Lop tau tuan duong Hawkins

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tên gọi:Lớp tàu tuần dương Hawkins

Xưởng đóng tàu:Xưởng hải quân Chatham,William Beardmore & Company, Dalmuir,Xưởng hải quân Devonport,Xưởng hải quân Portsmouth,Harland & Wolff, Belfast

Bên sử dụng: Hải quân Hoàng gia Anh

Lớp trước: lớp Birmingham

Lớp sau:lớp County class

Lớp con:Tàu sân bay Vindictive

Thời gian đóng:1916-1925

Thời gian hoạt động:1919-1947

Hoàn tất:5

Bị mất:2

Nghỉ hưu:3

Kiểu:Tàu tuần dương hạng nặng

Trọng tải choán nước:9.750 tấn (tiêu chuẩn)12.190 tấn (đầy tải)

Độ dài:172,2 m (565 ft) (mực nước)184,4 m (605 ft) (chung)

Sườn ngang:17,7 m (58 ft) (mực nước)19,8 m (65 ft) (chung)

Mớn nước:5,3 m (17 ft 3 in) (tiêu chuẩn)6,2 m (20 ft 6 in) (đầy tải)

Động cơ đẩy:4 × turbine hơi nước hộp số Parsons(turbine Brown-Curtis trên Frobisher, Effingham)10 × nồi hơi ống nước Yarrow đốt dầu,(8×đốt dầu, 2×đốt than trên Hawkins và Vindictive cho đến 1929)4 × trục,công suất 70.000 mã lực (52,2 MW)(60.000 mã lực - 44,7 MW trên Hawkins và Vindictive)

Tốc độ:57,4 km/h (31 knot)55,6 km/h (30 knot) (Hawkins và Vindictive)

Tầm xa:10.000 km ở tốc độ 25,9 km/h(5400 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Thủy thủ đoàn đầy đủ:750

Thủy thủ đoàn:712

Vũ trang:Thiết kế:7 × pháo BL 190 mm (7,5 inch) Mark VI trên bệ CP Mk V nòng đơn,8 × pháo QF 12 pounder 12 cwt Mark II trên bệ P Mark I nòng đơn,4 × pháo QF 76 mm (3 inch) 20 cwt Mark I trên bệ HA Mark II nòng đơn,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch) (2 × ngầm, 4 × trên mực nước)

Khi hoàn tất, ngoại trừ Vindictive:7 × pháo BL 190 mm (7,5 inch) Mark VI trên bệ CP Mk V nòng đơn,3 × pháo QF 102 mm (4 inch) Mark V trên bệ HA Mark III nòng đơn (trừ Hawkins)4 × pháo QF 12 pounder 12 cwt Mark II trên bệ P Mark I nòng đơn (Hawkins)4 × pháo QF 76 mm (3 inch) 20 cwt Mark I trên bệ HA Mark II nòng đơn,2 × pháo QF 2 pounder Mark II trên bệ HA Mark I nòng đơn,6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch) (2 × ngầm, 4 × trên mực nước)

Lớp tàu tuần dương Hawkins là một lớp tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc bao gồm năm chiếc được thiết kế vào năm 1915 và được chế tạo trong khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất đang diễn ra.Mọi chiếc trong lớp đều được đặt tên theo những thuyền trưởng lừng danh trong thời kỳ Elizabeth. Ba chiếc tàu tuần dương trong lớp đã còn lại cho đến năm 1939 và đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai,khi Effingham bị đắm sớm vào đầu cuộc chiến. Đây quả là điều không bình thường vì Raleigh cũng bị mất trong một hoàn cảnh đắm tàu tương tự tại một dãi đá ngầm không biểu thị trên hải đồ vào năm 1922 và Vindictive cũng suýt bị mất do mắc cạn vào năm 1919. Cho dù không còn là một tàu tuần dương, Vindictive cũng đã phục vụ trong suốt cuộc chiến tranh này. Lớp tàu này đã tạo nên căn bản cho định nghĩa về kiểu tàu tuần dương hạng nặng trong Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922.

