt, để lại một hàng những dấu chân lờ mờ trong vùng đất tuyết bao la vô hạn. Rồi sau đó nó kéo theo chiếc đuôi to xù lủi vào trong một hang tuyết.

Mã Liên Nhi mừng rỡ, vội vã buông tay Dương Lăng, hớn hở chạy tới nằm trườn trên mặt tuyết nhìn một lúc, sau đó bất chấp cái lạnh bắt đầu lấy tay đào bới. Dương Lăng cười nhăn nhó bước tới hỏi:

- Đại tiểu thư à, lúc này mà cô còn muốn bắt sóc để chơi sao?

Mã Liên Nhi vẫn nằm soài như một chú cún con đang cào tuyết, thở hổn hển đáp:

- Đừng ngốc nữa! Mau giúp muội đào đi nào! Trong hang sóc chắc chắn sẽ có đồ ăn. Trong hang của một con sóc có thể lấy được tới mấy cân lương thực đó. Đào được rồi, cho dù hôm nay không thoát khỏi đây được, chúng ta cũng sẽ không chết đói.

Vỗ trán một cái, Dương Lăng vứt cây gậy trong tay, phụ nàng đào bới. Đầu tiên hai người dẹp hết đống tuyết phía ngoài, sau đó lại ba lần làm gãy khúc gậy mới mở rộng được miệng hang đông cứng. Con sóc đã trốn mất bằng một cửa hang khác. Hang của nó rất sâu, Dương Lăng đưa tay vào mò, mò đến khi mặt mày dính đầy bùn đất mới được toại nguyện, y moi ra được rất nhiều quả khô như hạt dẻ, hạt kê, táo gai (họ Crataegus)...

Hai người phấn khởi ngồi xổm trên tuyết kiểm lại chiến lợi phẩm. Dương Lăng cầm hai hạt kê lên, chà chà lên vạt áo, rồi đưa cho Mã Liên Nhi một hạt. Hai người tham lam dùng miệng bóc vỏ hạt, sau đó nhai lấy nhai để nghe rôm rốp cái hạt đã đông cứng ngắc.

Dương Lăng mỉm cười nhìn Mã Liên Nhi đang nhai ngon lành, vốn định khen nàng mấy câu, đột nhiên thấy cô nàng biến sắc, mặt trắng bệch như tuyết. Dõi theo ánh mắt kinh hoàng của nàng, Dương Lăng đưa mắt nhìn ra sau lưng, trái tim lập tức nặng trĩu. Sói! Đến những bốn con, con nào con nấy so với con hôm qua còn to hơn, khoẻ mạnh hơn, dữ tợn hơn.

Bốn con sói cùng bước nhẹ nhàng nhanh chóng áp sát bọn họ. Dương Lăng đột nhiên đứng dậy. Bốn con sói, một trước ba sau, tạo thành hình tam giác từng bước áp sát. Hàm răng lởm chởm trắng nhọn, ánh mắt hung tợn khiến người ta phải khiếp sợ.

Mã Liên Nhi cũng run rẩy đứng dậy. Tuyệt vọng liếc nhìn những con sói hoang đang tới gần hơn, nàng bất chợt gọi to:

- Dương Lăng!

Dương Lăng bị kéo xoay người lại, đón lấy y chính là khuôn mặt đang ửng hồng cùng với đôi mắt không rõ đang ẩn chứa tình cảm gì của Mã Liên Nhi. Nàng đột nhiên nhào tới, ôm chặt lấy Dương Lăng, giọng run run:

- Dương Lăng, huynh ôm muội đi!

Cả người run rẩy, nàng siết chặt lấy Dương Lăng, hơi thở gấp gáp tìm kiếm bờ môi y.

Bốn con sói vì hành động quái dị của hai sinh vật này mà thoáng dừng chân lại. Con sói đi đầu gừ một tiếng uy hiếp, đoạn tiến nhanh dần. Mười lăm trượng, mười trượng, năm trượng, tiến vào phạm vi có thể tấn công. Cái chân sau mạnh mẽ của nó chợt co lại, nó đã muốn phóng lên.

Ngay vào lúc này, "tách", tiếng dây cung bật mạnh, một mũi tên nhọn hoắt không biết từ đâu bắn đến xuyên qua bụng con sói. Lực tên bắn cực mạnh, đầu mũi tên xuyên thủng bụng sói rồi cắm vào trong tuyết. Con sói tru lên một tiếng dài thê lương, hai chân lẩy bẩy rồi ngã xuống mặt đất. Chỉ trong chốc lát máu tươi đã thấm đỏ một mảng lớn.

Nghe tiếng tru thảm thiết, bọn Dương Lăng lập tức quay đầu nhìn lại. Ba con sói hoang thấy con sói kia bị trúng tên nên đã dừng chân lại, cùng tru gào nhìn quanh tìm kiếm nơi bắt nguồn của sự uy hiếp. Thân hình thon mảnh của chúng nhanh nhẹn chạy quanh một vòng, sau đó quay lưng định chuồn đi.

Lúc này lại có ba mũi tên nhọn xé gió xuyên qua rừng cây bay vút ra, bắn chết cả ba con sói một cách cực kỳ chuẩn xác. Con sói có thể hình nhỏ nhất bị lực tên bắn văng lông lốc, thân thể nảy lên không trung rồi rơi phịch xuống đất, tắt thở.

Dương Lăng và Mã Liên Nhi vừa kinh ngạc vừa vui mừng, ngước đầu nhìn quanh tìm kiếm ân nhân cứu mạng. Trên sườn núi là một vùng trắng xoá, ánh nắng của mặt trời mọc phản chiếu từ đó khiến mắt hai người bị chói loà. Dương Lăng nheo mắt lại, phát hiện dưới những cây bạch dương bên sườn núi lộ ra bóng dáng mấy người đang từng bước đi về phía bọn họ.

Tổng cộng có bốn người. Dẫn đầu là một đại hán thân hình vạm vỡ, mặc chiếc áo dài màu tro xanh, tuổi chừng ngoài bốn mươi, thân trên khoác chéo một tấm da thú đã sờn rách, lưng đeo một cây cung săn dài, tay cầm một cây xiên sắt.

Ba người đi sau, người lớn nhất khoảng hơn hai mươi tuổi, đang cầm một cây cung, sau lưng mang ba, bốn con gà rừng, bộ lông dài của chúng đung đưa trong gió. Nhỏ nhất là một thằng bé kháu khỉnh, khuôn mặt bụ bẫm đỏ bừng, tuy trông bẩn thỉu nhưng lại cứng cáp như một tảng đá.

Nó chỉ độ mười hai, mười ba tuổi, mặc chiếc áo da dê rách nát, lưng đeo một cây cung, tay đang nắm dây thừng dắt một con hoẵng nhỏ bị thương. Cặp giò nhỏ nhắn, ngắn ngủn của con vật đang vất vả khó nhọc nhấc bước trên mặt tuyết phủ dày quá gối, thằng nhỏ đôi khi quay đầu lại dùng cây gậy trong tay vụt xuống mông con hoẵng một cái.

Người thanh niên chừng hơn hai mươi tuổi trông khá anh tuấn, y liếc nhìn hai người Dương Lăng một cách thân thiện, rồi kêu gã trông trẻ hơn một chút và thằng nhóc mép chỉ mới lún phún lông măng cùng đi thu thập xác sói. Họ rút mũi tên ra khỏi xác mấy con vật, quệt máu trên mũi tên lên da sói, cắm tên lại vào trong bao, sau đó nện mạnh một phát xuống đầu con sói còn chưa tắt thở, rồi lấy dây thừng ra cột chung chân của bốn con sói lại.

Người trung niên đi đến trước mặt hai người Dương Lăng, nhìn họ từ trên xuống dưới. Ông thấy hai người này, nam thì mặt dính đầy bùn, nhưng lại có khí chất của một kẻ đọc sách; nữ thì quần áo xốc xếch, nhưng chất liệu vải không tầm thường, dung mạo cũng không giống với người sống trong núi. Ông ta hoài nghi hỏi:

- Hai vị là người ở đâu? Sao lại chạy đến vùng rừng núi hoang dã ở Ngũ Sách Lĩnh này?

Dương Lăng thấy ông ta râu ria xồm xoàm, tuy trông cục mịch song mặt mũi ngay thẳng có vẻ chính khí, nên cảm thấy hơi yên tâm. Có điều đây là vùng núi rừng hoang vu, y vẫn phải cẩn thận một chút, không dám nói thật với gã đại hán trông như ngọn núi này.

Y chắp tay đáp:

- Chúng tôi... Huynh muội chúng tôi vốn định đi tới trạm Kê Minh thăm người thân, trên đường gặp phải quan binh và giặc Thát đang đánh nhau, trong lúc trốn chạy đã trốn đến nơi này. Đa tạ ơn cứu mạng của đại thúc!

- Hi hi, huynh muội ư? Vị đại ca này, vừa rồi đệ thấy hai người đang thơm môi nhé!

Thằng bé kháu khỉnh bụ bẫm không biết đã chạy tới từ lúc nào, đang vừa giậm tuyết vừa nói. Chân nó quấn một đống xà cạp, bên trên lại khoác hai tấm da thú, khiến cho vóc người vốn không phải là thấp cũng trở nên béo lùn, hết sức đáng yêu.

Mặt của Dương Lăng và Mã Liên Nhi lập tức đỏ bừng, người trung niên mắng:

- Đừng nói bậy bạ nữa, đi giúp anh mày buộc thú săn lại đi!

Thằng nhóc lè lưỡi, ấm ức:

- Vốn là vậy mà, bọn họ có thơm môi mà. Có con thấy, đại ca thấy, nhị ca thấy, cha cũng thấy...

Đại hán đá một cước vào mông của thằng nhóc đang lẩu bẩu lầu bầu, cười mắng:

- Thằng nhóc này, mày lắm mồm quá đấy, về ta sẽ phạt không cho mày ăn cơm!

Sau đó ông quay đầu lại nhìn hai người, ánh mắt cảnh giác loé lên vẻ lạnh lẽo sắc bén, hỏi:

- Ta họ Hàn, là thợ săn trên núi. Hai vị rốt cuộc là người ở đâu?

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 41: Lo trước tính sau

Mã Liên Nhi rất lúng túng, sợ bị người khác hiểu nhầm là anh em thì càng tệ hơn nên đành đỏ mặt đáp bừa:

- Đại thúc, xin lỗi thúc. Cháu và... tướng công đang rời nhà đi xa. Đại thúc hơi quá cẩn thận rồi!

Dương Lăng giật mình, lúc này y mà giải thích nữa thì không khỏi càng rối rắm hơn nên đành ngậm miệng làm thinh. Đại hán chợt nói:

- Ta biết rồi, năm mới về nhà mẹ phải không? Quân Thát gây khổ nhiều quá. Chúng ta cũng từ trong thành trốn tới đây, vậy cùng đi với nhau nhé!

Đại hán họ Hàn, gọi là Hàn Lâm, con trai trưởng là Hàn Uy, con trai thứ là Hàn Võ, còn cậu út có tên hơi tầm thường một chút, gọi là Mãn Thương (đầy kho). Người dân có hoàn cảnh thiếu hụt thường đặt cho con mình cái tên may mắn để lấy khướt. Dương Lăng đã từng biết mấy người có tên Mãn Thương rồi, đáng tiếc là đa số những người có tên như vậy đều nghèo rớt mùng tơi.

Hàn Lâm náu mình ở vùng núi hẻo lánh nơi biên thùy, dọc đường đã thu nhận khoảng một trăm người dân đang chạy giặc, tất cả đều phải dựa vào tay nghề săn bắn của cha con họ mới có thể sống sót. Cả nhà xem ra cũng khá chất phác, gió lạnh át tiếng không tiện chào hỏi nhiều nên họ chỉ cười cười khách khí rồi vác thú săn được lên lưng, đi nhanh về phía trước.

Chú bé Mãn Thương tới dắt con hoẵng đi, cười hì hì hết nhìn Dương Lăng lại nhìn Mã Liên nhi. Cậu tới sát Dương Lăng, líu lo:

- Dương đại ca, vợ của huynh đẹp thật đấy! Xinh hơn chị của đệ nhiều.

Mã Liên Nhi nghe được đỏ cả mặt, thoáng nét vui mừng. Được gọi là "vợ" khiến cô nàng mới biết yêu này ngây ngất mãi. Dương Lăng ngượng nghịu chẳng thể thừa nhận hay phủ nhận, đành ho khan giả điếc.

Hàn Võ nói với Hàn Uy:

- Đại ca, sau khi có tuyết lớn thì bầy thú kéo nhau đi kiếm ăn, quả thực là cơ hội săn bắn rất tốt. Xem ra cả trăm người đều có thể húp canh thịt rồi.

Hàn Uy đáp:

- Ừ, những người trẻ tuổi đều lập nhóm tới vùng lân cận hái hoa quả khô, thêm vào thú săn được của chúng ta thì có thể khiến mọi người đều được ăn no. Phỏng chừng chập tối là có thể đến Kê Minh rồi.

Hàn Võ liền cất tiếng chửi:

- Ngay cả ông già với trẻ con còn biết đi xung quanh nhặt củi khô để mọi người sưởi ấm đấy! Nhưng tên tam ca nhà họ Dương lại quá hèn hạ, chẳng chịu làm gì cả, lúc ăn cơm lại còn cố vơ vét, thật khiến người ta bực cả mình!

Hàn Uy huých hắn một cái:

- Đừng cằn nhằn nữa, cha mà nghe thấy lại đá vào mông đệ đấy! Dù sao đó cũng là bà con của em rể chúng ta, không nên so đo với gã làm gì.

Bên cạnh, Hàn Mãn Thương vừa ra sức kéo con hoẵng nhỏ vừa hào hển nói:

- Theo đệ thì chúng ta không nên chạy trốn nữa. Đám giặc Thát tới thôn ta chỉ hơn ba chục tên, bằng võ nghệ của cha và chúng ta thì sao không thể trừng trị được chúng chứ?

Hàn đại thúc đang đứng trên một mỏm đá, gằn giọng quát con:

- Cuồng vọng kiêu căng! Chúng ta có thể trừng trị được mấy chục tên giặc Thát kia, nhưng khi chúng quay lại sẽ dẫn theo vài trăm vài nghìn tên đến san bằng cả thôn. Một cá nhân võ nghệ cao cường so với vạn quân thì có tác dụng gì chứ?

Lão chống nạnh dạy bảo con trai:

- Lúc ta còn ở Thiếu Lâm học nghệ, đã từng nghe kể, lúc Tổ Tĩnh gặp nạn, Đạo Diễn đại sư mời ba trăm tăng binh của phái Thiếu Lâm tới trợ chiến. Cuối cùng chỉ có hơn một trăm người trở về, phân nửa đã tàn phế. Lúc đó, dẫn đầu là trưởng lão Hư Vân đại sư của La Hán đường, có công phu Kim Chung tráo và Thiết Bố sam đao thương bất nhập cũng chỉ chống đỡ được trong thời gian uống cạn chén trà rồi bị loạn tiễn bắn như con nhím.

Hàn Mãn Thương không phục nên hỏi lại:

- Vậy thì học võ cũng chẳng có tác dụng gì ư?

Hàn lão nhẹ giọng đáp:

- Cũng không hẳn như thế! Ba trăm tăng binh Thiếu Lâm kia cũng chiến đấu ngoan cường được trong vòng một canh giờ với hai nghìn quân địch. Nhưng khi đại quân giao chiến thì mấy trăm cao thủ võ thuật có tác dụng gì chứ?

Dương Lăng thấy tên nhóc con kia có vẻ chán nản liền phỉnh:

- Đừng nhụt chí! Đó là do người chỉ huy không biết cách thôi. Phái những cao thủ như thế đi xông pha chiến đấu thì tất nhiên không có tác dụng gì rồi. Nếu như giao cho họ cướp đốt lương thảo, ám sát tướng địch thì còn có tác dụng hơn mấy vạn đại quân đấy.

Dương Lăng nói tới đây chợt nghĩ đến một điều khiến y giật thót mình: "Không phải chứ? Y họ Hàn, có ba đứa con trai, từng học nghệ ở Thiếu Lâm, bây giờ là một thợ săn....".

Dương Lăng hơi hoảng hốt: "Lẽ nào đây chính là cha vợ, anh vợ và em vợ mà mình chưa từng được gặp sao? Mình không biết họ đã đành, thế quái nào mà họ cũng không nhận ra mình như vậy nhỉ?"

Thực ra, nếu bây giờ mặt hắn không dính đầy bùn đất thì lão Hàn cũng không thể nhận ra ông con rể của mình được. Sau khi con gái mình lấy chồng, tuy lão Hàn cũng từng gặp con rể mình vài lần nhưng khí sắc hiện tại của hắn khác xa vẻ mặt vàng vọt, hơi thở thoi thóp trước kia.

Từ miệng của những người dân trong làng đang chạy nạn, Hàn Lâm biết được con rể đã bình phục và dọn vào Kê Minh ở rồi. Cho nên bây giờ dù có thấy Dương Lăng quen quen thì lão cũng không thể nghĩ tới cái tên mang vợ vào thành thăm người thân lại là con rể mình được.

Mà chính Dương Lăng cũng chưa từng gặp người nhà của Ấu Nương. Trước đây vì sợ Ấu Nương phát hiện sơ hở nên mỗi khi nàng tán gẫu nhắc tới người nhà, y cũng đều không dám dò la tên tuổi của họ là gì. Lúc này cảm thấy nghi nghi, Dương Lăngluống cuống.

Y thấp thỏm bất an, ngượng ngập bắt chuyện với lão Hàn:

- Hàn đại thúc, các người từ đâu trốn tới đây vậy?

Hàn Lâm đáp:

- Từ dãy núi Bình Vân. Chúng ta đi săn trong núi khoảng mười ngày, vừa mới về làng thì đụng phải giặc Thát, phải vội vàng cùng dân làng chui vào khe núi. Còn hai người từ đâu tới đây thế?

Dương Lăng giật thót, dãy núi Bình Vân à? Không thể sai được rồi, người đàn ông vạm vỡ mặc đồ da thú, tướng người rắn rỏi bị mình lừa chính là.... cha vợ của mình!

Y khục khục cười gượng, vội vàng nói chữa:

- Đại thúc hiểu lầm rồi, vị tiểu thư này không phải vợ của cháu. Vì vừa rồi chưa biết rõ ngọn nguồn nên mới nói dối thúc.

- Ồ?

Hàn Lâm nhìn y ngờ vực, Dương Lăng vội giải thích:

- À ừm.. Thực ra chúng cháu chạy tới đây báo tin cho quân Đại Minh. Rút cuộc khi chiến sự xảy ra, bọn cháu bị quân Thát truy đuổi mà lạc vào khu rừng này. Còn việc... là do lúc đó nàng quá sợ hãi. Ngài là người từng trải, chắc ngài cũng hiểu phải không? He he he....

Hắn vênh mặt với ông bố vợ, cười đúng chất của một gã đàn ông đích thực.

Hàn Lâm hiểu ý cười hô hố rồi vuốt vuốt râu, xem ra chính lão cũng không biết mình hiểu cái gì nữa, tuy nhiên lão cũng không tiện hỏi lại. Dương Lăng thừa cơ kể sơ qua hàng loạt chuyện mình đã trải qua, bao gồm đưa tin, gặp mai phục, chạy trốn, gặp sói để "gài hàng" với ông bố vợ.