Thiết kế

Lớp tàu tuần dương Hawkins là phiên bản cải tiến từ lớp phụ Birmingham của lớp tàu tuần dương Town, cho dù ban đầu chúng được biết đến như là kiểu "Birmingham cải tiến".Quá trình thiết kế chúng trải qua một thiết kế sơ thảo trung gian năm 1912 được biết đến dưới tên gọi "Tàu tuần dương Đại Tây Dương",trang bị cỡ pháo hỗn hợp 190 mm (7,5 inch) và 152 mm (6 inch), được thiết kế để đối phó với những tàu tuần dương lớn của Hải quân Đế quốc Đức được cho là trang bị pháo 170 mm (6,8 inch)Vào năm 1915, một thiết kế tàu tuần dương mới được chuẩn bị nhằm mục đích bảo vệ các tuyến đường thông thương hàng hải tại các vùng biển xa, đặt ra yêu cầu phải có vũ khí mạnh, tầm hoạt động xa và tốc độ cao, có nghĩa là một con tàu lớn. Các con tàu tuần dương lớn trước đây đều theo kiểu tàu tuần dương bọc thép hoặc tàu tuần dương bảo vệ, vốn đã trở thành lạc hậu do việc sử dụng động cơ turbine hơi nước đốt dầu, và bị qua mặt bởi các tàu chiến-tuần dương và tàu tuần dương hạng nhẹ. Thiết kế của lớp Hawkins về căn bản dựa trên một tàu tuần dương hạng nhẹ được mở rộng đủ để gia tăng tầm xa hoạt động và vũ khí mạnh như yêu cầu. Đề nghị về một dàn pháo chính hỗn hợp gồm các cỡ pháo 234 mm (9,2 inch) và 152 mm (6 inch) đã bị loại bỏ do kinh nghiệm trong thời chiến cho thấy những khó khăn trong việc điều khiển một dàn pháo hỗn hợp vì không thể phân biệt hiệu quả của các cỡ đạn pháo khác nhau. Do đó một dàn pháo đồng nhất cỡ 190 mm (7,5 inch) được áp dụng,được điều khiển bởi một hệ thống kiểm soát hỏa lực.Các nồi hơi thoạt tiên là một sự phối hợp kiểu đốt than và đốt dầu nhằm đảm bảo sự cung cấp nhiên liệu tại các căn cứ xa xôi;vào thời mà than sẵn có hơn và các con tàu có thể đi đường trường bằng than thuần túy.Công suất của hệ thống động lực là 60.000 mã lực, cho phép đạt được tốc độ tối đa 55,6 km/h (30 knot). Tuy nhiên, chỉ có Hawkins và Vindictive được hoàn tất với cấu hình như vậy; những chiếc khác đã không vội vàng khi chế tạo và chỉ hoàn tất sau chiến tranh với nồi hơi đốt dầu toàn bộ, nâng công suất động cơ lên 70.000 mã lực và tốc độ tối đa đạt được 57,4 km/h (31 knot).Những con tàu này không còn phù hợp với nhu cầu của Hải quân Hoàng gia trong giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, khi Anh Quốc cần một số lượng nhiều các tàu tuần dương, chứ không phải là những tàu mạnh mẻ riêng lẽ.Dù sao chúng vẫn được cho hoàn tất, vì việc cho tháo dỡ chúng ngay trên triền đà xem ra là một sự lãng phí. Với trọng lượng rẽ nước ngay dưới mức 10.000 tấn và trang bị pháo 190 mm (7,5 inch), chúng trở thành kiểu mẫu cho các thiết kế tàu tuần dương hạng nặng dựa trên những giới hạn được đặt ra bởi Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922.

Vindictive

Chiếc thứ năm và là chiếc cuối cùng của lớp được đặt lườn dưới tên gọi Cavendish, nhưng nó được thay đổi thành một tàu sân bay trong khi được chế tạo và được đặt lại tên là Vindictive để tiếp nối cái tên của chiếc tàu tuần dương bị đánh chìm trong cuộc tấn công Ostend thứ hai. Việc chế tạo nó được thúc đẩy nhanh để đưa nó vào hoạt động trước những con tàu chị em. Vindictive có một sàn cất cánh dài 100 foot (30 m) phía trước và một sàn hạ cánh dài 215 foot (66 m) phía sau, cùng một sàn chứa máy bay có khả năng mang cho đến tám máy bay.Nó được trang bị bốn khẩu pháo 190 mm (7,5 inch) và sáu khẩu 12-pounder phòng không.Đến năm 1923 nó được cho quay trở lại làm một tàu tuần dương, nhưng vẫn giữ lại sàn chứa máy bay phía trước và không được trang bị tháp pháo 'B'; thay vào đó nó mang cần cẩu và máy phóng dành cho thủy phi cơ.Sau năm 1935 nó không còn là một tàu tuần dương, chỉ còn phục vụ như tàu huấn luyện, tàu sửa chữa và tàu tiếp liệu.

Những sự cải tiến

Không có chiếc nào được hoàn tất với cấu hình pháo hạng hai theo thiết kế ban đầu.Hawkins chỉ trang bị pháo phòng không 12-pounder, trong khi các con tàu chị em Raleigh, Frobisher và Effingham trang bị hai hoặc ba pháo QF 102 mm (4 inch) Mark V bố trí trên các bệ Mark III góc cao. Vào năm 1929, Hawkins thay thế các khẩu pháo 12 pounder của nó bằng số lượng tương đương pháo QF 102 mm (4 inch) cùng kiểu như những tàu chị em với nó. Frobisher được giải giáp một phần thành một tàu huấn luyện vào năm 1932, nhưng quay ngược trở lại làm một tàu tuần dương vào năm 1937 khi Vindictive được tháo bỏ vũ khí một cách đặc biệt cho vai trò này.Những con tàu này được dự định để loại bỏ vào năm 1936, nhưng sự căng thẳng trong quan hệ quốc tế ngày càng gia tăng đã khiến cho chúng được giữ lại.Vào năm 1937, Effingham được tái cấu trúc như một tàu tuần dương hạng nhẹ với chín khẩu pháo BL 152 mm (6 inch) Mark XII bố trí trên các tháp pháo CP Mark XIV nòng đơn.Chúng được bố trí bắn thượng tầng phía trước ở các vị trí 'A', 'B' và 'C', ở hai bên mạn tàu, ba vị trí phía sau 'W', 'X' và 'Y' cùng một khẩu pháo thứ chín trên sàn đuôi tàu ở vị trí 'Z'. Các phòng nồi hơi phía sau được tháo dỡ và các ống khói được sáp nhập vào một ống khói lớn duy nhất. Dàn pháo hạng hai bao gồm tám khẩu pháo QF 102 mm (4 inch) Mark XVI trên các bệ Mark XIX nòng đôi, tám pháo QF 2 pounder Mark VIII bố trí trên hai tháp pháo Mark VII bốn nòng và 12 súng máy Vickers 12,7 mm (0,5 inch) trên ba tháp súng Mark I bốn nòng. Các ống phóng ngư lôi ngầm dưới nước được tháo bỏ. Nó có một cầu tàu mới và một tháp quan sát bên trên; nó cũng mang theo một cần cẩu ở giữa tàu, nhưng chưa từng được trang bị máy phóng hay máy bay.Đã có kế hoạch để tái cấu trúc Hawkins và Frobisher theo cấu hình tương tự, nhưng những kế hoạch có ưu tiên khác đã ngăn trở điều này. Chúng được tái vũ trang cho chiến tranh với tất cả các khẩu pháo 7,5 inch (191 mm) của chúng, ngoại trừ trên chiếc Frobisher được tháo dỡ các khẩu pháo bên cánh để cho sàn pháo 4 inch (102 mm) có thể mở rộng ra hai bên mạn tàu. Vào năm 1940,chúng được trang bị hai (Hawkins) đến bốn (Frobisher) khẩu đội 2-pounder "pom-pom" phòng không bốn nòng và bảy (Frobisher) hoặc tám (Hawkins) pháo phòng không Oerlikon 20 mm nòng đơn Mark III.Chúng được trang bị một bộ radar centi-mét Kiểu 273 dò tìm mục tiêu trên cầu tàu,Kiểu 286 cảnh báo không trung trên cột ăn-ten chính,Kiểu 275 dành cho hệ thống kiểm soát hỏa lực HACS cho dàn pháo QF 102 mm (4 inch) để đo tầm xa,và riêng trên Frobisher còn có một cặp radar Kiểu 282 điều khiển pháo phòng không pom-pom trên cầu tàu.Các bổ sung trong thời chiến cũng tăng cường thêm số lượng pháo phòng không 20 mm.

Lịch sử hoạt động

Raleigh có cuộc đời phục vụ ngắn nhất so với mọi chiếc khác trong lớp Hawkins, chỉ được đưa vào hoạt động được một năm trước khi bị đắm do mắc cạn và sau đó bị tháp dỡ. Effingham bị mất sớm vào đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai trong chiến dịch Na Uy; bị mắc cạn vào một bãi đá ngầm không biểu thị trên hải đồ, nó bị buộc phải bỏ lại và bị hỏa lực của tàu bạn phá hủy. Hawkins tiếp tục phục vụ trong cuộc chiến hộ tống cho các đoàn tàu vận tải tại Ấn Độ Dương, cũng như bắn pháo hỗ trợ cho cuộc đổ bộ Normandy. Frobisher cũng đảm trách một vai trò tương tự và là tàu tiếp liệu tại Normandy; cả hai được đưa về nhiệm vụ huấn luyện vào năm 1945, với dàn hỏa lực được tháo dỡ một phần. Vindictive đã phục vụ trong cả hai cuộc thế chiến trong nhiều vai trò khác nhau, trước khi bị tháo dỡ vào năm 1946.

HMS Hawkins (D86) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp Hawkins. Cùng với việc cải biến một trong các tàu chị em với nó, chiếc HMS Cavendish, thành tàu sân bay HMS Vindictive, Hawkins trở thành tên gọi cho lớp tàu của nó. Hawkins đã tham gia hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai ở những vai trò thứ yếu cho đến khi đưa về lực lượng dự bị vào năm 1945 và tháo dỡ vào năm 1947.

Thiết kế và chế tạo

Lớp Hawkins được Hải quân Anh thiết kế vào năm 1915 và được chế tạo trong khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất đang diễn ra. Được trang bị dàn pháo chính 190 mm (7,5 inch), hệ thống động lực đốt hỗn hợp than và dầu có công suất 60.000 mã lực, cho phép đạt được tốc độ tối đa 55,6 km/h (30 knot).Hawkins được chế tạo tại Xưởng đóng tàu Chatham và được hạ thủy vào ngày 1 tháng 10 năm 1917.

Lịch sử hoạt động

Giữa hai cuộc thế chiến

HMS Hawkins được đưa ra hoạt động vào ngày 25 tháng 7 năm 1919 và trở thành soái hạm của Hải đội Tuần dương Hạng nhẹ 5 tại China Station. Nó phục vụ trong vòng chưa đầy một thập niên trước khi được cho quay trở về xưởng đóng tàu Chatham để nâng cấp.Trong đợt tái trang bị này, các nồi hơi đốt than của nó được tháo dỡ và các nồi hơi đốt dầu còn lại được cải tiến.Nó hoạt động trở lại vào tháng 12 năm 1929, và trở thành soái hạm của Hải đội Tuần dương 2 trong thành phần Hạm đội Đại Tây Dương.Hawkins được cho ngừng hoạt động vào tháng 5 năm 1930 và được đưa về Hạm đội Dự bị. Nó được cho hoạt động trở lại vào năm 1932 và trở thành soái hạm của Hải đội Tuần dương 4 tại khu vực Đông Ấn, rồi lại đưa trở về lực lượng dự bị vào tháng 4 năm 1935.Hiệp ước Hải quân London có điều khoản quy định cho đến năm 1937, Hawkins phải được giải giáp, tháo dỡ toàn bộ các khẩu pháo 190 mm (7,5 inch) cùng mọi ống phóng ngư lôi bố trí trên sàn tàu trước khi đưa nó về tình trạng dự bị.Đến tháng 9 năm 1938, Hải quân Anh có kế hoạch sử dụng Hawkins như một tàu huấn luyện dành cho học viên mới.