Đám người trong khe núi lợi dụng địa thế tự nhiên, dùng thân cây dựng lên rất nhiều lều cỏ hình chóp, trên nóc được lợp lá cây để chắn tuyết, tạo thành những ngôi nhà tạm. Bây giờ, phía trước mỗi túp lều đều có một nồi sắt sứt miệng bắc trên những chiếc bếp xếp bằng đá, gỗ cháy tí tách, tuyết trong nồi đã được đun sôi, khói trắng bốc lên mịt mù.

Những người chạy nạn này dường như đã có kinh nghiệm chạy giặc nên chậu, nồi, bát, muỗng đều đủ cả. Thực ra, bình thường tất cả tài sản của họ cũng chỉ có mấy thứ này thôi. Thấy cha con Hàn Lâm mang về được nhiều thú như vậy, những người dân ăn mặc lam lũ, mặt mày ngây dại đều trở nên có sức sống hơn, nhao nhao tới giúp bọn họ khiêng thú vào giết mổ.

Mặc dù Hàn lão đại mang về hai người khách lạ, một người lại là một mỹ nhân xinh như hoa như ngọc, nhưng bọn họ, kể cả là những thanh niên khí huyết cương phương cũng không thèm nhìn lâu. Trên đường chạy nạn, họ đã nhìn thấy quá nhiều rồi. Mà bây giờ đối với bọn họ, sắc đẹp không có sức mê hoặc bằng một chiếc màn thầu.

Hàn Lâm mời Dương Lăng và Mã Liên Nhi tới trước lều của mình ngồi. Hàn Uy cắt vài miếng thịt sói, thịt hươu quẳng vào trong nồi. Có một bà già tóc bạc cẩn thận lấy ra một chiếc túi vải, thả vào từng chiếc nồi một ít gạo, rồi thêm một chút muối, cuối cùng thả vào rất nhiều quả khô do những người dân chạy giặc kiếm được. Trong không khí bắt đầu tỏa lên mùi thức ăn.

Lúc này, có một giọng nói già nua cất lên:

- Hàn Lão đệ, hôm nay có thể tới được Kê Minh không? Có một vài bà con bị trúng phong hàn, không thầy không thuốc, sợ rằng không chịu nổi nữa rồi.

Nhìn về phía tiếng nói, Dương Lăng thấy một ông lão chống gậy lảo đảo bước tới. Ông có gương mặt chữ điền, khuôn mặt đỏ au, đôi lông mày dài bạc phơ. Vừa nhìn thấy Dương Lăng, ông lão liền ngẩn người, Dương Lăng cũng giật mình nhìn kỹ lại ông ta. Y đã nhận ra ông lão này, ngày thứ hai sau khi sống lại chính ông lão này còn lên núi thăm hắn. Vị này chính là tộc trưởng họ Dương, Dương lão thái gia.

Ông lão ngẩn người một lúc rồi đột nhiên tức giận, quơ gậy nhằm đánh Dương Lăng, miệng thì chửi:

- Cái thằng chẳng ra gì này, ngay cả sản nghiệp tổ tiên cũng đem đi bán! Ngươi có xứng với cha ngươi không? Có xứng với liệt tổ liệt tông không hả? Chuyện đại sự như vậy lại không bàn với ta, ngươi đã trưởng thành hay chưa vậy?

Dương Lăng ngỡ ngàng lùi về phía sau, không biết cụ lớn này nổi giận vì điều gì: "Ta bán đất của ta thì việc gì phải bàn bạc với ông nhỉ? Lại còn tức giận như thế nữa, chẳng nhẽ ngay cả chuyện này cũng phải hỏi gia tộc sao?"

Hàn Lâm giữ tay Dương lão thái gia lại, cười nói:

- Sao lão ca lại làm thế? Có chuyện gì thì cứ nói cái đã.

Dương lão thái gia căm hận trả lời:

- Biết ngay là ông bênh con rể ông mà! Tên tiểu súc sinh này bán cả sản nghiệp tổ tiên, chuyện lớn như vậy mà không bàn bạc với người trong tộc, hắn có còn coi mình là người họ Dương nữa không chứ?

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 42: Nhìn nhau say đắm

Hàn Lâm cũng trố mắt ra nhìn, lão giật mình quan sát Dương Lăng. Quả thật mặt mày của gã này càng nhìn càng giống thằng con rể bệnh tật liên tục của lão nên ngập ngừng hỏi:

- Y... y đúng là con rể của ta à?

Dương lão thái gia trợn mắt, cười khẩy:

- Sao vậy? Hai người còn muốn cùng nhau lừa ta nữa à? Ta tuy già rồi nhưng chưa có mù đâu nhé, tên nhóc Lăng Nhi này là do một tay ta chăm sóc từ bé đến lớn, làm sao có thể nhìn lầm được?

- Hả? Ngài là.... cha vợ ư?

Dương Lăng liền giả vờ 'giật nảy mình', 'vui mừng ngạc nhiên' tiến lên chào hỏi. Nếu y không làm nhiều trò như vậy thì sợ rằng ông bố vợ sẽ không chịu tin lời giải thích về chuyện vừa nãy. Ai bảo khoảnh khắc y sắp chết thì bị Mã Liên Nhi 'cưỡng hôn', lại còn bị ông bố vợ nhìn thấy chứ?

Dương lão gia tử vẫn chưa hết tức giận, đứng ở bên cạnh xem vở kịch nhận người thân. Ông bố vợ tuy chưa đến mức lú lẫn nhưng bị Dương Lăng 'gài hàng', nên lúc này nhìn thấy ông con rể quả thật đang vui sướng nhảy cẫng lên, mặt mày hớn hở thì chỉ biết hỏi han tình hình gần đây của con gái mình.

Nhưng hai ông anh vợ thì lại không dễ bị lừa, sau khi nghe nói biết y là em rể của mình, hai người đều tỏ vẻ hơi khó chịu. Về phần mình, Dương Lăng cũng thấy hơi run khi nhìn vào nắm tay to bằng chiếc bát của họ. Thấy Dương lão thái gia và vài ông lão vẫn còn lấn cấn về chuyện mình tự tiện bán sản nghiệp của tổ tiên nên nhân cơ hội này, y bèn tìm cách thoát khỏi hai ông anh rể. Rồi Dương Lăng chủ động tiếp cận với Dương lão thái gia:

- Đại bá, cháu biết ngài không vừa lòng với việc cháu bán đất. Tuy vậy, cháu có câu này muốn hỏi đại bá, tổ tiên của họ Dương từ đâu tới đây, hay là vừa mới đến nơi này đã có ngay đám đất đai ruộng vườn này?

Dương lão thái gia giật mình, tuy chưa biết y hỏi là có ý gì nhưng cũng trả lời:

- Chúng ta là hậu duệ của người kế nghiệp Đại Tống, từ Sơn Tây chuyển tới đây, tính ra thì cũng đã năm đời. Lúc đó, Thuận Đức công chuyển lên phía bắc, chỉ mang theo vợ con tới Kê Minh mua mười mẫu ruộng núi. Nhưng bây giờ tộc chúng ta đã hưng vượng, ruộng đất có hơn trăm mẫu, tất cả đều do tổ tông chúng ta chắt chịu mà có. Chúng ta, phận là con cháu thì phải có trách nhiệm giữ gìn không được thay đổi, sao lại có thể phá hoại như ngươi được?

Lúc Dương lão thái gia tới thăm Dương Lăng, lão cũng đã lải nhải về sự tích chói lọi của tổ tiên. Nghe nói bọn họ là hậu duệ của Dương gia tướng ở Sơn Tây, cũng thuộc dòng dõi của Long Hổ vệ thượng tướng quân Dương Hữu của triều trước. Thời Hồng Vũ, có một vị tổ tiên tên là Dương Thuận Đức chuyển tới đất này, hình thành nên họ Dương. Hồi đó khi Dương Lăng nghe xong nguồn gốc của mình cũng giật mình kinh ngạc một hồi lâu.

Tuy nhiên, Dương gia tướng hưng thịnh phát đạt, con cháu đông đúc. Các triều Bắc Hán, Bắc Chu, Tống, Nguyên, Minh đều có hậu duệ của Dương gia vào triều làm quan. Mỗi triều đều có hậu duệ kiệt xuất làm đến các chức quan cao, hiển quý không chỉ trăm năm. Do đó, nếu khiên cưỡng gán ghép như thế thì có cả đống người mang họ Dương nhân đó mà dựa hơi Dương gia tướng, chính vì thế nên Dương Lăng mới nửa tin nửa ngờ.

Nghe Dương lão thái gia nói thế, Dương Lăng liền hân hoan trả lời:

- Chính thế, nghèo thì phải thay đổi. Lúc Thuận Đức công chuyển tới đây thì không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, chẳng phải nhờ xông pha mà có phần gia nghiệp này sao? Đã khi nào người ôm khư khư lấy gia viên mà không thay đổi cho thích ứng không? Chính vì điều này nên cháu đã tìm ra lối thoát, làm rạng rỡ họ Dương đó. Bây giờ cháu được bổ nhiệm làm Dịch Thừa của Kê Minh, không tốt hơn là ôm đống ruộng vườn làm nông dân sao?

Dương lão thái gia nghe nói Dương Lăng giờ đã làm quan, cười tít mắt sung sướng, cơn tức giận liền tan biến ngay lập tức, còn xoay ra hỏi việc làm quan của Dương Lăng. Theo đó, y liền đem việc mình làm sư gia, thêm mắm dặm muối việc mình nhậm chức Dịch thừa, tuần tự kể ra một lượt. Dương lão thái gia còn chưa kịp nói gì thì mấy ông già trong tộc đã khen ngợi không ngớt. Hiển nhiên, một người làm quan cả họ được thơm lây.

Dương Lăng lòe xong mấy lão già ngang bướng, vừa quay đầu lại thì thấy hai ông anh vợ vẫn đang nhìn mình trừng trừng, thầm kêu khổ. Y chợt nhận ra hai ông anh vợ này không hề chất phác như vẻ bên ngoài, mà ngược lại từ ánh mắt có thể thấy họ rất lanh trí.

Thấy Dương Lăng đã nói chuyện xong với những người trong họ, Hàn Võ tươi cười đi tới, vỗ vai Dương Lăng, thân thiết nói:

- Em rể giỏi thật đấy, mới lên huyện được hơn một tháng mà đã làm quan rồi. Em gái của ta tuổi còn nhỏ, nếu làm gì không đúng quy củ ở nơi ấy thì mong em rể khoan dung nhiều hơn nữa.

Dương Lăng mỉm cười, khổ sở nói:

- Nhị ca sao lại nói thế, Ấu Nương đối với đệ rất tốt, chúng em là vợ chồng cùng chung hoạn nạn, đệ và Ấu Nương rất là... rất là đằm thắm.

Hàn Võ vui vẻ nói:

- Thế thì tốt, thế thì tốt, em rể là người đọc sách, hiểu biết nhiều, chắc cũng rành đạo lý phải quý trọng vợ từ thuở hàn vi, quả thật ta đã quá lo lắng rồi.

Dương Lăng trả lời với vẻ mặt nhăn nhó:

- Phải, phải, nhị ca cứ yên tâm đi.

Vừa rồi bị ông anh vợ vỗ một cái, không hiểu sao khớp hai vai của Dương Lăng bị sái, bây giờ mềm oặt không thể động đậy. Y ủ ê mặt mày ngước mắt nhìn lại, thấy Hàn Mãn Thương đang ngồi bên cạnh nồi sắt đang cười khúc khích, làm mặt quỷ với y. Ba anh em đều ghét một người, cặp mắt đen láy đầy vẻ lanh lợi kia không hề hiền lành như vẻ bên ngoài.

Dương Lăng giận thầm:

- Anh vợ thì "chơi khó" mình, em vợ thì mình không chấp. Ấu Nương còn biết đọc biết viết, hai ông anh vợ này sao có thể là kẻ quê mùa không biết chữ nghĩa chứ? Chỉ sợ chút mánh khóe này của mình chỉ có thể gạt được ông bố vợ hiền lành chất phác thôi.

Hàn Uy vốn đĩnh đạc, thấy Dương Lăng đang khó xử liền bước tới bắt chuyện với y:

- Em rể, ta và nhị đệ đều rất yêu thương cô em gái nhỏ. Em rể là người đọc sách, thông tình đạt lí, tất nhiên sẽ không bạc đãi Ấu Nương. Nhị đệ tuy tính tình cương trực, nhưng thực ra lại là người có tấm lòng rất tốt, đệ đừng nên trách y.

Y tươi cười vỗ lên vai Dương Lăng:

- Đi nào, chúng ta đi ăn chút gì đó, nếu em gái biết ta để tướng công của nó đói thì nó sẽ nổi giận với ta mất, ta không gánh nổi trách nhiệm này đâu.

Y mượn động tác lại gần, lặng lẽ huých vào tay trái Dương Lăng, tay phải giữ lấy bả vai ông em rể, tiếng khớp xương khẽ kêu "khục khục", lập tức phục hồi lại nguyên trạng hai khớp vai bị sái.

Dương Lăng cảm thấy bất lực, thầm nghĩ xem ra mình cũng cầnnhanh chóng thúc đẩy quá trình học "Phong ma côn pháp" thôi. Nếu không thì mình làm thịt cá cho mấy người này làm dao thớt, cuộc sống của mình sau này sẽ không dễ chịu tí nào đâu.

Buổi chiều tà, khi vừa vượt qua ngọn núi cuối cùng ở phía trước, cổ thành Kê Minh bỗng hiện ra trong tầm mắt. Vừa leo qua núi, mọi người đều sững sờ, kinh hoàng. Lúc này ánh hoàng hôn đỏ như máu, từng đụn khói thuốc súng lập lờ bốc lên từ cánh đồng tuyết, pha lẫn mùi máu tanh nồng nặc. Trên mặt tuyết, hàng trăm xác người đang nằm ngổn ngang, giống như bị đàn trâu chạy qua giày xéo. Mỗi ngọn giáo đều xuyên qua một thi thể, lẻ loi vươn cao trong làn gió. Trên xác rất nhiều quân Minh hoặc quân Thát đều vương những ngọn cỏ khô, tuyết nhuộm chiến bào.

Vài con chiến mã vô chủ mang theo vết thương trên mình đang chậm chạp bước đi trên cánh đồng tuyết, thỉnh thoảng hí lên những tiếng thảm thương khiến cho khung cảnh đầy xác người càng toát lên vẻ thê lương.

Từ tình cảnh này có thể thấy, một ngày một đêm đó, quân Minh và quân Thát ở trước trạm Kê Minh giằng co chém giết không biết bao nhiêu hiệp. Không rõ tình hình hiện tại ra sao, quân Thát đã lùi chưa hay vẫn còn đánh chiếm Kê Minh? Lòng Dương Lăng trầm xuống, nếu như trạm Kê Minh đã bị Thát tử chiếm rồi, vậy thì Ấu Nương....

Nghĩ tới điều này,trong lòng y cực kì trống rỗng, hồn bay phách lạc, muốn lao nhanh xuống núi. Thấy vậy, Hàn Lâm liền giữ y lại, quát lên:

-Chớ nên lỗ mãng, phải nhìn cho rõ đã!

Hàn Uy đứng ở nơi cao, rẽ đám cỏ lạnh, nheo mắt nhìn một lát, hưng phấn kêu lên:

- Là cờ của nhà Minh, trạm Kê Minh vẫn nằm trong tay quân Minh.

Hơn trăm nạn dân nghe vậy, vẻ mặt đang lo lắng trở nên rạng rỡ phấn khởi. Không cần kêu gọi, cả đoàn người liền ráng sức băng qua chiến trường đẫm máu đáng sợ này, nhanh chân chạy về phía Kê Minh. Dương Lăng biết mình suốt một ngày một đêm không trở về, không biết Ấu Nương sốt ruột đến nhường nào. Lúc ở trên núi y biết có vội cũng chẳng có tác dụng gì nên còn giữ được bình tĩnh, nhưng lúc này đây thấy Kê Minh đã ở trước mắt, trong lòng kích động, y càng chạy càng nhanh hơn.

Nhưng đôi giày của y lại không thích hợp để đi đường núi, vừa mới chạy đã mệt lử, khiến cho y loạng choạng ngã mấy lần liền. Mấy anh em Hàn Uy phải chăm sóc cho các cụ cao tuổi nên không rảnh tới giúp y. Mã Liên Nhi thấy thương, tuy cũng muốn tới đỡ y, nhưng người nhà họ Hàn, họ Dương gia ở đây, nàng là người dưng sao có thể đỡ một người đàn ông, nên chỉ đành coi như không thấy.

Hàn Lâm thấy vậy thầm lắc đầu, biết rằng xương cốt thân thể con rể vẫn còn yếu đuối quá. Mà y là tú tài, chắc là không thèm để ý tới cái phương pháp rèn luyện thân thể bằng cách múa thương xách đao của mình đâu. Lão mò mẫm móc từ trong người ra một cái bao bố, bên trong đều là những thứ lão kiếm được trong lúc đi săn, bao gồm cẩu kỷ (vị thuốc đông y), nhung hươu, đuôi hổ, xương hổ... Ừm... trong lòng lão thầm tính toán chờ đến khi vào thành rồi sẽ ủ rượu hầm canh cho con rể uống để bồi dưỡng thân thể mới được

Càng tới gần cổ thành, từ nam chí bắc, tử thi và máu trên mặt đất càng nhiều. Cổ thành Kê Minh được xây bằng gạch xanh, cô độc đứng sừng sững dưới bóng núi nhập nhoạng. Có thể thấy rõ cổng thành dù đã sụp một góc nhưng vẫn vươn lên trời cao, tạo thành một đường cong tuyệt đẹp. Trên tường thành thấp thoáng bóng người đang qua lại.

Đoàn người càng dìu nhau tới gần, số người trên tường thành cũng nhiều hơn. Ánh chiều tà rọi xuống tháp canh, làm cho đao thương và những bó tên trong tay bọn họ lấp lánh bén ngọt. Dương Lăng sợ quan binh trên tháp canh tưởng nhầm mình là Thát Tử mà bắn tên bừa, do vậy, y liền chặn bước chân của nạn dân, một mình đi lên phía trước, vừa đi vừa hét to về phía trên thành:

- Ta là Dịch thừa Kê Minh Dương Lăng. Đằng sau là người dân ở thôn trấn phụ cận, vị đại nhân nào hiện đang trấn giữ tháp canh, mời ra gặp mặt.

Y còn đang do dự nhìn đám người trên tháp canh (tường thành), thì bỗng một bóng người quen thuộc lọt vào trong tầm mắt. Là Ấu Nương, nàng đứng trên tháp canh cao cao. Bóng tà dương chiếu xuống cổ thành, cũng chiếu xuống người nàng, khiến cho thân thể nàng như được phủ một lớp viền màu vàng.

Dương Lăng ngửa mặt nhìn nàng, thấy ánh mắt vui mừng khôn xiết của nàng tỏa sáng như ánh mặt trời. Bốn mắt nhìn nhau, sóng lòng dâng trào. Trên tháp canh, Giang Bân cất cao giọng ồ ồ:

- Đúng là Dương Dịch thừa rồi, mau mở cổng thành! Mau mở cổng thành!