Chiến tranh Thế giới thứ hai

Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào năm 1939, Hawkins được tái vũ trang và được đưa vào hoạt động như là soái hạm của Chuẩn Đô đốc Henry Harwood sau trận River Plate.Nó tuần tra dọc theo bờ biển Nam Mỹ, hoạt động sâu về phía Nam đến tận quần đảo Falklands. Nó rời Montevideo vào ngày 5 tháng 9 năm 1940 hướng đến Simonstown thuộc Nam Phi cho một đợt tái trang bị.Tuy nhiên, trước khi nó được sử dụng ụ tàu nổi, nơi đây đã bị chiếm chỗ bởi chiếc tàu sân bay HMS Hermes, vốn đang cần được sửa chữa sau một tai nạn va chạm với một tàu buôn. Hawkins được cho chuyển hướng đến Durban nơi nó trải qua bảy tuần lễ chờ đợi trước khi có thể vào ụ tàu nổi Selborne tại Simonstown.Hawkins cũng đã tham gia vào việc cứu vớt chín thành viên thủy thủ đoàn của chiếc tàu chở dầu SS British Premier, vốn bị tàu ngầm Đức U-65 phóng ngư lôi đánh chìm ngoài khơi Freetown.Trong tháng 2 năm 1941, Hawkins hoạt động tích cực ngoài khơi bờ biển phía Đông Châu Phi, hỗ trợ cho việc tái chiếm Somaliland thuộc Anh và tiến quân vào Somalia thuộc Ý từ Kenya như một phần của Lực lượng T thuộc Hạm đội Đông Ấn.Nó cũng chiếm giữ một số tàu buôn Ý và Đức tìm các thoát khỏi sự sụp đổ của lãnh thổ thuộc Ý trước đây, trong số những chiếc bị chiếm giữ có chiếc SS Savoia.Nó sau đó hoạt động hộ tống các đoàn tàu vận tải và ngăn chặn các tàu bè Pháp Vichy và trung lập.Trong khi ở ngoài khơi vùng biển Mauritius, trục chân vịt phía ngoài bên mạn phải bị vỡ và nó bị mất cả trục lẫn chân vịt.Nó trải qua giai đoạn từ ngày 10 đến ngày 28 tháng 10 trong ụ tàu tại Selborne trước khi khởi hành vào ngày 2 tháng 11 để tái trang bị và sửa chữa tại Anh Quốc.Việc sửa chữa hoàn tất vào tháng 5 năm 1942 và Hawkins lên đường gia nhập Hạm đội Viễn Đông,một lần nữa hộ tống tàu bè chung quanh bờ biển Châu Phi,trừ những lúc vào ụ tàu để sửa chữa và tái trang bị.Một trong những con tàu mà nó từng hộ tống là chiếc SS Khedive Ismail, sau đó bị trúng ngư lôi từ tàu ngầm Nhật và bị đắm với tổn thất nhân mạng lớn lao. Trong tháng 6 năm 1944 nó quay trở về vùng biển Anh Quốc, tham gia Chiến dịch Neptune trong thành phần của Lực lượng Đặc nhiệm Phương Tây hỗ trợ bắn pháo lên bãi Utah trong cuộc Đổ bộ Normandy.Trước đó, nó đã tham gia cuộc Tập trận Tiger, một nỗ lực tai hại để diễn tập cho cuộc đổ bộ.Đến tháng 8, một lần nữa nó đảm trách vai trò tàu huấn luyện.

Sau chiến tranh

Vào năm 1945, Hawkins được đưa về lực lượng dự bị lần cuối cùng.Tháng 1 năm 1947,nó được chỉ định là một tàu mục tiêu thử nghiệm, và bị những chiếc máy bay ném bom Avro Lincoln của Không quân Hoàng gia Anh thực tập ném bom ngoài khơi Spithead.Nó được bán để tháo dỡ vào ngày 21 tháng 8 năm 1947, và bị tháo dỡ vào tháng 12 năm đó tại xưởng tàu của Arnott Young ở Dalmuir.[

HMS Effingham (D98) là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp Hawkins của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc, việc chế tạo nó chỉ có độ ưu tiên thấp, và nó là chiếc cuối cùng của lớp Hawkins được hoàn tất vào năm 1925. Cuộc đời phục vụ kéo dài cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra;nhưng nó bị mất sớm trong cuộc chiến này, khi bị mắc cạn tại vùng biển Na Uy vào năm 1940.