Hàn Ấu Nương ngẩn ngơ nhìn Dương Lăng, khuôn mặt thùy mị hiếm có, không hề nghe thấy gì chung quanh.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 43: Cẩm Y Bách hộ

Hôm đ quân Minh đột phá khỏi vòng vây của người Thát, lập tức tháo chạy về trạm Kê Minh, toàn bộ ngựa xe dùng vận chuyển quân nhu đều bị vất lại ở Ngũ Sách Lĩnh. Do quân Thát bỏ ngựa, cận chiến nên bọn chúng cùng hoà vào trong đám quân Minh hỗn loạn, kết quả là không kìm lại được nên bị dòng người điên cuồng ép xông về phía trước.

Trên dải đất bằng phía trước trạm Kê Minh xuất hiện một cảnh tượng chiến tranh chưa từng có: vây chặt xung quanh bọn tướng tá của hai bên địch, ta có ít nhất khoảng trăm tên thân quân, còn lại đều quấn lẫn vào nhau. Trong đó, xông lên phía trước cả chính là quân Minh, phía sau là quân Thát, phía sau nữa lại là quân Minh, cuối cùng là quân Thát. Mọi người cùng chạy đến nỗi nón xiên giáp lệch, kèn lệnh, chiến kỳ đều bị vứt sạch. Tất cả là một khối "thịt ba rọi" đang "lăn" về phía trước.

Đám quân Thát chạy ở đằng đầu chẳng có lòng dạ nào mà rượt đuổi. Nhưng khi bọn chúng vừa ngoái đầu nhìn lại, thì thấy cuồn cuộn mênh mông quân Minh đang chạy thục mạng áp sát sau lưng. Nếu dừng chân, thì cho dù không bị giết cũng sẽ bị quân Minh giẫm chết, thế là bọn chúng đành phải cắm đầu cắm cổ chạy về phía trước. Theo sau quân Minh chính là hai cánh quân Thát ở trên chóp núi lúc đầu, vì nhìn thấy đằng trước quân Minh có người của mình, lại không nghe thấy thủ lĩnh ra lệnh thu binh, thế là bọn chúng cũng liền "bèo trôi theo nước" mà "chảy" về phía trước. Do vậy hai bên vừa chạy vừa đánh, trong khi thực lực binh sỹ cũng tương đương, nên nhất thời không phân thắng bại.

Từ lúc Dương Lăng rời khỏi huyện nha chạy đi báo tin, Mẫn huyện lệnh không yên lòng bèn kêu người khiêng đến thành đầu chờ. Khi nhìn thấy đám quân như một cơn hồng thuỷ từ xa xa ập đánh tới, Mẫn huyện lệnh sợ bắn người, liền vội vã ra lệnh cho sỹ tốt thủ thành dàn đại pháo, chuẩn bị nghênh địch.

Đến khi loạn quân chạy tán loạn đến dưới thành, thấy cảnh tượng kinh ngạc ngàn năm có một này, nhất thời Mẫn tri huyện nhìn mà miệng mồm há hốc, hai hàng lông mày dựng đứng cả lên. Lão thật không rõ tình hình bên dưới thế nào, là quân Minh đã tạo phản hay là quân Thát đã quy hàng. Đến khi thấy loạn quân dưới thành vẫn "ngươi một đao, ta một thương" chém giết nhau không ngừng, lão mới đoán ra mấy phần căn nguyên.

Nếu mở cổng thành lúc này, loạn quân Thát Đát thế nào cũng sẽ thừa lúc hỗn loạn mà xông vào thành. Để đội quân hơn một vạn người này biến trạm Kê Minh thành chiến trường, toà cổ thành này chắc chắn sẽ bị phá huỷ. Do vậy, Mẫn Văn Kiến quyết định dứt khoát, lập tức ra lệnh cho quân đội sở thuộc của Giang Bân nghiêm thủ thành trì, không mở thành cho bất kỳ ai.

Dưới thành binh sỹ quân Minh kêu gào "mở thành",huyện thừa dìu Mẫn tri huyện đứng trên thành đầu, hướng xuống thành la lớn:

- Giết giặc là trách nhiệm của các ngươi, giữ đất là chức trách của bổn huyện. Quân Thát còn chưa lui thì cổng thành còn chưa mở!

Đôi khi, nỗi sợ hãi cực độ cũng có thể khiến người ta sinh ra dũng khí giết người. Trong lúc binh sỹ quân Minh còn chưa hết kinh hoảng thì lại bị chặn mất đường lui, quay đầu lại nhìn, vốn dĩ bọn Thát tên nào cũng cao to, kéo đến kéo đi như một cơn gió, nhưng hôm nay bọn chúng cũng giống như bọn họ, chạy đến nhễ nhại mồ hôi, trông cực kỳ thảm hại, tức thì bọn họ dũng khí dâng trào, không cần tướng, tá hạ lệnh liền bắt đầu "bắt cặp" chém giết luôn.

Mẫn huyện lệnh điều động toàn bộ hơn bốn trăm quan binh lưu thủ ở ba cổng thành khác đều đến bờ tường thành nam, dùng cung tiễn hiệp trợ quân Minh dưới thành. Nhiều mũi tên bất ngờ được bắn đi, tuy rằng địch ta hỗn loạn đã giảm thiểu lực sát thương, nhưng sức uy hiếp về tâm lý lại cực lớn.

Bá Nhan Mãnh Khả tự mình dẫn đại quân chặn đường quân Minh ở cuối đầu Hồ Lô cốc, lấy khoẻ ứng mệt (dĩ dật đãi lao). Sỹ tốt Thát Đát lại như sói như hổ, nghênh chiến với quân Minh đang quýnh quáng, dĩ nhiên quân Minh lập tức tan rã, Hạ đô ty Hạ Sĩ Kiệt tử trận. Bá Nhan Mãnh Khả liên tục đuổi theo, nhưng không ngờ trận chiến lại biến thành như thế này.

Lúc này số lượng nhân mã của hắn vốn đã hơi chiếm thượng phong so với quân Minh, về năng lực cận chiến thì lại càng bỏ xa quân Minh, nhưng muốn giết chết hết một nghìn binh lính quân Minh thì bản thân cũng tổn thất hết tám trăm. Vì vậy, nếu như thật sự muốn quét sạch những binh sỹ quân Minh đã đỏ mắt liều mạng này, hắn cũng không chắc sẽ còn người nào có thể bình yên trở về hay không.

Ngoài ra hắn vẫn chưa quên tham tướng doanh mã Trác Lộc Thạch đang chỉ huy một đội quân đang tiến tới gần. Mặc khác, đại quân của Quảng tham tướng Uất huyện tuy bị một cánh nhân mã khác của mình dẫn dụ, nhưng hơn hai nghìn quân tinh nhuệ của Du kích tướng quân Dương Gia Long cũng đang thẳng tiến về phía Hoài Lai, nếu không thể tốc chiến tốc thắng thì sẽ bị quân Minh bao vây ngược lại. Thế là, Bá Nhan Mãnh Khả đã đưa quân đánh lén được một trận, hết cách đành phải thu thập loạn binh, bắt đầu thoái lui.

May mắn cho quân Thát là lúc này quân Minh tự ai nấy đánh, nên không cách nào tổ chức phản kích một cách hiệu quả. Vì vậy, hỗn chiến kéo dài đến nửa đêm, Bá Nhan Mãnh Khả đã có thể thu thập loạn quân rút lui, cướp lấy ngựa rong bên ngoài Hồ Lô cốc rồi trốn xa.

Lúc này Mẫn tri huyện mới mở cổng thành cho tàn quân ào thành. Quân Minh bấy giờ như chim sợ cành cong, hối hả rút vào thành, không có lấy cả dũng khí để thu dọn chiến trường. Trận chiến này quân Minh tổn thất hai nghìn binh sĩ, ngoài ra ba trăm cỗ chiến xa, tám trăm thớt chiến mã đều bị vất lại ở Hồ Lô cốc.

Hà tham tướng thủ ở trạm Kê Minh thêm ba ngày, rồi phụng lệnh Tổng binh Tuyên phủ thu binh quay về thành, còn nhân mã quân đội sở thuộc của Tất đô ty thì lưu thủ tại Kê Minh. Lúc này, Hà tham tướng biết rằng con đường làm quan của mình đã mịt mờ rồi, đành ngoan ngoãn chờ nghe hạch tội.

Sau khi về thành, Dương Lăng đã viết lại một ít tri thức về tăng cường tố chất binh lính và vận dụng hoả khí đưa cho Hà tham tướng. Y thấy rằng, hiện nay loại quân đội "trọng tướng không trọng binh, hai quân giao chiến đều dựa vào dũng tướng, tướng dũng thì binh cũng như hùng sư (sư tử đực), mất tướng thì trăm vạn sỹ binh cũng biến thành cát vụn" này thật sự là quá có vấn đề. Tuy nhiên ngay khi y vừa mới rời đi, thì những điều y đã khổ tâm tư lự viết ra liền bị Hà tham tướng cười khẩy ném xuống bàn:

- Một kẻ thư sinh thì biết quái gì về quân sự chứ?

Trái lại, vị Lưu công công kia lại lặng lẽ nhặt lấy bức thư cất vào trong ngực áo. Bây giờ bất cứ thứ gì có thể gây chút bất lợi cho Hà tham tướng đều là "chứng cứ" để lão "chạy tội", đùn đẩy trách nhiệm cho người khác. Vị Lưu công công này ít học nhưng không ngờ lại có thể viết ra được một bản sớ chương "trình độ cao" đưa khoái mã phi báo về kinh sư: quân ta tổn thất thê thảm, một vị đại quan tứ phẩm tử trận, tất cả đều vì Hà tham tướng ngang ngược độc hành, tham công mạo tiến, mắc mưu giặc Thát.

Ngày thứ bảy sau khi cuộc chiến chấm dứt, Dương lão thái gia bận lòng về nhà cửa ở quê, cho nên thế cục vừa ổn định liền không nhẫn nại được nữa, đòi dẫn tộc nhân trở về Dương gia bình. Thấy vậy, Dương Lăng thở phào nhẹ nhõm. Qua bảy ngày này, y mới biết dấu ấn gia tộc in sâu trên thân thể một người ở thời đại này như thế nào. Nếu trong gia tộc có một người tài hoa xuất chúng, bất luận quan hệ họ hàng xa hay gần, kẻ đó đều phải gánh vác trách nhiệm trọng đại cho cả gia tộc. Vì thế, cả nhà họ Dương nhân khẩu khoảng sáu, bảy mươi người (trong đó có vài người chỉ là họ hàng cùng chi gần cả trăm năm trước), vào thành ăn, ở toàn bộ chi phí đều đến đòi y một cách rất là "hợp tình hợp lý", hệt như đó chính là nghĩa vụ mà y phải hoàn thành.

Hơn nữa những người khác, bất kể là Ấu Nương hay là hương thân đồng liêu, họ cũng đều coi chuyện đấy là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, đối với Dương Lăng thì điều này thật sự hơi khó hiểu. Do vậy, sau khi vất vả tiễn đưa những người này xong, Dương Lăng liền nhẹ nhõ trở về sở Dịch. Một tên tiểu lại chạy đến trước mặt bẩm báo:

- Đại nhân, có một vị tiên sinh muốn gặp ngài, chờ trong phòng khách đã lâu.

Đưa cương ngựa cho một tên dịch tốt, vội chạy đến phòng tiếp khách be bé của sở Dịch thừa, Dương Lăng thấy một lão già mặc áo bào xanh đang ngồi vắt chân trên chiếc ghế dựa chậm rãi nhấp trà. Dương Lăng biết trà của sở Dịch được chia thành bốn cấp, nếu không phải là những quan viên mà mình tự thân khoản đãi, bọn tiểu lại sẽ không dâng loại trà ngon thượng đẳng lên. Khi thấy loại trà tứ đẳng thấp kém ấy mà lão vẫn thưởng thức ngon lành đến vậy, y bèn thầm đánh giá: xem ra lão ta cũng chẳng phải là nhân vật trọng đại gì. Nghĩ vậy, y lấy làm yên tâm, bèn ung dung cười nói:

- Vị tiên sinh đây, tại hạ chính là Dịch thừa của bổn huyện, không biết có điều chi chỉ giáo?

Lão già mặc áo bào xanh một tay bưng trà, một tay nhịp khẽ lên bàn ra điều hài lòng. Nhìn dung mạo của lão thấy tuổi trạc ngũ tuần, vẻ mặt quắc thước, cặp mắt phượng đang khép hờ. Nghe tiếng Dương Lăng, lão hơi mở mắt, nhìn từ trên xuống dưới mấy lượt, rồi cười ha hả nói:

- Dương lão đệ đã về rồi à? Còn nhận ra ta không?

Lão vừa nói, vừa nhẹ tay đặt chén trà lên bàn. Dương Lăng liếc thấy trên tay lão đeo một chiếc nhẫn ngọc lục trong suốt. Thời đó vẫn chưa có sản phẩm hợp chất nhân tạo, màu sắc chiếc nhẫn lại êm dịu như vậy nhất định giá trị của nó không nhỏ. Dương Lăng chột dạ, càng cảm thấy thêm phần hiếu kỳ đối với thân phận của người này. Y bèn nhìn kỹ lại, thấy lão thật cũng có hơi quen quen, song nhất thời y lại không nhớ nổi đã gặp lão ở đâu rồi.

Lão già áo bào xanh thấy Dương Lăng có phần lúng túng, không kìm được bèn bật cười ha hả, đứng dậy nói:

- Lần trước ta và ngươi đã gặp nhau, cũng là ở trong sở Dịch thừa này, khi đó ta là khách, ngươi cũng là khách. Nhưng mà không ngờ chưa đến một tháng, ngươi đã làm chủ nhân rồi.

Dương Lăng "a" lên một tiếng, vui vẻ chắp tay nói:

- Ta nhớ ra rồi, ông là... Ông là bằng hữu của Mã dịch thừa Mã đại nhân, đại dược thương (buôn dược) của Xuyên, Thiểm, Ngô Kiệt, Ngô lão tiên sinh.

Ngô Kiệt, cũng chính là nhà buôn dược lớn đã giúp Mã dịch thừa khuyên nhủ nhà họ Vương rút kiện khi xưa, nghe xong cũng phá ra cười to, liền đó chỉnh lại nét mặt, nghiêm túc nói:

- Ta không phải là bằng hữu của Mã dịch thừa, mà chính là thượng cấp của y. Dương dịch thừa, hôm nay... Ta cũng là thượng cấp của ngươi.

Dương Lăng mặt mày rúng động nhìn lão già thoắt cười tươi roi rói, thoắt thâm trầm lạnh nhạt này, trong lòng chợt loé linh quang, không khỏi la thất thanh:

- Lão tiên sinh là... là Cẩm Y...

Ngô Kiệt nét mặt dãn ra, mỉm cười, chậm rãi nói:

- Hiện giờ ngươi không phải cũng vậy sao? Dương đại nhân, Dương bách hộ!

Dương Lăng sững sờ. Bách hộ? Bách hộ là một chức quan chánh lục phẩm đó trời, và còn là quan chức thuộc vệ sở nữa. Từ lúc nào mình đã tòng quân, lại còn được lên Bách hộ vậy?

Thấy mặt y tràn đầy vẻ kinh ngạc, Ngô Kiệt cười lớn khoát tay nói:

- Không cần phải ngạc nhiên. Ngươi vừa được nhậm chức Dịch thừa tạm thời, thì bộ Lại đã phát công văn, phỏng chừng không lâu sau thì ngươi sẽ có thể tiếp nhận lệnh bổ nhiệm thôi. Dịch thừa Đại Minh chúng ta tuy thuộc quản hạt của bộ Hộ, nhưng ai ai cũng biết rằng, tất cả dịch thừa đều là người của Cẩm Y Vệ chúng ta. Bổn Thiên hộ đã phái người điều tra về ngươi rồi. Ngươi là tú tài năm Hoằng Trị thứ mười lăm, gia thế trong sạch, là hậu duệ của danh tướng Bắc Tống nhà họ Dương. Bây giờ, ta phụng chỉ dụ của Bắc Trấn phủ ty Trấn phủ Trương đại nhân triệu ngươi gia nhập Cẩm Y Vệ, phụ trách truy bắt và thám thính tình báo khu vực Hoài Lai, trao chức Bách hộ, mọi việc ngươi sẽ trực tiếp chịu sự điều khiển của bổn Thiên hộ.

Nói đoạn, Ngô Kiệt rút từ trong ống tay áo ra một cuộn giấy, một thẻ bài giắt lưng, mỉm cười đưa cho Dương Lăng rồi nói tiếp:

- Dương bách hộ! Mã dịch thừa vất vả nửa đời, cũng chưa được phong Bách hộ. Ngươi tuy mới sơ nhiệm Dịch thừa, nhưng đã vì Đại Minh ta lập được đại công, thế nên giành được sự tưởng thưởng này. Ha ha, Bách hộ của Cẩm Y Vệ ta so với Thiên hộ trong quân hãy còn cao hơn ba phần, ngươi chớ có mà phụ sự ân thưởng của Trấn phủ Trương đại nhân đấy nhé!

Mù mờ nhận lấy thẻ bài và chỉ dụ, Dương Lăng lắp bắp:

- Đại nhân, tại hạ... ti chức thật sự không hiểu, ti chức đã từng lập được đại công gì?

Ngô Kiệt cười nói:

- Có công mà không kiêu ngạo, quả nhiên rất tốt, có điều đã là công của ngươi thì ngươi cũng không cần phải khiêm nhường. Tiểu vương tử Thát Đát bố trí mai phục ở Hồ Lô cốc muốn một mẻ tóm gọn quân ta, nhưng may nhờ mật thám Cẩm Y Vệ nhận được tin tức này, Dương dịch thừa lại phi ngựa báo tin mới khiến quân đội Đại Minh tránh được họa thua trắng. Đây còn không phải là một đại công sao?

Dương Lăng thất thanh:

- Cái gì? Nào có chuyện đó, Thiên hộ đại nhân đã hiểu lầm rồi. Khi tại hạ nhận được tin tức đuổi đến thì đã chậm trễ, nếu không phải nhờ Tất đô ty dẫn quân liều chết mở một đường máu thì quân ta đã...

Nói đến đây, y bất giác lạnh người, lập tức không dám nói tiếp những lời phía sau nữa.

Lúc này, ánh mắt của vị Ngô thiên hộ diện mạo quắc thước, phong thái nhẹ nhàng đã trở nên âm u lạnh lẽo, trên người toát ra vẻ lạnh lùng mà chỉ những kẻ có thể tuỳ ý quyết định sinh tử kẻ khác mới có thể có. Lão thoáng cười nhạt, rất lâu sau mới buông ra từng chữ:

- Tiểu vương tử Thát Đát bố trí mai phục ở Hồ Lô cốc, muốn một mẻ tóm gọn quân ta. Hà tham tướng tham công mạo tiến, nhưng may nhờ Cẩm y vệ Dương dịch thừa phi ngựa báo tin, nên quân Đại Minh không bị tiêu diệt, có đúng hay không?

Dương Lăng lạnh người, bất giác đáp:

- Việc này... Ti chức... Đúng ạ!

Ngô Kiệt nhẹ gật đầu, đột nhiên lại mở miệng cười, nói:

- Ngươi vốn là một kẻ đọc sách, thân lại ở xa chốn triều đình nên không biết chuyện trong triều, không hiểu một số chuyện vốn cũng không thể trách ngươi được. Nhưng giờ ngươi đã là người của Cẩm Y Vệ, cho nên... Những chuyện trước đây không hiểu, bây giờ nhất định ngươi phải hiểu!