Thiết kế và chế tạo

Effingham được đưa ra hoạt động tại Portsmouth vào năm 1925, sau khi công việc chế tạo bị tạm ngừng trong nhiều năm sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc vào năm 1918. Tên của nó được đặt theo Lord Charles Howard của Effingham, một trong những người lãnh đạo hạm đội đã đánh bại hạm đội Tây Ban Nha vào năm 1587.Nó có trọng lượng rẽ nước 12.190 tấn, dài 184,4 m (605 ft) và mạn tàu rộng 19,8 m (65 ft), với một thủy thủ đoàn bao gồm 690 sĩ quan và thủy thủ. Theo thiết kế ban đầu, nó mang theo bảy khẩu pháo BL 190 mm (7,5 inch) Mark VI cùng với các vũ khí phòng không và sáu ống phóng ngư lôi.

Lịch sử hoạt động

Các hoạt động ban đầu

Effingham phục vụ như là soái hạm của Hải đội Viễn Đông tại khu vực Đông Ấn từ năm 1925 đến năm 1932, trước khi được đặt làm soái hạm của lực lượng dự bị sau khi quay trở về Anh Quốc.

Hiện đại hóa

Trong những năm 1937 - 1938, Effingham được cho hiện đại hóa một cách rộng rãi khiến hình dáng bề ngoài của nó thay đổi đáng kể. Số nồi hơi của nó được giảm bớt từ 12 xuống còn 10, và kết quả là nó chỉ còn một ống khói đứng duy nhất thay cho hai ống khói nghiêng về phía sau, và các cột ăn-ten thẳng đứng.Dàn pháo chính của nó thay đổi còn chín khẩu pháo 152 mm (6 inch) trên những tháp súng nòng đơn, tất cả đều được bố trí trên trục dọc của con tàu.Ba tháp pháo phía trước bố trí theo kiểu bắn thượng tầng, đòi hỏi phải được bổ sung một sàn cấu trúc thượng tầng phía trước cầu tàu, vốn bản thân cũng được tái cấu trúc. Nó cũng được trang bị bốn pháo phòng không QF 102 mm (4 inch) Mark V bố trí trên các bệ nòng đơn (đến năm 1939 được tháo dỡ thay bằng hai tháp pháo nòng đôi),các ống phóng ngư lôi được tháo dỡ, và nó được trang bị một cần cẩu dành cho hoạt động của thủy phi cơ, cho dù đề nghị trang bị một máy phóng không được thực hiện, và nó chưa bao giờ mang theo máy bay. Công việc hiện đại hóa tương tự được dự định dành cho các các tàu chị em Frobisher và Hawkins, nhưng bị trì hoãn do những công việc ưu tiên khác, và cuối cùng bị hủy bỏ do sự kiện Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ.

Chiến tranh Thế giới thứ hai

Sau khi được cho tái hoạt động, Effingham phục vụ tại khu vực Bắc Đại Tây Dương và Đông Ấn. Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, Effingham thực hiện tuần tra tại Bắc Đại Tây Dương, ở khu vực Iceland,và từng tham gia vận chuyển trữ lượng vàng trị giá 2 triệu Bảng Anh đến Halifax, Nova Scotia thuộc Canada.Nó săn đuổi các tàu chiến nổi cướp tàu buôn Đức trong chuyến quay trở về, và chuyến đi này đã dẫn nó đến vùng biển Na Uy trong lúc diễn ra Chiến dịch Na Uy tại đây.Trong giai đoạn này, nó bị tàu ngầm đối phương tấn công nhưng đã không bị đánh trúng, và tiếp thục thực hiện việc nả pháo lên các vị trí trú đóng của quân Đức trên các ngọn đồi chung quanh Narvik cho đến tháng 5, khi nó hộ tống một đoàn tàu vận chuyển binh lính đến Bodø.Vào ngày 18 tháng 5 năm 1940, Effingham bị mất trong khi đang đảm trách vai trò hộ tống tàu vận tải. Di chuyển với tốc độ 42,6 km/h (23 knot) phía ngoài bờ biển Na Uy để giảm thiểu nguy cơ bị không kích, nó chỉ còn cách điểm đến khoảng một giờ chạy tàu khi nó va phải một tảng đá lớn trong khu vực Bodø (Bliksvær) thuộc bãi đá ngầm Fasken, giữa các đảo Bliksvær và Terra. Tảng đá này đã được biết đến và được đánh dấu trên hải trình của con tàu, nhưng khi vị hoa tiêu của con tàu vạch lộ trình trên hải đồ, bút chì của ông đã che khuất đúng ngay chướng ngại vật trên lộ trình. Điều may mắn là không có ai thiệt mạng trong vụ đắm tàu, và bản thân chiếc tàu tuần dương bị phá hủy bởi một quả ngư lôi từ chiếc tàu khu trục HMS Matabele đi theo hộ tống vào ngày 21 tháng 5 sau khi mọi giấy tờ quan trọng và các thiết bị đã được tháo dỡ.Con tàu bị lật nghiêng, để lại phần lớn lườn tàu cùng cột buồm và ống khói bên trên mặt nước. Xác tàu đắm được tháo dỡ bởi hãng Høvding Skipsopphugging sau năm 1945, chỉ còn để lại một ít phần của lườn tàu và các cơ phận còn lại trên đáy biển.Nó là tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoàng gia Anh mang cái tên Effingham, nhưng cái tên này được được tiếp tục tôn vinh bởi một cơ sở trên bờ dành cho việc huấn luyện các đơn vị đặc biệt hải quân vào năm 1943.