Dương Lăng không cầm lòng được hỏi:

- Ý đại nhân là...

Ngô Kiệt đưa ngón tay đeo ban chỉ bằng ngọc xoa xoa cằm, thong thả:

- Triều đình cần một chút thể diện, quân đội lại cần một con dê thế tội, Cẩm Y Vệ thì cần phần công lao này, ngươi hiểu chứ?

Thời Minh, chế độ quân đội vệ sở cũng lập ra Bách hộ sở. Bách hộ là quan chỉ huy (trưởng quan) của Bách hộ sở, thống lĩnh 112 quân, gồm 2 tổng kỳ, mỗi tổng kỳ gồm 5 tiểu kỳ; mỗi tiểu kỳ 10 lính. Bách hộ sở trực thuộc Thiên hộ sở. Có lẽ con số 112 bao gồm 2 vị chỉ huy tổng kỳ lẫn 10 vị chỉ huy tiểu kỳ (Rất cám ơn Bác luulang)

Nhà Nguyên, Minh đều cho chư vệ bố trí Trấn phủ ty, thiết lập cấp quan Trấn phủ. Cẩm y vệ sở thuộc của nhà Minh có Nam Bắc Trấn phủ ty.

Nam Bắc Trấn phủ ty là cơ cấu phụ trách thám thính và truy bắt hình sự của Cẩm y vệ, trong đó "Nam Trấn phủ ty" phụ trách quân kỷ, pháp kỷ của bản vệ. "Bắc Trấn phủ ty" ghi chép các án kiện mà Hoàng đế đã khâm định, có ngục riêng (Chiếu ngục), có thể tự do bắt bớ, tra hỏi, hành quyết mà không cần phải qua tổ chức tư pháp.

Một loại nhẫn to đeo trên ngón tay cái, có từ đầu nhà Thanh, đến cuối nhà Thanh mới được biết đến rộng rãi. Đầu đời Thanh, ban chỉ được làm bằng xương, dùng để bảo vệ ngón tay cái khi bắn cung. Sau này, ban chỉ được làm bằng vàng, bạc, ngọc thạch và dùng để trang sức cho giới quý tộc Mãn thanh, hoặc là tặng phẩm của vua ban cho bề tôi có công. (Nguồn: baike)

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 44: Trăng tỏ khó tròn

Ngày mai là rằm tháng giêng. Sau khi trải qua cuộc chiến loạn đêm giao thừa, dân chúng đã tìm lại được cảm giác ngày Tết. Ngay khi Hà tham tướng hậm hực ra đi, quan viên Kê Minh Dịch cũng dần bắt đầu mở tiệc mời nhau tới tấp.

Mãi đến hơn mười ngày sau, lệnh bổ nhiệm của bộ Lại mà theo lời của Ngô thiên hộ là sẽ lập tức đến ngay mới rề rà đưa đến, khiến cho Dương Lăng được một phen kiến thức trọn vẹn sự chênh lệch giữa hệ thống tình báo bí mật và đường đi bình thường của quan phủ.

Hôm nay, Mẫn huyện lệnh thiết tiệc khoản đãi Tất đô ty. Tuy rằng thưởng phạt của triều đình còn chưa ban bố, song ai nấy đều biết Mẫn tri huyện sắp được thăng chức. Tuy quân Hoài Lai thua trận, nhưng trách nhiệm không thuộc về huyện lệnh. Hơn nữa, huyện lệnh là quan văn mà có thể tự tay chém chết vương tử của thủ lĩnh địch quân, trong mắt của thánh thượng và đám đại học sỹ, ý nghĩa chính trị của nó đã vượt xa bản chất của cuộc chiến.

Đang lúc rượu cao hứng, Mẫn tri huyện cười hề hề đi đến trước mặt Dương Lăng, thấp giọng:

- Dương sư gia à, em rể của bổn huyện đã đưa tin đến cho bổn huyện, kinh thành muốn điều ta đi phương nam, nghe đâu là điều nhiệm làm Phó sứ Diêm vận ty Hải Ninh.

Dương Lăng không biết chức quan này phẩm cấp cỡ nào, song thấy Mẫn tri huyện mặt mày hớn hở, nên y nghĩ chắc hẳn chức quan không nhỏ. Hơn nữa vùng đất biên thùy nghèo xác hoang vu này đương nhiên không thể so sánh với Hải Ninh, thế là y vội vàng vòng tay chúc tụng:

- Chúc mừng đại nhân! Chúc mừng đại nhân!

Phó sứ Diêm vận ty là quan Tòng ngũ phẩm, đối với tri huyện một huyện cấp ba như Mẫn Văn Kiến có thể được xem là đã thăng liên tiếp ba cấp rồi . Quan trọng nhất chính là Diêm vận sứ là một chức quan cực tốt. Diêm thương (nhà buôn muối) vùng đó đều là ức vạn phú ông, giàu nứt đố đổ vách, chỉ cần chút tiền lọt qua kẽ hở ngón tay thôi cũng đủ cho người ta ăn cả đời rồi.

Mẫn tri huyện thích chí cười tít mắt, xua tay lia lịa:

- Nói nhỏ chút đi! Nhỏ chút đi! Chiếu chỉ còn chưa ban xuống, chưa thể nói gì được.

Thoáng nhìn đám quan lại đang luân phiên mời rượu nhau, nói cười rôm rả, lão nói tiếp với Dương Lăng:

- Sau khi bổn huyện qua đó, một khi ổn định rồi sẽ liền giúp ngươi hoạt động, cũng điều ngươi đến Giang Nam. Bổn huyện ngồi ở cái xứ Kê Minh khỉ ho cò gáy này hết hai năm cũng không được chút công tích nào, ngươi vừa tới, bổn huyện liền được thăng quan. Ngươi thật đúng là phúc tướng của bổn huyện.

Điều đến Giang Nam tất nhiên là tốt, nhưng mà tôi còn mạng hưởng phúc sao? Vả lại thân phận công khai trước mắt của tôi là Dịch thừa, trong tối đã là Cẩm y vệ Bách hộ, còn cao hơn lão đại ông một cấp, không được Cẩm y vệ gật đầu, việc điều động đâu dễ vậy được?

Nghĩ đến đây, Dương Lăng gượng cười, đáp:

- Đại nhân đã yêu mến đề bạt ti chức, Dương Lăng thật cảm động, xin ghi khắc trong tim, không biết lấy gì báo đáp!

Trộm thấy y có vẻ lơ đễnh, Mẫn tri huyện không khỏi cười ha hả. Lão đấm vai Dương Lăng, thân mật nói:

- Đại trượng phu chí tại bốn phương, chớ nên bi quan như vậy. Vả lại sau khi ta nhậm chức, thế nào cũng phải mất một năm rưỡi mới có thể tìm được cơ hội điều ngươi đi. Ngươi nên thoải mái một chút, thời gian dài như vậy đủ để sinh con rồi. Đã có lòng thì "ra tay" sớm chút đi, chớ nên lề mề chậm chạp.

Dương Lăng ù ù cạc cạc, chả hiểu mô tê gì:

- Ủa! Ủa? Sao ti chức chẳng hiểu đại nhân đang nói gì cả?

Mẫn tri huyện bĩu môi, liếc xéo y nói:

- Tiểu tử nhà ngươi chả thành thật! Chuyện này mọi người đều biết cả rồi, ngươi còn muốn giấu ta sao? Ha ha, cũng khó trách ngươi phải giấu giấu diếm diếm, đứa con gái đó thật sự là "mọng véo ra nước" quá mà. Nhưng ngươi yên tâm đi, ông đây không ham nữ sắc, ha ha ha...

Dương Lăng đầu óc mù mờ còn đang muốn truy vấn, Tất đô ty đã gọi lớn kêu Mẫn tri huyện qua. Y đang cảm thấy thắc mắc quay người lại thì Lưu điển sử mỉm cười đi tới, nâng chén chúc mừng:

- Dương lão đệ, chúc mừng song hỷ lâm môn, hôm trước vinh dự nhậm chức dịch thừa, ít hôm nữa lại "đỗ nhỏ" . Đến lúc đó Lưu mỗ lại phiền kính một chén rượu nhạt đấy.

- Nào có, nào có, Lưu đại nhân khách khí rồi!

Dương Lăng cười rồi cùng nâng chén. Lúc này y mới ngẫm lại ý tứ trong câu nói vừa rồi: "Đề tên trên bảng vàng là đỗ lớn, động phòng hoa chúc là đỗ nhỏ. Hắn nói mình 'đỗ nhỏ' là có ý gì?"

Dương Lăng muốn hỏi lại cho rõ, nhưng ai nấy đều chỉ uống cho cao hứng rồi đi lung tung chuyện trò, vớ lấy một người thì lè nhè vài câu. Lưu điển sử vừa dứt lời đã loạng choạng đi thẳng đến chỗ Vương chủ bộ. Ánh mắt Dương Lăng mãi dõi theo lão đến nổi Hoàng huyện thừa đến bên cạnh mà cũng không hay biết.

Hoàng huyện thừa thong thả bước đến cạnh y, ho nhẹ một tiếng, rồi mỉm cười nói:

- Mẫn đại nhân sắp thăng quan! Dựa vào tư cách, lai lịch của cậu và mối quan hệ với Mẫn đại nhân, theo lão phu đoán, không tới mấy năm cậu sẽ có thể lên đến thất phẩm. Tiếp đó có thể vượt được Vũ môn hay không, phải xem phúc khí của cậu nữa. Cậu còn trẻ, chỉ cần cẩn thận làm quan, một mai phong vân tề tụ , tiền đồ tự nhiên vô lượng, nóng vội sẽ lại không được.

Dương Lăng thấy Hoàng huyện thừa đến, vội cung kính đáp:

- Đa tạ Hoàng lão chỉ điểm, học sinh xin thụ giáo!

Hoàng huyện thừa thấy chung quanh không ai chú ý, đột nhiên thấp giọng nói:

- Có điều chuyện lần này cậu thật đã lỗ mãng rồi! Nhà họ Mã tuy đã sa sút nhưng suy cho cùng người ta cũng từng làm quan, hôm nay chuyện của các cậu ai ai cũng đã biết, tại sao cậu cứ kề cà không chịu sắm đồ mua thiếp ? Nếu trong túi eo hẹp, mấy năm nay lão phu vẫn còn chút tiết kiệm, cậu cứ tạm cầm để ứng phó trước vậy.

Dương Lăng thất kinh:

- Hoàng lão, ông nói gì vậy? Nạp thiếp? Tôi... tôi... Tôi nói là muốn nạp thiếp khi nào vậy? Hơn nữa tiểu thư nhà họ Mã vì lý gì lại chịu làm thiếp người ta?

Y vừa nói xong, Hoàng huyện thừa đã giật nảy mình, vội luôn miệng nói:

- Cẩn thận lời nói, cẩn thận lời nói! Cậu nói bậy bạ gì thế? Làm thiếp người ta tuy hơi mất thể diện, nhưng cũng không ai lại chê cười nàng. Còn cậu nói như vậy, lỡ mà lan truyền ra ngoài, tiểu thư nhà họ Mã làm sao sống được đây?

Dương Lăng trợn mắt hỏi:

- Hoàng lão, rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì vậy? Tại sao... tại sao học sinh nghe mà không hiểu?

Hoàng huyện thừa cười nói:

- Nạp thiếp rước người đẹp về, đó là chuyện hết sức phong lưu, cậu còn nghệch mặt ra là sao? Hôm đó cậu cùng Mã tiểu thư quay về thành, bọn ta với Mẫn tri huyện đã nghe Mã tiểu thư kể lại đã từng cùng cậu trải qua một đêm trong hố tuyết trên rừng núi...

Nghe xong, lúc này Dương Lăng mới chợt tỉnh ngộ, không kìm được đành bật cười ha hả, nói:

- Hoàng lão quả nhiên đã hiểu lầm rồi. Tôi cùng Mã tiểu thư chỉ là vì trời đông đất lạnh, không hề có bất kỳ...,

Nói đến đây, y chợt nhớ đến chuyện hai người từng ôm nhau qua đêm; cho dù ở thời hiện đại cũng đủ coi là mờ ám rồi, thế là y lập tức nghẹn họng, không nói gì được nữa.

Hoàng huyện thừa vân vê chòm râu, hơi phật lòng, nói:

- Tóm lại chuyện cô nam quả nữ cùng nhau qua đêm là thật, đúng không? Nàng ta dám kể chuyện này cho mọi người, hiển nhiên đã có tình ý với cậu. Nữ tử coi trọng danh tiết, nàng còn có thể chọn chồng khác tái giá được sao? Làm giàu thì phải nhân từ, làm quan thì phải liêm chính, làm người thì phải có tình nghĩa. Cậu là kẻ đọc sách thánh hiền, chẳng nhẽ còn không hiểu đạo lý này hay sao? Ta coi cậu như con cháu nên mới nói câu chân thành như vậy với cậu, cậu nhất định chớ phạm sai lầm đó!

Dương Lăng thoáng nghẹn lời, nhất thời cũng không nói thêm được gì...

***

Tuyết đọng dưới chân bờ tường trên con đường truyền tin bị Dương Lăng giẫm lên phát ra những tiếng "rộp rộp". Bước vào gian thứ tư của dịch quán, ngẩng đầu nhìn thấy đèn treo trong sân của Mã Liên Nhi vẫn sáng, Dương Lăng nhớ lại lời Hoàng huyện thừa đã nói trong bữa tiệc hồi tối, trong lòng máy động bèn chầm chậm bước tới.

Cửa phòng không đóng, dưới ánh đèn có thể thấy khói bếp bên trong lan toả ra ngoài, Dương Lăng bước tới cửa, nhìn thấy Mã Liên Nhi đang ngồi trên chiếc ghế đặt trước bếp, một tay chống cằm, một tay đun củi vào lò, dáng trông rất nhàm chán, tư thế uể oải yêu kiều động lòng người.

Ánh lửa soi lên khuôn mặt trắng bóng như ngọc của nàng, thoáng lộ vẻ ửng hồng mỹ lệ, đôi mắt quyến rũ mê người lờ mờ lộ vẻ trưởng thành: sự dằn vặt khiến cho người ta trở nên chín chắn. So với buổi đầu gặp gỡ, vị đại tiểu thư này hôm nay đã bớt sôi nổi và khinh xuất, bất giác đã nhã nhặn và trầm tĩnh hơn.

Dương Lăng gõ nhẹ lên khung cửa. Mã Liên Nhi ngẩng đầu, nhìn thấy y, trong mắt nàng bỗng loé lên một tia vui mừng và thân thiết. Nàng phấn khởi định đứng dậy, song lại lập tức thu lại tình cảm đã biểu lộ, mỉm cười nói:

- Từ lúc trở về thành, đã mấy ngày rồi không gặp huynh! Tiệc rượu đã tàn rồi sao?

Dương Lăng giật mình, không nhịn được bèn hỏi:

- Làm sao cô biết tôi đi dự tiệc?

Mã Liên Nhi không trả lời, chỉ dùng cặp mắt biết nói liếc y thật sâu. Dương Lăng chợt sững người. Y chợt biết, những ngày qua chắc chắn Mã Liên Nhi không lúc nào không để ý tới hành tung của y. Những lời nàng nói trong cái đêm trên Ngũ Sách Lĩnh đó, thật chỉ là nói đùa sao?

"Nàng ta dám kể chuyện này cho mọi người, hiển nhiên đã có tình ý với cậu. Nữ tử coi trọng danh tiết, nàng còn có thể chọn chồng khác tái giá được sao?" Ngẫm lại lời Hoàng huyện thừa, Dương Lăng chợt hiểu. Mình không biết có nhiều cấm kỵ như vậy, nhưng Mã Liên Nhi lại có thể không biết sao? Nàng đã kể lại những chuyện này, rõ ràng là đang tạo ra một sự thật đã rồi, lợi dụng dư luận khiến mình phải rước nàng về.

Dương Lăng không khỏi cười khổ:

- Liên Nhi tiểu thư! Có phải là cô đã cố ý đem chuyện chúng ta bị lạc trong rừng, cùng trải qua một đêm dưới hố tuyết kể cho mấy người Mẫn đại nhân phải không? Cô rõ ràng biết những thứ lễ nghi phiền phức đó hại chết người, vậy mà còn đem danh tiết của mình ra đùa được. Sao cô có thể làm ra chuyện ngốc nghếch như vậy chứ?

Mã Liên Nhi chợt ngưng bỏ củi vào lò, im lặng một hồi, rồi đột nhiên bật cười lớn đáp:

- Chẳng phải ngốc sẽ tốt hơn hay sao? Chẳng phải người ta thường nói con gái bất tài thì có đức sao? Huynh thích muội thông minh một chút hay là ngốc một chút?

Nàng cười có phần xảo quyệt, lại có phần đắc ý như đã đạt được quỷ kế.

Dương Lăng giậm chân nói:

- Sao cô lại chẳng biết nặng nhẹ đến vậy? Mồm mép chết người, cô... Cô thật quá khinh xuất rồi!

Tay Mã Liên Nhi thoáng run lên. Không hề ngẩng đầu lên, nàng cứ cúi đầu một hồi lâu rồi bỗng nghẹn ngào hỏi:

- Dương Lăng! Có phải huynh rất ghét muội hay không?

Bếp lửa hồng bùng lên những ngọn lửa, Dương Lăng bắt gặp một giọt nước mắt trong suốt nhỏ xuống mu bàn tay nàng, bất giác mềm lòng, bèn vỗ về:

- Sao lại có thể như thế được chứ? Có lúc nào cô thấy tôi ghét cô không?

Mã Liên Nhi nín khóc, mỉm cười:

- Đương nhiên là... chưa thấy. Huynh có thích muội hay không, muội nhìn ra ngay.

Bếp lửa hồng sáng rực, vẻ mặt tươi cười rạng rỡ đang mang đầy nét vui sướng lẫn đắc ý.

Dương Lăng buồn bực. Nha đầu này chẳng những diện mạo giống hồ ly tinh, bụng dạ cũng hệt như một cô nàng tiểu hồ ly. Thật không biết mới nãy nàng ta thật sự đau lòng hay là giả đò đau lòng nữa, bộ dạng của nàng nào có giống như người mới khóc đâu?

Bị y nhìn chằm chằm, Mã Liên Nhi vậy mà lại biết thẹn thùng, nàng ngượng nghịu cúi đầu, đỏ mặt nói:

- Dương đại ca, đêm đó là muội không tốt. Huynh nói đúng, nếu như huynh thật sự thôi Ấu Nương, vậy còn đáng để muội yêu sao? Hôm đó ở dưới thành, nhìn thấy ánh mắt huynh nhìn Ấu Nương thì muội đã biết cả cuộc đời này sẽ không có ai có thể thay thế vị trí nàng ấy trong trái tim huynh. Muội nào dám mộng tưởng tranh giành địa vị đó, muội chỉ hy vọng... chỉ hy vọng huynh cũng có thể đối xử tốt với muội, thì muội đã đủ thoả mãn rồi.