HMS Frobisher là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp Hawkins.Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc, việc chế tạo nó chỉ có độ ưu tiên thấp,và nó chỉ được đưa ra hoạt động vào năm 1924.Cuộc đời phục vụ kéo dài cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, và nó đã tham gia hoạt động tại Ấn Độ Dương và trong cuộc Đổ bộ Normandy, rồi là một tàu huấn luyện cho đến khi bị tháo dỡ vào năm 1949.

Thiết kế và chế tạo

Frobisher được chế tạo tại Xưởng tàu Devonport và được hạ thủy vào ngày 20 tháng 3 năm 1920. Công việc hoàn tất nó bị kéo dài trong nhiều năm sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc, và nó chỉ được đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 9 năm 1924.

Lịch sử hoạt động

Giữa hai cuộc thế chiến

Frobisher được bố trí phục vụ cùng Hạm đội Địa Trung Hải như là soái hạm của Hải đội Tuần dương 1.Nó được tạm thời cho tách ra để phục vụ tại China Station vào năm 1926.Vào năm 1927 Frobisher trải qua một đợt tái trang bị thay thế một khẩu pháo QF 102 mm (4 inch) Mark V, được bố trí lại giữa các ống khói, cùng với một khẩu pháo thứ tư,một máy phóng và một cần cẩu. Một đợt tái trang bị khác vào năm 1929 cho phép Frobisher sử dụng các nồi hơi đốt dầu, và sau đó nó được bố trí gia nhập Hạm đội Đại Tây Dương.Vào tháng 11 năm 1930, Frobisher được đưa về lực lượng dự bị trước khi được cải biến thành một tàu huấn luyện dành cho học viên sĩ quan, và trong vai trò này nó đã tiếp tục phục vụ từ năm 1932 đến năm 1939.Nó được cho ngừng hoạt động từ đầu năm 1939 cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Vào tháng 1 năm 1940 Frobisher bắt đầu một đợt tái trang bị rộng rãi, trang bị năm khẩu pháo 190 mm (7,5 inch), bốn khẩu pháo QF 102 mm (4 inch) Mark V, các khẩu pháo phòng không QF 2 pounder pom-pom bốn nòng và 19 pháo phòng không Oerlikon 20 mm.

Chiến tranh Thế giới thứ hai

Frobisher gia nhập Hải đội Tuần dương 4 thuộc Hạm đội Viễn Đông Anh Quốc vào tháng 3 năm 1942 và thực hiện các hoạt động tại Ấn Độ Dương, hộ tống các đoàn tàu vận tải chung quanh bờ biển Châu Phi và trải qua những đợt bảo trì ngắn trong ụ tàu Selborne tại Simonstown thuộc Nam Phi. Frobisher được điều động quay trở về Anh Quốc vào tháng 3 năm 1944;và đã tham gia trong chiến dịch Neptune vào ngày 6 tháng 6 trong thành phần của Lực lượng Đặc nhiệm D Phương Tây hỗ trợ bắn pháo lên bãi Sword trong cuộc Đổ bộ Normandy. Trong dịp này nó được cho là đã bắn dàn pháo chính BL 190 mm (7,5 inch) Mark VI với tốc độ năm phát mỗi phút cho dù phải nạp đạn bằng tay.Cuối tháng đó, nó được bố trí như là tàu tiếp liệu cho các tàu phóng lôi bảo vệ lực lượng hải quân.Vào tháng 8, nó cùng với chiếc tàu sửa chữa HMAS Albatross bị hư hại bởi ngư lôi tầm xa phóng từ những chiếc E-boat của Đức trong vịnh Seine.Sau đó Frobisher bị giải giáp một phần và được cải biến thành một tàu huấn luyện học viên sĩ quan. Nó bị bán để tháo dỡ vào ngày 26 tháng 3 năm 1949, và được cho kéo đến Newport để được tháo dỡ bắt đầu từ ngày 11 tháng 5 năm đó.

HMS Raleigh là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp Hawkins.Nó được đưa vào hoạt động trong thành phần Hải đội Đại Tây Dương Anh Quốc vào năm 1921,và chỉ hoạt động được hơn hơn một năm trước khi bị mất do mắc cạn ngoài khơi Labrador năm 1922.

Thiết kế và chế tạo

Raleigh có trọng lượng rẽ nước khi đầy tải là Bản mẫu:Convert/LonAonDbSonNa, chiều dài chung 605 ft (184 m) và một thủy thủ đoàn 700 người. Nó là chiếc duy nhất trong lớp Hawkins được trang bị hệ thống động lực với công suất 70.000 shp (52,000 kW),và trong chuyến đi chạy thử máy ngoài khơi đảo Arran từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 9 năm 1920, nó đã đạt đến tốc độ thiết kế 31 kn (Bản mẫu:Convert/mph km/h) ở công suất tối đa 71.350 shp (53,210 kW).Với một nữa công suất, 35.000 shp (26,000 kW), chiếc tàu tuần dương vẫn có thể ạt được tốc độ 28 kn (Bản mẫu:Convert/mph km/h).Sau chuyến đi chạy thử máy Raleigh được đưa đến Devonport để hoàn tất như một soái hạm.

Lịch sử hoạt động

Vào tháng 4 năm 1922, Sir William Christopher Pakenham là Đô đốc Tư lệnh Lực lượng Mỹ và Tây Ấn của Hải quân Hoàng gia Anh, và ông chọn HMS Raleigh làm soái hạm của mình.Sir Arthur Bromley là chỉ huy của chiếc HMS Raleigh, và người ta cho rằng sự cẩu thả của ông đã làm mất con tàu.Vào ngày 8 tháng 8 năm 1922, Thuyền trưởng Bromley phóng nhanh con tàu của mình qua làn sương mù dày đặc và đã bị mắc cạn tại Point Amour trong vịnh Forteau thuộc Labrador.Mười một thủy thủ đã bị rơi xuống nước do tai nạn này.Con tàu tuần dương bị xem là mất hoàn toàn. Nó tiếp tục bị mắc cạn ở tư thế thẳng đứng trong bốn năm; và trong giai đoạn này nó được tháo dỡ mọi thứ còn có ích. Sau cùng nó được phá hủy bằng chất nổ vào tháng 9 năm 1926

HMS Vindictive là một tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo từ năm 1916 đến năm 1918. Nguyên được đặt lườn như một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp Hawkins dưới tên gọi Cavendish, nó được cải biến thành một tàu sân bay đang khi chế tạo, và được đổi tên thành Vindictive.Nó đã phục vụ cho đến hết Chiến tranh Thế giới thứ hai trong nhiều vai trò khác nhau với nhiều lần được cải tạo, cho đến khi bị tháo dỡ vào năm 1946.

Thiết kế và chế tạo

Công việc thiết kế lớp Hawkins được hoàn tất vào cuối năm 1915 và bốn chiếc đã được đặt hàng vào tháng 12 năm đó. Chiếc thứ năm và là chiếc cuối cùng được đặt hàng vào tháng 4 năm 1916.Do tất cả những chiếc trong lớp tàu này được đặt tên theo theo những thuyền trưởng lừng danh trong thời kỳ Elizabeth,chiếc thứ năm được đặt cái tên Cavendish theo tên của nhà thám hiểm hàng hải lừng danh Thomas Cavendish. Nó được đặt lườn tại xưởng đóng tàu của hãng Harland & Wolff ở Belfast vào tháng 7 năm 1916.Sau các thử nghiệm bay đầy hứa hẹn trên chiếc tàu sân bay HMS Furious (47) vào năm 1917,Bộ Hải quân quyết định cải biến Cavendish và hoàn tất nó như một tàu sân bay thử nghiệm.Vì vậy nó được tái thiết kế với một hầm chứa máy bay trên sàn tàu trước có khả năng chứa sáu máy bay có thể được nâng lên qua một cửa mở lên trên nóc, vốn tạo thành sàn cất cánh.Nó được nối bằng một hành lang bên mạn trái đến một sàn hạ cánh phía sau được bố trí phía sau các ống khói, và có các tấm lưới được giăng ra ngăn ngừa việc hạ cánh quá đà có thể va chạm với cấu trúc thượng tầng. Cho dù chỉ dự định dành cho sáu máy bay, nó thường mang theo hai máy bay tiêm kích và sáu máy bay tuần tiễu.Vũ khí trang bị nguyên thủy cho tàu tuần dương được giảm còn bốn khẩu hải pháo BL 190 mm (7,5 inch) Mark VI. Cavendish được hạ thủy vào ngày 17 tháng 1 năm 1918; và đến tháng 6, nó được đặt lại tên là Vindictive để tôn vinh chiếc tàu tuần dương cũ HMS Vindictive (1897) thuộc lớp Arrogant, vốn đã hoạt động anh dũng trong cuộc tấn công Zeebrugge vào tháng 4 năm 1918, và bị đánh chìm như một tàu ụ cản tại Ostend vào tháng 5.Công việc cải biến đã khiến Vindictive nhẹ hơn những chiếc còn lại trong lớp Hawkins, với trọng lượng rẽ nước 9.394 tấn. Nó hoàn tất các chuyến đi chạy thử máy vào ngày 21 tháng 9 năm 1918, trước hơn cả bốn chiếc còn lại của lớp Hawkins, và đạt được tốc độ tối đa khi thử máy là 53,9 km/h (29,12 knot) với công suất động cơ 63.600 mã lực (47,4 MW).Nó được đưa ra hoạt động vào ngày 1 tháng 10 năm 1918 và đi đến Scapa Flow để huấn luyện, và gia nhập hạm đội tại Firth of Forth chỉ vài ngày trước khi đình chiến.Lần hạ cánh máy bay đầu tiên của nó chỉ diễn ra vào tận tháng 11 năm đó.