Nàng ngẩn ngơ nhìn chăm chăm vào ánh lửa bập bùng, ánh mắt tràn ngập sự khao khát được hạnh phúc, rồi nói với giọng mơ màng:

- Muội chỉ cần có một phu quân có thể cưng muội, yêu muội thì đã cảm thấy mỹ mãn rồi. Ăn ngon mặc ấm? Muội không khao khát. Còn địa vị chính thê?... Hừm! Nếu như một nam nhân coi nữ nhân là tài sản riêng của mình, giống như cha muội, và cũng như rất, rất nhiều nam nhân Đại Minh chúng ta, thì cái gọi là chính thê đó, liệu có đem đến hạnh phúc cho người ta không?

Bằng giọng điệu cứng cỏi chứa đựng một sự chín chắn không cân xứng với tuổi tác, nàng thổ lộ nội tâm thiếu nữ với Dương Lăng:

- Muội lớn lên vùng biên ngoại, ăn nói, cư xử không biết giữ lễ, quy củ như con gái Trung Nguyên chúng ta. Nhưng muội tuyệt đối không phải là một đứa con gái tuỳ tiện. Dương đại cạ, muội sẽ tuân theo đạo làm vợ, kính trọng Ấu Nương.

Dương Lăng giậm chân cười khổ:

- Cô... Ngày thường thấy cô thông minh lắm mà, sao lại bất chấp lý lẽ như vậy chứ? Tôi không đùa với cô nữa, ngày mai tôi sẽ lập tức đi tìm Mã Ngang bái kết nghĩa. Hẳn không ai có thể huyên thuyên chuyện huynh muội vì mạng sống mà náu thân cùng một chỗ chứ?

Mã Liên Nhi thấy y quay người sắp bỏ đi thì phát hoảng, nàng vội vã phóng tới ngăn y, rồi lao vào lòng ôm lấy y hờn mắng:

- Cả nửa tháng huynh mới tới gặp muội, muội không cho huynh đi!

Dương Lăng cuống lên, vội vã kêu:

- Mau bỏ tay ra, để người ta trông thấy thì còn ra thể thống gì?

Mã Liên Nhi càng ôm cứng lấy y không chịu buông. Khuôn mặt ngọc còn chưa khô lệ hé một nụ cười lấy lòng:

- Kẻ có danh tiết không biết giữ là muội, kẻ đáng bị người ta nhổ nước bọt dìm chết cũng là muội. Hết thảy muội đều không sợ, huynh sợ gì chứ?

Dương Lăng nghẹn họng, lắp bắp nói:

- Là... Tôi... là tôi lo cho cô thôi!

Mã Liên Nhi chợt đảo đôi mắt trong veo, quyến rũ nói:

- Chàng vẫn có thể cưới, thiếp còn chưa gả, muội mới không sợ kẻ khác nói lời đàm tiếu.

Trong ánh mắt loé lên một tia khinh miệt và oán hận kỳ lạ, nàng bỗng nhiên căm giận thốt lên một câu tục ngữ: "Nghe tiếng dế kêu mà không trồng trọt ư!"

Dương Lăng đứng trơ ra đấy, dở khóc dở cười. Mã Liên Nhi nở một nụ cười xinh đẹp, hai tay vẫn ôm lấy cổ Dương Lăng, say sưa nói:

- Từ sau đêm ấy, muội rất nhớ vòng tay của huynh, nhớ đến những câu truyện xưa vừa dễ sợ, lại hấp dẫn mà huynh kể cho muội nghe. Huynh biết không, bắt đầu sau cái đêm ấy, muội đã không thể nào cách xa huynh được nữa.

Lời của nàng thật sự thốt lên tự đáy lòng, ngữ khí hết sức chân thành. Đáng tiếc khuôn mặt trời sinh đoan chính của nàng vốn chứa sức mê hoặc của loài yêu tinh, chỉ là vì tuổi tác hãy còn nhỏ, còn chưa hiện quá rõ. Lúc này hình ảnh một thiếu nữ mơ mộng trong tình yêu, vẻ mặt nhu mì, má đỏ hây hây, bất kể có tình cảm chân thành và nồng nàn như thế nào cũng vẫn mang vẻ yêu kiều lẳng lơ, dường như đang cố ý quyến rũ người.

Thấy vẻ mặt khó xử của Dương Lăng, nàng ranh mãnh nói:

- Huynh thật muốn kết bái với đại ca muội à? Thật sự muốn làm thân ca ca của muội?

Đôi mắt lấp lánh đen nhánh đó cháy ngầm hai ngọn lửa, bờ mi thẹn thùng rũ xuống, miệng khẽ ngâm nga một bài hát: "Củi khô ~ Lửa cháy ~ Nấu nên cơm ngon í a ~ Nghĩa huynh, nghĩa muội ~~~ Càng thêm thân ~~", chỉ hát được mấy câu, nàng không nén được xấu hổ mà vùi vào lòng Dương Lăng, lấy hết dũng khí nói:

- Bài hát này muội học ở biên ngoại, huynh muốn làm anh... kết nghĩa của muội? Được á, muội thấy chả sao cả!

Dương Lăng hoàn toàn hoá đá: "Đồng chí, đồng chí từ nơi nào vượt thời không đến đây vậy?" Cô nàng đại tiểu thư ở trước mặt người khác thì hoá trang thành một tiểu thục nữ này, ở trưóc mặt y lại tràn trề nóng bỏng hệt như một người đàn bà vùng quan ngoại, không chút che giấu (cái hotness của her!).

Mã Liên Nhi lấy hết dũng khí mạnh dạn thổ lộ nỗi lòng xong, nhiệt độ trên khuôn mặt xinh xắn không ngừng tăng lên. Bàn tay của nàng dán lên cổ Dương Lăng, mu bàn tay bị lò bếp hun, mềm mại và nóng hừng hực. "Đôi gò bồng đảo đầy đặn mê người ở trước ngực nàng có phải cũng 'mềm mại và hừng hực' như vậy hay không?"

Dương Lăng biết rõ là không nên nghĩ đến nó, nhưng khi ánh mắt vừa chạm phải đường cong ưu mỹ trước ngực nàng, trong đầu y không tự chủ mà loé lên cái ý nghĩ đấy. Y chỉ cảm thấy bụng dưới nóng lên, một loại xao động khó có thể chế ngự khiến y thiếu chút nữa mất tự chủ, hôn lấy đôi môi anh đào có thể tuỳ ý "chiếm đoạt" ấy của nàng.

"Bước thêm một bước thì sẽ không thể quay đầu được nữa đâu!" Dương Lăng âm thầm cảnh báo chính mình, rồi vùng thoát khỏi vòng tay của Mã Liên Nhi. Bị bất ngờ, Mã Liên Nhi loạng choạng lui lại mấy bước, sắc mặt lập tức trở nên trắng bệch, đôi mắt cong vút tựa vầng trăng bỗng nhiên đờ đẫn, giống như tử tù bị áp giải ra pháp trường - tràn ngập sự hoảng sợ.

Nếu như Dương Lăng có tình, có ý với nàng, nếu như y chịu nạp nàng làm thiếp, thì sao y có thể đối xử với nàng như vậy? Mã Liên Nhi cố kìm chế bản thân, muốn giữ lại chút tôn nghiêm cuối cùng, nhưng nước mắt lại cứ tuôn trào, đồng thời khoé miệng nhếch lên một nụ cười thê lương.

Dương Lăng không đành lòng, bèn quay đầu đi, khẽ nói:

- Liên Nhi tiểu thư! Dương Lăng không phải là người đáng để cô phó thác cả đời. Thật đấy, lời tôi nói ngày hôm nay không phải vì bản thân tôi, cũng không phải vì Ấu Nương, mà chỉ là vì cô. Hai năm, nhiều nhất là hai năm, cô sẽ hiểu vì sao tôi lại cự tuyệt cô!

Y không dám quay đầu lại, cứ vậy bước thẳng ra ngoài, mất hút trong màn đêm. Mã Liên Nhi chầm chậm bước đến cửa, đôi mắt đượm nỗi mất mát thất thần nhìn về phía y vừa biến mất, một lúc lâu sau lại chậm rãi hướng lên bầu trời.

Trời đêm trong vắt, một vầng trăng sáng như chiếc mâm bạc lấn át bầu trời, soi sáng vô số chùm sao.

Lệ đẫm nhoè mi, Mã Liên Nhi khẽ ngâm: "'Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số .

Muội không biết huynh đang nói gì, không hiểu huynh đang tìm cớ gì. Có lẽ đối với huynh, ở chung với nhau đêm đó không đáng là gì, nhưng mà huynh có biết, với muội, đó lại là hạnh phúc mà suốt cuộc đời muội cũng khó thể quên."

Tri huyện Kê Minh Dịch là quan Tòng thất phẩm

Thuở xưa, việc thi đậu và việc cưới vợ gần như liên tiếp gắn liền với nhau, vì thi đậu Trạng Nguyên thì được nên danh phận, rồi có nhiều gia đình quyền quí kêu gả con gái cho. Do đó, người xưa xem việc thi đậu Trạng là Đại đăng khoa (đậu lớn), cưới vợ là Tiểu đăng khoa (đậu nhỏ).

Nguyên văn "phong vân tế hội" ý chỉ gặp được cơ hội hiếm có, sẽ thăng quan tiến chức vù vù.

Thời đó, khi cưới vợ (thê) thì được gọi "thú" (cưới), mà thiếp lại là "nạp". Lễ vật tặng cho gia đình nhà vợ khi "thú thê" (cưới vợ) được gọi là "sính lễ", mà lễ vật dành cho lúc "nạp thiếp" thì lại bị gọi là "đồ mua thiếp".

Nguyên văn "thính lạt lạt cổ khiếu, hoàn bất chủng địa liễu ni": "lạt lạt cổ" là một loại côn trùng có hại cho hoa màu, thuộc họ dế nhũi, nghĩa đen là: nghe thấy tiếng dế kêu mà sợ không dám trồng trọt. Tục ngữ này răn chớ nên nghe những lời tầm phào (tiếng dế) mà hãy cứ làm chuyện mình nên làm (trồng trọt).

Dịch thơ

"Gió vàng sương ngọc tìm nhau

Đường trần muôn kiếp có đâu sánh cùng" (vietkiem.com)

Đây là câu thơ trích trong bài "Thước kiều tiên" (Cầu ô thước) của Tần Quán viết khi bị đày ra biên cương, chia cắt với người vợ là Tô Tiểu Muội.

Hai câu này miêu tả sự gặp gỡ của Ngưu Lang và Chức Nữ (kim phong: gió thu, do mùa thu thuộc hành kim), ám dụ rằng phu thê của tác giả chia cách đôi nơi, nhưng với tình cảm sâu đậm của phu thê họ, gặp nhau một lần còn giá trị hơn nhiều lần gặp mặt của người khác.

Nguyên văn:

鵲橋仙

纖雲弄巧

飛星傳恨

銀漢迢迢暗度

金風玉露一相逢

便勝卻人間無數

柔情似水

佳期如夢

忍顧鵲橋歸路

兩情若是久長時

又豈在朝朝暮暮

Hán Việt:

Tiêm vân lộng xảo,

Phi tinh truyền hận,

Ngân Hán điều điều ám độ.

Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng,

Tiện thắng khước nhân gian vô số.

Nhu tình tự thuỷ,

Giai kỳ như mộng,

Nhẫn cố thước kiều quy lộ!

Lưỡng tình nhược thị cửu trường thì,

Hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ?

Dịch nghĩa:

Từng đám mây màu nhỏ khoe đẹp

Sao bay truyền cho nhau nỗi hận

Sông Ngân vời vợi thầm vượt qua

Gió vàng móc ngọc một khi gặp nhau

Hơn hẳn bao lần ở dưới cõi đời

Tình mềm tự nước

Hẹn đẹp như trong giấc mơ

Không nỡ nhìn cầu Ô Thước là lối về

Hai mối tình đã thật sự là lâu dài

Há đâu cứ phải gặp nhau chiều chiều sớm sớm

Vài bài dịch thơ:

Mây viền khoe đẹp,

Sao bay đưa hận,

Thầm qua sông Ngân vời vợi.

Gió vàng, móc ngọc một gặp nhau,

Hơn biết mấy người đời gần gụi.

Tình mềm tựa nước,

Hẹn đẹp như mơ,

Cầu Thước nhìn về ngại nỗi.

Hai tình ví phỏng mãi lâu dài,

Đâu cứ phải mai mai tối tối.

(Nguyễn Xuân Tảo, thivien.net)

Âm thầm quá bước Ngân hà

Sao bay gửi hận mây hoa khoe màu

Gió vàng sương ngọc tìm nhau

Đường trần muôn kiếp có đâu sánh cùng

Nhu tình mộng đẹp tương phùng

Ngậm ngùi chẳng nỡ ngoảnh trông thước kiều

Tình xưa nếu mãi còn yêu

Cần chi sớm sớm chiều chiều bên nhau

(Phi hoa phi tuyết, Vietkiem.com)

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 45: Mùa xuân đã đến

Tháng hai đầu xuân, tiết trời vẫn còn lạnh lẽo cô liêu, nhưng nụ đào đã nở, cỏ cây cũng đã nảy chồi non xanh nhạt.

Trên sân đập lúa bằng phẳng sực nức mùi thóc gạo. Bọn dịch tốt đã chuyển tất cả lương thực trong kho ra ngoài sân đập; chân để trần, tay giơ cào gỗ, xới thóc lên phơi.

Tiếp sau đó, Dương Lăng được một phen "bận rộn". Thấy lương thực đã được trải đều, y liền xỏ giày thong thả bước ra khỏi sở Dịch. Công việc hiện giờ của y rất nhàn hạ, thành Kê Minh vừa trải qua trận chiến, ngoại trừ một số thư từ công văn ra thì không phải tiếp nhận nhiệm vụ gì cả. Song ở bên phía Cẩm Y Vệ, tin tức bí mật lại lui tới như thoi đưa.

Theo như tình hình được miêu tả trong các bản tin tình báo, các bộ lạc trên thảo nguyên cũng đang không ngừng phân tranh. Lúc hợp lực tấn công cướp bóc các thành trì gần biên giới Đại Minh, bọn chúng giống như một đám cường đạo kết phường cướp bóc, ngầm hẹn phối hợp với nhau. Khi lui về, sẽ lại vì phân chia chiến lợi phẩm không đồng đều mà bắt đầu hiềm khích lẫn nhau. Giữa các bộ lạc Thát Đát và các bộ tộc khác thường xảy ra chuyện đánh giết.

Nghe đâu Nữ Chân, Tây Phiên và một số bộ lạc nhỏ thân đơn thế cô của Thát Đát, mặc dù cũng tham gia cướp phá đợt này, nhưng kết quả là nhân mã tổn thất thảm trọng, tài sản được phân chia lại ít nhất. Trải qua trận chiến này cuộc sống bọn họ lại càng thêm gian khổ: nấu cơm không có nồi sắt, nêm món ăn không có muối, không có lấy cả một bộ quần áo chỉnh tề. Có điều lúc này cỏ đã mọc xanh trên thảo trường, chim oanh bay lượn khắp nơi, những người dân du mục mưu sinh bằng chăn nuôi sắp bắt đầu cuộc sống mới cho nên không còn lo bọn họ tấn công nhà Minh vào mùa này.

Mẫn huyện lệnh đã đến Hải Ninh nhậm chức. Sắp tới đây Tất đô ty cũng phải lên đường trở về Giang Nam. Còn cha con Hàn Lâm vốn là hộ săn bắn trong núi, không có ruộng đất, không cần phải trở về. Trong trận chiến vừa qua, dịch tốt Kê Minh tử thương gần ba phần, đang lúc thiếu người, Dương Lăng bèn thu xếp đưa cha vợ và anh vợ vào làm việc trong sở Dịch. Còn cậu em vợ Hàn Mãn Thương, mặc dù chú ta cũng nhao nhao đòi làm dịch tốt nhưng cho dù có khai man tuổi thì cái bộ mặt búng ra sữa của nó cũng quá rành rành, nên đành phải thôi.

Dưới nỗ lực của Dương Lăng cùng với sự trợ giúp trấn áp của Vương chủ bộ và Hoàng huyện thừa, nhìn chung lời đàm tiếu về "Dương dịch thừa tuyết dạ bạn mỹ nữ, tú tài công chánh nguyệt nạp kiều nương " lưu truyền trong nha môn đã được khống chế, không lan truyền đến dân thường và quân lính.

Tạm dịch:

Dương dịch thừa đêm đông cùng mỹ nữ

Ông tú tài giêng đến nạp thiếp xinh

Dương Lăng phải suy nghĩ nhiều như vậy, mối bận tâm về Mã Liên Nhi cũng phai nhạt đi, chuyện cứ thế trôi qua. Ai ngờ, không biết bởi vì hai người cùng tuổi hay vì Mã Liên Nhi là bạn gái duy nhất của Hàn Ấu Nương trong dịch thự, mà chuyển đến chưa được mấy hôm, hai người đã đối xử với nhau rất thân thiết.

Tuy Mã Liên Nhi tránh mặt không gặp Dương Lăng, song tình thân giữa nàng với Hàn Ấu Nương thì lại càng lúc càng mật thiết. Hai ngày trước Dương Lăng vô tình gặp cô nàng một lần. Mới chỉ hơn một tháng, hai má của nàng đã gầy đi, cằm cũng nhọn hơn, đôi mắt có vẻ to hơn nhưng ánh mắt thì lại ít có thần hơn.

Trông thấy vậy, Dương Lăng cũng không biết là nên đau lòng hay nên áy náy. Y chỉ có thể cố hết sức trong khả năng của mình, căn dặn người chiếu cố cho cuộc sống nàng tốt hơn một chút. Mạng sống của bản thân y quá ư ngắn ngủi, trong khi Mã Liên Nhi vẫn còn có thể lựa chọn khác; với sắc đẹp của nàng ấy, không nghi ngờ gì sẽ có thể tìm được một tấm chồng yêu thương và nuông chiều nàng. Nhận nàng làm thiếp ư? Như vậy là quá ích kỷ. Nếu lợi dụng lúc nàng không hay biết về cuộc sống đoản mệnh của mình mà bỉ ổi tiếp nhận nàng, vậy ta yêu nàng hay làm hại nàng? Như vậy là quá bất công cho nàng!

Về phần Ấu Nương, y đã suy nghĩ nghiêm túc và đã thông suốt. Từ giây phút y mở mắt ra, Ấu Nương đã được ông trời xếp đặt là người của y. Những ngày qua, y đã biết rõ Ấu Nương là một phụ nữ rất truyền thống, rất chất phát. Ngay từ lúc đầu, khi còn hoàn toàn lạ lẫm với phu quân, còn chưa có tình cảm gì, nàng đã quyết tâm vì y trọn đời thủ tiết, huống hồ giờ đây tình cảm bọn họ đang nồng nàn sâu đậm như vậy.

Lối nghĩ mà ban đầu y cho là đúng, tuyệt nhiên không thể thành hiện thực được. Nếu cứ cùng Hàn Ấu Nương sống hết hai năm với thứ tình cảm nửa như tình thân, nửa như tình yêu này, nhất định y sẽ ôm theo mối hận suốt đời mà bắt đầu kiếp luân hồi mới. Còn Ấu Nương? Những gì mình để lại cho nàng sẽ chỉ là nỗi đau thương vô tận và thêm nhiều nhung nhớ.

Nếu đã như vậy, thì sao không để cả hai cùng trải qua hai năm trong ngọt ngào và hạnh phúc? Nếu có thể cho nàng một kết tinh của tình yêu... Mắt Dương Lăng đã ươn ướt. Làm chồng, làm cha, chỉ cần nghĩ một chút, một cảm giác trách nhiệm nặng trĩu và thành tựu đã khiến y kích động không ngừng.

Tuy rằng sinh mạng hơi ngắn ngủi, nhưng cuộc sống chung của bọn họ cũng muôn màu muôn vẻ. Nếu lại có thêm một đứa con bé bỏng thì cho dù có mình có mất đi, Ấu Nương vẫn sẽ có chỗ dựa, vẫn có thể dũng cảm sống tiếp. Đứa con của bọn họ vẫn sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho nàng.

Nhưng mà, khi y vừa có cái quyết tâm khiến y kích động không thôi này, lời nói dối đáng chết đó lại trở thành chướng ngại vật. Sẽ phải nói với Ấu Nương thế nào đây? Cho dù Ấu Nương vẫn luôn tuân lời y, nhưng e rằng việc này liên quan đến sống chết của y, tiểu nha đầu cũng khó mà đành lòng để y thắt cổ trong yên bình. Nàng không thuận lòng lên giường, chăng nhẽ y phải giở trò cưỡng gian? Ha, đợi đến khi nào mày đánh thắng được nàng rồi hãy cân nhắc nhé!

Dương Lăng gãi cằm cười khổ không thôi. Bản tính y vốn ngả ngớn hoạt bát, nhưng từ khi gặp được Ấu Nương, y lại càng lúc càng trở nên trầm tĩnh và thực tế, quả thật chẳng giống chính mình. Cái cô bé cưng ngây thơ thuần khiết, dịu dàng đáng yêu này thiệt là!

Dương Lăng vừa đi vừa nghĩ đến Ấu Nương, khi thì mỉm cười, khi thì lại khẽ nhíu mày. Bên bờ sông nhỏ ngoài phía đông thành, nước sông đã tan hoàn toàn, dòng nước trong veo vui sướng chảy băng băng. Lấy tay dò thử thì thấy nước vẫn lạnh thấu xương, song đã có thể chịu được.

Y cảm thấy gần đây thân thể đã săn chắc hơn thấy rõ. Rượu thuốc nhạc phụ đại nhân ngâm cho uống quả là rất tốt, không biết có phải là phương thuốc bí truyền của võ tăng chùa Thiếu Lâm hay không. Khi y hỏi thì nhạc phục cũng không đáp, chỉ bảo rằng rượu này được ngâm bằng thảo dược trân quý trên núi, có công hiệu bồi bổ căn nguyên, cường thân kiện thể.

Phải nói, rượu thuốc này đúng là chính hiệu. Lần đầu không biết độ mạnh của thuốc, y uống một hơi ba chung, kết quả là tối hôm đó y quá đỗi dễ chịu luôn, hai bên eo sau nóng hầm hập như đang chườm hai túi nước nóng, thậm chí tinh thần cũng hết sức sung mãn, mãi đến tận nửa đêm mới ngủ được. Bây giờ vào mỗi bữa cơm tối Ấu Nương đều pha cho y một chung, y càng uống càng hứng thú.

Một thiếu phụ trẻ tay cầm làn tre nhảy qua những hòn đá trên sông. Trông thấy một người thanh niên đang đứng bên bờ nhìn mình, cô nàng e thẹn lướt qua bên người y, bị ánh mắt sáng rỡ của y ngắm nghía, cô nàng nhất thời không dám xoay bờ eo thon lại.

Ánh mắt Dương Lăng dõi theo bóng dáng mềm mại phơi phới tuổi xuân của nàng ta lả lướt đi thật xa, đến khi có một cơn gió lạnh thổi thốc vào mặt y mới định thần lại. Y tự tát mình một cái: "Chết tiệt, gần đây sao kỳ vậy ta? Sao dạo này thường hay thích ngắm gái đẹp quá ta! Chẵng lẽ xuân đến, cả loài người cũng lên cơn động cỡn hay sao?"

Dương Lăng nhìn vũng nước ở phía trước, không có gì làm nên y đang tính đi kiếm cần câu giết thời gian, đột nhiên nghe một giọng nói trong trẻo đáng yêu:

- Tướng công, chàng đang chờ bọn thiếp trở về sao?

Dương Lăng nghe tiếng liền ngẩng đầu lên, trông thấy Hàn Ấu Nương và Mã Liên Nhi xinh đẹp dịu dàng đang bước men theo con đường nhỏ từ trong núi đi đến. Tay trái Hàn Ấu Nương khoác chiếc giỏ vuông, tay phải đang đung đưa một cành đỗ quyên rực rỡ, mặt tươi như hoa, xinh xắn như nước suối dưới khe. Mã Liên Nhi đi cạnh, y phục trắng hơn tuyết, xinh đẹp thướt tha, cả người không chỗ nào không quyến rũ.

Hai người lên núi hái rau dại mới trở về, đột nhiên thấy Dương Lăng đang đứng bên bờ sông. Hàn Ấu Nương vui mừng, hí hửng bước nhanh tới trước nghênh đón. Mã Liên Nhi vừa đuổi theo mấy bước, chợt bước chậm lại, ngẫm nghĩ cẩn thận lời của Hàn Ấu Nương: "Tướng công, chàng đang chờ 'bọn thiếp' trở về sao?"

Những ngày gần đây, Hàn Ấu Nương tỏ ra thân cận với nàng, Mã Liên Nhi cực kỳ thông minh, lẽ nào không thấy được? Nàng chỉ biết Dương Lăng thu xếp để Ấu Nương đến chiếu cố cho mình, nhưng bây giờ càng lúc nàng càng cảm thấy dường như Hàn Ấu Nương đang tỏ ý muốn xúc tiến cho mình và Dương Lăng. Nàng ấy... nàng ấy thật sỠvui lòng để mình bước vào nhà họ Dương ư?

Vừa nghĩ đến khả năng này, trống ngực Mã Liên Nhi không khỏi đập thình thịch. Nàng biết quá rõ vị trí của Ấu Nương trong trái tim của Dương Lăng, nếu như nàng ấy chịu gật đầu, vậy chuyện này sẽ rất có hi vọng.

"Mình thật là ngốc! Nếu trực tiếp đến với tên ngốc Dương Lăng này không được, sao mình lại không nghĩ ra cách lấy lòng Ấu Nương nhỉ? Sau này khi thật sự trở thành tỷ muội rồi, mình cũng phải được nàng ấy cho phép mới có thể gần gũi y. Đã vậy, bây giờ nên đối xử tử tế với nàng ấy mới được."

Hàn Ấu Nương lại không phát hiện sơ hở trong lời nói của mình. Nàng nở một nụ cười rực rỡ, chạy đến bên cạnh Dương Lăng, giơ chiếc giỏ lên như thể muốn hiến dâng bảo vật, nói:

- Tướng công, thiếp ngắt được rất nhiều rau dại nè. Chàng xem, nào là nấm tai mèo, rau tề, rau khúc . Còn nữa, chàng xem, quả thù lù này to không? Để thiếp rửa rồi chàng nếm thử, ngon lắm đó.

Rau tề (tề thái, cỏ tâm giác, địa mễ thái): tên một thức cỏ, hoa trắng, khi còn non ăn được, dùng làm thuốc giải nhiệt, lợi tiểu, cầm máu...

Rau khúc (thử khúc thảo, thanh minh thảo): Tên một loài rau dại. Hằng năm, cứ tới mùa xuân, cây lại xuất hiện, mọc lên khắp nơi, thường hay gặp nhất ở trên các bãi hoang, bờ ruộng, bờ cát ven sông... Rau khúc vừa làm bánh được vừa làm thuốc chữa bệnh rất tốt.

Hàn Ấu Nương phấn khởi đặt chiếc giỏ xuống đất, chọn quả thù lù to nhất rồi chạy ra bờ sông rửa. Lúc này, Mã Liên Nhi cũng đã đi đến, nhìn Dương Lăng cười một cách thiếu tự nhiên.

Dương Lăng nhìn nàng. Mã Liên Nhi toàn thân mặc đồ trắng, cách ăn mặc đã giản dị hơn nhiều so với trước kia. Ánh nắng ấm áp của ngày xuân chiếu lên khuôn mặt mịn màng thanh tú của nàng, tựa như trong suốt. Trên chiếc eo thon thon khiến người ta hận không thể siết lấy kia, chiếc đai lưng phe phẩy theo gió núi, như thể chỉ khẽ giật nhẹ sẽ lột trần tấm thân ngọc ngà ấy. Khoé miệng Dương Lăng méo xệch: "Gần đây mình bị sao thế nhỉ? Sao cứ có những suy nghĩ không đứng đắn vậy ta?"

Không gặp hơn một tháng, Mã Liên Nhi cũng không thay đổi nhiều lắm. Trên môi vương những sợi lông măng nhỏ bé. Vẫn là bộ dáng thiếu nữ còn mang vẻ ngây thơ, nhưng cõi lòng từng trải và chín chắn khiến nàng như lột xác, giống như một đoá thược dược mảnh mai, yểu điệu lung linh.

"Cô ấy đã gầy đi nhiều!"

"Y đã cường tráng hơn nhiều!"

Mã Liên Nhi thật sự giống như Ấu Nương đã nói, chiếc cằm thon lại, đôi mắt thật to, khuôn mặt trái xoan ấy đã sắp đuổi kịp hình ảnh hồ ly tinh trong phim hoạt hình rồi, vẻ yếu ớt gầy ốm càng tăng thêm phần quyến rũ. Mà Dương Lăng vốn là một kẻ văn nhã, song cái vẻ phong độ của kẻ trí thức ấy lại có phần nho nhã yếu đuối. Hôm nay lưng của y đã thẳng hơn, cặp mắt đã đen và sáng hơn, cặp lông mày cũng đã trở nên khí khái bừng bừng.

Hiện tại y mặc một chiếc áo đơn màu xanh, răng trắng môi hồng, mắt sáng như sao, hệt như một chàng công tử phong lưu văn nhã. Gò má vốn tái nhợt cũng hồng hào lên rồi. Vừa nói đến hồng thì đã thấy hồng rồi, ừm... rất là... hồng!

Cảm thấy chóp mũi chợt lạnh, Dương Lăng thuận tay quẹt qua, không ngờ máu đỏ cả tay. Ơ... kém dữ vậy sao? Gần đây y cảm thấy mũi hay bị khô, còn tưởng là do trong nhà đốt giường đất, hoặc vì mùa xuân khí hậu khô hanh. Nhưng bây giờ nhìn thấy người ta lại chảy máu mũi, chuyện này coi bộ khó giải thích à!

Y lúng túng đưa tay lên mũi giữ chặt. Máu vẫn đang chảy, đã tràn qua miệng, cho nên y không dám mở miệng. Mã Liên Nhi sợ hãi la lên:

- Dương đại ca, huynh chảy máu kìa!

Bất đắc dĩ Dương Lăng đành đảo mắt ra hiệu đã biết, cái này trông giống như bọn họ đang có bất hoà không thèm nói chuyện với nhau. Vừa ngước mắt lên thấy vậy, Hàn Ấu Nương liền cuống quít chạy tới hỏi:

- Chàng bị sao vậy? Mau ngửa cổ lên đi!

Nói đoạn nàng dùng bàn tay còn ướt vuốt trán giúp Dương Lăng.

Dương Lăng ngửa đầu nhìn trời, bầu trời thật trong xanh, mây trắng cuộn chung quanh, giống như màn tơ, dằng dặc nhớ đất trời...

Đang thầm lặng hỏi ông trời, đột nhiên ai đó nhét một vật mềm mại vào trong tay, y thoáng sờ qua, thì ra là một chiếc khăn nhỏ. Y vội chụp lên mũi, lau máu. Chiếc khăn tay trắng tinh toả ra một mùi hương nhàn nhạt.

Đây không phải là mùi của Ấu Nương. Mùi hương của Ấu Nương là một mùi thơm dịu nhàn nhạt như hoa nhài, còn đây là mùi hương cực phẩm cao cấp. Dương Lăng máy động trong lòng: "Đây là khăn của Liên Nhi!"

Máu đã ngưng chảy. Dưới ánh mắt ân cần của hai tiểu mỹ nhân đang lom lom nhìn, Dương Lăng bối rối chạy ra bờ sông rửa mặt. Mã Liên Nhi và Hàn Ấu Nương nhìn y, lại nhìn nhau, rồi chột dạ quay đầu đi chỗ khác.

Mã Liên Nhi cắn môi, hơi chột dạ, hơi buồn cười, lại hơi đắc ý. Cách biệt một tháng, không ngờ vừa gặp lại nhau, y lại có thể xịt máu khi thấy mình.

Hàn Ấu Nương nhìn Dương Lăng với vẻ khẩn trương, nhủ thầm: "Hỏng rồi! Cha nói thứ rượu thuốc dùng nhân sâm, hổ cốt, nhung hươu, cẩu kỷ để pha chế này dùng để bồi bổ thân thể, song thuốc quá mạnh, gân cốt tướng công lại yếu, cho nên phải uống cẩn thận. Nhưng mình thấy tướng công thích uống, nên mỗi ngày rót nhiều thêm một chút, ai ngờ... 'hư bất thụ bổ' thật rồi. Tướng công sẽ không có chuyện gì chứ?"

Theo Trung y, cơ thể con bệnh quá yếu, được bồi bổ mà bệnh tình không những không thuyên giảm mà còn nặng hơn hoặc xuất hiện di chứng thì gọi là "hư bất thụ bổ" (yếu nên không tiếp thu chất bổ được).

Trông thấy ánh mắt Mã Liên Nhi đang liếc nhìn tướng công, Hàn Ấu Nương thầm nghĩ: "Đệ đệ không nói càn, quả nhiên Liên Nhi tỷ tỷ có tình ý với tướng công."

Lời của tiểu đệ Mãn Thương tố cáo với nàng lại văng vẳng bên tai:

- Tỷ! Đệ nói cho tỷ nghe, khi bọn đệ đến cứu tỷ phu, thì thấy y đang cùng với vị tỷ tỷ xinh đẹp ở trong sở Dịch, à... là Liên Nhi tỷ tỷ đang thơm môi đó.

Hàn Ấu Nương khẽ thở dài, lại nhớ đến lời dặn của cha:

- Ấu Nương, chồng có cương thường của chồng, vợ có đức hạnh của vợ, lời thầy dạy con đã quên hết rồi sao? Người vợ ghen tuông sẽ bị ruồng bỏ đó! Con thử xem tự cổ chí kim có kết cục tốt nào cho nữ nhân được cưng chiều mà kiêu ngạo không?

Luật pháp nhà Minh chúng ta quy định bốn mươi không con mới được nạp thiếp. Nhưng đó là cho bách tính thường dân, không áp dụng được cho kẻ làm quan. Cô gia (con rể) tiền đồ rộng lớn lắm. Con gái à, rất nhiều phụ nữ bản triều chủ động nạp thiếp cho phu quân mình, ai cũng nói bọn họ hiền hậu rộng lượng. Con chớ nên để mang tiếng ghen tuông, sẽ lợi không bằng hại đấy!

Chúng ta xuất thân bần hàn, con có thể cưới được ông tú tài này là vì năm xưa ta đã cứu Dương lão gia khỏi miệng cọp, cho nên mới có thể kết thông gia với họ. Con là một đứa nhỏ tốt phúc, con hãy xem trong thôn chúng ta, làng trên xóm dưới có ai mà không hâm mộ con?

Hai con mắt tinh tường này của cha không nhìn lầm người đâu. Cô gia là người phúc hậu, đối đãi với con cũng rất tốt. Chỉ cần con tận tâm hầu hạ chồng, sớm ngày hạ sinh quý tử cho nhà họ Dương, thì cho dù tiểu thư nhà họ Mã của y có xinh đẹp hơn con, thân thế có tốt hơn con, vị trí của con cũng sẽ vẫn vững chắc, không ai có thể chiếm đoạt được.

Không được nổi máu ghen tuông! Theo cha nghĩ, nếu cô gia đã thích Mã tiểu thư rồi, chi bằng con chủ động giúp nàng ấy một chút, sau này thành tỷ muội rồi cũng sẽ dễ sống chung hơn, cô gia sẽ càng kính trọng con hơn. Như vậy không tốt cho con sao?

Hàn Ấu Nương thầm thở dài một tiếng. Đã làm vợ, ai lại không mong muốn chồng mình xuất chúng hơn người chứ? Nhưng có tiền đồ rồi thì lập tức chồng mình sẽ có thêm người khác. "Hối giáo phu tế thỏa phong hậu" , đời người có được thì cũng có mất thôi.

Trong câu này chữ 觅 (mịch) viết sai thành chữ 妥 (thỏa), chữ 侯 (hầu) viết sai thành chữ 候 (hậu). Câu đúng là "hối giáo phu tế mịch phong hầu".

Câu thơ này trích trong bài "Khuê Oán" (閨怨), tạm dịch "nỗi oán phòng khuê" của Vương Xương Linh thời Thịnh Đường, miêu tả tâm trạng u sầu của người thiếu phụ có chồng đang tham gia chinh chiến.

Nguyên văn

閨怨

王昌齡

閨中少婦不知愁, 春日凝妝上翠樓。

忽見陌頭楊柳色, 悔教夫婿覓封侯。

Hán Việt:

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu

Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

Hối giáo phu tế mịch phong hầu

Dịch thơ:

Cô gái phòng the chửa biết sầu

Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu

Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu

Hối để chồng đi kiếm tước hầu

Ngô Tất Tố

Ngày xuân trang điểm má hồng

Lên chơi gác Thúy, nàng không biết sầu

Đường xa, kìa liễu xanh mầu

Xui chồng đi giật tước hầu, dại chưa!

Vũ Hoàng Chương

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 46: Niềm vui chốn khuê phòng

Dương Lăng đứng trong sân dùng muối và xơ mướp chà răng, hà hơi ra vẫn còn thoảng mùi rượu, đầu cũng hơi lâng lâng. Tối hôm nay Ấu Nương không cho y uống rượu thuốc mà thay bằng rượu Cao Lương tự ủ mua ở tiệm rượu nhỏ trên huyện, nên y đã uống thêm mấy chén.

Buổi chiều Ấu Nương luộc mớ rau dại, chưng một con gà nhỏ, mời Liên Nhi qua dùng bữa chung. Trời còn chưa tối Ấu Nương đã đưa nàng ấy về phòng, đến giờ vẫn chưa trở lại, cũng chẳng biết hai người bọn họ đang nói những chuyện gì. Dương Lăng cũng lười không muốn quan tâm.

Lúc cần chẳng quyết, nay phải lo toan. Tình hình thực sự của bản thân không thể kể cho bất kỳ người nào cả, dù gì cũng không thể giở lại cái câu dối trá "nội trong hai năm ắt chết" ra gạt thêm Mã Liên Nhi, nếu để Hàn Ấu Nương biết được, thế thì chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này.

Dương Lăng đang chìm trong suy nghĩ, Hàn Ấu Nương đã bước vào trong sân. Miệng còn ngậm bọt muối, Dương Lăng gật đầu đón nàng:

- Đưa nàng ta về rồi à?

- Dạ!

Hàn Ấu Nương đáp lời, bước đến cạnh Dương Lăng, chần chừ không vào nhà. Súc miệng xong, Dương Lăng thấy nàng vẫn đứng cạnh mình, trên khuôn mặt không biết giấu diếm đó rõ ràng đang viết "có chuyện muốn nói", không nhịn được bèn mỉm cười trìu mến véo nhẹ mũi nàng, bảo:

- Đứng ngây ra đó làm gì? Đi, vào nhà thôi!

Dương Lăng cài cửa lại, ngồi xuống giữa phòng, đưa tay lấy bình trà. Cô nàng Ấu Nương chu đáo không biết đã thay trà tự khi nào, bây giờ vừa khéo đủ ấm để uống. Tường đặt ghế dựa là kiểu tường vách đôi được hun khí nóng bởi hệ thống sưởi chung trong sở dịch, vách tường được giữ ấm suốt ngày nên gian phòng rất ấm cúng.

Y vừa đưa mắt nhìn, Hàn Ấu Nương liền luống cuống đan hai ngón tay mảnh khảnh lại vào nhau, đảo mắt nhìn khắp phòng mấy vòng, rồi trộm liếc y, vẻ do dự. Thấy vậy,

Dương Lăng lấy làm thú vị, bụng bảo dạ: "Ấu Nương trước giờ chưa từng có vẻ mặt khó xử như vậy, chuyện gì khiến nàng ấy khó mở miệng như vậy chứ? À, đúng rồi, hình như nghe nhạc phụ nói đang xoay sở tiền nong làm mối cho Hàn Uy cưới vợ. Chẵng nhẽ là muốn mượn tiền?"

Khi mấy mươi cái miệng người họ Dương tới đây ăn uống, nàng đã không chút keo kiệt chu cấp cái ăn cái mặc cho bọn họ, còn luôn lo lắng mình sẽ trách móc nàng không chăm sóc chu đáo người nhà họ Dương. Lần này nàng lại đứng ra mượn tiền cho nhà mẹ đẻ, thật làm khó cho nha đầu này quá rồi.

Dương Lăng không nỡ để nàng khó xử thêm, bèn chủ động hỏi:

- Ấu Nương, có phải nàng có chuyện muốn nói không?

- Á?

Cơ thể Hàn Ấu Nương thoáng run lên, nàng hoảng hốt lắc đầu:

- Phải, á, không phải, ưm... Trà nguội rồi phải không? Để thiếp đi đun thêm nước.

Dương Lăng phì cười, nói:

- Nàng thật! Có phải là đại ca thiếu tiền để cưới vợ không? Nghe nói y và vị Trương cô nương cùng chạy nạn vào thành đó rất là thân thiết à. Thiếu tiền lo liệu hôn sự phải không nào? Mấy chuyện này nàng không cần hỏi ta, nhà chúng ta do nàng làm chủ, thiếu bao nhiêu nàng cứ lấy là được.

- Không phải mà!

Hàn Ấu Nương dẩu môi, ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, nguýt yêu y:

- Không phải vì chuyện của nhà ngoại. Cha đã nói rồi, anh cả muốn cưới vợ thì phải tự mình kiếm tiền để cưới, tướng công tìm việc làm cho cha và hai anh là đã quí lắm rồi.

- Xem nàng nói kìa!

Dương Lăng cười ha hả:

- Ta phải cảm kích nhạc phụ đã cho ta cô vợ đáng yêu, dịu dàng như vầy mới phải chứ! Lại còn phải cảm kích đại ca, nhị ca đã sinh ra sớm hơn nàng nữa, bằng không thì chừng nào mới đến phiên chúng ta xứng đôi như thế này? Có phải không hử, cô vợ bé nhỏ của ta?

Thấy dáng vẻ đáng yêu của nàng, Dương Lăng không chế ngự được lửa dục dâng trào, quên sạch mình đang muốn hỏi gì. Y thích chí ghé sát qua ôm lấy bờ vai thơm của Ấu Nương, hôn đánh chụt lên má nàng.

Hàn Ấu Nương thẹn thùng nhích vai tránh ra, dài giọng trách:

- Tướng... công..., mùi rượu nồng quá à!

- Giỏi nhỉ! Dám chê miệng tướng công có mùi rượu! Ta phải chấp hành gia pháp, phạt nàng đứng phơi mông trong sân.

Dương Lăng mượn rượu giả khùng.

Không biết có phải do bị Ấu Nương đùa bỡn không, y chỉ cảm thấy lửa dục đang thiêu đốt, nhất thời không kìm được mà thi triển ma thủ lên bộ ngực trắng mềm và bờ mông căng tròn của Ấu Nương.

Hàn Ấu Nương ngượng đến nhũn cả người. Nàng uốn éo tấm thân hòng tránh né sự tập kích của y, yêu kiều lí nhí trong hơi thở gấp:

- Bỏ chàng đi! Ở đâu lại có... có kiểu phạt vợ mình như vậy chứ?

Nàng quẫn bách đấm nhẹ lên người Dương Lăng, ánh mắt chợt sáng lên; tưởng tượng nếu như tướng công phạt mình như vậy thật... Lập tức bị ý nghĩ bạo dạn của mình làm cho ngượng chín mặt, nàng lấy tay che mặt, giậm chân, lắc vai:

- Tướng công nói bậy quá à, thật là ngượng chết đi...

Vẻ khêu gợi hấp dẫn đầy nữ tính đó khiến Dương Lăng hưng phấn không thôi, hận không thể lập tức "làm thịt" Ấu Nương ngay tại chỗ. Y hít vào một hơi, nâng tấm thân mềm mại của Ấu Nương đặt lên gối mình, hôn phớt lên má nàng một cái, rồi chủ động trở về chủ đề chính:

- Được rồi, tướng công không làm loạn nữa. Nói cho ta nghe, nàng muốn nói gì với tướng công vậy?

Hàn Ấu Nương thẹn thùng liếc y cười, dí dỏm:

- Tướng công đòi chấp hành gia pháp mà! Thiếp sợ quá nên quên hết rồi.

Dương Lăng thấy nàng cười đỏ cả mặt, mắt ngọc đong đưa, vẻ nũng nịu rất quyến rũ, tức thời lửa dục vừa mới dằn xuống lại bùng lên, bên dưới cơ thể lập tức cứng như thép.

Hàn Ấu Nương đang khúc khích cười trêu tướng công, bờ mông tròn lẳn hoạt bát vừa hơi dịch đi bỗng chạm phải một vật cứng như khúc gỗ. Thoạt tiên nàng giật mình, sau đó liền như một con thỏ trúng tên, nhảy vụt ra khỏi lòng Dương Lăng, hai tay bưng lấy khuôn mặt đỏ bừng, nóng như lửa, lắp bắp:

- Tướng công, chàng... chàng... thiếp... thiếp..., Ấu Nương không trêu... Không trêu chàng nữa.

Dương Lăng cười khổ. Y cảm thấy mũi khó chịu như thể lại sắp chảy máu, bèn vội vàng cầm lấy chén trà đã nguội uống cạn một hơi, hắng giọng vài tiếng, rồi ra vẻ đạo mạo trang nghiêm:

- Tiểu nha đầu, vậy còn không mau kể đi. Rốt cuộc là muốn nói chuyện gì với ta?

Hàn Ấu Nương hé ngón tay, trộm liếc Dương Lăng, rồi mới từ từ bỏ tay xuống, giọng thẹn thùng pha lẫn rụt rè:

- Tướng công! Thiếp... Thiếp biết Liên Nhi tỷ rất thích tướng công. Ấu Nương nghĩ... Nếu như tướng công đồng ý, hôm nào thiếp sẽ nói chuyện với Liên Nhi tỷ tỷ. Chúng ta sẽ... sẽ rước nàng ấy về. Tướng công nhân phẩm xuất chúng, dưới gầm trời tướng công là giỏi nhất, cũng coi như chúng ta không làm nhục mặt người ta.

Chợt đổi sắc mặt, Dương Lăng nhíu mày hỏi:

- Nàng nghe ai nói vậy? Là... Mãn Thương nói à?

Hàn Ấu Nương ngập ngừng:

- Tướng công! Ấu Nương sớm đã... đã nghe người ta nói rồi. Nữ tử rất coi trọng danh tiết đó. Thiếp nghe nói Mã đại ca muốn rời đi cùng Nam quân, Liên Nhi tỷ tỷ không danh không phận ở lại nơi này cũng không thích hợp. Nháy mắt sẽ qua hạn cúng thất tuần rồi, nếu bây giờ không rước người ta về, vậy sẽ phải chờ thêm ba năm nữa. Nếu chàng đồng ý, chúng ta sẽ cho nàng một danh phận trước, khi đó cho dù có rước về chậm một chút cũng không sao.

Thời xưa, đối với con gái, cha mẹ tạ thế là đại tang, theo quy định sẽ phải chịu tang ba năm. Nhưng có vài trường hợp có thể châm chước được, người xưa cũng không quá cứng nhắc. Ví dụ như chuyện tòng quân của Mã Ngang, hay bản thân là đại quan trọng yếu của triều đình, vì đại sự quốc gia cần kíp được vua đích thân giữ lại, thì gọi là "Đoạt tình".

Trong dân gian, cũng có một tình huống, đó chính là: cha mẹ mất đi trong vòng bảy bảy bốn chín ngày thì cho phép kết hôn, dân gian gọi nó là "Xung hỷ". Tục ngữ có câu "Thiên quan tòng môn xuất, kỳ gia hảo hưng vượng", nghĩa là vì sự ra đi của người chết đem đến sự ra đời của thêm nhiều sinh mạng mới cho gia tộc, con đàn cháu đống, kế tục hương hoả dài lâu, như vậy không bị xem là bất hiếu.

Dương Lăng yên lặng nhìn Ấu Nương một hồi lâu. Cặp mắt trong veo của nàng có chút tủi thân, chút ghen tuông, song nhiều hơn lại là sự lo lắng cho Mã Liên Nhi và sự tín nhiệm vô điều kiện đối với y.

Dương Lăng chậm rãi lắc đầu, đoạn nói:

- Đừng nghe người khác nói xàm, nàng không cần phải dây vào chuyện vớ vẩn đó. Ta đã tìm hiểu rồi, tháng tư hằng năm sẽ có một đoàn buôn hàng da từ quan ngoại ghé qua Kê Minh xuống phương nam. Đến lúc đó ta sẽ thu xếp để bọn họ giúp đỡ Mã tiểu thư đưa linh cữu xuôi nam, trở về cố hương là được.

Hàn Ấu Nương tròn mắt, thắc mắc:

- Nhưng mà... Chàng và nàng ấy...

Nhẹ nhàng hôn lên chiếc môi anh đào không cho nàng nói tiếp, đoạn lướt miệng đến bên tai nàng, Dương Lăng khẽ nói:

- Giữa ta và nàng ấy không phức tạp như nàng tưởng tượng đâu. Ngoan đi, thời gian trôi qua tự nhiên sẽ không còn có ai nhắc đến nữa, Liên Nhi tiểu thư cũng sẽ không còn nhớ đến những chuyện này, hiểu không?

- Dạ!

Hàn Ấu Nương ngoan ngoãn khép miệng lại. Tuy nàng không rõ những gì tướng công nói lắm, nhưng hàng chân mày lại hiện lên vẻ nhẹ nhõm và vui sướng.

Vốn chỉ đòi voi, lại được thêm tiên, còn có gì để mà không vui chứ?

***************************

Dương Lăng nằm trên giường, đầu gối lên tay, hai mắt nhắm hờ, thầm tính: "Ấu Nương cũng biết chuyện giữa mình và Mã Liên Nhi rồi, xem ra người biết chuyện này thật không ít. Tuy nhiên, đến khi Mã Liên Nhi đưa linh cữu về Kim Lăng, hết thảy mọi việc tự nhiên sẽ tan theo mây khói, từ đây trở đi mỗi người một phương. Thiếu nữ dù si tình đến mấy, nhưng giữa hai người lại chưa có thâm tình gì đáng kể, liệu nàng ta sẽ còn nhớ đến mình sao?"

Chắc chắn qua một hai năm, nàng ấy sẽ buông xuôi đoạn tình cảm này, bắt đầu cuộc sống mới. Dương Lăng tin tưởng vào điểm này, y vẫn chưa "tự sướng" đến độ cho rằng một khi thích y thì phụ nữ sẽ "không bao giờ chùn bước, trọn đời không quên". Y cũng chỉ là một thằng đàn ông bình thường, không có sức hấp dẫn đến cỡ đó.

Cảm thấy gò má nhồn nhột, Dương Lăng mở mắt thấy Ấu Nương đang ngồi bên cạnh, dịu dàng nhìn y. Mái tóc dài hơi ẩm ướt, chạm vào mặt lành lạnh. Tiểu nha đầu vừa mới tắm rửa xong.

Khuôn mặt xinh xắn thuần khiết khuất sau mái tóc vẫn còn phơn phớt hồng sau khi tắm. Hàng mi mềm, đôi mắt ươn ướt, quyến rũ không nói lên lời. Những tâm tư phiền não trong lòng Dương Lăng lập tức hóa thành hư không. Y thở dài, bắt đầu chuyển sang cân nhắc nên làm thế nào để phá vỡ cục diện bế tắc hiện nay. Một người con gái xinh đẹp mỹ miều phơi bày ngay trước mắt như vậy, song chỉ có thể nhìn mà không thể "ăn", thật khó chịu muốn chết à.

Chẳng biết vì sao, Hàn Ấu Nương mặt mày hớn hở, còn mang vẻ nhu mì khó tả, hình như... còn đang cười lấy lòng? Dương Lăng chớp chớp mắt, nghi ngờ mình đã nhìn lầm.

Nàng mặc áo ngắn, nằm sấp trên giường, kề sát bên Dương Lăng, thả dài mái tóc về phía trước, tươi cười bắt đầu kể chuyện linh tinh với y:

- Tướng công, hôm nay thiếp và Liên Nhi tỷ tỷ lên núi hái rau, thấy một cây hòe già phải đến mấy trăm năm tuổi mà hai ngày trước đã bị sét xuân bổ cháy đó.

Thân thể nhỏ nhắn xinh xắn mê người, bộ ngực mềm mại vô ý chạm vào khuỷu tay Dương Lăng. Ngửi thấy huơng vị xử nữ tươi mát từ người nàng, phần dưới mới vừa "nguội" của Dương Lăng lại không thể kìm chế bắt đầu xuất hiện phản ứng "căng phồng".

Thân thể mềm mại của Hàn Ấu Nương lại dựa sát hơn, kề mặt trên ngực y, hào hứng kể chuyện:

- Bọn thiếp nghe đại thúc sống trong núi nói, đó là bởi vì cây hoè già muốn thành tinh, nên Lôi thần đã nổi giận đó. Nếu là trước kia thì thiếp sẽ còn bán tín bán nghi, nhưng mà tướng công cũng đã gặp được thần tiên, thiếp cũng không dám không tin, nên đã kéo Liên Nhi tỷ tránh đi. Tướng công, nếu như cây hoè già đó bị sét đánh không chết, có thật nó sẽ biến thành yêu tinh không?

"Nha đầu à, ta không biết là cây hoè già có biến thành yêu tinh hay không, ta chỉ biết là nàng sắp biến thành yêu tinh đến nơi rồi! Còn ta... ta cũng đã chuẩn bị khẩu 'đại pháo trần gian' rồi đó, biết không hử? Tiểu yêu tinh!" Dương Lăng nghiến răng nghiến lợi thầm nghĩ.

Nguyên văn:

千棺从门出, 其家好兴旺. 子存父先死, 孙在祖乃丧

Hán Việt:

Thiên quan tòng môn xuất,

Kỳ gia hảo hưng vượng.

Tử tồn phụ tiên tử,

Tôn tại tổ nãi táng.

Nghĩa là:

Nghìn quan tài qua cửa,

Nhà đó hẳn có thời.

Con còn cha mất trước,

Cháu sống ông đi rồi.

(Trích từ Ỷ Thiên Đồ Long ký - Hồi 17)

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 47: Không gần nữ sắc

Dương Lăng đang bị lửa dục thiêu đốt, tấm chăn bất tri bất giác lặng lẽ dựng lên một cây cột nhỏ. Nhưng Hàn Ấu Nương chưa trải sự đời, đối với mấy chuyện này cái hiểu cái không, hơn nữa thường ngày nàng cũng hay bám dính bên người Dương Lăng, cho nên không hề biết lúc này vì uống rượu tráng dương hằng ngày mà tinh trùng Dương Lăng đã chạy lên tới não rồi.

Vẫn cố đè nén lòng ham muốn Ấu Nương, Dương Lăng khổ sở cười, đáp:

- Ừm! Biết đâu được, có thể thành tinh đấy.

Tham lam rờ rẫm khuôn mặt trơn nhẵn của Ấu Nương, y cố ý ngáp to một tiếng, rồi bảo:

- Vừa mới tắm xong, nàng hãy mau đắp chăn lên rồi ngủ đi kẻo nhiễm lạnh.

- Không, bây giờ nóng quá à!

Con người có thể thích nghi với hoàn cảnh. Sự nuông chiều và dung túng của Dương Lăng đã khiến bản tính của Hàn Ấu Nương đều phát huy ra hết, không còn vì tướng công là ông tú tài mà lúc nào cũng bị gò bó, mất tự nhiên. Nàng như một đứa trẻ đang làm nũng, nằm sấp trên giường, co hai cái chân nhỏ nhắn đong đưa trên không:

- SỠDịch vẫn đốt giường sưởi mà. Sáng nào thức dậy cũng phải uống nhiều nước hết, miệng khô rồi nè. Lát nữa thiếp thay chăn mỏng. Tướng công! Chàng có muốn thay không?

Dương Lăng rướn người dậy, dồn gối cao lên một chút, đoạn đáp:

- Không cần, "xuân che đông đậy", nàng hiểu không? Thay chăn sớm sẽ bị cảm mạo đó. Nàng cũng đừng nên thay vội, đợi thêm vài bữa nữa đi!

Hàn Ấu Nương bĩu môi:

- Nóng vậy mà tướng công còn chưa chịu thay. Tối ngủ chàng hay đạp chăn ra, thiếp vẫn phải đắp lại cho chàng nhiều lần lắm đó.

Chải tóc xong, nàng khéo léo vén lên cao để lộ cần cổ xinh đẹp. Đưa mắt dõi theo tà áo hở lệch, y bắt gặp làn da trơn mượt của bầu ngực. Quả đào non bé xinh xinh đã bắt đầu tạo thành đường cong tuyệt mỹ.

Dương Lăng nhìn chăm chăm, không nỡ thu lại ánh mắt, rồi nhìn dọc xuống xuôi theo tấm lưng nàng. Một đôi chân trắng nõn nhỏ nhắn đang xoè ngón đong đưa trên không, làm co giãn chiếc váy lót của nàng, thi thoảng hiện rõ đường cong của bờ mông tròn trịa khoẻ khoắn.

Tiểu cô nương mới mười bốn, mười lăm, tướng mạo vẫn còn hơi giống một quả nho xanh, nhưng cặp mông tròn lẳn ấy đã có hơi hướm xinh đẹp của phụ nữ rồi. Theo cách nói của các cụ, mông như vậy sẽ đẻ tốt, Dương Lăng "xấu xa" suy nghĩ. Dạo gần đây y thường hay có những ý nghĩ xấu xa.

Thân trên của Ấu Nương thon thả, đáy thắt lưng ong, nhưng mông và đùi lại đã nẩy nở như một người phụ nữ trưởng thành. Theo hiểu biết của Dương Lăng, thân dưới phát dục sớm cho biết sau này nàng sẽ không lớn lên theo hướng cao gầy, mà hẳn sẽ vẫn duy trì vóc dáng nhỏ nhắn đáng yêu này.

Trông thấy ánh mắt bốc lửa của trượng phu, Hàn Ấu Nương thẹn thùng bỏ chân xuống, khuôn mặt càng thêm ửng hồng. Nàng vẫn chưa biết cách phơi bày tư thế khêu gợi để trêu chọc đàn ông, nhưng động tác và dáng điệu ngây thơ thuần khiết này lại càng quyến rũ mê người hơn.

Không nhịn thêm được nữa, Dương Lăng thở gấp, tung chăn ra, xoay vai Ấu Nương lại. Trong tiếng kêu dịu dàng, Ấu Nương khẽ trở người ngả vào lòng y. Nàng tràn trề hạnh phúc tựa vào ngực y, hưởng thụ những cái vuốt ve mơn trớn của phu quân.

Những lúc hai người nằm trên giường tán gẫu chuyện gia đình, Dương Lăng vẫn thường táy máy tay chân nên Ấu Nương cũng dần dần quen với những vuốt ve của y. Hôm nay cảm kích phu quân đã từ chối nạp thiếp, Hàn Ấu Nương càng để cho thoả sức vuốt ve, không hề trái ý.

Dương Lăng ôm chiếc eo thon của nàng, vuốt ve bộ ngực non nớt cùng bờ mông đầy đặn săn chắc, rất đàn hồi của nàng. Đường cong mềm mại mượt mà ấy dường như có thể tạm xoa dịu dục vọng của y.

Ấu Nương nhắm mắt lại, ngất ngây trong lòng trượng phu, cánh mũi khẽ phập phồng. Bỗng nhiên Dương Lăng đưa tay mò vào trong quần lót của nàng, bờ mông săn chắc, trơn tuột bị y bóp mạnh. Làn da mịn màng trơn bóng tựa như một dòng suối chảy xuôi, lờ mờ toát ra sức sống tràn trề của tuổi thanh xuân.

Hàn Ấu Nương cảm giác động tác của trượng phu hôm nay có chút khác với ngày thường. Nàng thẹn thùng cụp mi, cản:

- Tướng công, chàng đừng... đừng... mà!

Tinh trùng lên não có thể khiến cho đàn ông có thể nói những lời bình thường không thể nói, làm những chuyện bình thường không thể làm, hơn nữa còn có thể ra sức điều động tế bào não bộc phát cơ trí. Nhân loại tiến bộ là nhờ theo đuổi dục vọng mà. Lúc này, Dương Lăng chợt loé sáng kiến, nảy ra một biện pháp giải quyết cho nan đề của mình.

Y chẳng nói chẳng rằng ôm chặt lấy Ấu Nương, nhẹ giọng bảo:

- Ấu Nương! Ngày đó ta đã uống rượu, cũng buồn ngủ rồi, lại thêm vì nàng đang khóc nên ta hơi sốt ruột, có vài điều vẫn chưa nói kịp cho nàng hay.

- Ừm?

Hàn Ấu Nương mở mắt ra, nhìn sang Dương Lăng dò hỏi.

Mặt giả thần giả quỷ, Dương Lăng ra vẻ nghiêm túc nói:

- Thành hoàng còn nói với ta rằng, nếu như mời hoà thượng làm phép rồi đeo một tượng phật đã được khai quang trên người thì... thì cũng sẽ không ảnh hưởng đến chuyện sinh hoạt vợ chồng.

- Ồ!?

Khoé miệng Hàn Ấu Nương hơi nhếch lên. "Sinh cho phu quân một đứa con, thừa kế hương hoả nhà họ Dương, thì con sẽ không sợ mất đi sự yêu thương của hắn", lời cha nói bỗng lướt qua đầu nàng. Trải qua chuyện của Mã Liên Nhi, nàng hơi có cảm giác không an toàn, cho nên ngay lập tức nghĩ đến vấn đề quan trọng cần đưa vào lịch sinh hoạt thường ngày.

Nàng phấn khởi siết chặt vòng tay quanh ôm cổ trượng phu:

- Kê Minh Dịch có miếu tự nhưng không có hoà thượng. Chúng ta sắp xếp thời gian đi Phủ thành một chuyến được không? Tìm một vị đại sư...

"Được, đương nhiên là được rồi, nhưng còn bây giờ thì sao đây? Tên đã lên dây cung rồi, không thể không bắn đâu à!" Uống rượu bổ hơn một tháng nay, bây giờ quả thật Dương Lăng đã như thác lũ tràn bờ, đại hồng thủy chứ chẳng chơi à! Dương Lăng ậm ờ:

- Được! Được! Có thời gian chúng ta sẽ đi Phủ thành một chuyến.

Vừa nói y vừa lật mình đè lên người Ấu Nương.

Thân thể non nớt của Ấu Nương phối hợp một cách hoàn mỹ với y; đùi, eo và tay đều tràn trề sự mềm dẻo, không chỗ nào không đàn hồi, không chỗ nào không linh hoạt tự nhiên. Đó là kết quả của việc Ấu Nương đã chạy nhảy, leo trèo trong rừng từ nhỏ.

Lửa dục của Dương Lăng bị thân thể trẻ trung tràn trề sức sống của nàng bùng thổi. Y vứt bỏ gánh nặng trong lòng, ôm chầm lấy tấm thân tuyệt mỹ của Ấu Nương, tuỳ ý nhấm nháp đôi môi anh đào ngọt ngào và mềm mại của nàng.

- Tướng công! Bây giờ vẫn chưa được. Bây giờ... đừng...

Hàn Ấu Nương vừa thích vừa sợ, hoảng loạn đẩy người y ra.

- Yên tâm nào vợ yêu, tướng công... Hôm nay tướng công không đòi thân thể của nàng, sẽ không tính là gần nữ sắc đâu!

Dương Lăng thở hổn hển, đành miễn cưỡng lùi bước mà cầu xin.

Hàn Ấu Nương ngạc nhiên chẳng hiểu, chớp chớp đôi mắt xoe tròn long lanh bóng nước, bàn tay nhỏ bé đã bị Dương Lăng kéo vào trong quần lót của y.

Một tiếng "á" khẽ cất lên, Ấu Nương rút mạnh tay về như thể bị ong chích. Nhưng Dương Lăng đã giữ chặt lấy cổ tay nàng, tách từng ngón ra, để nàng nắm lấy cái vật cứng ngắt, nóng hổi đang kích động ở trong đó.

Cả người Hàn Ấu Nương run lên vì căng thẳng, nàng nhắm tịt mắt, người cứng đờ, không dám nhúc nhích. Dương Lăng dẫn dắt tay nàng vuốt lên vuốt xuống, rồi hôn nhẹ vành tai xinh xắn của nàng, nhỏ giọng:

- Cứ như vậy, hiểu không?

Hàn Ấu Nương hé một con mắt nhìn y, rồi lại lập tức nhắm nghiền lại, mặt đỏ bừng như lửa, lắp bắp:

- Thiếp... thiếp... ưm..., nhưng... vậy... như vậy không tính là gần nữ sắc à?

- Ừm, không tính!

- Thật ư?

- Đương nhiên rồi! Tướng công là người đọc sách mà!

- Ờ...

- Nhẹ quá... nàng làm mạnh thêm chút đi.

- Ờ...

- Ui da... Nàng đang nhổ cải hay sao vậy? Nhẹ tay chút đi cưng.

- Ờ...

Ngoài cửa sổ ánh trăng sáng ngời. Trong phòng, Dương Lăng đang kiên nhẫn phổ cập tri thức vỡ lòng cho Ấu Nương. May mắn gặp một học sinh giỏi tiếp thu rất nhanh, cho nên cuối cùng y cũng dần lạc bước thiên thai, bay bổng như tiên.

Hàn Ấu Nương ngồi xếp bằng bên cạnh Dương Lăng, mái tóc rối tung buông xoã, đôi mắt long lanh chứa đựng vẻ ngượng ngùng không thể che giấu. Đôi bàn tay thon thả trắng phau đang "chấp hành" chỉ thị của Dương Lăng, không ngừng hoạt động dưới chăn. Một lúc lâu sau nàng mới cố nén ngượng ngùng, tò mò hỏi:

- Tướng công, làm như vậy rất dễ chịu à?

Dương Lăng đang nhắm mắt say sưa tận hưởng vui thú. Bàn tay nhỏ bé của Ấu Nương đã mềm lại có sức, tuy nàng không biết kỹ thuật gì, nhưng lúc này y cũng chẳng lo, sau này cứ từ từ "chỉ dạy" thôi. Hiện tại động tác như vậy cộng thêm dáng vẻ loli của nàng đã đủ kích thích rồi, cho nên y chỉ khẽ "ừm" một tiếng.

Hàn Ấu Nương nghĩ ngợi một chút, rồi lại dừng tay, vẻ mặt nghiêm túc:

- Tướng công, thiếp vẫn cảm thấy... Như vầy thật không tính là gần nữ sắc sao?

"Nàng không biết là nói về mấy chuyện này cần phải có quá trình chuẩn bị hay sao? Sao bỗng dưng lại cứ muốn dò hỏi vấn đề này?" Dương Lăng khóc không ra nước mắt, chỉ đành cắn răng nhắc lại từng chữ một:

- Tin ta đi! Không sai đâu, bởi vì ta là kẻ đọc sách mà!

Hàn Ấu Nương rụt rè cười, không thắc mắc nữa. Vẻ mặt nàng rất chuyên tâm, dưới ánh đèn, khuôn mặt non nớt yêu kiều khoác lên thêm một quầng sáng màu hồng nhạt, ngũ quan xinh xắn toát ra vẻ dịu dàng đáng yêu.

Lưng Dương Lăng bắt đầu cứng lại. Thoáng nhìn Ấu Nương như một con sói nhìn mồi, y phát hiện đôi môi của nàng cong cong, mảnh mai, hàm răng hơi hé mở, mắt đẹp tựa mùa xuân. Ban nãy sao không phác giác ra nhỉ? Theo tính nết ngoan ngoãn vâng lời của Ấu Nương đối với y, nếu như dùng cái miệng chúm chím như quả dâu đó để..., Chỉ mới vừa nghĩ như vậy, cơn hưng phấn đang gần đạt đến đỉnh điểm của y liền không kiềm chế được mà phun trào.

Ấu Nương không hề có kinh nghiệm, nên vừa cảm nhận được phản ứng kích động của y, tay nàng càng hoạt động hăng hơn. Cơ thể sau khi mới phát tiết xong cực kỳ mẫn cảm, Dương Lăng vội nắm lấy cổ tay nàng, ngăn cô nàng vì lòng tốt mà "giày vò" mình.

Vừa hổn hển khôi phục thần trí xong, y thấy Ấu Nương đang tròn xoe đôi mắt nhìn mình tựa như còn chưa biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng trong ánh mắt trong veo thánh khiết đó lại mang đầy vẻ hứng thú. Khi ánh mắt hai người vừa chạm nhau, đôi mắt ấy lập tức e thẹn dời đi.

- Tướng công, chàng đỡ rồi à?

Nàng cúi đầu thẹn thùng hỏi.

Dương Lăng khẽ vuốt chân nàng, "ừm" một tiếng. Hàn Ấu Nương bị nhột bèn rụt chân lại, sau đó vui vẻ mỉm cười như thể đã hoàn thành một nhiệm vụ vĩ đại. Như một cô mèo con mềm mại, nàng mãn nguyện ngả vào lòng Dương Lăng, khẽ nói:

- Tướng công, như thế... thật sự không tính là gần nữ sắc ư?

- Ờ... Đương nhiên! Tướng công là kẻ đọc sách mà!

Dương Lăng vừa dứt lời, Hàn Ấu Nương lại cười ngọt ngào:

- Tướng công, tim chàng đập nhanh quá!

Dương Lăng bật cười, y vừa cười vừa ôm chặt hơn cô vợ bé bỏng đáng yêu này vào lòng.

Y bỗng hiểu "chẳng qua Ấu Nương chỉ muốn trò chuyện với mình mà thôi". Y âu yếm vuốt mái tóc mềm mại như tơ của Ấu Nương.

******************

Sáng sớm hôm sau, Dương Lăng đi đến kho sân lương thực ở gian hai, thấy hơn mười tên lính sắp hàng bên xe ngựa đang chờ sẵn trong sân, dẫn đầu chính là đội trưởng thân binh của Tất Xuân - Quan Thụ Anh. Dương Lăng vội vàng bước lên nghênh đón.

Trông thấy y, Quan Thụ Anh cười lớn chào:

- Dương dịch thừa dậy sớm thật! Vì trong quân cần lương thảo cho nên tại hạ đưa người đến để nhận ba ngày lương thực.

Dương Lăng đã sớm nghe tin đại quân của Tất Xuân sắp sửa lên đường quay về Chiết Giang, cho nên y cũng đã tính toán để bọn họ nhận lương thảo theo từng hạn ngắn, phòng sau này còn phải nộp lên trên, vì thế quân dụng phải chia ra nhận nhiều lần. Hai người đang đứng tán gẫu trong sân, chợt thấy Mã Ngang tay cầm roi ngựa hầm hầm từ sân sau bước ra.

Y đoán Mã Ngang mới vào thăm em gái, chỉ không biết đã cãi nhau với Mã Liên Nhi chuyện gì mà vẻ mặt có phần không vui. Dương Lăng chắp tay:

- Mã huynh! Đã lâu không gặp!

Mã Ngang thấy y thì hơi ngạc nhiên, song cũng vội chắp tay đáp lễ:

- Dương dịch thừa!

Quan Thụ Anh cười hì hì, nói chen:

-_Mã lão đệ, sao sắc mặt khó coi quá vậy. Chẵng nhẽ... lệnh muội không đồng ý?

Mã Ngang gượng cười, đáp:

- Làm gì có chuyện đó! Đại nhân đã coi trọng, để mắt đến anh em của bọn đệ như vậy! Thường có câu 'huynh trưởng như cha', chuyện của em gái còn không phải do đệ làm chủ hay sao?

Quan Thụ Anh cười vờ vịt:

- Nói cũng phải, ta chúc mừng Mã lão đệ trước vậy! Sau này vẫn mong lão đệ chiếu cố nhiều một chút đấy!

Trên mặt hơi loé lên một tia đắc ý, Mã Ngang đáp:

- Không dám, chúng ta cùng là huynh đệ dưới trướng Tất đại nhân, nên chiếu cố cho nhau mới phải. À! Đệ còn phải đi chùa Phổ Độ một chuyến. Dương dịch thừa, lão Quan, ta đi trước đây!

Đưa mắt tiễn Mã Ngang vội vã rời đi, Dương Lăng thắc mắc:

- Quan huynh! Mã đại ca đang làm gì vậy? Sao lại gấp gáp vậy?

Quan Thụ Anh nói với giọng điệu kỳ quái:

- Đại nhân đã nhìn trúng em gái của Mã Ngang, có ý muốn nạp nàng ta làm thiếp. Có được cơ hội kết thân với Đô ty đại nhân, vị nhân huynh này đây dĩ nhiên cầu còn không được rồi. Có điều xem bộ dạng thua cuộc của y, quả hồng này không dễ cầm à. Xem ra đứa em gái đó của y cũng không phải là cô gái không có chủ kiến. Ha ha, muốn dùng em gái làm bàn đạp, xem ra cũng không dễ dàng gì!

Nhìn gã cười như vậy, cũng không ai biết là vì gã khinh thường Mã Ngang, hay là vì đố kỵ mình không có một cô em gái như hoa như ngọc để mình cũng một bước lên trời, trở thành ông anh vợ của đại quan tứ phẩm triều đình.

Dương Lăng nghe xong không khỏi thất kinh, "Tất đô ty đã nhìn trúng Mã Liên Nhi rồi sao?" Nghĩ đến tuổi tác của Tất đô ty và cha Mã Liên Nhi không hơn kém bao nhiêu, lại nghĩ đến cặp mắt tam giác có điều khắc bạc đấy của hắn, hơn nữa Mã Liên Nhi mới mười sáu mười bảy, xinh đẹp và ngây thơ, hình tượng "đầu bạc má hồng"(trâu già gặm cỏ non) lướt qua đầu, bất chợt y cảm thấy khó chịu.

Cự tuyệt Mã Liên Nhi xong, y cảm thấy mình đã nợ người ta một phần tình cảm, cho nên mới hao phí tâm sức lợi dụng chức quyền muốn giúp nàng đưa linh cữu về quê, coi như là đền bù. Nếu như nàng có thể tìm được một tấm chồng vừa ý, y cũng sẽ có thể trút bỏ được gánh nặng trong lòng. Ngờ đâu anh trai nàng lại tự dưng chen ngang, vì tiền đồ của bản thân mà muốn nàng làm thiếp một kẻ tuổi đã gần năm mươi. Chẳng nhẽ thật sự hồng nhan bạc mệnh, Mã Liên Nhi chỉ có số làm thiếp người ta thôi sao?

Trông bộ dạng đùng đùng bỏ đi của Mã Ngang, hiển nhiên là gã đã ăn phải quả đắng ở chỗ Mã Liên Nhi, cô em gái trong cứng ngoài mềm rồi. "Mình có nên đi thăm nàng ấy một chút không?" Dương Lăng tự hỏi, muốn xoay người song lại sững ra, dừng lại: "Dù sao đây cũng là chuyện của nhà người ta, mình lấy tư cách gì mà xen vào chứ?"

Thấy Dương dịch thừa nghe lời mình xong thì hơi thừ người, Quan Thụ Anh không khỏi cảm thấy kỳ quái. Tay lính xuất thân là thợ mổ heo này lại rất tinh ý, gã lập tức nhìn ra vài phần căn nguyên ngay: "Trông dáng điệu thế này, chẵng nhẽ Dương dịch thừa cũng thích Mã cô nương? Ừ nhỉ, bọn họ ở chung trong một đại viện, 'Thư sinh với tiểu thư sau vườn hoa' mà, trong hí kịch vẫn thường hát như vậy."

"Ha! Có kịch hay xem rồi. Tên tiểu tử Mã Ngang đó, khi trước gặp mình lúc nào cũng một điều Quan đại ca, hai điều Quan đại ca; bây giờ còn chưa có gì mà hễ mở miệng là luôn mồm lão Quan rồi, nghe chối tai bỏ mẹ. Nếu để nó lên làm anh vợ của Tất đại nhân, đạp lên mặt mũi mình, thì chắc mình sẽ biến mẹ nó thành tiểu Quan quá! Ừ, chuyện này mình phải tính toán một chút. Tiểu Dương này trượng nghĩa, giúp y cũng là giúp mình mà!"

Trong khi hai người đang mang những tâm sự riêng, một tên tiểu lại đã vội vội vàng vàng chạy đến, từ xa đã gọi vọng:

- Dịch thừa đại nhân! Người lần trước lại đến tìm ngài rồi, đang ở tiền thính (sảnh chờ) đợi ngài đó.

Câu nói không đầu không đuôi làm Dương Lăng ngây người, y hỏi dồn:

- Cái gì mà lần trước tới? Người nào vậy?

Tiểu lại bẩm:

- Chính là cái lão buôn thuốc tự xưng là họ Ngô ấy, lão nói là có chuyện gấp cần gặp đại nhân ngài đấy ạ!

"Khai quang" là thỉnh một Pháp thân của Phật nhập vào tượng Phật; rồi sau đó coi tượng Phật như một thân thể hữu hình của ngài để thờ cúng.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#không