Lịch sử hoạt động

Tàu sân bay

Vào tháng 7 năm 1919, Vindictive được gửi đến biển Baltic cùng với 12 máy bay để hỗ trợ cho các hoạt động ủng hộ lực lượng Bạch vệ Nga và các nước độc lập tại Baltic.Mối quan tâm chính là căn cứ hải quân chủ lực của lực lượng Bolshevik tại Kronstadt bảo vệ cho Petrograd.Vào ngày 6 tháng 7, nó mắc cạn vào một dãi đá ngầm gần Reval khi di chuyển với tốc độ 28 km/h (15 knot), và chỉ được giải thoát một tuần sau đó dưới sự trợ giúp của các tàu kéo và hai tàu khu trục khác.Vào ngày 17-18 tháng 8 năm 1919,tám máy bay cất cánh từ HMS Vindictive đã ném bom và bắn phá các đơn vị pháo và đèn pha bảo vệ căn cứ hải quân này.Đòn tấn công nghi binh phân tán đã thu hút sự chú ý của lực lượng phòng thủ, tạo điều kiện cho cuộc tấn công của các tàu tuần tra duyên hải của Hải quân Hoàng gia nhắm vào các tàu bè trong cảng Kronstadt.Hai thiết giáp hạm cùng tàu tiếp liệu tàu ngầm Pamiat Azova bị đánh chìm.Vindictive tiếp tục ở lại khu vực này cho đến tháng 12, hoạt động như là "tàu mẹ" cho máy bay và tàu tuần tra duyên hải. Nó được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 24 tháng 12 năm 1919. Những hư hại cho lườn tàu do mắc cạn buộc nó phải được sửa chữa rộng rãi tại Xưởng đóng tàu Portsmouth với chi phí 200.000 Bảng Anh.Đến lúc này, Bộ Hải quân từ bỏ ý tưởng sàn cất cánh và sàn hạ cánh riêng biệt, trang bị một sàn cất-hạ cánh chung suốt hết chiều dài của tàu sân bay; vì vậy Vindictive trở nên lạc hậu trong vai trò tàu sân bay với quãng đời phục vụ ngắn ngũi.

Tàu tuần dương

Các sàn đáp được tháo dỡ và Vindictive được cấu hình trở lại thành một tàu tuần dương vào năm 1924. Hình dáng bên ngoài của nó vẫn khác biệt so với những con tàu nữa-chị em trong lớp Hawkins, vì nó giữ lại một sàn chứa máy bay có khả năng chứa bốn máy bay và một cần cẩu dạng thanh giằng; và dàn pháo chính của nó chỉ có sáu khẩu pháo BL 190 mm (7,5 inch) thay vì bảy.Vào mùa Thu năm 1925, nó trở thành tàu tuần dương đầu tiên của Hải quân Hoàng gia được trang bị một máy phóng máy bay,và cuộc phóng đầu tiên được thực hiện vào ngày 31 tháng 10. Nó phục vụ tại China Station cho đến tháng 8 năm 1928, rồi sau đó gia nhập Hạm đội Đại Tây Dương.Vào ngày 23 tháng 7 năm 1929, đang khi ở trong Xưởng tàu Chatham, nó chịu một vụ nổ tại một tháp súng khiến một người thiệt mạng.Nó được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 30 tháng 12 năm 1929.Máy phóng sau đó được tháo dỡ.Trong giai đoạn 1930-1933, bốn lần nó được huy động để chuyên chở binh lính đến Hong Kong, mỗi chuyến đi khứ hồi kéo dài cho đến sáu tháng, và vẫn tiếp tục ở lại lực lượng dự bị ngoại trừ dịp tham gia Duyệt binh Hạm đội Kỷ niệm Ngân khánh tại Spithead vào tháng 7 năm 1935.

Tàu huấn luyện

Trong những năm 1936-1937, Vindictive được cải biến thành một tàu huấn luyện dành cho học viên sĩ quan. Công việc tái trang bị bao gồm việc tháo dỡ hai bộ động cơ và ống khói phía sau, và việc chế tạo các sàn tàu bên trên làm chỗ nghỉ và lớp học của 200 học viên.Cần cẩu dành cho máy bay được giữ lại, và vũ khí trang bị được rút xuống còn hai khẩu pháo 119 mm (4,7 inch).Ở cấu hình mới này, nó có trọng lượng rẽ nước 9.100 tấn và có khả năng đạt được tốc độ tối đa 44,4 km/h (24 knot).

Tàu sửa chữa hạm đội

Từ mùa Hè năm 1939 cho đến tháng 3 năm 1940, Vindictive một lần nữa được cải biến thành một tàu sửa chữa hạm đội, khi mà cần cẩu dành cho thủy phi cơ và các khoảng trống của lớp học (chuyển đổi dễ dàng thành các xưởng máy) tỏ ra có giá trị. Trong vai trò này, nó có trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn 10.060 tấn (đầy tải ở 12.250 tấn) và dàn vũ khí bao gồm sáu khẩu pháo phòng không 102 mm (4 inch). Nó đã phục vụ trong Chiến dịch Na Uy cùng với Hạm đội Nhà,rồi vào tháng 7 năm 1940 nó được chuyển đến Freetown thuộc Nam Phi, phục vụ tại khu vực Nam Đại Tây Dương cho đến tháng 12 năm 1942. Sau đó nó được điều đến Mers el Kebir để phục vụ cùng Hạm đội Địa Trung Hải cho đến năm 1944.

Tàu tiếp liệu khu trục

Nó được cải biến thành tàu tiếp liệu cho tàu khu trục tại Malta vào năm 1944;và khởi hành từ Malta vào ngày 15 tháng 10 năm 1944.Đến tháng 12 nó phục vụ cho các hải đội thuộc Hạm đội Nhà tại Scapa Flow. Vindictive được đưa về lực lượng dự bị vào tháng 6 năm 1945 và được tháo dỡ tại Blyth vào tháng 2 năm 1946

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro