quai khach muon mat 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

này, ngươi chả là giám viện của Thiếu Lâm là gì? Tại sao ngươi tầm thường đến thế, sư huynh mi là chưởng môn của phái Thiếu Lâm, y tự biết địch không nổi một chưởng của Cô Độc Khách, nên y chỉ đứng đằng xa hò reo trợ oai thôi, còn để cho các ngươi, lũ chó chết các ngươi đến đây nạp mạng. Các ngươi tự vấn thân, chứ không còn vu cho ai được nữa, bầy giờ các ngươi yên tâm rồi chứ?... ta đã yên tâm... chưa??

Y tự hỏi lại như vậy, rồi lẩm bẩm:

-Không, lòng ta không bao giờ yên hết. Ta phải giết sạch những kẻ đã âm mưu đến đây sát hại ta. Nơi đây chí có mười bảy người, nhưng không có ai là chủ mưu cả. Hừ sẽ có một ngày, ta bước chân tới cửa nhà những tên chủ mưu rồi ta sẽ đánh chết chúng cho mà xem ta còn muốn... đồ đệ ngoan ngoãn của ta trả thù cho ta...

Vừa nói vừa loạng choạng đi đến gần vách núi, dưới vách ấy trước kia có một căn nhà lá nho nhỏ. Bây giờ đã cháy rụi rồi và chỉ còn là đống tro tàn thôi. Y đi vòng qua đống tro tàn đó, tới vách núi thò tay vào một cái lỗ thật nhỏ, bên ngoài ngụy trang kéo léo không ai có thể thấy được? Y lấy ra một cái hộp sắc hình đài cặp dưới nách, rồi lại loạng choạng quay người đi luôn.

Trăng ở trên nền trời đã lặn xuống: Trên đỉnh núi đột nhiên trời tối âm u. Góc trời bên phía đông sáng dần. Mặt trời dần dần nhô lên. Lúc bấy giờ, trên mặt biển cạnh sườn núi xuất hiện một chiếc thuyền buồm nho nhỏ đang lướt sóng tiến thẳng ra khơi. Chiếc thuyền ấy càng đi càng xa, sau cùng chỉ còn là một cái chấm đen nhỏ.

Người ta không còn trông thấy ông già bị thương nặng xuất hiện trên đỉnh núi nọ nữa. Nhưng khi mặt trời đã mọc lên cao, trên đỉnh núi ấy lại xuất hiện một bọn người khác. Bọn người này đa số là thanh niên tuổi ngoài hai mươi. Trong số các thanh niên đó, đạo sĩ có, hòa thượng có, người thường cũng có. Người nào người nấy đều võ trang, lưng đeo kiếm.

Họ leo lên trên đỉnh núi với vẻ thản nhiên riêng chỉ có vài người ứa nước mắt thôi. Họ lẳng lặng đi tới các luống hoa nhận xác chết. Một số nhìn xuống sườn núi, ngó xuống phía vực sâu rồi mới quay lại dùng chiếu gói những xác chết lại vác lên vai rồi lẳng lặng đi xuống núi.

Một đêm kỳ lạ và kinh khủng đó đã qua rồi. Nhưng sự tích của đêm ấy đã được bọng thanh niên đến nhặt xác truyền bá đi khắp nơi.

Thế là trên giang hồ ai ai cũng đều hay tin: "Sát tinh Độc Cô Khách, người mà các tay cao thủ võ lâm đều sợ hãi đã bị bảy đại chưởng môn liên hiệp, tổ chức một đại quân chính nghĩa diệt trừ."

Nhưng sự thật. Cô Độc Khách đã hùng cứ võ lâm ngót hai mươi năm có thật bị bọn người của bẩy đại môn phái giết chết không? Sát tinh Cô Độc Khách có thật là kẻ tàn sát vô nhân đạo đáng để cho "đội quân chính nghĩa" của bẩy đại môn phái liên hiệp diệt trừ không?

Những câu hỏi đó quả thật khó trả lời cho đúng vì trong võ lâm rất ít người biết rõ chuyện.

Nhưng rồi tất cả những bí mật ấy dần dần được tiết lộ dưới ánh mặt trời.

Hồi 1 Nuôi ong tay áo

Câu chuyện bảy đại môn phái liên hiệp diệt trừ Cô Độc Khách đã qua được năm năm rồi.

Trên Quan Nhật Nhai ở núi Lao Sơn, hoa vẫn đua nở và còn nở nhiều hơn và đẹp hơn trước nữa là khác. Đồng thời dưới sườn núi lại mới xây một tòa nhà rất đẹp.

Tòa nhà mới xây đó thật hùng vĩ. Những cột và sàn nhà đều có chạm rồng phụng, kỳ hoa dị thảo và các sự tích đời xưa. Nhà đó có tất cả chín căn, căn nào cũng có lầu và xây bằng gạch đỏ. Căn nào cũng có hàng lang liên thông với nhau, và chín căn xây vòng quanh theo hình bán nguyệt. Chính giữa lại có nhà thủy tạ, đình đài và vườn hoa. Tòa nhà trang hoàng lịch sự không kém gì những lâu đài của vương hầu bá tước.

Bây giờ là mùa hè. Gió bể thối tới mát dịu khiến người ở trong nhà không thấy oi bức, nhất là những buổi hoàng hôn. Trời xanh biếc, trông ra ngoài khơi người ta không thể nào phân biệt đâu là trời và đâu là bể. Mặt trời sắp lặn, mặt đỏ bừng như say rượu chiếu lên trên những ngọn sóng phản chiếu những ánh sáng ngũ sắc.

Dưới chân núi, từng làn sóng trắng xóa, đánh tạt vào vách đá đã dội lên trên bãi cát, những tiếng rì rào êm tai, những con hải điểu sắp trở về tổ ba lượn trên mặt bể dưới sườn núi, thêu dệt cảnh sắc thành một bức tranh đẹp vô cùng.

Sắp đến giờ ăn tối, trong lầu bỗng khói bốc lên nghi ngút đột nhiên cửa lầu của căn nhà giữa hé mở. Một đứa bé mặc quần màu phấn hồng ở bên trong chạy nhanh ra như con thỏ tiến thẳng vào trong rừng thông gần đó.

Em quay đầu lại nhìn, thấy chưa có ai chú ý nên khoái chí cười khì rồi chạy nhanh qua khu rừng đó. Em chạy xuống một cái dốc nho nhỏ để tới bãi cát.

Chủ nhân của tòa nhà đồ sộ này họ Long. Gia đình này có tất cả chín anh em. Người lớn nhất, tức lão đại là Long Chí Lễ, lão nhị Chí Nghĩa, lão tam Chí Nhân, lão tứ Chí Tín, lão ngũ Chí Trung, lão lục Chí Đạt, lão thất Chí Tri, lão bát Chí Hiếu, lão cửu Chí Dũng. Người nào người nấy tuổi đều trên ngũ tuần.

Trước kia chín anh em mỗi người ở một nơi, người làm quan, kẻ đi buôn bán, mỗi người làm một nghề, người nào người ấy đều khá giả, riêng có lão cửu Chí Dũng tính thích võ hiệp và đã được Nhất Phong Thượng nhân ở Bạch Vân Quán trên núi Thái sơn nhâtnj làm đồ đệ. Nhờ võ công cao siêu, hành hiệp trượng nghĩa ở chốn giang hồ, nên Chí Dũng được người trong võ lâm ban cho danh hiệu Quá Sơn

Chín anh em thấy mình đã luống tuổi nên cùng rủ nhau về quê hương tỉnh Sơn Đông đoàn tụ dưới một mái nhà. Trong chín anh em chỉ có một mình Chí Dũng sanh được một người con trai.

Tám người nọ tuy có một vài người đã có năm thê bảy thiếp mà vẫn hiếm muộn.

Vì vậy, con trai của Chí Dũng là Uyên nhi, vô hình trung trở nên vật quý nhất của nhà họ Long, tám người anh đều muốn nhận Uyên nhi thừa tự cho mình.

Nhưng Chí Dũng chỉ được một đứa con như vậy mà thằng nhỏ mới lên ba tất nhiên không khi nào mẹ nó lại chịu để nó sang ở những nhà của các người anh kia. Vả lại có những tám người thì biết để nó ở với ai được? Vì vậy, chín anh em mới tìm đến Quan Nhật Nhai phong cảnh tuyệt đẹp này để xây một tòa nhà đồ sộ, rồi cùng ở chung với nhau và cũng để tạo cơ hội gần gũi đứa con duy nhất của nhà họ Long.

Thấm thoát đã được ba năm, Uyên nhi đã lên sáu.

Tám ông già đều thương yêu Uyên nhi, nên để căn lầu giữa cho nó và cha mẹ nó ở. Đại sảnh lớn dưới lầu là phòng ăn, mỗi ngày hai bữa cả nhà họ Long già trẻ lớn bé đều đến phòng đó dùng cơm.

Uyên nhi được cả nhà thương như vậy, tất nhiên muốn gì được nấy, chỉ có một điều là nó không được tự do.

Một đứa trẻ mới lên sáu, suốt ngày bị vú già va con sen trông coi, nào là không được nghịch nước, nghịch bùn... vì vậy y bực mình với vú già và con sen lắm, cho nên hễ hai người trong coi nó lơ đễnh một chút là nó lén trốn đi chơi một mình ngay. Nó thích xuống bãi cát nhặt vỏ trai, vỏ hến chơi, cũng vì thế mà vú già và con sen cứ bị chủ nhân mắng chửi luôn.

Sở dĩ mọi người thương yêu Uyên nhi như vậy là vì nó vừa ngoan, vừa xinh xắn, lại vừa lanh lợi, không khác gì mọt tiên đồng đầu thai xuống trần gian.

Chí Tri, người em thứ bảy, năm xưa đã làm mấy năm tri phủ, học vấn uyên thâm, lại tinh thông cả y, bốc, tinh, tướng. Theo sự nhận xét của ông ta thì cốt cách của Uyên nhi rất thanh kỳ, sau này thế nào cũng trải qua một lần đại nạn nhưng lại gặp quới nhân ngay nên rốt cuộc trở thành một kỳ nhân trong thiên hạ.

Chí Tri nói như thế, cha mẹ Uyên nhi và vợ chồng Chí Dũng đều là hiệp sĩ tính tình khoáng đạt nên coi như không có gì, nhưng còn bẩy người anh kia thì lại càng lo âu thêm vì người nào người nấy đều coi Uyên nhi như con đẻ của mình, ai ai cũng mong sau này nó nối giòng dõi cho nhà họ Long, nhưng họ chỉ muốn Uyên nhi trưởng thành lấy vợ, đẻ con để nối dõi chứ không mong nó phiêu bạt giang hồ.

Cũng vì thế mà nhà họ Long, không những ra nghiêm lịnh cho vú già, con sen phải trông coi Uyên nhi mà còn cấm đứa bé ra khỏi nhà.

Năm Uyên nhi lên năm, mấy người anh bắt Chí Tri phụ trách việc dạy học cho Uyên nhi. Ý của họ là muốn Uyên nhi bận lo học hành mà không rong chơi.

Ngờ đâu Uyên nhi thông minh vô cùng, những bài học mà người khác học ba ngày chưa thuộc lòng nó chỉ học nửa ngày.

Chí Tri thấy Uyên nhi thông minh như vậy biết nó không phải là đứa trẻ tầm thường, nên để cho nó tự do tùy theo số mạng, thuận theo lòng trời thì hơn.

Vì thế chiều nào Uyên nhi học xong, là Chí Tri cho đi ra ngoài chơi, và dặn nó về trước giờ cơm.

Một năm đã qua, Uyên nhi học thuộc mấy cuốn kinh điển và thường lẻ đi chơi mà chưa có chuyện gì xảy ra.

Ngày nào Uyên nhi cũng xuống bãi cát chơi. Nó đã quen thuộc đường, đồng thời nó cũng tìm được một cái hang bí ẩn dưới chân núi.

Ngày nào nó cũng vào đó quét dọn rất sạch và nhặt được những vỏ sò, vỏ hến đem vào chơi. Một chiều nọ cung như mọi khi Uyên nhi vào trong hang bí mật chơi chẳng ngờ gặp tai biến. Uyên nhi vừa xuống tới bãi cát đã trông thấy một chiếc thuyền nhỏ đậu sẵn ở bãi bể. Nó ngạc nhiên và mừng rỡ vì ở đây không có nhà nào khác, cho nên quanh năm không có chiếc thuyền nào neo đậu cả.

Uyên nhi đi đến cái động bí mật, nhưng mặt ngoảnh về phía sau nhìn chiếc thuyền.

Ngờ đâu y vừa bước vào hang động thì cảm thấy có sự khác lạ vì cái nhà đắp bằng vỏ trai của nó đã bị người ta phá nát.

Nó tức giận vô cùng, vội chạy vào bên trong, cúi xuống nhặt lại vỏ trai, vỏ hến.

Ngờ đâu, vừa cúi đầu xuống, bỗng thấy phía lưng tê tái, rồi ngã lăn lên đống vỏ trai mê man bất tỉnh.

Lúc ấy, phía sau Uyên nhi có một đại hán tuổi ngoài ba mươi, mặt hung dữ. Thấy Uyên nhi té ngã, tỏ vẻ đắc chí, ung dung móc túi lấy một lá thư ra để xuống đất, rồi cúi xuống ẵm Uyên nhi lên, nhảy luôn ra ngoài hang chạy thẳng về phía bờ bể.

Gã đại hán đặt Uyên nhi xuống thuyền, sửa soạn kéo buồm nhổ neo, thì bỗng để ý thấy người của Uyên nhi trắng như ngọc, mặt hồng hào, trán cao, mũi to, đôi môi đỏ như son, lông mày hình lưỡi kiếm xếch lên, hai mắt nhắm nghiền, lông mi rậm như hai cái quạt lông ghép vào nhau. Trông đứa bé anh tuấn như vậy, gã đại hán ngẩn người ra tự hổ thẹn với lương tâm.

Có lẽ lúc ấy lương tri của y vẫn còn phần nào nên y mới có sự phản ứng như vậy, suýt tí nữa thì y ẵm thằng nhỏ đem lên bờ trả về chỗ cũ, nhưng lòng tham mạnh hơn lương tri, sau cùng y nghiến răng mím môi ắm đứa bé vô khoang thuyền đặt nó lên một cái giường, rồi giương buồm ra khơi.

Trời đã sâm sẩm tối, tòa nhà chín căn ở trên Quan Nhật Nhai đã lần lượt thắp đèn, phòng ăn lớn ở giữa đèn đuốc thắp sáng như ban ngày, chín vợ chồng của chín anh em họ Long và tì thiếp tụ họp đông đủ nơi phòng ăn, riêng thiếu có một mình Uyên nhi.

Lão đại Chí Lễ tính nóng nảy quát hỏi con sen. Chí Tri thì ung dung dắt tay cửu đệ đứng dậy nói:

-Đại ca chớ có nóng nảy như vậy, đệ biết Uyên nhi đi đâu chơi, cửu đệ cùng huynh đi ra ngoài đó tìm Uyên nhi.

Trí Dũng vâng lời, sai người thắp sáng đèn lồng rồi hai anh em đi ra ngoài bể.

Cái hang bí mật dưới chân núi là chỗ chơi riêng của Uyên nhi, chỉ có Chí Tri và Chí Dũng biết, nhưng vì hai người tính rất khoáng đạt nên không ngăn cấm nó.

Khi hai người đi xuống đến bãi cát thì trời đã tối sầm. Hai người thấy vậy lo âu thêm, vì từ xưa tới nay, không bao giờ Uyên nhi lại ở trong hang động đó chơi cho đến tối như thế này cả. Chí Dũng lo lắng lên tiếng:

-Thất ca ở đây để đệ đi tìm kiếm quanh đây xem Uyên nhi có đi chơi quanh đây mà bị lạc lối không.

Nói xong, y không chờ Chí Tri trả lời, vội giở khinh công ra tựa như một bóng đen tiến về phía hang động bí mật kia.

Tuy Chí Tri biết người em của mình võ công cao siêu, nhưng chưa hề thấy em biểu diễn bao giờ. Bây giờ thấy Chí Dũng giở khinh công tuyệt mức ra đi nhanh như thế, Chí Tri vừa kinh hãi vừa thán phục, đứng ngẩn người ra.

Một lát sau, y bỗng thấy dưới chân núi có một đạo ánh sáng thấp thoáng, nhanh như gió lao lên.

Thì ra đó là Chí Dũng tay cầm đèn lồng đã lên tới nơi. Chí Tri thấy mặt cửu đệ rầu rĩ vừa tới nơi đã thở dài nói:

-Thất ca, Uyên nhi nó bị bắt đi rồi!

Tựa như sét đánh ngang tai, Chí Tri đã sớm biết có ngày Uyên nhi ngộ nạn, nhưng không ngờ lại sớm đến thế, nên y đứng ngẩn người ra ấp úng hỏi lại:

-Thật... có thế không? Cửu đệ...

Chí Dũng thấy thái độ của người anh như vậy càng đau lòng thêm, liền đưa mảnh giấy cho Chí Tri xem rồi cầm tay Chí Tri đi trở lên, vừa đi, y vừa nói tiếp:

-Tên giặc để lá thơ đòi chúng ta phải chuộc Uyên nhi bằng hai trăm ngàn lạng bạc, nếu ba ngày sau, không chuộc thì hắn sẽ giết Uyên nhi.

Chí Tri nghe nói hơi yên tâm nói:

-Tên giặc bắt Uyên nhi là muốn có tiền, vậy chỉ cần giao cho hắn là Uyên nhi vô sự ngay. Nhưng trong ba ngày phải làm thế nào đem hai trăm ngàn lạng bạc tới đây, không thì...

Hai anh em về tới đại sảnh. Các người anh ngồi ở trong đại sảnh đời chờ đứa cháu quí báu về để cùng ăn cơm, cho nên họ vừa thấy hai người vè mà không thấy bóng Uyên nhi đâu, liền hỏi ngay:

-Cửu đệ, các ngươi làm trò quỷ gì thế, Uyên nhi đâu?

Chí Dũng lẳng lặng đưa lá thư cho anh cả. Lão đại thấy vậy, biết điềm chẳng lành, vội cầm lấy đọc:

"Gởi chín thằng già họ Long

Con của các người đã bình yên đến trại của Thái gia rồi. Hiện giờ nó bình yên vô sự, nhưng đến trưa ba ngày sau mà các người không sửa soạn đủ hai trăm ngàn lạng bạc đem đến dưới bãi cát cạnh chân núi để Thái gia đến nhận. Nếu không thiếu lạng nào, thì đúng hẹn Thái gia sẽ trảe lại con các người, còn nếu các người thương tiền thì đến ngày thứ tư Thái gia sẽ bỏ thằng nhỏ vào vạc dầu chiên giòn.

Náo Hải giao; bạch"

Lão đại đọc xong lá thư vừa giận và kinh hãi, hai tay run lẩy bẩy. Tám người đàn ông, nghe lão đại đọc xong chỉ lắc đầu than thở, mặt biến sắc.

Chí Lễ đứng ngẩn người ra giây lát, nước mắt giàn rụa, gào lớn:

-Quân giặc to gan, dám bắt Uyên nhi...

Mẹ của Uyên nhi, Liễu thị phu nhân, tuy là vợ của Chí Dũng nhưng không biết võ công, tính lại nhân từ, nghe tin con bị bắt cóc như vậy, đau lòng quá ngã ra bất tỉnh.

Chí Dũng vội xoa bóp cho vợ. Chí Tri phu nhân đứng cạnh đó cũng khóc sướt mướt trách chồng:

-Ông... ông làm thầy nó mà để nó đi chơi, bị bắt cóc như vậy... trời... tội nghiệp cho Uyên nhi của tôi... Suốt ngày nó ở trong phòng sách của ông... đến bị người ta bắt cóc đi rồi... chỉ tại ông...

Chí Tri phu nhân vừa khóc vừa trách chồng làm cho những người đàn bà khác cũng òa lên khóc theo.

Lão đại quát bảo im họ mới chịu nín.

Chí Lễ chờ mọi người yên lặng rồi mới ôn hòa nói:

-Việc đã như vậy rồi, hối cũng vô ích. Giờ phải nghĩ cách lấy ra hai trăm ngàn lạng bạc đem tới đây, đồng thời đến phủ đường báo cho Uyên Tri phủ biết việc này; để cho ông ta phái người theo dõi tên giặc Náo Hải Giao, phòng y không giữ tín, lấy tiền rồi không trả Uyên nhi.

Y dặn bảo xong, liền xua tay ra hiệu bảo vợ là Vương thị phu nhân cùng mình về phòng nghỉ ngơi.

Các ông già thấy anh cả đã về phòng nghỉ, ai nấy cũng lần lượt về phòng. Trong đại sảnh chỉ còn lại lão thất Chí Tri và vợ chồng Chí Dũng.

Chí Dũng bảo người nhà dọn mâm cơm chưa ai động đũa đi, và sai con sen đỡ vợ về phòng nghỉ trước còn y ở lại bàn với Chí Tri.

Chí Dũng võ học cao siêu, Chi Tri tài hơn người, nhưng vì sợ thiệt hại tánh mạng của Uyên nhi nên không dám tìm đến ổ giặc để cứu Uyên nhi. Hai anh em đâm ra rầu rĩ vô cùng.

Ngày thứ hai Chí Dũng tuân theo lời dặn dò của anh cả, một mình xuống núi để lấy tiền và báo cáo tự sự với tri phủ.

Ngày thứ ba Chí Dũng sai người chở mười mấy xe bạc tới nơi, khiêng ra từng rương một để ngoài bãi cát để chờ giao nạp đổi lấy Uyên nhi.

Nhưng rồi năm ngày đã qua mà không thấy tên giặc Náo Hải Giao xuất hiện nhận tiền.

Chín ông già lần lượt thay phiên nhau xuống bãi cát canh gác để xem có người đến nhận bạc không, nhưng hết ngày này qua ngày khác, hai trăm ngàn lạng bạc vẫn y nguyên chỗ cũ, tin tức của Uyên nhi cũng bặt tăm.

Sức khỏe của các ông già có hạn, lại lo âu nửa tháng liền nên trong chín người thì bẩy người ốm liệt giường, chỉ còn Chí Tri nhờ tinh thông y thuật nên thăm bệnh và khai toa bốc thuốc, Chí Dũng có võ học uyên thâm nên còn khỏe thì bận vào trong thị trấn hốt thuốc và làm việc vặt.

Chí Tri biết trước sẽ có một ngày như vậy, cho nên, lúc bấy giờ tuy ông rất lo âu, nhưng cũng cố bói một quẻ xem họa kiết thế nào.

Trong quẻ cho hay Uyên nhi nhân họa đắc phúc, nhưng phải mấy năm sau mới có thể đoàn tụ gia đình.

Y báo cho tất cả các anh em hay. Thoạt tiên mọi người không tin và trách y nói bậy bạ, nhưng mãi không thấy tên giặc xuất hiện, nên mọi người mới tin quẻ bói của Chí Tri là linh nghiệm.

Chí Dũng vốn là nhân vật giang hồ tính rất phóng khoáng, ngày thường lại rất phục Thất ca, nên y đã xuống núi nhiều lần gặp rất nhiều bạn bè trong giới giang hồ, hỏi thăm Náo Hải Giao ở đâu thì không ai biết tên giặc đó ở đâu và cũng không biết y là người của phe phái nào. Chí Dũng đoán, tên giặc đó chắc là mã tặc ở quan ngoại mới vào Trung thổ, hay là giặc ở ngoài bề khơi nên không ai biết.

Vì không biết tung tích và lai lịch tên giặc, Chí Dũng không biết đi đâu mà tìm kiếm Uyên nhi, nhưng y cũng biết Uyên nhi có cốt cách kỳ lạ, cũng không phải là người có mệnh chết yểu, nên giờ nó bị người bắt cóc đem đi chắc chỉ chịu đôi chút khổ sở thôi, chứ không nguy hiểm đến tính mạng, chưa biết chừng lại gặp dịp may rèn luyện nên một tay cao thủ theo như quẻ bói của Chí Tri cũng nên?

Vì vậy mà y mới đỡ lo âu, cùng Chí Tri hợp sức chữa bệnh cho các anh, rồi sai người khiêng những hòm bạc đó đêm trở vào trong thành.

Nói về Náo Hải Giao bắt cóc Uyên nhi đi, quả là một tên hải tặc ở Đông hải thật.

Lúc bấy giờ, hải tặc phần nhiều chỉ cướp thuyền bè của những người ngoại quốc đến nạp cống hay thông thương với Trung Quốc thôi. Thuyền của người ngoại quốc lại to, chở nhiều hàng nên chúng cướp một vố là đủ cho bọn hải tặc ăn sung mặc sướng trong nửa đời người.

Do đó, bọn hải tặc Đông hải một khi cướp được thuyền của người ngoại quốc rồi, chúng liền phấn tán ra rồi đem dấu thuyền vào những nơi hoang đảo, cải trang thành những khách thương vào trong nội địa ăn chơi, đến khi nào hết tiền rồi mới tụ họp nhau đi làm ăn lại.

Cũng vì thế mà bọn hải tặc vào tới Trung thổ ít người biết được tung tích của chúng, có người cứ tưởng là phú thương thích ăn chơi thôi.

Náo hải Giao cũng là một tên hải tặc, y còn là một tiểu đầu mục nữa. Năm ngoái cướp được một chiếc thuyền ngoại quốc, chia tiền xong y một mình cỡi một chiếc thuyền buồm, đổ bộ ở vùng Giao Đông ăn chơi cờ bạc hả hê, không đầy nửa năm số tiền đã cạn, vì chuyến cướp đó mỗi người được chia một số tiền khá lớn, bọn giặc dự tính có thế xài được một năm, cho nên chúng hẹn một năm sau sẽ gặp lại trên một hoang đảo.

Náo Hải Giao xài tiền quá nhanh. Mới nửa năm đã hết sạch, nên y mới nghĩ cách để sinh sống, vì vậy y dò biết anh em họ Long giàu nhất vùng, có thể làm tiền được.

Nhưng y lại dò biết Chí Dũng là sư đệ của Xuất Trần đạo nhân, chưởng môn phái Thái Sơn, công lực siêu việt, oai danh rất lớn, nếu ra tay cướp thẳng thì khó mà thành công. Cho nên y mới dùng cách bắt cóc Uyên nhi để đòi chuộc hai trăm ngàn lạng bạc.

Lúc bấy giờ với số tiền thật lớn ấy quả thật lớn không tưởng tượng được. Y muốn lấy được số tiền đó rồi cao bay xa chạy tìm nơi hưởng thú an nhàn hầu thoát ly nghề hải tặc. Y ẩn núp dưới sườn núi Quan Nhật Nhai, điều tra biết Uyên nhi ngày nào cũng xuống chơi dưới bãi bể.

Y tính toán cướp xong Uyên nhi, đem đến một hòn đảo nhỏ, rồi mướn những người thuyền chài đến chỗ hẹn khuân vác hộ y. Khi khuân hết số bạc rồi, y mới sai thuyền chài đưa Uyên nhi vào bờ trả cho khổ chủ, còn y thì sẽ đổ bộ ở miền duyên hải gần tỉnh Phúc Kiến để sinh cơ lạc nghiệp tại đó.

Ngờ đâu mưu sự tại nhâ, thành sự tại thiên, y điểm yếu huyệt cho Uyên nhi ngủ say, xong chở đứa bé ra ngoài khơi.

Y là hải tặc rất quen đường bể nên chỗ nào có đá ngầm là y biết ngay. Từ chân núi Lao Sơn trở ra có một quãng đường rất nguy hiểm, các thuyền chài và thương thuyền đều không dám lui tới nơi đó, ngay cả đảo Hắc Triều Dữ nữa. Đảo ấy toàn là những đá lởm chởm và sóng gió lại lớn nên không ai dám lên trên đảo để nghỉ chân hay tránh gió bão hết, vì sợ chưa vào tới nơi đã bị những đá ngầm bên dưới đâm thủng thuyền.

Hơn nữa dưới bể ở chung quanh đó có rất nhiều cá mập xuất hiện. Xưa kia những thuyền lại gần vùng đó thì mười chiếc có đến chín chiếc bị đắm, và người trên thuyền bị cá nuốt hết. Nhưng cũng may hòn đảo Hắc Triều Dữ đó khá cao, chung quanh lại có những tảng đá lố nhố như răng chó và cũng trông như tường thành vậy, rát dễ để cho người đi bể nhìn thấy.

Những thuyền bè qua lại, xa xa trông thấy đảo vội vòng qua mấy chục dặm chứ không ai dám xuyên qua vùng này cả.

Khi ra khỏi vùng Lao Sơn, Náo Hải Giao tính sáng sớm hôm sau mới trông thấy hòn đảo Hải Triều Dữ. Lúc ấy y sẽ đi vòng qua phía Nam và đi thêm nửa ngày nữa thì tới chỗ của y. Ngờ đâu y buồn ngủ quá, đến nửa đêm y bỗng giật mình thức tỉnh vi thân thuyền rung động mạnh.

Náo Hải Giao chưa kịp xem xét nguyên nhân thì bỗng có một ngọn sóng lớn đánh phủ đầu, chỉ nghe thấy kêu lách cách, cột buồn đã gãy. Nếu y không nhanh tay ôm chặt lấy bánh lái thuyền thì đã bị ngọn sóng đó cuốn đi rồi.

Náo Hải Giao thấy cột buồm bị gãy rớt xuống bể, cả kinh, biết phen này không bị chết đắm thì cũng chết đói chết khát do lênh đênh trên biển chứ không sai.

Y hoảng sợ nhìn quanh bỗng thấy phía đằng trước có một cái núi nhỏ nhô lên trên mặt bể. Trên núi nhỏ đó có một vòi nước như rồng cuộn nước đang bắn lên không, cao hai ba chục trượng nên nước đó rớt xuống bắn cả vào thuyền của y. Người cũng y ướt như chuột lột.

Chỉ thoáng cái, y đã nhận ra đó không phải núi mà là một con cá voi, vòi nước kia là của con cá chứ không phải là rồng hút nước gì hết nên y hoảng sợ, bụng bảo dạ:

"Ta cứ ở trên thuyền thế nào cũng bị vòi nước của cá voi đánh chết, chi bằng bỏ thuyền nhảy xuống bể bơi đi nơi khác, may còn hòng sống sót."

Náo Hải Giao không đợi chờ vòi nước của cá voi phun tới đã vội nhảy xuống bể lặn xuống đáy nước.

Vòi nước của cá voi rất mạnh nếu đánh trúng, dù thuyền kiên cố đến đâu cũng tan vỡ, tên giặc yên chí đứa bé trong khoang thuyền thế nào cũng toi mạng chứ không sai.

Ngờ đâu vòi nước sắp đánh xuống và cũng là lúc tên giặc mới bơi ra khỏi đó được vài thước thì con cá voi đột nhiên há mồm ngoạm một cái. Một luồng sức vô hình hút luôn chiếc thuyền nhỏ đó về phía trước hai trượng. Nhờ vậy vòi nước đánh xuống mặt bể, đánh dựng lên một làn sóng cao mấy trượng.

Náo Hải Giao đang lặn ở dưới đáy nước bị vòi nước của cá voi nặng hàng vạn cân đánh xuống trúng ngay vào chỗ y đang lặn. Thế là ngũ tạng lục phủ của y bị chấn nát, mồm mũi, tai mắt đều vọt máu tươi ra, chỉ trong nháy mắt một đàn cá với tên hải tặc đều nổi cả lên trên mặt nước.

Con cá voi đang kiếm mồi ăn bỗng thấy đàn cá bị vòi nước của nó đánh và đang nổi lềnh bềnh trên mặt nước, vội há mồm hút mạnh một cái, thế là cả nước bể, đàn cá; xác của Náo Hải Giao lẫn chiếc thuyền gãy cột buồm đều chui vào mồm cá...

Uyên nhi bị Náo Hải Giao điểm yếu huyệt ngủ, đang ngủ ngon giấc sóng gió mạnh và thuyền chui vào trong mồm cá chấn động như trời long đất lở mà nó vẫn chưa thức tỉnh.

Không biết trải qua bao lâu, Uyên nhi đã từ từ thức dậy. Nó bỗng ngửi thấy mùi tanh hôi khiến phải nhảy mũi mấy cái lại tưởng đang nằm trong nhà, theo thói quen liền lớn tiếng gọi:

-Mẹ!

Nhưng gọi không thấy ai trả lời nó ngạc nhiên vô cùng, lại cảm thấy cái giường mình đang nằm cứ tròng trành và rung động tựa như động đất vậy.

Nó có vẻ sợ sệt ngồi vậy ngắm nhìn xung quanh. Nó chỉ thấy trời u ám mà không trông thấy vật gì hết. Nhưng có một điểm nó có thể xác định trước là nó đang ở một nơi xa lạ chứ không phải ở trong nhà. Vì vậy xuýt tí nữa nó khóc òa lên.

Nhưng nó cố trấn tĩnh để khỏi sợ hãi. Lúc này nó mới biết nó đang nằm ở trên một chiếc thuyền tuy nó chưa đi thuyền lần nào.

Lúc ấy không khí ở trong khoang thuyền đã bớt tanh hôi rồi, nhưng vẫn còn có một mùi gì sông lên mũi khó chịu hết sức và chiếc thuyền cũng bớt tròng trành và hình như đậu lại rồi.

Uyên nhi thấy phía sau giường có hai cánh cửa sổ đóng kín y muốn bò tới trước cửa mở ra để mong có ánh sáng và không khí lùa vào cho đỡ mùi tanh hôi.

Y vừa mở toang hai cánh cửa sổ thì quả nhiên bên ngoài có ánh sáng chiếu vào, nhưng mùi tanh hôi không bớt tí nào trái lại còn nồng nặc hơn.

Suýt tí nữa thì Uyên nhi nôn ra tại chỗ, vội đưa tay lên bịt mũi và dùng mồm hô hấp.

Theo sự ước đoán của y, bên ngoài là biển cả hay là nước suối chảy róc rách. Ngờ đâu hoàn cảnh bên ngoài trái hẳn với sự tưởng tượng của y; khiến y mơ hồ hết sức vì bên ngoài tựa như một cái hang động, mới thoáng trông thấy không khác gì cái hang động bí mật mà y hàng ngày vẫn xuống chơi.

Dưới đáy động còn một chút nước đang tròng trành nên chiếc thuyền của y cũng đưa đi đưa lại theo.

Nhưng cái đó vẫn chưa phải là lạ lùng, cái mà y ngạc nhiên nhất là nguồn gốc của những ánh sáng đỏ. Ánh sáng đỏ đó không phải là ánh sáng của mặt trời mà tựa như một số khá nhiều hột gà đỏ, có hột nổi trên mặt nước, có trái bay lơ lửng xuyên đi xuyên lại, cũng có trái nhảy nhót tựa như những con ma chơi vậy. Uyên nhi càng ngắm càng cảm thấy lo sợ, nghĩ mãi cũng không sao hiểu được chỗ mình đang ở đây là đâu. Đang lúc ấy bụng Uyên nhi sôi lên, bấy giờ y mới biết mình chưa ăn cơm tối và y cũng không hiểu tại sao lại ngủ ở trong hang động bí mật này nên tự nhủ:

-Sao bỗng dưng ta lại đến chỗ ma quái này.

Nghĩ tới đây Uyên nhi bỗng thấy sợ hãi vội nhảy xuống giường, lần mò tới trước cái bàn gỗ mở ngăn kéo tìm kiếm đá lửa. Y đánh lửa châm vào một tờ giấy nhặt được ở dưới khoang. Ánh sáng vừa thấp thoáng một cái y đã trông thấy trên đỉnh đầu treo một ngọn đèn dầu. Nhưng vì còn bé nên y không với lấy được chiếc đèn ấy xuống. Cũng may y còn một chút hơi sức nên y kéo cái bàn đến gần chiếc đèn rồi leo lên trên bàn để thắp đèn lên.

Châm xong ngọn đèn dầu y mới trông thấy trong thuyền chỉ có một cái giường, một cái bàn và một cái ghế thôi. Ngoài ra không còn có một vật gì đáng kể để cho y lấy ăn cho đỡ đói cả.

Uyên nhi ngồi lên trên mặt bàn. Sau đó y nhảy xuống dưới sàn định ra mở cửa để tìm kiếm xem bên ngoài có cái gì ăn cho đỡ đói không? Nhưng chưa ra tới nơi thì thân thuyền tròng trành mạnh hơn trước nhiều. Y vội giơ tay lên bịt mũi bò lên trên giường ngó ra cửa sổ.

Không hiểu tại sao bỗng nhiên lại có rất nhiều nước bể chảy vào. Trong nước có rất nhiều cá to cá nhỏ đang bơi đi bơi lại và giảy dụa nhảy nhót lung tung. Thuyền mà y đang ở trên bị nước đẩy lên xuýt nữa thì mũi thuyền đụng vào hang động.

Uyên nhi ngửng đầu nhìn hang động thì thấy vách hang rung động hoài. Có những giọt nước nhờn rỉ rả rớt xuống mui thuyền kêu lộp độp như nước mưa nhỏ xuống lá cây vậy. Mùi hôi thối thì ngày càng nồng thêm.

Y hoảng sợ hết sức vì không thể đoán ra được tại sao vách động lại biết rung động như thế.

Trong khi đó, bỗng có một giọt nước nhỏ xuống cánh tay của y. Lạ thực. Không hiểu nước đó là nước gì mà lại dích vào người thì đau nhức dữ dội, và chỗ có nước nhỏ xuống hình như sắp thối. Y thấy đau buốt và ứa nước mắt ra. Đồng thời y dùng tay kia lau chùi xem có hết đau không. Ngờ đâu tay y vừa đụng vào nước đó thì cả bàn tay cũng sưng lên nốt. Y sợ đến mất hết hồn vía.

Chỗ dau thối nát dần và hóa thành giọt nước nhỏ giọt xuống. Y đau đến nỗi quên cả đói.

Trong lúc ấy, đột nhiên ngoài cửa sổ có ánh sáng đỏ thấy thoáng một hạt châu gì đỏ và to như hột gà ở bên ngoài bắn vào và bay tới trước mặt Uyên nhi.

Hạt châu ấy bắn trúng ngay vào mũi y, y biết bị nó bắn trúng mũi thế nào cũng phải đau nhức nên y vội quỳ xuống đụng trán húc vào trái châu ấy. Trán y trúng ngay vào hạt châu. Y cảm thấy đau như búa bổ, loạng choạng lui về phía sau, hụt chân ngã lăn ra ván thuyền.

Y bỗng thấy trên trán có vật gì dính vào người vừa nóng vừa thơm cũng có mùi tanh nữa. Y vội ngồi dậy giơ tay lên nắm lấy vật đó xuống xem, mới hay là hạt châu đó vì chạm khá mạnh, nên bể ra nước từ bên trong vừa nóng vừa nhớt chảy ra. Nước này rất thơm mà lại tanh nữa.

Nước nhớt ấy lạ lùng lắm, chảy vào tay thì tay của y hết sưng và hết đau ngay.

Đồng thời mũi y cũng không còn ngửi thấy mùi hôi thúi như trước nữa. Hình hư mùi tanh đã bị mùi thơm của hạt châu này lấn át đi.

Uyên nhi cả mừng vội bôi nước nhớt đó lên vết thương ở trên cánh tay. Quả nhiên bôi đến đâu vết thương lành mạnh đến đó.

Y vừa khỏi đau lại thấy bụng đói. Bụng cứ sôi òng ọc, mồm thèm ăn vô cùng.

"Nhưng biết lấy gì mà ăn?"

Nghĩ tới đó y thấy hạt châu nằm ở trong tay là có thể ăn được thôi, nên y đưa lên mồm lè lưỡi liếm thử. Thoạt tiên y thấy hơi tanh nhưng sau lại thây thơm vì ngọt, cho nên y không do dự gì hết hút luôn những nước nhớt ở trong hạt châu ấy rồi. Sau cùng chỉ còn lại vỏ không thôi nhưng y cũng bỏ nốt vào mồm nhai một cách ngon lành.

Ăn xong hạt châu ấy. Uyên nhi vẫn còn thèm thuồng giơ tay lên vuốt những nhớt dính ở trên trán định bỏ vào mồm nuốt thì y bỗng thấy hai mắt ngứa ngáy khó chịu vội dùng tay dụi.

Y càng dụi, mắt càng ngứa thêm vì nhớt trong tay y dính thêm vào. Về sau đôi mắt y nhức như bị kim châm vậy, y hãy còn ít tuổi không biết sự ngứa ngáy đó là vì dính phải nhớt của hạt châu, nên y càng thấy ngứa càng láy tay dụi thêm cho tới khi mắt đau như kim châm y mới để ý. Nhưng tới khi y hay biết thì hai mắt đã dính đầy nhớt rồi, dù có buông tay xuống cũng vô ích. Y bị đau đến nỗi lăn qua lăn lại hoài.

Một lát sau y mới cảm thấy đỡ đau nhưng giờ nhớt hạt châu ở trong bụng y lại bắt đầu hành hạ, y cảm thấy trong bụng nóng kỳ lạ. Một luồng hơi nóng phát ra tận tứ chi. Lúc ấy, y thấy nóng ran, mồ hôi chảy ra như tắm, quần áo đều ướt đẫm.

Uyên nhi nằm ở trên ván thuyền nóng bức chịu không nổi nên y cởi trần truồng ra mà vẫn còn thấy nóng. Một lát sau mới thấy dịu dần, nhưng lạ thực, tuy bớt nóng mà y vẫn thấy luồng hơi nóng ở trong người còn tồn tại, hơi nóng ở trong bụng tựa như một con rắn bắt đầu bò từ nơi đan điền chỗ bụng dưới bò lên trên người đi khắp mình, nó đi đến đâu Uyên nhi cảm thấy trong người tê bại và nóng rần đến đó. Nhưng sau đo y lại cảm thấy dễ chịu khôn tả.

Y bò dậy và lúc ấy thấy người nhẹ nhõm hơn trước nhiều. Y nhảy thử xem nào ngờ chiếc giường cao ba thước mà y chỉ khẽ nhảy một cái là bay lên liền. Đầu y suýt chút nữa va vào mui thuyền.

Y vừa kinh ngạc vừa lo ngại nhưng y vẫn chưa biết đó là do nước của hạt châu gây nên, ngẫu nhiên y ngó mặt nhìn ra ngoài cửa sổ, y giật mình kinh hãi, bụng bảo dạ: "Lạ thực sao bên ngoài lại sáng tỏ đến thế?".

Y đi đến gần cửa sổ thì ngửi phải mùi tanh hôi ở bên ngoài đưa đến mà y không buồn nôn như hồi nãy nữa. Y đưa mắt nhìn kĩ trong hàng động, y trông rõ mồn một. Y thấy hang động hình tròn rộng chừng bảy tám trượng và hang động màu hồng hồng như thịt người và chỗ nào cũng rung động. Nhưng lúc bấy giờ trên vách động không con fnwowcs nhỏ xuống như trước nữa và nước bên dưới cũng cạn dần.

Uyên nhi từ trên cửa sổ nhìn xuống nước bên dưới thấy nước màu vàng nhạt và dáng dấp tựa hồ vậy. Cá trong nước đã biến mất, chỉ còn lại ít xương đang chìm dưới đáy thôi.

Ngoài ra trong nước còn có những trái châu đỏ như lửa cứ bơi đi bơi lại, có lúc lại nhảy lên bay tứ tung.

Uyên nhi muốn đi ra bên ngoài chơi, nhưng lại nghĩ đến giọt nước hồi nãy nhỏ vào cánh tay đau nhức như vậy lại không dám ra.

Đồng thời y lại muốn bắt hạt châu đó để ăn nhưng nghĩ đến sức nóng hồi nãy lại thôi. Tuy không dám ăn nhưng y vẫn muốn bắt lấy một hai trái để chơi. Hạt châu vừa đỏ vừa tròn lại chữa được đau nhức, cầm ở trên tay chơi thích thú biết bao, nhỡ bị nước ở trên vách động nhỏ trúng có thể nhờ nó chữa trị được.

Nước bên dưới cạn dần, còn lại độ một hai thước thôi. Lúc bấy giờ Uyên nhi mới hay cá dưới đáy động đã trốn mất, nơi chính giữa đáy động có một vật gì vừa vuông vừa đen trông như một cái hòm sắt vậy. Đồng thời phía sau động, trên mặt nước có một lỗ hổng nhỏ đường kính chừng 5, 6 thước, y đoán nước chảy theo lối đó ra nen mới cạn dần như vậy.

Có lẽ vì nước cạn gần hết nên những hạt châu dưới nước đều bay lên, có vài trái lại bay lướt qua cửa sổ nữa. Nếu Uyên nhi nhanh tay có thể bắt được.

Thấy vậy Uyên nhi cả mừng đời chờ cơ hội khác và chuẩn bị chộp lấy vài trái. Đồng thời tánh hiếu kì làm y muốn biết cái hòm sắt ở dưới động là gì?

Còn đang suy nghĩ, bỗng một hạt châu bay qua, y vội giơ tay ra chộp. Lần này sao lại dễ dàng đến thế. Y mừng rỡ, nên đứng trên giường nhảy nhót, y mới nhìn kĩ hạt châu đó như hột gà, trong suốt và bóng loáng, lại có ánh sáng lấp lóe khiến mặt và tóc y trông như nhuộm đỏ vậy, y định chộm thêm vài trái nữa. Nhưng vừa ló đầu ra thì bỗng thấy lỗ hổng ở phía sau đã kín và phía trước lại có một lỗ hổng lớn đường kính dài hơn ba trượng. Lỗ hổng đó vừa xuất hiện thì đã có nước bên ngoài tràn vào như lũ. Trong nháy mắt nước bên trong đã dâng rất cao, thuyền lại hình như đụng vào đỉnh hang động vậy.

Uyên nhi thấy vậy hoảng sợ vô cùng, vội nắm chặt lấy chấn song sắt ở trên cửa sổ để cho người mình khỏi bị tung lên tung xuống, và sợ bị bắn ra bên ngoài nguy hiểm. Y ngồi ở trên giường nghe tiếng nước chảy nhỏ róc rách vào mũi thuyền y đoán vách động sẽ lại nhỏ nước chua ra như trước nên không dám giơ tay ra hứng nữa, vì sợ nó nhỏ vào da thịt thì đau chịu không nổi.

Y hãy còn nhỏ tuổi nhưng không lúc nào chịu ngồi yên hết, vì hễ ngổi yên là y lại nghĩ đến cha mẹ và các bác ở nhà.

Uyên nhi lẳng lặng ngồi yên trên giường để tìm cách ra khỏi nơi kỳ lạ này để trở về nhà với cha mẹ cùng các bác thôi, nhưng y nghĩ đến những cái vừa trông như hai cái lỗ hổng to nhỏ, một ở phía trước một ở đằng sau, khó mà chui ra lọt lắm, nhưng ngoài hai nơi đó ra không còn lối thoát nữa.

Huống hồ vách động lại có nước chua rỉ ra vừa hôi húi lại độc làm cho da người đau nhức và thối rữa, nên y không dám dời khỏi chiếc thuyền đó nửa bước.

Y nghĩ nửa ngày mà chưa tìm ra được cách gì thoát thân. Thế rồi, vì quá mệt mỏi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Cũng không biết trải qua bao lâu vì chiếc thuyền rung động mạnh quá nên Uyên nhi thức giấc, lần này y mở mắt ra là cảm thấy bụng đói như cào nhưng biết lấy gì để ăn?

Ngoài trái châu đỏ cầm trong tay ra, quả thật y không kiếm ra một vật gì khác để ăn đỡ đói cả. Mãi về sau, vì không sao chịu nổi cơn đói, y đừa trái châu đó lên cắn luôn và hút hết nước ở bên trong rồi lại ăn cả cái vỏ bên ngoài.

Quả nhiên khi ăn trái châu đó, y không còn nghe đói khát và trong người bắt đầu nóng hổi. Tuy vậy, lần này không đến nỗi khó chịu như trước, chỉ thấy mồ hôi toát ra xong là hơi nóng dịu dần ngay. Con rắn nhỏ trong người hình như lớn hơn trước và chạy đi chạy lại cũng nhanh hơn trước nhiều. Tất nhiên y không sao hiểu rõ được nguyên nhân đó, nhưng y chỉ thấy vui vẻ. Y ngồi dậy nhìn ra bên ngoài thấy nước đã cạn dần.

Y lại đứng ở chỗ cửa xổ để chờ trái châu bay qua là chộp luôn. Không hiểu tại sao lần này trái châu nọ vừa lướt qua là chộp được liền, vừa nhanh vừa chính xác, không trật lần nào.

Chỉ trong nháy mắt y đã bắt được ba trái liền y lại thấy hang động phía đằng trước mở rộng ra. Nước biển lại chảy vào cuồn cuộn. Trải qua hai lần như vậy rồi lên Uyên nhi không còn sợ nữa, nhưng lúc này không sao ra khỏi được hang động ấy và ngủ cũng không ngủ được nên y thấy buồn bực vô cùng. Y liền xuống giường chạy đi chạy lại.

Lần này y mới thấy dưới gầm giường có để rất nhiều đồ đạc, y vội lôi ra xem. Y thấy trong đống đồ đó có một cái đinh ba bằng gang dài chừng năm thước, bén nhọn vô cùng. Y đoán chắc đây là dụng cụ của người thuyền chài dùng để đánh cá.

Ngoài ra còn có một cái cần câu bằng sắt, giây câu trên cái cần câu đó to bằng ngón tay út, dai và bền lắm. Móc câu vừa to vừa thô, có lẽ to gấp móc thường đến mười lần. Y lại còn thấy có một ít quần áo người lớn và tiền bạc lẻ nữa. Uyên nhi thấy cần câu đó liền nghĩ ra một kế, cầm ra trước cửa sổ thả dây và móc xuống nước, lúc ấy trong nước đang có rất nhiều cá nhảy nhót. Một con cá lớn dài hơn trượng, trông thấy móc câu liền đớp ngay.

Uyên nhi không hiểu tại sao hai mắt bỗng sáng hơn trước nhiều có thể trông suốt xuống đáy biển được. Y trông thấy con cá cắn câu nên mừng rỡ vô cùng và y cũng quên là một đứa bé thì làm sao mà đủ sức lôi được con cá dài hơn trượng lên được?

Ngờ đâu, một chuyện lạ khiến không ai có thể tưởng tượng được. Trong lúc Uyên nhi mừng rỡ hất mạnh cần câu lên, lôi được con cá to đó lên khỏi mặt nước, nhưng vì con cá cắn móc câu chưa chắc, nên vừa lôi lên khỏi mặt nước, thì con cá đã sút khỏi móc câu và va vào vách động kêu đến "bộp" một tiếng.

Vách động hình như có cảm giác, bị con cá va một cái liền từ động co giãn rất mạnh và nhỏ ra nước chua càng nhiều hơn trước. Chỉ trong nháy mắt Uyên nhi đã ngửi thấy mùi hôi thúi khó chịu vô cùng.

Lúc ấy tuy Uyên nhi không sợ những nước chua đó nữa, nhưng cá trong nước thì không sao chịu nổi, con nào con này bị nước chua tưới phải bị phình bụng lên và thoáng cái đã biến thành nước liền.

Uyên nhi thấy vậy hoảng sợ hết sức. Y đã hiểu nước chua ở trên vách nhỏ xuống có tác dụng làm thịt và xương cá đều hóa ra nước. Nước ở trong động lại dần dần chảy về phía sau, thuyền cũng hạ thấp xuống dần. Y đang cầm cần câu ơ trong tay, ngẫu nhiên trông thấy một cái hộp nhỏ dưới đáy động liền thả câu xuống để móc cái hộp lên.

Một lát sau y đã móc được cái vòng ở bên trên vội kéo cái rương đó lên nhưng y loay hoay mãi mà không sao mở được nắp ra. Y thất vọng và tức giận không thèm nghĩ đến chuyện mở cái hộp sắt ấy nữa vội chạy ra bắt những trái châu đỏ, lần nầy kết quả hơn lần trước nhiều, chỉ trong nháy mắt y đã chộp hết ba trái còn lại.

Y để những trái châu đỏ đó xuống gầm giường tất cả tám trái vào một đống. Ánh sáng càng chói lọi thêm khiến trong khoang thuyền đỏ rực như lửa đang bốc cháy trông rất đẹp mắt!

Đột nhiên nước trong hang lại dâng lên, những hạt châu dưới gầm giường bị rung động, trái nào trái nấy bỗng nhảy nhót lung tung, có hai trái còn định nhảy xuống dưới nước nữa, Uyên nhi thấy vậy, sợ hai hạt châu đó bị ván thuyền làm vỡ, vội đuổi theo giơ hai tay ra chộp bắt. Chờ tới khi y nhặt được cả sáu trái để vào một chỗ. Hai trái kia đã lăn xuống nước mất. Y thấy có hai trái rạn nứt và nước bên trong rỉ ra, đang bực mình y ăn luôn hai trái một lúc.

Còn bốn trái kia y dùng áo bọc lại bỏ vào trong hộc tủ bàn cạnh đó.

Ăn xong hai trái châu, y lại toát mồ hôi ra như tắm, nhưng lần nầy y thấy trong người dễ chịu hơn trước nhiều và bước đi cũng nhẹ nhõm như biết bay vậy.

Uyên nhi ngạc nhiên vô cùng, thấy hai đầu chân của mình chỉ khẽ đụng xuống ván thuyền đầu đã đụng vào mui thuyền kêu "bộp" một tiếng.

Y rờ tay lên đầu thấy không đau đớn gì cả, trái lại chỗ vách ván còn bị thủng một lỗ lớn.

Y ngẩng đầu lên nhìn chỗ ván thủng đó, ngẫn người ra suy nghĩ. Bỗng có mấy giọt nước ở lỗ thủng nhỏ xuống trúng ngay vào mặt y. Y hoảng sợ la lớn một tiếng, vội mở hộc tủ lấy mấy trái châu ra, nhưng khi y lấy hạt châu ra thì thấy trên mặt không đau nhức chút nào, y ngạc nhiên vô cùng đưa tay lên lau chùi nước trên mặt và đừa vào mũi ngửi thấy nước đó vẫn có mùi tanh và chua nhưng không hiểu sao bây giờ nước ấy lại không làm cho y đau nhức, y nghĩ: "Có lẽ do mấy trái châu nên không bị việc gì chăng? Như vậy ta khỏi phải sợ thứ nước chua đó nữa".

Nghĩ tới đó y càn đảm và hăng hái thêm, đồng thời y nhận thấy những trái châu đỏ đó rất ngon. Y vội mặc quần áo vào, bỏ mấy trái châu vào túi và lấy một trái ra ăn rồi mới mở cửa khoang ra ngoài.

Y thấy bên ngoài vẫn chòng chành hoài, nhưng lúc này y cầm thấy mình như là một người khác chứ không phải là Uyên nhi trước kia nữa, vì sức của y rất mạnh, người lại nhẹ nhàng, đầu óc trầm tĩnh vô cùng. Y để mặc cho thân thuyền chòng chành mạnh đến đâu y cũng chả cần phải tựa tay vào bất cứ một cái gì, mà hai chân vẫn đứng vững như thường.

Y đứng ở mũi thuyền ngắm nhìn một hồi thì thấy hang đó đó cũng như khi ở trong ngó ra ngoài cửa sổ trông thấy vậy.

Y không dám tin vội chạy vào trong khoang lấy cái đinh ba ra, một tay nắm lấy cái đinh ba lao mạnh lên đỉnh động. Y định thử dem vách động ấy làm bàng gì. Ngờ đâu vì y ăn luôn bốn trái châu nên người nhẹ vô cùng, sức mạnh, xương cốt trong người đã thay đổi hẳn.

Cái lao đó y lại dùng toàn lực nên mạnh hàng ngàn cân. Chiếc đinh ba đi như tên bay, chỉ nghe tiếng "soẹt" một cái đã cắm sâu vào trong ngập đến nửa cán.

Vách động đó bị đinh ba đâm trúng, liền có một vòi nước đỏ như máu túa xuống, nếu Uyên nhi không chạy ngay vào trong khoang thì đã bị tưa nước đó tưới ướt đẫm cả người.

Uyên nhi vừa vào tưois trong khoang đã cảm thấy như trời long đất lở, vách động rung chuyển mạnh không thể tưởng tượng được, nước ở trong động cũng nổi sóng, thân thuyền chòng chành như sắp bị lật, y hoảng sợ vô cùng, vội nắm lấy cái chân bàn để khỏi té.

Đột nhiên, thân thuyền quay tít, vù một cái, thân thuyền lẫn nước bên dưới đều bắn cả về phái cái hang rộng lớn ở đằng trước.

Uyên nhi người bé nhỏ nằm ở cạnh cái bàn, nên không trông thấy tình cảnh bên ngoài mà y chỉ cảm thấy chiếc thuyền y đang nằm tựa như "đằng vân giá vũ". Tiếng kêu thật lớn vang lên tiếp theo là sự rung động mạnh. Thì ra thuyền đã va phải một tảng đá, thân thuyền vỡ tan và mui thuyền vỡ ra thành bốn năm mảnh. Cả người lẫn bàn cũng bị văng ra xa tức thì.

Hồi 2 Tai họa biến hạnh phúc

Uyên nhi tay vẫn nắm chặt chân bàn không buông ra tới khi y cảm thấy người mình va chạm vào một vật cứng, lại bán lên trên cao và văng ra xa. Khi rớt xuống cả người lẫn bàn đều rơi xuống mặt nước và chìm lỉm luôn.

Y kêu ối một tiếng, nhưng vừa há mồm ra là bị uống luôn hai ngụm nước bể. Một lát sau. Y lại thấy người từ từ nổi lên trên mặt nước. Khi y thấy đầu đã nhô lên khỏi mặt nước, mới mở mắt nhìn. Y thấy mình đang lênh đênh trên mặt bể, bốn bề là trời nước mông mênh.

Y thấy phía đằng trước cách đó không xa, có một cù lao lớn, cao chừng hai mươi trượng, có những ván vỡ nổi lềnh bềnh và có những mảnh ván rơi trên những tảng đá cạnh cù lao kia nữa.

Y cố bò lên mặt bàn, rồi ngồi ngay giữa, y quay đầu lại nhìn và hoảng sợ đến mất hết hồn vía. Thì ra chỗ phía đắng sau cách y mười trượng có một con cá lớn nổi lên, lưng nó như một cái núi nhỏ và đầu nó đang phun một vòi nước rất cao, hai mắt nó to như hai cái chậu rẳ mặt đang lóng lánh nhìn y. Thỉnh thoảng con cá ấy há hốc mồm như muốn đớp y vậy, vì thân quá lớn, phần bãi biển cạn và bên dưới cách xa bờ lại có nhiều đá ngầm, vì vậy nó cứ bơi quanh ngoài khơi cách xa hơn mười trượng lên không làm hại Uyên nhi được.

Uyên nhi không biết việc đó lên hoảng sợ. Nhưng rồi dần dần, gió thổi tạt Uyên nhi vào gần bờ. Y còn ít tuổi, chưa biết chèo thuyền lần nào và vì quá lo sợ nên chỉ còn cách vài mươi thước nữa tới bờ, mà y không biết làm sao bơi tới.

Y sợ toát mồ hôi. Bỗng có tiếng khua "cộc" rất lớn, cái bàn y đang ngồi bị động mạnh, rồi bay thẳng về phía trước mấy thước. Suýt tý nữa y rơi xuống biển. Y nhìn xuống rất ngạc nhiên vì có đàn cá đang bơi và chân bàn đã bị lũ cá gặm gãy hết.

Y thầm lo ngại, nếu một con cá to nào đó nhô lên đúng ngay mặt bàn lạt y xuống nước, ắt y chêt sthee thảm, vì sẽ bị lũ cá nầy chia nhau cắn xé...

Vừa kinh sợ vừa đưa mắt nhìn quanh bỗng thấy gần đó có một tảng đá lớn nhô lên khỏi mặt nước chừng năm thước, nhưng từ chỗ y tới đó cách chừng bảy thước thì làm sao mà tới được?

Đang do dự, đột nhiên nghe "kẹt" y càng run sợ vì mặt bàn đã bị con cá lưỡi cưa đâm thủng một lỗ, suýt tí nữa tây y cũng bị lưỡi cưa ở mồm cá cưa phải, y quá sợ không kịp suy nghĩ, vội đứng dậy tung mình nhảy về phía tảng đá trước mặt.

Y thầm ước muốn nhảy tới gần rồi giơ tay năm được má đá là có thể leo lên liền. Ngờ đâu, y vừa tung mình nhảy đi, người y đã bay lên cao hơn 5 trượng, và vượt qua tảng đá đó rất xa, nên y lấy làm kinh hãi và ngạc nhiên không hiểu tại sao mình lại có thể làm được như vậy.

Y thấy chỗ mình sắp rơi xuống lại là mặt nước nên hoảng sợ vô cùng, vội huơ tay đạp chân lung tung, nhờ vậy người y lại văng về phía trước mấy thước và rớt xuống một tảng đá nho nhỏ ở gần đó.

Tuy y không biết võ công là gì, nhưng khi y múa tay đập chân, ngò đầu lại hợp với một thể thức của khinh công, nhờ vậy y mới bắn được ra xa mấy thước như thế, nhưng khi đụng chân xuống mặt đá vì không biết võ công nên y ngã sóng soài ra đó liền.

Tuy đau một chút nhưng còn hơn là bị rớt xuống nước, bị cá đớp. Y bò dậy, đưa tay xoa bóp chỗ đau ở trán, hai khuỷu tay và hai đầu gối, sau đó vài phauts, y cảm thấy bớt đau nên lồm cồm ngồi dậy, y ngẫn người ra nghĩ ngợi. Câu chuyện vừa xảy ra như một giấc mơ, vì trước kia y rất thích chạy nhảy nhưng nhảy cao lắm cũng không đầy 5 thước, lần này ngờ đâu lại nhảy cao được đến thế và tựa như bay vậy.

Nghĩ ngợi mãi mà không tìm ra được nguyên nhân. Y không suy nghĩ nữa, và hiện thấy mình ngồi trên một tảng đá bơ vơ, y cảm thấy buồn, lại muốn nhảy sang một tảng đá khác.

Đã kinh ghiệm lần trước và y cũng tự tin là mình có thẻ nhảy xa được nên lần này, y rất cẩn thận tung mình nhảy lên, hai chân hơi co lại, hai tay nắm chựt đưa về phía sau phi luôn sang một tảng đá lớn hơn cách đó hai trượng hơn.

Lúc hạ chân xuống y vẫn bị té ngồi, chứ không sao đứng vững được. Hòn đá mà y vừa nhảy tới đó rất to lại bằng phẳng. Y lại thấy gần đó có một cái hòm sắt nằm yên ở đó. Vội chạy lại xem, y ngẩn người vì đó chính là cái hòm sắt đã thấy trong hang động kỳ lạ trước kia. Y không ngờ lúc y bị thổi bay hòm sắt cũng bay tới đây.

Y lôi cái hòm đó ra giữa tảng đá, để làm ghế ngồi, suy nghĩ vẩn vơ và nhìn trời nước mênh mông. Y lại thấy con cá to như hòn núi vẫn bơi đi bơi lại ngoài khơi cách chỗ y ngồi hơn 30 trượng, và dưới bể chỗ gần y một đàn cá đang lượn qua lượn lại.

Mặt trời đã về phía tây, màu đen tối nuốt dần không gian. Y nghĩ thầm: " Ta làm gì bây giờ đây? Không biết trên cù lao lớn kia có người hay không? Hà... nếu ta trông thấy một chiếc thuyền nào ta phải cố kêu la cầu cứu yêu cầu họ đưa ta về nhà.

Y nghĩ tự nhiên bỏ nhà ra đi như thế này, chắc mẹ cha và các bác thế nào cũng nhớ thương lắm. Bao nhiêu ý nghĩ trôi qua đầu óc Uyên nhi. Rồi y lẩm bẩm:

-Không! Ta không về nhà các bác nghiêm khắc, không tự do, nếu ta trông thấy thuyền, ta yêu cầu họ cứu ta nhưng ta không nói chỗ ta ở. Như vậy họ không biết ta ở đâu và sẽ giữ ta lại trên thuyền, suốt ngày được đi đây đi đó sung sướng biết bao.

Y ngồi đây đã lâu rồi, tự dưng đôi mắt y thấy con cá lớn kia vẫn không chịu đi, nên y ngạc nhiên vô cùng:

-Cá này là cá gì? Sao to như vậy, tại sao nó bơi quanh đây không chịu đi nơi khác, và cứ trố mắt nhìn ta như vậy? Nếu mi không chịu đi, người ta trông thấy mi, thì ai dám bơi thuyền đến đây cứu ta.

Nghĩ tới đó, y lại thấy đói khát, liền móc túi lấy trái hạt châu để ăn.

Ngờ đâu vừa mở gói hạt châu ra ánh sáng đỏ chói lọi liền, con cá lớn trong bể trông thấy ánh sáng hạt châu liền há hốc mồm đớp liên tiếp và kêu "u...u..." hoài. Hình như nó đang giận dữ vô cùng, cho nên vòi nước của nó phun ra lại càng cao và lớn hơn trước nhiều.

Thỉnh thoảng có một ít nước bắn tới người Uyên nhi nữa.

Những vòi nước đó tuy mạnh thật, nhưng vì cách Uyên nhi quá xa nên không làm gì nổi thằng nhỏ, trái lại chỉ làm cho những con cá bơi gần đó bị đập vào đá chết tươi thôi.

Uyên nhi thấy vòi nước của con cá đó không làm gì được mình, trong lòng mới yên. Y trông thấy những đợt sóng bởi vòi nước đó như những loạt núi đổ tới dồn dập. Y không những không sợ trái lại còn vỗ tay khen đẹp.

Trời tối dần, mặt trăng ở phía đông cũng từ từ lên cao, những vì sao lần lượt nhô lên. Nhưng lạ thật! Uyên nhi không cảm thấy trời tối chút nào, trong mắt y lúc nào trời cũng sáng tỏ như ban ngày. Trời tối như thế, y chỉ không trông thấy mặt trời và ánh nắng chiếu xuống thôi, còn bốn bể chung quanh vẫn sáng tỏ như ban ngày vậy.

Y ngạc nhiên vô cùng, tưởng mình tới một thế giới nào khác vậy, chứ có biết đâu nước từ trái hạt châu dính lên mắt nên y mới thấy sáng như thế.

Sự thật trái hạt châu đỏ mà y đã ăn đó là Quỳnh Châu nghìn vạn năm chưa chắc người ta đã gặp và cũng là linh huyết của con cá lớn cứ bơi quanh đó không chịu đi hóa thành.

Thì ra Uyên nhi ngủ say, chiếc thuyền của y đột nhiên gặp phải một con cá kình. Con cá này sống hơn chín nghìn năm, mình mẩy của nó to không thể tưởng tượng được. Lúc ấy nó đang nghịch nước và kiếm ăn, ngẫu nhiên há miệng đớp một cái, ngờ đâu lại nuốt phải chiếc thuyền nhỏ của Uyên nhi vào trong dạ dày.

Khi Uyên nhi thức tỉnh trông thấy cái động đó chính là dạ dày con cá.

Mỗi khi cá ông nuốt những cá nhỏ vào trong dạ dày rồi, vách dạ dày rỉ ra những nước chua để hóa những thức ăn đó tành một chất nước đặc rồi đổ vào trong ruột già. Cái hang động nho nhỏ ở phía đằng sau mà Uyên nhi trông thấy chính là miệng ruột già của con cá.

Nước chua có công dụng làm xương thịt của các loài cá tan rã, nên lúc đầu cánh tay của Uyên nhi bị nhỏ trúng một giọt, y thấy đau nhức buốt xương là thế.

Cũng may, y nằm ở trong khoang thuyền nước chua đó không sao thấm qua được nên y mới thoát chết.

Còn những trái hạt châu đỏ kia là những trái kết tinh của tinh huyết của con cá ông này, mỗi nghìn năm mới luyện thành được một trái.

Nếu con cá sống lâu vạn năm thì trong người nó có mười trái châu, và chỉ sống thêm nghìn năm nữa những kình châu ấy cứng như đá biến thành nội đơn. Lúc bấy giờ nó có thể hóa thân biến thành rồng.

Con cá này có chin trái kình châu như vậy nó đã sống trên chín nghìn năm rồi, chỉ còn một nghìn năm nữa là nó thành rồng.

Ngờ đâu số của Uyên nhi may mắn ăn được ngót năm trái kình châu, vì vậy thể chất của y biến đổi lớn.

Những uế tục khí trong người đều hóa hết, ba trăm bảy mươi chín yếu huyệt to nhỏ đều được đả thông và luồng hơi nóng của hạt châu hóa thành nội lực tiềm ấn trong người y. Sau này nếu y được minh sư chỉ điểm võ công, y sẽ học một tiến mười, người nhẹ sức khỏe, chân khí của y sẽ vận dụng được hóa vô hình thành hữu hình và bất cứ luyện tập môn nào y chỉ luyện một năm nhưng sự thành công bằng người thường luyện hai mươi năm.

Ngoài ra nước của hạt châu còn có công dụng làm sáng mắt. Người thường chỉ bôi một chút nên mắt cũng có thể đi trong bóng tối như đi lúc ban ngày. Nếu người khổ luyện võ công tinh thông huyền công mà bôi một tí nước lên mắt, có thể nhìn suốt qua những tầng mây và có thể trông thấy được những cảnh vật ngoài xa trăm dặm.

Uyên nhi mơ màng trải qua những kì hiểm đó bù lại ngộ được kỳ duyên như vậy.

Con cá ông ấy nuốt chiếc thuyền nhỏ, không những không tiêu hóa nổi mà còn mất đi vật báu, làm sao nó không tức giận được. Lúc bấy giờ nó chỉ đủ năng lực vận động những kình châu làm tiêu hóa thức ăn ở trong bụng thôi, chứ chưa đủ sức dùng ý sai khiến những hạt châu ấy.

Sau Uyên nhi ngẫu nhiên kiếm thấy cái đinh ba xuyên cá, muốn thử xem vách động là vật gì mà lại biết rung động như thế, y liền lao cái chĩa ba đó lên sâu ngập nửa cán khiến con cá ông đau nhức không chịu nổi.

Trong khi nó đau nhức cá liền vận sức nôn chiếc thuyền nhỏ ấy ra. Chiếc thuyền liền bắn về chỗ có những hòn đá lởm chởm. Vì vậy thân thuyền mới vỡ ra làm muôn mảnh nếu Uyên nhi không nắm chặt cái bàn, thì y không chết đuối cũng bị cá mập và cá dao ăn thịt rồi.

Gió bể càng lúc càng lớn! Những đợt sóng đánh vào thành đá, gây ra những tiếng ầm ầm như sấm động.

Lúc bấy giờ, trăng đã lên tới đỉnh đầu. Nếu tính giờ có lẽ lúc đó đang nửa đêm. Uyên nhi không thấy lạnh nhưng y ghét những luồng gió to kia, vì gió bể bao giờ cũng mạnh hơn ở trên bờ, nếu y không nắm chặt cái hòm sắt thì có lẽ bị gió thổi đi xa mấy lần rồi.

Cũng vì vậy, y buồn ngủ mà không dám nhắm mắt lại ngủ, sợ bị gió thổi rớt xuống bể. Y trợn to đôi mắt ngắm nhìn bốn bể chung quanh lòng mong trông thấy có chiếc thuyền nào xuất hiện.

Quả nhiên y bỗng trông thấy phía bên phải của cù lao đá đen bỗng có một chiếc thuyền buồm xuất hiện.

Uyên nhi không biết thuyền còn cách mình bao xa, vội đứng dậy mua chân múa tay kêu la cầu cứu.

Từ khi ăn mấy trái kình châu, trung khí sung túc, nên tiếng kêu của y có thể đi xa chừng mười dặm. Nhưng chiếc thuyền đó cách xa hàng bảy tám chục dặm thì người trên thuyền làm sao mà nghe thấy tiếng kêu cứu của y được.

Uyên nhi kêu gào liên tục nhưng chiếc thuyền nọ vẫn đi thẳng không quay về hướng mình và một lát sau thì thuyền mất dạng. Uyên nhi thất vọng vô cùng.

Y đang nản chí ngồi xuống, thì bỗng nghe trên đỉnh núi cao hơn hai mươi trượng và rộng mấy chục mẫu, ở phía đằng sau y có một giọng nói thanh thoát vọng xuống:

-Này ai ở bên dưới kêu la om sòm thế, người có phải bị nạn không?

Uyên nhi nghe mừng rỡ vô cùng, quay người và ngẩng đầu nhìn lên trên đỉnh núi. Quả nhiên trông thấy một nằng mặc áo trắng đang đứng ở khe núi lởm chởm trên đỉnh cù lao.

Nàng nọ đứng trên đỉnh non cao, quần áo bị gió bể thổi bay phấp phới tựa như một nàng tiên đẹp tuyệt trần, thiếu nữ có mái tóc vàng và dùng môt cái khăn trắng cột chắc mớ tóc xõa xuống ngực, dài tới eo lưng.

Uyên nhi thấy vậy thắc mắc vô cùng, bụng bảo dạ: "Có lẽ cô nương này không phải là người, người gì mà tóc lại vàng thế?"

Thiếu nữ nọ không thấy y trả lời liền lên tiếng hỏi tiếp:

-Này sao người không nói gì? Người ở đâu thế?

Uyên nhi nghe nói nghĩ thầm: "Có lẽ cô nương này mù. Ta trông thấy cô ta rõ mồn một mà, sao cô ta lại không thấy ta!"

Nghĩ đoạn, y múa hai tay và la lớn:

-Đại tỷ, tôi ở đây, đại tỷ có trông thấy tôi không?

Cô nương nọ hình như kêu "ủa" một tiếng rồi hỏi tiếp:

-Người trông thấy tôi ư? Sao tôi không trông thấy người ở đâu hết vậy?

Uyên nhi nghe nàng nói vậy nghĩ: "Nếu cô này không cận thị thì bị mù chứ không sai."

Nghĩ đoạn y liền lấy hai trái kình châu ra cầm nơi tay khua động và hỏi tiếp:

-Đại tỷ tôi ở đây, mau cứu tôi lên trên ấy đi.

Trong bóng tối hai trái kình châu chiếu ra hai khối ánh sáng đỏ như hai cái đèn lồng và sung quanh hơn trượng đều sáng tỏ. Thiếu nữ đứng ở trên khe núi hình như đã trông thấy Uyên nhi rồi, liền kêu "ối chào" một tiếng và nói tiếp:

-Ủa! Thế ra cậu là em nhỏ đấy à? Sao lại phiêu lưu tới đây thế? Cậu đừng sợ tôi sẽ xuống cứu cậu nên, ngoan ngoãn chờ, coi chừng trượt té xuống nước nhé!

Uyên nhi thấy thiếu nữ ấy sốt sắng như vậy, cảm động vô cùng, lẳng lặng ngồi xuống đợi cô xuống cứu.

Con cá ông ở ngoài bể trông thấy Uyên nhi lấy kình châu ra lại há mồm thật lớn kêu "u...u" hoài. Đồng thời nó cứ phun nước liên tiếp, vòi nước nó vừa cao, và mạnh như là trời long đất lở vậy.

Uyên nhi biết nó không sao bơi gần được nên không thèm đếm xỉa tới, cứ đưa mắt nhìn chung quanh, tìm kiếm xem có thấy hình bóng thiếu nữ tóc vàng tới cứu mình hay không.

Độ nửa tiếng đồng hồ sau, y đã thấy phía trái có một chiếc thuyền nho nhỏ dài hơn trượng, rộng chừng ba thước từ từ bơi tới. Thiếu nữ tóc vàng ngồi ở trên thuyền, hai tay cầm hai cái dầm bơi rất lão luyện xuyên qua những tảng đá lởm chởm và đi nhanh như tên bay.

Uyên nhi trông thấy nàng mừng rỡ vô cùng, vội đứng dậy gọi:

-Đại tỷ em ở đây này.

Y vừa nói dứt thì chiếc thuyền nhỏ đã tới bên cạnh. Thiếu nẽ nọ để hai cái dầm xuống, tay cầm một sợi dây thừng, không thấy nàng nhún nhảy gì hết mà người đã phi lên trên tảng đá, đứng trước mặt Uyên nhi rồi.

Thiếu nữ trông thấy Uyên nhi trắng trẻo xinh đẹp như một tiên đồng ngạc nhiên vô cùng vội giơ hai tay nõn nà ra vỗ vai Uyên nhi cười hỏi:

-Em tên gì? Sao lại lưu lạc đến đây?

Uyên nhi hai tay bận nắm hai hạt kình châu có ánh sáng đỏ chiếu vào mạt nàng nọ, y thấy nàng ta tuổi chừng mười bốn mười lăm, da trắng như tuyết, mày ngài nhưng màu vàng thẫm, đôi ngươi xanh biếc, khác hẳn người thường lại thêm đôi môi đỏ, răng vừa trắng vừa đều, với mớ tóc vàng phủ bờ vai trông đẹp vô cùng. Nhất là hai má lúm đồng tiền, mỗi khi nàng nói và cười càng tăng thêm vẻ đẹp.

Uyên nhi thấy nàng quá đẹp cứ đứng ngẩn người ra nhìn và quên cả trả lời.

-Sao em không nói gì, em đói ư?

Lúc ấy, Uyên nhi mới tỉnh ngộ lắc đầu tỏ vẻ không đói, nhưng hai mắt vẫn nhìn mặt nàng cười khúc khích đáp:

-Đại tỷ đẹp thật!

Thiếu nữ tỏ vẻ hổ thẹn, nhưng lại nhìn thẳng vào mặt Uyên nhi và nói tiếp:

-Em cũng như tiên đồng còn gì! Hà, em không rét ư! Mau theo chị về, muốn gì chờ về nhà hãy nói.

Nói xong nàng ẵm Uyên nhi lên, một tay ôm cái hòm sắt nhẹ nhàng nhảy xuống thuyền. Lạ thật nàng ẵm Uyên nhi và ôm cái hộp sắt nặng như thế mà khi xuống tới thuyền thân thuyền không hề xao động chút nào. Như vậy đủ thấy khinh công của cô ta đã luyện tới mức thượng thặng rồi.

Nhưng lúc ấy Uyên nhi không biết cái gì là khinh công chỉ thấy cô ta nhảy như vậy mà thuyền không chòng chành thì rất lấy làm lạ thôi. Y chỉ thấy lạ và thích thú, chứ không sợ hãi gì hết, trái lại còn muốn dò biết căn bản của thiếu nữ nọ.

Thiếu nữ ngồi xuống, đặt Uyên nhi ngồi trong lòng, hai tay cầm ai cái dầm khẽ bơi, chiếc thuyền quay đầu đi luôn.

Trong lúc đi đường thiếu nữ hỏi tên họ Uyên nhi và hỏi tại sao lại lạc tới đây. Uyên nhi biết được những gì thì nói cho cô ta nghe thế.

Thiếu nữ nghe Uyên nhi kể kinh ngạc vô cùng, nàng cũng không hiểu quái động gì mà biết chảy máu, biết rung động và có nước chua chảy ra như thế. Cho nên nàng không sao giải thích cho Uyên nhi được và chính nàng thắc mắc vô cùng. Sự thật nàng cũng không rõ Uyên nhi nói thật hay nói dối. Nhưng nàng thấy vẻ mặt Uyên nhi thật thà và tay lại cầm kình châu như vậy khiến nàng phải tin.

Thế rồi nàng ngẫm nghĩ một lúc rồi thở dài đáp:

-Việc này tỷ cũng không biết rõ nếu sư phụ của tỷ còn sống, thì thế nào tỷ cũng biết ngay. Hà, tiếc thay một năm trước đây ông ta đã khuất núi rồi.

Uyên nhi ngồi trong lòng của thiếu nữ mùi thơm dìu dịu phảng phất làm cho y ngất ngây. Y tựa về phía sau, thân người nàng mát dịu làm cho Uyên nhi nghe dễ chịu. Thiếu nữ nọ tiếp:

-Em phải ngồi cẩn thận, sắp vào hang rồi, muốn nói gì để về nhà hãy hay.

Uyên nhi đã thấy chiếc thuyền nhỏ ấy tiến thẳng vào một vách núi cao chót vót. Y ngạc nhiên vô cùng, sao cô ta lại bơi thuyền vào trong vách núi như vậy, thì làm sao có chỗ lên xuống. Nhưng y chưa kịp nghĩ thì thấy tuyền đã chui vào một hang động tối om. Sở dĩ y thấy hơi tối là vì đang ở ngoài sáng mà chui vào trong đó ánh sáng khác hẳn, nhưng y vẫn trông thấy rõ mồn một.

Y thấy thủy động đó hình như rất dài và quanh co khúc khuỷu, nên đi mãi, vẫn chưa thấy đi hết hang động.

Đi được một quãng khi thuyền quẹo sang bên thì y thấy trên đỉnh hang có treo một ngọn đèn dầu, ánh sáng vàng lờ mờ tỏa ra.

Hình như cô nương này rất quen thuộc dường lối của động nên dù đi nhanh như vậy mà thuyền không chạm vào vách động.

Thủy động càng đi càng sâu, càng vào càng rộng và đỉnh động cũng càng lúc càng cao.

Không bao lâu đã ra khỏi động đó, y thấy trước mặt là một cái đầm lớn, đầm này hình tròn rộng chừng một mẫu, nước trong đầm trong suốt, cá bơi đi bơi lại trông thấy rất rõ ràng. Trên bờ đầm có mấy chiếc thuyền nhỏ và lớn.

Thuyền vào đến trong đàm. Uyên nhi tưởng tượng như lạc vào tiên cảnh nhìn tả nhìn hữu hoài vì những cảnh tượng kỳ lạ trong đầm này làm cho y ngạc nhiên vô cùng.

Thì ra những vách núi quanh đó cây cối um tùm và có rất nhiều hoa thơm cỏ lạ! Trong bụi cây ở phía đàng trước có những nhà cửa như ẩn như hiện lộ ra chứ không trơ trọi như những vách núi bên ngoài. Vì vậy Uyên nhi mới ngạc nhiên ngắm nhìn. Không những thế hai bên sườn núi ở hai phía động lại có mấy chục mẫu ruộng, lúa trong ruộng mọc cao và sắp chín.

Uyên nhi càng xem càng lấy làm lạ vội hỏi:

-Đại tỷ, những ruộng kia có phải một mình chị cấy không?

Thiếu nữ nọ lắc đầu, rồi ghé thuyền vào bờ, rồi dắt tay y, nhảy lên và vừa đi vừa đáp:

-Ruộng đó không phải chị cấy, những người kia cấy đấy!

Nói xong, nàng chỉ những dãy nhà trong rừng thông ở phía đằng trước, rồi nàng vác hòm sắt dắt tay Uyên nhi sang phía nam.

Bốn phía Nam đầy những hoa thơm cỏ lạ. Mùi thơm theo gió thổi tới, khiến Uyên nhi dễ chịu hết sức. Ngoài ra, y lại còn thấy những trái cây ở trên những cành cây gần đó rất sai và như sắp chín cả, nên y thèm nhỏ dãi nhưng không tiện lên tiếng đòi hái.

Thiếu nữ đã biết ý, mỉm cười nói:

-Em đói rồi phải không, khỏi lo, lát nữa là đến nhà chị còn có thức ăn ngon hơn.

Uyên nhi hổ thẹn, hai má đỏ bừng, cố ý nói sang chuyện khác để chữa thẹn:

-Đại tỷ quí danh là gì, nơi đây là nơi đâu, sư phụ của đại tỷ là ai? Y hỏi một thôi một hồi, khiến thiếu nữ phì cười đáp:

-Em nóng nảy thế? Đã bảo chờ lát nữa khi đến nhà chị sẽ nói cho em biết.

Uyên nhi thấy nàng ta nói như vậy không tiện hỏi nữa cứ lẳng lặng đi, một lúc sau hai người đến trước một căn nhà xinh đẹp. Nhà ấy xây ở trên đỉnh núi và xây bằng đá trắng. Vừa đẩy cửa vào, hai người đã tới ngay đại sảnh, giữa sảnh có treo một ngọn đèn. Những đồ đạc bàn ghế trong sảnh đều làm bằng đá xanh. Trên vách nơi chính giữa có treo một bức tranh tren vẽ một ông già tuổi trạc năm mươi. Mặt mũi rất cổ kính và đạo mạo nghênh ngang đứng trước một cây thông trông có vẻ nghiêm nghị. Trên đầu bức tranh có đề chữ: Tiên sư Cô Độc Khách di tượng.

Phía dưới bức ảnh đề: đệ tử Vân Tuệ kính họa. Hai bên lại có một đôi câu đối, chữ viết rất đẹp, nét bút già dặn.

Câu trên:

"Đang vấn Thứ tâm vô xạ tầm"

(chỉ cần biết mình không hổ thẹn với lương tâm)

Câu dưới:

"Ho thượng đổ tận thiên hạ nhân"

(có giết sạch người trong thiên hạ cũng không ngại)

Uyên nhi được bác bảy dạy bảo cho thi từ, nên y vừa đọc đôi câu đối này là hiểu nghĩa ngay, giật mình kinh hãi, bụng bảo dạ: "Sao người viết câu đối này lại hung dững đến thế"

Nghĩ đoạn y thấy chỗ dưới bức ảnh ký tên: Cô Độc Khách tự tỉnh.

Uyên nhi sinh trưởng ở một gia đình nhân hậu nên tuy tuổi còn nhỏ, mà đã hấp thụ được tánh hiền hậu. Uyên nhi rất bất mãn với đôi câu này. Nhưng y rất thông minh, thấy trong nhà này không có người khác, y biết ngay người vẽ tranh tên là Vân Tuệ, mà Cô Độc Khách kia thể nào cũng là tiên sư mà nàng vừa nói hồi nãy.

Thiếu nữ thấy y vừa vào nhà đã ngắm nhìn bức tranh và đôi câu đối liền tủm tỉm cười để cái hòm sát xuống và vôi đi vào nhà trong. Một lát sau nàng bước ra tay bưng một cái khay, trên đựng đầy những trái cây tươi, vừa cười vừa nói:

-Em đói phải không, mau lại đây ăn những trái cây này trước, sáng mai tỷ sẽ làm cơm cho đệ ăn.

Uyên nhi liền ngồi ngay xuống, cầm trái cây lên ăn luôn.

Y vừa ăn vừa hỏi:

-Có phải tên đại tỷ là Vân Tuệ không?

Thiếu nữ nghe nói ngạc nhiên, nhưng nàng chỉ đảo đôi mắt một vòng rồi vừa cười vừa đáp:

-Ủa thế ra em cũng biết chữ à? Giỏi thật, tên chị là Vân Tuệ. Người trong tranh là sư phụ chị. Ông đã khuất núi một năm rồi.

Nói đến đó nàng tỏ vẻ rầu rĩ và luyến tiếc sư phụ.

Uyên nhi hiểu ngay, nhưng không biết tại sao, y vừa gặp thiếu nữ đã có tình cảm. Thấy cô rầu rĩ, vội nói sang chuyện khác:

-Chị Tuệ, trái hạt châu ăn ngon lắm, chị ăn hai trái thử xem.

Vân Tuệ lắc đầu, nhưng Uyên nhi dã dí hai trái hạt chau đỏ vào mồm nàng.

Nàng thấy Uyên nhi khẩn khoản như vậy không tiện từ chối liền giơ tay ra cầm lấy hai trái hạt châu và nói:

-Được, chị ăn một trái, còn để lại một trái chiếu sáng, có phải hơn không?

Uyên nhi không chịu:

-Không, em còn hai trái nữa, chị cứ ăn hết đi.

Bất đắc dĩ Vân Tuệ đành phải ăn cả hai trái đó. Ngờ đâu nàng cảm thấy thôm ngọt vô cùng, khi nước đó vào bụng hóa thành một luồng hơi nóng chạy khắp châu thân.

Nàng là người có võ học cao thâm, trước khi theo Cô Độc Khách họ võ nàng đwoc sự phụ chỉ bảo nên nàng biết rõ những tính chất của các linh vật như thế nào, nên vừa ăn xong hai trái đó nàng biết ngay đây là loại nội đơn, một linh vật của trời đất, ăn vào trong người sẽ tăng thêm công lực ra sao, vì vậy nàng không dám trì hoãn vội ngồi xếp bằng tròn trên ghế nghênh thần điều tức, vận dụng nội gia huyền công dẫn luồng hơi nóng đó chạy quanh người một vòng.

Vân Tuệ có phẩm chất thanh kỳ mà những võ công nàng đã học hỏi được lại là huyền môn chính tôn, tuy tuổi không lớn lắm nhưng nàng đã luyện tới mức thượng thừa rồi.

Nhưng dù sao nàng hãy còn trẻ tuổi chưa đả thông được nhị mạch, nay nhờ có hơi nóng của hạt Kình Châu trợ giúp nàng ngồi vận công chốc lát đã thông được nhị mạch Nhâm Đốc. Công lực nàng nhờ đó cũng tăng gấp bội.

Uyên nhi đứng cạnh đó thấy nàng bỗng có cử chỉ như vậy ngạc nhiên vô cùng, nhưng y không tiện hỏi cứ đứng đó mà ăn những trái cây ngon lành.

Tuệ cô nương vận công thêm hai vòng nữa, thấy khí lưu thông,linh đài trong sạch biết mình đã thu được rất nhiều ích lợi, liền từ từ mở mắt nhìn Uyên nhi, tủm tỉm cười:

-Em nhỏ, trái hạt châu này công hiệu lớn lắm đấy... Em ăn nhiều hạt châu rồi ư?

Uyên nhi như hiểu mà không hiểu, nhưng y vẫn gật đầu.

Tuệ cô nương lại hỏi tiếp:

-Tỷ đưa em đi tắm rồi đi nghỉ nhé?

Uyên nhi gật đầu. Vân Tuệ dẫn y vào phòng tắm ở phía sau, cởi áo đổ nước cho y tắm và lấy quần áo cũ của mình cho y thay rồi mới đưa y ra ngoài phòng ngủ.

Uyên nhi vào tới trong phòng thấy giường làm bằng bạch ngọc trên có màn gấm, ghế cũng phủ nệm gấm, tất cả đồ đạc trong phòng đều trắng toát, thật là thanh nhã cao quý. Phòng đó chính là khuê phòng của Vân Tuệ.

Vân Tuệ đặt Uyên nhi lên giường đáp chăn cho xong, nàng nằm xuống bên cạnh và nói:

-Đêm khuya rồi, em ngủ đi, sáng mai chị sẽ dọn thư phòng cho em ở, tối nay em cứ ngủ ở đây với chị một đêm.

Từ khi ăn kình châu rồi, Uyên nhi thấy sức khỏe và tinh thần khác hẳn xưa kia, tuy dã khuya mà y không thấy mệt mỏi chút nào cả, vả lại từ khi được gặp Tuệ cô nương rồi, có rất nhiều nghi vấn tấm tức trong lòng muốn hỏi cho ra, nên y không sao ngủ được.

-Đại tỷ, em không buồn ngủ, chị hãy cho em biết những chuyện chị hứa nói.

Thấy Uyên nhi xinh đẹp lại ngoan ngoãn, Vân Tuệ rất yêu thương, nên mới để cho thằng nhỏ ngủ trên giường thêu của mình như vậy.

Thấy Uyên nhi tỉnh táo, nàng biết là ảnh hưởng của trái kình châu. Nhưng nàng không có nó ngồi dậy, bắt nó nằm cạnh mình rồi trả lời:

-Thôi được, để chị kể cho em nghe. Nơi này là cù lao "Hắc Triều" vì quanh cù lao có rất nhiều đá ngầm nên các thuyền chài không dám tới gần. Hai mươi năm trước đây sư phụ chị một mình ra ngoài khơi, đi qua cù lao này vì lòng hiếu kỳ nên leo lên mới phát hiện giữa cù lao có chốn Đào Nguyên này chứ không như bên ngoài trơ trọi, đến một ngọn cỏ cũng không sao mọc được.

Uyên nhi rất kinh ngạc vội hỏi:

-Chị Tuệ, sư phụ của chị leo được vào trong này chắc võ công của ông phải cao siêu lắm?

Vân Tuệ cười đáp:

-Dĩ nhiên rồi. Sư phụ chị nổi danh trên giang hồ, trên ba mươi năm chưa gặp địch thủ nào. Bất cứ người của Hắc đạo hay Bạch đạo hễ nghe tên sư phụ thì mất hết hồn vía. Nên thiên hạ mới tặng sư phụ chị biệt danh là "Đệ Nhất Kiếm Khách". Đủ thấy võ nghệ của sư phụ chị cao siêu thế nào.

Uyên nhi gật đầu liên tiếp và giục Vân Tuệ kể tiếp:

-Sau rồi thế nào nữa?

-Lúc ấy sư phụ của chị tìm thấy chốn này tốt như vậy mừng rỡ vô cùng đồng thời lại phát hiện chỗ chính giữa có một cái đầm và có thủy động. Lúc nước thủy triều lên, nước bể lấp kín hang động nhưng đến nửa đêm nước thủy triều thể nào cũng rút xuống một tiếng đồng hồ, lúc bấy giờ thủy động hiện ra có thể đi thuyền được ra bên ngoài. Cho nên thủy động đó không những bí ẩn mà lại còn kỳ lạ nữa.

-Kỳ lạ nhưng thế nào hả chị?

Vân Tuệ quay mặt giơ hai tay lên vuốt má Uyên nhi nói tiếp:

-Nước trong đầm tuy thông với nước bể nhưng không mặn chút nào và có thể dùng làm nước uống. Trong đầm có nhiều cá, những con cá này thịt ngon lắm, không kém gì những cá ở sông lớn trong trung nguyên. Có một vài thứ cá lại còn ngon hơn cá ở Trung nguyên nữa. Em bảo có lạ lùng không? Tuy sư phụ của chị rất có tiếng tăm ở Trung nguyên nhưng ông không có người bạn thân nào cả. Ông nói bị người đời bạc đãi từ thuở bé thơ. Vì thế, sau khi học thành tài ông bỏ tên thật lấy tên là "Cô Độc Khách", ở Trung nguyên luôn hành hiệp trượng nghĩa, giết chết vô số những kẻ tiểu nhân hiểm ác. Ngờ đâu vì thế mà bị người đời hiểu lầm lại coi ông như một vị sát tinh của võ lâm. Từ khi ông tìm thấy chốn Đào Nguyên này, nhận thấy nơi đây là chốn tránh xa người đời rất lý tưởng, nên ông mới quyết định dọn lại đây để ở. Trong hai mươi năm trời, năm nào cũng như năm nào, mỗi năm sư phụ chỉ ra ngoài có hai lần để mua đồ ăn thức dùng. Đôi khi sư phụ chị cũng có đi ra ngoài một vài lần còn thì suốt ngày ông ta chỉ ở trên đỉnh cù lao để luyện võ và uống rượu thôi. Ông còn rủ mấy gia đình thuyền chài thật thà ở mấy cù lao lân cận đến đây sinh sống. Những người đó cầy cấy lấy mà ăn, hưởng một cuộc đời an nhàn hạnh phúc.

Uyên nhi nằm lại gần nàng, trông thấy mớ tóc vàng, mắt xanh, da trắng mũi cao của nàng, khác hẳn mọi người thường, ngạc nhiên hỏi:

-Chị Tuệ, chị ở đâu tới thế? Sao không giống...

Vân Tuệ thấy Uyên nhi có vẻ nghi ngờ và cứ nhìn vào đầu tóc mình, nàng biết đứa bé định hỏi gì, thản nhiên đáp:

-Mùa hè mười bốn năm về trước, sư phụ chị đi thuyền vào Trung nguyên mua đồ ăn thức dùng. Lúc trở về trông thấy gần cù lao có đậu ba thuyền lớn. Sư phụ lại tưởng có người phát hiện chốn Đào nguyên này, nhưng nhìn kĩ mới hay một chiếc thuyền trong bọn bị đá ngầm đâm thủng đang chìm dần, còn hai chiếc thuyền kia đậu ở bên cạnh không những không ra tay cứu giúp, trái lại còn thừa cơ cướp bóc tài vật, giết hại nạn nhân.

Sư phụ chị thấy như vậy tức giận vô cùng vội đến cứu nhưng tiếc rằng ông đến muộn nên không cứu được người nào cả. Hai chiếc thuyền giặc đang giương buồm rút lui nhưng khi thấy sư phụ chỉ có một mình, chúng khinh địch ung dung nhổ neo. Sư phụ chị tức giận vô cùng nhảy ngay lên trên thuyền chúng chém giết bọn giặc ấy một hồi, chỉ trong nháy mắt đã giết một trăm hai mươi mấy tên. Những tên còn sống đều quỳ cả xuống xin hàng, lúc ấy sư phụ mới dừng tay.

Sư phụ chị chất vấn tên chúa giặc, hỏi tại sao chúng lại nhẫn tâm đến thế, nhưng ngôn ngữ bất đồng, ông ta mới biết là bọn giặc lùn, liền nổi giận đánh một chưởng, tướng giặc ngã lăn ra chết. Sư phụ chị đuổi mấy tên giặc còn lại đi. Lúc ấy đang ban ngày, thủy động đang bị nước che lấp, thuyền không vào được bên trong, sư phụ chị đành phải đi quanh cù lao một vòng lớn đợi nước thủy triều rút xuống, đồng thời cũng muốn xem còn người bị nạn nào sống xót khôn. Nhờ vậy sư phụ mới thấy chị...

Uyên nhi cau mày lại, lắng tai nghe vụ thảm sát đó, lúc ấy y nghe thấy Vân Tuệ nói đến chuyện của nàng, y vội hỏi:

-Chị Tuệ, lúc ấy chị ở đâu?

Vân Tuệ hình như nghĩ tới thân thế mình, thở dài một tiếng, giọng run run đáp:

-Lúc ấy chị mới lọt lòng hơn một tháng, có lẽ lúc ấy cha mẹ chị để chị vào một cái hòm gỗ, sau khi thuyền đắm, hòm gỗ ấy lênh đênh trên mặt nước, và trôi đến gần thủy động. Sư phụ chị vớt chị lên thấy bên cạnh chị có một thanh trường kiếm và một chiếc cà rá. Bảo kiếm với cà rá cũng như chị vậy khác hẳn kiếm và cà rá của người khác. Lúc ấy sư phụ chị cũng không đoán ra được chị là người của nước nào. Sư phụ chị suốt đời cô độc nên trông chị kháu khính nên quyết tâm giữ chị lại để nuôi.

Năm chị lên năm, sư phụ mới bắt đầu dạy văn và dạy võ cho, và quyết tạo thành một đệ tử duy nhất của Cô Độc Khách. Mấy năm sau chị đã hiểu biết nhiều, thấy hình dáng của mình khác mọi người, liền hỏi sư phụ cha mẹ chị là ai. Sư phụ chị rất thương chị thấy chị hỏi như vậy, quyết tâm lặn xuống đáy bể, tìm chiếc thuyền bị đắm đó để tìm kiếm lai lịch của chị. Lúc sư phụ chị lặn xuống nước tìm kiếm thì chị mới vừa bằng tuổi em bây giờ. Chị nhát gan lắm nên khi thấy sư phụ lâu không lên liền khóc òa lên.

Ngày hôm sau, sư phụ chị ở dưới đáy bể lên, nghỉ ngơi hai ngày liền, mới kể chuyện cho chị nghe. Ông bảo chiếc thuyền ấy không những to lắm, cấu tạo cũng đặc biệt vô cùng, giống như những chiếc thuyền của Bồ Đào Nha, hàng năm vẫn đem đồ đến tiến cống cho Trung Hoa.

Vì thế sư phụ chị mới đem bảo kiếm cùng cà rá của chị tới Ninh Ba để dò hỏi. Đến Ninh Ba sư phụ mướn một người thông dịch để nói chuyện với Đại sứ Bồ Đào Nha. Vị đại sứ này nhận ra bảo kiếm và cà rá cảu chị và nói còn biết cha mẹ chị nữa.

Uyên nhi ngạc nhiên vô cùng vội hỏi:

-Thế chị là người Bồ Đào Nha ư? Nước Bồ Đào Nha ở đâu vậy chị? Vân Tuệ ứa lệ sụt sùi khóc. Uyên nhi vội lấy khăn tay của nàng chùi nước mắt cho nàng, nhưng y không biết dùng lời lẽ gì để an ủi nàng.

Vân Tuệ thấy Uyên nhi thương mình như vậy trong lòng mừng thầm nắm chặt tay Uyên nhi nói tiếp:

-Chị cũng không biết nước Bồ Đào Nha ở đâu cả. Theo sư phụ chị nói thì nước đó ở xa lắm và ở bên kia bờ bể. Người ở đấy hình dáng giống như chị vậy, tiếng nói của họ khó nghe lắm.

-Tên chị ai đặt cho thế?

-Tất nhiên là sư phụ chị đặt cho. Thanh bảo kiếm của cha chị là một vật sắc bén vô cùng, tuy trông bên ngoài như là một thanh kiếm cùn nhưng có thể chém gãy bất cứ một thứ khí giới nào.

Đồng thời chiếc cà rá của chị cũng quí báu lắm. Bên trên có một hột xoàn to bằng ngón tay cái quí giá vô cùng. Cha và mẹ chị yêu nhau và kết hôn, sống rất hạnh phúc. Ngờ đâu lúc bấy giờ Quốc Vương trông thấy sinh long tham định cướp bảo kiếm và cà rá lại còn bắt mẹ chị tấn cung.

Cha mẹ chị vì thế cùng nhau chạy trốn ra ngoại quốc, mua một chiếc thuyền lớn, mướn vài mươi thủy thủ rồi theo Công sứ đến Trung Hoa để tìm chỗ thanh tĩnh mà an cư lạc nghiệp. Ngờ đâu trời không thương, cha mẹ chị vừa tới thành Hoa Lệ, không những thuyền va phải đá ngầm, lại còn bị giặc lùn cướp bóc. Cả thuyền đều bị chôn thân dưới thân bể.

Vân Tuệ được Cô Độc Khách nuôi từ nhỏ chí lớn, nên nàng không biết mặt cha mẹ ra sao. Nhưng tình cốt nhục là do thiên xui nên, vì vậy nói đến cha mẹ là nàng đau lòng.

Uyên nhi lại chùi nước mắt nàng và dùng tay vuốt mái tóc vàng của nàng, mồm ấp a ấp úng nhưng mãi không sao nghĩ ra lời lẽ gì để an ủi nàng.

Vân Tuệ thấy Uyên nhi thương mình tha thiết càng quí mến Uyên nhi thêm hơn nữa.

Uyên nhi không những xinh đẹp tuyệt trần lại còn thong minh đáng yêu lại thêm thái độ ôn thuần và rất tha thiết với nàng.

Hai người mới quen biết nhau và mới gần nhau không lâu nhưng đã thương nhau vô cùng. Vân Tuệ chùi nước mát xong cảm động nhìn thẳng vào mắt Uyên nhi khiến nó ngượng vô cùng.

Thế rồi, y nghĩ ra một vấn đề, vội hỏi tiếp:

-Chị Tuệ, sau này chị có về nước Bồ Đào Nha không?

Vân Tuệ cương quyết lắc đầu đáp:

-Không, chị không còn một thân nhân nào ở đó cả. Chị có về cũng không hiểu lời nói của họ thì về làm chi? ?Sau này chị sẽ vào Trung Nguyên trả thù cho sư phụ, báo thù xong chị lại trở về đây cũng kiếm một đồ đệ dạy bảo và vĩnh viễn không ra ngoài đời nữa.

Trong khi nàng nói vẻ mặt rất nghiêm nghị và cương quyết. Uyên nhi nghe không hiểu chút nào, lúc này y chỉ khao khát được học võ để sau này hành hiệp cứu khổ cứu nạn cho người đời.

Uyên nhi đã học qua văn chương và lịch sử nên rất ngưỡng mộ các vị du hiệp đời xưa. Lúc nào y cũng mơ tưởng sau này sẽ học võ nghệ thành công để đi ngao du sơn thủy để cứu khổ cứu nạn cho người đời.

Vì vậy y đã xin cha cho học võ là thế. Nhưng mỗi lần y hỏi thì cha y đều trả lời "Con còn nhỏ, lớn chút nữa cha sẽ dạy cho".

Bây giờ y nghe thấy Vân Tuệ nói kiếm pháp của Cô Độc Khách hùng cứ trong võ lâm, tuy y chưa thấy tài ba của Vân Tuệ nhưng y chắc là đồ đệ của Cô Độc Khách tất võ công thể nào cũng hơn người nên y nghe thấy nàng nói định thâu đồ đệ, mừng rõ vô cùng. Y liền ướm lời thử:

-Chị Tuệ, chị nói báo thù gì thế? Chị xem em có đủ tư cách làm đồ đệ của chị không?

Vân Tuệ thấy Uyên nhi nói một cách rụt rè như vậy phì cười hỏi:

-Em cũng muốn học võ à?

Uyên nhi gật đầu:

-Em muốn làm đổ đệ của chị ư?

Uyên nhi lại gật đầu, nhưng Vân Tuệ thở dài một tiếng rồi đáp:

-Không được, tuổi chị hãy còn nhỏ thế này, võ công lại chưa luyện tới mức tuyệt đỉnh thì làm sao mà có thể thu em làm đồ đệ được. Hơn nữa, dù chị có luyện thành võ công cũng phải trả thù cho sư phụ trước rồi mới dám thu đồ đệ.

Nàng nghĩ đến sự phụ lại ứa nước mắt ra và nói tiếp:

-Em không biết đấy thôi, sư phụ của chị chết thảm thương lắm. Năm năm trước, sư phụ chị ra ngoài mua đồ dùng và thức ăn thì bị đả thương sắp chết đến nơi. Lúc ấy chị thắc mắc vô cùng, không hiểu ai mà có công lực đả thương nổi sư phụ chị như thế?

Tuy vậy chị không dám hỏi, chỉ nóng lòng sốt ruột mà băng bó và hầu hạ sư phụ thuốc thang thôi, vết thương của sư phụ quá nặng, không những tạng phủ bị chấn nát mà còn trúng phải thuốc độc rất nặng. Nếu nội công của sư phụ không thâm hậu thì không sao có thể về được tới nhà.

Sư phụ biết không thứ thuốc nào có thể chữa khỏi được nữa nên ngày thứ hai sư phụ gọi chị đến và nói cho chị biết rõ đầu đuôi câu chuyện.

Uyên nhi trợn to đôi mắt lên nghe. Thoạt tiên y rất bất mãn Cô Độc Khách nhưng bây giờ vì Vân Tuệ mà y lại thương lão hiệp nên y vội nói:

-Ai đánh sư phụ chị như thế?

Vân Tuệ ứa nước mắt, nghiến răng mím môi đáp:

-Lúc ấy sư phụ chị chỉ còn thở thoi thóp. Trước hết ông dặn chị phải theo cuốn bí kíp ở trong cái hộp sắt ông đem về mà luyện võ công: Cố gắng luyện thành võ công ấy rồi vào Trung Nguyên kiếm trưởng môn Thất đại phái để trả thù cho ông, sư phụ còn muốn nói thêm nhưng hồn người đã lìa khỏi xác.

Theo sự ước đoán của chị, kẻ thù của sư phụ không riêng gì mấy chưởng môn đó, mà còn nhiều hơn thế nữa, bằng không họ địch sao nổi sư phụ, dù sư phụ không thắng nổi chúng vẫn có thể rút lui ung dung trở về đây được.

Từ hồi ấy đến giờ chị tuân theo lời trối trăn của sư phụ đem cuốn bí kíp đó ra mà khổ tập ngày đêm chỉ mong sớm tành công để đi trả thù cho sư phụ. Lúc bấy giờ, Uyên nhi thấy hai mắt nàng đỏ ngầu, trông rất kinh dị đồng thời y cũng rất thông cảm hoàn cảnh của nàng, nên thở dài một tiếng tỏ ý thương tiếc, rồi hỏi:

-Tiếc thay chị không thể thâu em làm đồ đệ, bằng không em học thành võ công thể nào cũng giúp chị đi đánh những kẻ thù ấy.

Vân Tuệ nghe nói cũng buồn rầu thở dài đỡ lời;

-Chị không dám nhận em làm đồ đệ quả thật có nhiều nguyên nhân lắm. Nguyên nhân thứ nhất chị lớn hơn em có mấy tuổi thôi, và đang lúc học tập thì tư cách đâu mà sư phụ của em. Thứ hai, khi chị học thành tài là phải rời khỏi nơi đây ngay để đi tìm kẻ thù.

Nhưng kẻ thù đã giết hại sư phụ chị tất nhiên võ công của chúng phải lợi hại lắm, nên chị đi kiếm chúng ắt hung nhiều cát ít, lỡ chị bị chúng giết chết bỏ em ở đây một mình thì lòng chị áy náy vô cùng. Nên có chí học võ thì nên nghe lời chị khuyên bảo mà đi cầu danh sư khác chắc chắn hơn.

Nhưng nói tới đây, nàng thấy mặt Uyên nhi tỏ vẻ thất vọng vô cùng nên không nỡ nói tiếp:

-Nhưng trước khi đệ chưa rời khỏi đây, nêu đệ thích cứ việc bắt chước tỷ học tập, chờ khi nào có thuyền đến hay đi qua đây, chị sẽ nhờ họ đưa em về nhà.

Uyên nhi nghe thấy Vân Tuệ bằng lòng cho mình theo nàng học võ mừng rỡ vô cùng vộ nhảy lên ôm lấy Vân Tuệ, bá chặt lấy cổ nàng la lớn:

-Có thật không chị Tuệ, thật không chị.

Hồi 3 Thư của Dị nhân

Vân Tuệ thấy Uyên nhi hãy còn ngây thơ nên lấy làm thích thú cười bảo:

-Thôi được, em cứ ngoan ngoãn nghe lời, chị sẽ dạy em học võ. Trời sắp sáng rồi, em hãy nằm ngủ một lúc, lát nữa ra ngoài luyện võ.

Từ khi ăn được năm trái Kình châu, Uyên nhi cảm thấy tinh thần khác thường, vì vậy không buồn ngủ tí nào.

Nghe Vân Tuệ bảo không dám trái lời, sợ Vân Tuệ giận không dạy võ nữa, nên ngoan ngoãn nhắm mắt giả vờ ngủ.

Vân Tuệ thấy vậy đáp chăn cho y, thổi tắt đèn dầu ở trên bàn mới quay mình đi ra ngoài phòng.

Uyên nhi nàm trên giường tuy cố gắng hết sức nhưng tinh thần tỉnh táo không sao ngủ được, đồng thời những chuyện xảy ra mấy ngày hôm nay cứ lần lượt hiện lên trong đầu óc nên làm tâm trí của y bị xáo dộng với những hình ảnh đó.

Lúc ấy trời chưa sáng. Vân Tuệ đã thổi tắt đèn dầu, trong phòng tối như mực. Nhưng, với Uyên nhi trong phòng vẫn sáng như ban ngày, y không biết đó là tác dụng của Kình châu nên tưởng rằng ở đây khác Trung Nguyên không có ngày đêm gì cả, lúc nào cũng sáng như ban ngày.

Y lẳng lặng đi ra ngoài phòng bước bào trong đại sảnh để ý xem. Y thấy căn nhà ấy chỉ có một người đang ngủ thôi chớ không có người thứ hai.

Y nghĩ vừa rồi chị Tuệ bảo luyện tập võ công, chắc chị ấy phải nghỉ ngơi chốc lát để chờ trời sáng tỏ mới ra ngoài luyện tập. Y tưởng người đang nằm đó là nàng, nhưng khi y đến gần xem kỹ mới hay người đó không phải.

Y vội lẻn ra ngoài cửa sảnh, đưa mắt nhìn bốn bề vì chỗ y đứng rất cao, có thể trông thấy hết thảy đất đai của chốn đào nguyên này, nhưng y thấy tất cả cảnh vật đều trầm tĩnh lạ thường. Những nhà cửa trong rừng đối diện không một bóng người. Y tưởng những người ở trong mấy căn nhà đó ngủ say cả.

Y quay vào trong nhà, đi tới cửa sau, thấy đằng sau nhà có trồng mấy cây thông cao ngang nóc nhà, cành lá giao nhau trông không khác gì một tấm bình phong thiên nhiên. Sau là tảng đá lớn, trên đỉnh tảng đá lởm chởm như hàm răng chó.

Uyên nhi đi tới bụi cây thông đã nghe thấy trên đỉnh tảng đá hình như có hơi thở rất mạnh, y ngạc nhiên vô cùng, bụng bảo dạ: "Chả lẽ chị Tuệ ở trên ấy?"

Lòng hiếu kỳ thúc đẩy, y muốn leo lên xem nhưng sự Vân Tuệ phát giác. Sau y leo lên trên một cây thông, nhờ có sức mạnh của kình châu người y nhẹ nhõm nên lúc này y leo lên cây không khó khăn gì hết và ngồi lên trên một cành cây nhỏ. Cành cây ấy cũng không gẫy và không có tiếng động gì cả.

Quả nhiên y thấy trên đỉnh tảng đá có một miếng đất bằng vuông vắn, mỗi bề dài hai trượng, ba mặt có những đá lởm chởm bao vây, còn một mặt hướng vè phía trong thì bằng phẳng.

Lúc ấy Vân Tuệ đang ở trên đó thật. Nàng đứng hướng về phía Đông, hai mắt nhìn thẳng không chớp, hai tay chống ra sau lưng, hai bàn tay ôm chặt chỗ lưng đó, mồm hơi mím, hai lỗ mũi của nàng phun ra hai làn sương mù trắng.

Những luồng gió bể thổi tới, mái tóc vàng, cùng áo lụa trắng theo gió phất phới, nhưng hai làn sương trắng ở trước mũi nàng lại không bị suy chuyển chút nào, dù gió thổi mạnh đến đâu nó vẫn nguyên như trước.

Uyên nhi ngạc nhiên vô cùng, hai mắt không chớp, nhìn thẳng vào mặt Vân Tuệ xem nàng làm trò gì?

Phía chính Đông, mặt trời đang từ từ mọc lên, tia ra những luồng ánh sáng đỏ trông rất đẹp mắt.

Hình như Vân Tuệ chịu không nổi ánh sáng, sương mù ở mũi nàng phun ra càng ngày càng dầy, càng trắng hơn. Chỉ trong nháy mắt đám sương mù ấy đã che lấp nửa người trên của nàng, như ẩn như hiện.

Uyên nhi đứng xem đờ người ra. Y cũng không biết trải qua bao lâu nhưng chỉ trong nháy mắt bóng người ở trước mặt lu mờ dần như một làn sương trắng rồi đột nhiên biến mất. Y đang thắc mắc bỗng cảm thấy lưng bị ôm chặt rồi người bay lên không và khi hạ chân xuống y mới hay đã đứng ở tren tảng đá mà Vân Tuệ vừa đứng lúc nãy.

Tai y bỗng nghe tiếng cười trong trẻo như tiếng nhạc và có tiếng thì thầm bên tai:

-Tiểu quỷ không chịu nghe lời chị, lại leo lên cây cao như vậy, em không sợ té chết hay sao?

Uyên nhi hoảng sợ, quay đầu lại nhìn, thấy chị Tuệ mặt tươi như hoa, tuy miệng trách mắng như vậy, nhưng mặt không có vẻ giận.

Uyên nhi yên tâm đang định giải thích thì Vân Tuệ đã xua tay bảo y đừng lên tiếng. Nàng lại tiếp:

-Thôi được nếu Uyên đệ không thích ngủ thì cứ ở đây xem chị luyện võ.

Nói xong nàng đã nhảy lên nhanh như điện chớp lướt qua ngọn cây, hạ chân xuống mái nhà. Chỉ nhún nhẩy một cái người ngà đã bay lên và chỉ trong nháy mắt đã mất dạng.

Uyên nhi đang thắc mắc thì thấy chị Tuệ quay trở lại trở lại, trong tay cầm thêm một thanh bảo kiếm.

Thanh bảo kiếm này rất lạ, nơi che tay bằng bạc bóng nhoáng trông như cái bát vậy, thân kiếm cũng màu bạc, có ánh sáng tỏa ra làm lóe mắt. Thân kiếm dài ba thước, từ chuôi đến mũi to và dầy như nhau, độ bằng ngón tay cái thòi và tròn như một cái que vậy.

Lòng hiếu kỳ thúc đẩy, un chạy lại đỡ thanh kiếm ở tay Vân Tuệ lên xem. Lúc ấy y mới hay thanh kiếm ấy hai bên đều là lưỡi chứ không có sống kiếm, nhưng cùn lắm. Y đang định sờ tay vào lưỡi kiếm, Vân Tuệ liền lên tiếng ngăn:

-Uyên đệ đừng mó vào! Có phải đệ tưởng nó cùn phải không?

Uyên nhi gật đầu, Vân Tuệ cầm lấy thanh kiếm khẽ chém vào một tảng đá đen ở gần đó, tảng đá bị chém đứt đôi mà không có tiếng kêu gì cả.

Uyên nhi lè lưỡi, lắc đầu, tỏ vẻ kinh dị. Vân Tuệ thấy vậy cười rồi nàng nghiêm nghị bảo Uyên nhi lui sang một bên. Nàng tiến ra giữa tảng đá, tay cầm thanh bảo kiếm, từ từ luyện từng thế một cho Uyên nhi xem.

Uyên nhi thông minh lạ lùng, tuy y chưa hề luyện qua kiếm pháp bao giờ, nhưng chỉ trông thấy một lần là nhớ liền, tuy chưa hiểu thấu tinh ảo của pho kiếm ấy ra sao, nhưng bảo y bắt chước diễn lại, y có thể biểu diễn ngay được.

Múa xong pho kiếm ấy, Vân Tuệ lại múa một lần nữa, nhưng lần này nàng múa nhanh hơn lần trước nhiều. Một lát sau, chỉ thấy nàng bị một làn kiếm quang bao trùm, rồi dần dần chỉ thấy một tòa núi bạc chứ không thấy người của nàng nữa.

Biểu diễn luôn một tiếng đồng hồ như vậy, Vân Tuệ bỗng thâu kiếm lại vẻ mặt vẫn tự nhiên, tủm tỉm cười đi tới trước mặt Uyên nhi.

Chưa bao giờ được trông thấy ai biểu diễn kiếm thuật tuyệt diệu như thế cả. Uyên nhi và thấy Vân Tuệ luyện xong pho kiếm ấy đã vỗ tay khen ngợi.

Vân Tuệ đắc chí, tay vuốt mái tóc, mặt thành khẩn nhìn Uyên nhi nói:

-Uyên đệ, tỷ rất cảm tạ hiền đệ đã tặng cho hai trái hạt châu. Chị ăn nó xong không những đả thông được Nhâm Đốc nhị mạch công lực cao hơn trước nhiều. Trước kia, tuy chị đã chịu khó khổ luyện mà không sao luyện được như ngày hôm nay. Mỗi lần tập nội công vì cương khí hộ thân không sao nghênh tụ được, hai mắt ánh nắng chiếu vào cứ đau nhức chịu không nổi. Đồng thời lần nào cũng vậy, luyện xong một pho kiếm là mồ hôi chảy ra như tắm, nhưng hôm nay thì khác hẳn.

Uyên nhi "ồ" lên một tiếng, rồi vừa cười vừa hỏi lại:

-Có thực không chị Tuệ? Nếu vậy, em đã ăn năm trái, chắc em học võ dễ hơn người khác phải không?

Vân Tuệ nghĩ giây lát mới đáp:

-Việc này chị không rõ lắm, nhưng chắc phải dễ hơn người khác. Chỉ tiếc hiền đệ không biết cách tập hợp điều thức, dùng chân khí của mình dẫn linh khí của những trái châu ấy đột phá huyền quan, như vậy hiền đệ mới thâu được sức mạnh của nó làm sức mạnh của mình. Nên chị bảo đáng tiếc là thế đấy. Bằng không công lực của đệ đã mạnh bằng chị rồi và khi luyện tập võ công thành công nhanh chóng không sao tưởng tượng được.

Nghe thấy Vân Tuệ nói vâyk, Uyên nhi nản chí vô cùng, Vân Tuệ vội an ủi:

-Nhưng hiền đệ hãy còn ít tuổi, chỉ cần chịu khó luyện tập tới khi hiện đệ lớn bằng chị sẽ giỏi hơn chị nhiều. Vì linh khí của những trái châu đó vẫn ở trong người hiền đệ, rồi chị sẽ dạy đệ cách nghênh thần, điều khí khi Nhâm Đốc nhị mạch của đệ đã thông rồi lúc ấy sự tiến bộ của hiền đệ sẽ nhanh chóng vô cùng.

Uyên nhi nghe vậy mừng rỡ, nắm tay Vân Tuệ vừa nhảy vừa la lớn:

-Thích quá, chị Tuệ mau dạy em đi. Thế nào em cũng gắng công học tập. Chị không tin thử xem, em đã học múa kiếm rồi đấy.

Nói xong, y cầm lấy thanh kiếm của Vân Tuệ đi ra giữa tảng đá, đúng ngay chỗ Vân Tuệ đứng hồi nãy, rồi đứng thế từng thức một y bắt chước đúng hết pho kiếm của nàng vừa biểu diễn mà khua động.

Thoạt tiên, Vân Tuệ lại tưởng y là một đứa trẻ hiếu kỳ thích đùa, cố ý cầm thanh kiếm lên múa chơi đấy thôi. Ngờ đâu y lại múa đủ pho kiếm, không thiếu một thế nào, thức nào hết, và cũng không nhầm lẫn gì cả.

Vân Tuệ ngạc nhiên vô cùng rồi nàng vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, cứ lặng lặng đứng xem Uyên nhi múa hết mười hai thức mà mình biểu diễn hồi nãy.

Mười hai thức kiếm đó trông bề ngoài tuy rất giản dị, nhưng đó là tâm huyết kết tinh cả một đời của Cô Độc Khách.

Hồi nhỏ Cô Độc Khách được dị nhân truyền thụ cho, kiếm thuật tuyệt học của các môn phái, khi tuổi già lão hiệp ẩn cư trong cù lao này, nhận thấy võ học của các môn phái tuy phái nào phái nấy đều có huyền diệu riêng nhưng vẫn còn nhiều khuyết điểm vì thế ông ta mới hợp kiếm pháp, chưởng pháp với nội lực của các nhà rồi mới tự sáng chế ra mười hai thức kiếm và mười hai thức chưởng và đặt cho hai pho đó một cái tên: Cô Độc Kiếm pháp và Cô Độc Chưởng pháp. Còn về mặt nội công thì hợp nhất nội công chính tông của Phật Đạo hai nhà mà tạo ra tĩnh tọa điều tức và Thiên Địa Cương Khí. Tĩnh tọa điều tức đem chân khí vào người là căn bản điều nguyên, và cũng là căn bản của sự luyện tập môn Thiên địa cương khí.

Còn Thiên địa cương khí là đem chân khí vận ra ngoài hút tinh anh của trời đất vào trong người, hóa vô hình thành hữu hình, rồi lại hóa hữu hình ra vô hình. Khi luyện đến mức tuyệt đỉnh, chân khí của mình sẽ hội hợp với trời đất thành một, thần tới ý hội, ý tới khí theo, mồm mũi da thịt đều có thể thoát ra chân khí rồi kết tụ ở ngoài người. Lúc ấy có thể phòng thân cũng có thể phản chấn. Nếu dùng chưởng lực đẩy ra, chỉ khẽ phát động là đả thượng được kẻ địch ngay, huyền diệu khôn tả.

Cô Độc Khách sáng tạo ra môn Thiên Địa Cương Khí, luyện tập không lâu thì bị kẻ thù đánh bị thương nặng và đã ngậm hờn xuống suối vàng.

Vân Tuệ luyện tập môn này mới được 7, 8 năm. Môn Thiên Địa Cương Khí plhair học tập 30 năm trở lên mới thành công, ngờ đâu từ khi ăn được hai trái kình châu. Nhâm Đốc nhị mạch đả thông, chỉ trong một đêm đã luyện tới mức dồn chân khí kết thành một đám sương mù rồi, như vậy chả là một kỳ tích là gì?

Còn về hai môn kiếm thuật và chưởng pháp, tuy chỉ có mười hai thức thôi nhưng thức nào cũng tinh hoa vô thượng, nên rất khó lĩnh hội sự tinh ảo của nó.

Sáng hôm nay trong khi luyện tâp không những nàng đã hoàn toàn thành công mà cả Uyên nhi cũng học được sơ bộ, như vậy nàng không kinh hãi, mừng rỡ sao được.

Chờ Uyên nhi luyện xong nàng vội chạy lại ôm vào lòng hôn hít một hồi, cảm động nói:

-Uyên đệ thông minh và tài ba thật. Hiền đệ có lẽ là thần đồng. Vừa mới học mà đã thành công đến như thế rồi.

Uyên nhi thấy Vân Tuệ khen ngợi mình như vậy ngượng vô cùng định nói vài câu khiêm tốn nhưng y nghĩ mãi không nói lên lời.

Vân Tuệ thấy y có vẻ ngượng liền cười khì, đỡ lấy bảo kiểm, ẵm y lên rồi nói:

-Đến giờ ăn cơm rồi, chúng ta đi xuống ăn cơm đi.

Uyên nhi lẳng lặng gật đầu rồi gục đầu vào nàng. Vân Tuệ cười khanh khách rồi đi như bay, nhảy xuống dưới, đặt y xuống, và dắt tay đi vào trong khách sảnh. Lúc ấy trong sảnh đã có một người đàn bà trạc ngũ tuần đang quét dọn. Vân Tuệ vừa trông thấy người đàn bà đó liền lên tiếng gọi:

-Vú Triệu, dậy sớm thế! Vú xem, chú em mà tôi đã cứu ở ngoài bể vào từ hồi hôm, tên là Long Uyên, vú bảo có đáng yêu không?

Nói xong nàng lại giới thiệu với Uyên nhi:

-Đây là vú Triệu. Vú ấy đến đây làm đã mười mấy năm rồi. Chính vú ấy đã nuôi chị từ nhỏ đến giờ. Vú Triệu tốt lắm, sau này có việc gì, hiền đệ cứ nhờ vú làm giúp, thể nào vú cũng vui lòng. Có phải thế không vú Triệu?

Nàng quay lại vú Triệu mà hỏi như vậy.

Từ khi hai người bước vào khách sảnh đến giờ, vú Triệu ngắm nhìn Uyên nhi không chớp, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ.

Lúc này, vú ta thấy Vân Tuệ nói như vậy, vội chạy lại xoa đầu Uyên nhi tắc lưỡi khen ngợi và nói:

-Cậu bé này đẹp trai thật sao lại phiêu lưu đến chốn này thế? Có cậu ấy ở chung với chúng ta tiểu thư không còn buồn như trước nữa. Cậu bé đừng có sợ cứ yên tâm ở đây, có việc gì cậu cứ dặn bảo tôi, đừng có ngượng ngịu và phải coi đây là nhà của cậu.

Nói xong vú bỗng nghĩ tới một việc cất tiếng kêu ủa rồi tiếp.

-Sao tôi lại lẩm cẩm như thế. Mải nói chuyện quên cả tiểu thư và cậu bé đói bụng. Thôi, để tôi vào làm cơm trước. Cậu bé, cậu thích ăn gì bảo cho vú biết, để sau này vú sẽ làm cho cậu ăn. Vú đoán những món của vú làm ra thế nào cậu cũng ăn ngon lành lắm. Rồi cậu sẽ trắng trẻo mập mạp như tiểu thư vậy.

Vú ta vừa nói vừa đi vào trong bếp, Vân Tuệ chờ Uyên nhi ngồi xuống mới bỏ kiếm vào bao, đem vào trong thư phòng cất đi. Nhưng khi nàng vừa vào tới cửa bỗng thấy cái hòm sắt hôm qua đem về vẫn còn nằm ở yên đó. Nàng vộ hỏi Uyên nhi:

-Hôm nầy có phải đựng hành lý của hiền đệ không?

Uyên nhi lắc đầu rồi kề qua chuyện cái hòm sắt đó cho Vân Tuệ nghe và nói tiếp:

-Cái hòm sắt này lạ thật, trông nó như một khối vậy, không sao mở được ra, không biết ở bên trong đựng gì! Chị Tuệ có cách nào mở ra không?

Vân Tuệ để cái hòm đóleen mặt bàn, xem kỹ lưỡng một hồi, nàng chỉ thấy cái hòm ấy dài chừng hai thước rưỡi, mỗi bề dày chừng một thước, chỗ giữa có một quai sách sắt, còn bốn xung quanh không có khe hở nào hết, trông như một khối sắt làm thành cái hòm ấy vậy.

Nhưng nếu bảo nó là một khối sắt, sao nó lại nhẹ như vậy?

Như thế hiển nhiên bên trong phải trống rỗng.

Nàng cầm cái hòm lên lắc thử, nhưng không nghe thấy bên trong có tiếng động gì cả, nàng tức giận vô cùng, dùng bảo kiếm rạch theo nắp hòm một vòng, bảo kiếm sắc bén, chỉ rạch một lượt như vậy đã mở được nắp hòm ra liền.

Uyên nhi đứng ở trên ghế liền giơ tay mở nắp hòm ra xem thì thấy chứa toàn những lá cây bằng sắt. Những lá cây ấy dài chín tấc, rộng bảy tấc rất mỏng xâu bằng hai sợi gân bò thành một chuỗi trông như những cánh hoa lê vậy.

Vân Tuệ cầm những lá sắt đó ra để lên trên bàn xoảng. Nàng lại thấy bên dưới có một chuỗi miếng tre cũng xâu bằng gân bò. Những miếng tre đó cũng to bằng những miếng lá sắt vậy.

Uyên nhi lấy chuỗi miếng che đó ra thì thấy bên dưới còn một thanh đoản kiếm với một cái ống bạc. Y nhanh tay cầm lấy hai vật đó, nhưng y cầm thanh kiếm lên rồi rút mãi không rút ra được. Y tức giận cứ chạy quanh bàn hoài.

Vân Tuệ thấy vậy cười khúc khích, đõ lấy thanh kiếm, nó chỉ dài độ hai thước ba tấc thôi.

Nhưng hình dáng rất cổ kỉnh, cán và bao kiếm đều đỏ như màu máu, cán chỉ có ba tấc thôi, một bên khắc hai chữ "Đơn Huyết", còn bên kia khắc bốn chữ "đơn tam tử trù".

Vân Tuệ bấm cái chốt ở dưới cán, rút lưỡi kiếm ra khỏi bao, nhưng mới rút ra độ một tấc, ánh sáng đỏ của thân kiếm đã chiếu sáng cả căn phòng.

Uyên nhi vỗ tay la lớn, Vân Tuệ cũng kinh ngạc hết sức, nhanh tay rút nốt kiếm ra khỏi bao. Ánh sáng kiếm không những làm sáng tỏ cả căn phòng, mà tia sáng cứ co giãn luôn. Nàng còn cảm thấy thân kiếm rung động hình như muốn bay đi vậy, nàng biết thanh kiếm này lâu năm đã thông linh không muốn để cho người giá ngự, nên nàng vội vận công dùng sức nắm chặt nó.

Uyên nhi không biết trời cao đất rộng thấy thân kiếm rung động hoài và thấy tia sáng của mũi kiếm co giãn luôn, có lúc dài tới nửa thước tưởng là trò chơi liền đưa tay sờ thử.

Ngờ đâu tay y chưa đụng tới. Vân Tuệ định quát bảo thì cán kiếm đột nhiên nẩy mạnh một cái, đã rạch đúng đầu ngón tay Uyên nhi, máu chảy ra liền.

Uyên nhi với Vân Tuệ cùng kinh hoảng la lớn, Uyên nhi vội rút tay lại. Vân Tuệ cũng đột nhiên mất hết hơi sức.

Thanh kiếm dính một chút máu tanh, tia sáng ở đầu kiếm đột nhiên vươn dài ra. Nhân lúc Vân Tuệ cầm không vững, nó tự động giằng mạnh một cái nhảy ra khỏi tay nàng và bắn thẳng về phía Uyên nhi.

Vân Tuệ thất thanh la lớn.

Nàng vừa kêu vừa vươn tay ra dùng môn "Nhân quang túc ảnh" để bắt lấy thanh kiếm. Nhưng nàng không sao bắt nổi thanh kiếm ấy.

Uyên nhi đang kinh hãi và đau tay, bỗng thấy thanh kiếm nhắm mình phi tới càng sợ thêm, nhưng theo phản xạ vẫn giơ tay chảy máu lên đỡ. Không hiểu y làm thế nào mà lại nắm được cán kiếm.

Thanh bảo kiếm vừa lọt vào tay y, những tia sáng ở mũi kiếm bỗng biến mất, và sáng tỏa ra bỗng chuyển thành màu hồng xẫm, và cũng không thấy nó rung động sút ra khỏi tay của Uyên nhi.

Tất cả những chuyện xảy ra liên tiếp đó chỉ trong nháy mắt.

Vân Tuệ thấy mình không bắt nổi thanh bảo kiếm đã lo âu kinh hoảng hết sức, nhưng chỉ trong nháy mắt nàng đã thấy sự thay đổi kỳ lạ đó. Quả là kỳ tích. Vì tuổi lớn hơn, công lực mạnh như thế mà nàng không chế ngự nổi thanh bảo kiếm. Trái lại Uyên nhi không biết võ công lại thu phục nổi, như vậy chả là kỳ tích là gì?

Nàng ngơ ngác giây lát, thấy ngón tay Uyên nhi vẫn còn chảy máu vội nói:

-Để chị đi lấy thuốc ra băng bó cho, đệ mau cất thanh quái kiếm này đi, đừng để nó chiems phải nơi khác, không phải là chuyện đùa đâu.

Nói xong nàng nhanh nhẹn đi vào trong phòng lấy thuốc và vải ra để băng bó cho Uyên nhi.

Vân Tuệ ra tới nơi thấy Uyên nhi không những không nghĩ gì đến vết thương đang chảy máu mà lại còn vui vẻ hai tay cầm cán kiếm cứ múa may quay cuồng hoài.

Nàng vừa thương vừa buồn cười và thán phục đứa trẻ bạo gan. Nàng tới gần cắm bao kiếm vào thân kiếm rồi để thanh bảo kiếm lên trên bàn. Nàng ngồi xuống ghế kéo Uyên nhi lại gần băng bó và cho y uống thuốc.

Sự thật vết thương không nặng lắm, tuy chảy khá nhiều máu nhưng ngón tay giữa chỉ bị sướt một chút da thôi.

Nàng băng bó cho Uyên nhi xong dặn bảo y phải cẩn thận đừng có nhúng tay bị thương đó vào nước và cũng đừng bỏ miếng vải nơi tay ra.

Uyên nhi vâng dạ và cầm thanh kiếm lên đùa nghịch.

Vân Tuệ thấy Uyên nhi thích thanh kiếm như vậy liền khuyên bảo:

-Tiểu đệ, đừng có đùa nữa, đằng nào thanh bảo kiếm cũng là của đệ, chờ khi đệ học xong kiếm pháp, lúc ấy đem nó ra xử dụng có hơn không? Bây giờ đệ hãy còn nhỏ khong nên nghịch những võ khí sắc bén này. Để chiều nay, tỷ lấy trúc làm thành một thanh trúc kiếm cho tiểu đệ nhé, đệ có bằng lòng không?

Uyên nhi mừng rỡ vô cùng vâng dạ luôn mồm. Lúc ấy vú Triệu đã bưng cơm ra, trông thấy những đồ để trên bàn và nững giọt máu tươi, vú kinh hoảnh hỏi:

-Tiểu thư, tay của cậu bé làm sao lại bị thương như vậy?

Vân Tuệ kể rõ nguyên nhân cho vú Triệu, vú hoảng sợ miệng niệm phật rồi nói tiếp:

-Cậu phải cẩn thận mới được, tục ngữ có câu "Đao thương không có mắt" nhỡ nó đâm vào chỗ khác có phải nguy tai không? Từ giờ trở đi cậu đừng có nghịch nữa nhé.

Nói xong, vú ta bày thức ăn lên bàn, cầm tay của Uyên nhi lên xem.

Ngờ đâu Uyên nhi không coi vết thương đó vào đâu cả, cười khúc khích nói:

-Vú Triệu, không sao đâu. Vú ngồi đây ăn cơm với chúng con nhé?

Vú Triệu thấy y không có vẻ gì đau đớn hết mới yên tâm và lắc đầu, rồi vú dọn cái hòm sang một bên lau chùi các vết máu và trả lời:

-Cậu ăn với chị trước, vú có việc bận lát nữa ăn cũng được.

Nói xong vú đi xuống bến luôn. Uyên nhi liền ngồi vào bàn, vừa ăn vừa nghịch chuỗi sắt mỏng. Y lật lên xem bỗng kinh hãi la lớn:

-Chị Tuệ, chị xem, trên miếng sát có chữ.

Vân Tuệ vội để bát cơm xuống, cầm những miếng sắt nhỏ đó lên xem từng miếng một. Càng xem càng ngạc nhiên vì nàng không thấy một miếng nào có chữ cả, lại tưởng Uyên nhi đùa liền trách:

-Tiểu đệ đừng nói bậy, làm gì có chữ nào?

Uyên nhi chỉ ngay vào miếng sắt thứ nhất đáp:

-Miếng này chả có chữ là gì? Trên đó có đề bốn chữ "Đơn thư thiết quyển" sao chị lại bảo là không?

Vân Tuệ cúi đầu xem lại miếng sắt đó chỉ thấy đen nhánh, chứ không thấy một chữ nào cả.

Nàng không tin Uyên nhi trông thấy chữ mà mình lại không? Nàng lại giở miếng thứ hai xem thử lần nữa, nhưng cũng không thấy chữ nào hết. Nàng cau mày, nhìn Uyên nhi hỏi tiếp:

-Thế trên miếng này có chữ không?

Uyên nhi ngạc nhiên vô cùng, vội đáp:

-Có mà. Chị không thấy hay sao?

Vân Tuệ ngơ ngác lắc đầu, Uyên nhi chỉ tay vào những hàng chữ và lớn tiếng đọc:

-"Đơn thư huyết kiếm, sản xuất từ đời Tần, tạm niêm phong trong hòm sắt, trầm xuống dưới đáy biển, khi nào nó ra đời được trông thấy mặt trời, nó sẽ làm rạng rỡ Thần Châu chấn võ lâm". Đấy, chị không thấy sao?

Lúc này Vân Tuệ không thể nào không tin trên mặt những miếng sắt đó không có chữ, nhưng nàng rất lấy làm ngạc nhiên tại sao mình lại không trông thấy? Nàng ngơ ngác nhìn Uyên nhi bụng bảo dạ:

"Thằng nhỏ này cái gì cũng khác thường, chắc nó có lai lịch rất lớn, trên đơn thư có ghi rõ kiếm sản xuất từ đời Tần, người viết cuốn thư này để lại là một vị tiên tri nên ông mới đoán biết nó sẽ ra đời vào lúc này, đủ thấy người đó chẳng những thần thông quảng đại lại phải có duyên với Uyên nhi, bằng không những chữ ở trên miếng sắt chỉ mình Uyên nhi trông thấy?"

Người thời bấy giờ rất mê tín, vì Vân Tuệ không biết hai mắt Uyên nhi đã bôi nước trái kình châu nên mới trông thấy rõ, nàng lại tưởng người để lại cuốn thư này làm bùa phép chỉ để mình Uyên nhi trông thấy những chữ ấy thôi.

Uyên nhi thấy Vân Tuệ cau mày suy nghĩ, không trả lời, cứ tiếp tục vừa ăn cơm vừa giở những miếng sau ra xem. Y thấy trong đó cũng nhiều miếng vẽ những hình người, y mừng rỡ vô cùng la lớn:

-Chị Tuệ, chị xem, trong này có hình người nữa.

Vân Tuệ thấy vậy, vừa ăn cơm vừa đáp:

-Tiểu đệ, chị không xem đâu, đệ xem một mình đi. Chị chắc cuốn bí thư này thế nào cũng là bí kíp võ công của một pho võ công. Người viết cuối thư này có ý trầm nó xuống biển và hình như ông ta đã biết thể nào tiểu đệ cũng lượm được, nhưng xem dụng ý của ông ta thì hình như không muốn để cho người khác học lỏm, cho nên chữ trên đó người khác không sao thấy được, mà chỉ mình đệ thấy thôi. Như vậy, chúng ta là hậu bối, không nên trái ý của tiền nhân. Từ này trở đi, hiền đệ cứ theo hình vẽ trong đó mà học tập, sau này sẽ trở nên một vị đại anh hùng chứ không sai.

Uyên nhi mừng rỡ vô cùng, lại giở lại tờ đầu đọc kỹ thêm. Nhưng chỉ đọc được hai tờ Uyên nhi nói:

-Chị Tuệ, Đơn Tâm Tử tài ba lắm, võ công lợi hại không thể tả được.

Vân Tuệ sợ phạm phải cấm kỵ của người để lại cuốn thư đó. Nhưng nàng vẫn muốn biết lai lịch của cuốn thư ra sao, nên nàng nghe Uyên nhi nói vậy vội hỏi ngay:

-Đơn Tâm Tử là ai? Có phải là người để lại cuốn thư này không? Uyên đệ, mau kể lại cho chị nghe đi.

Uyên nhi mừng rỡ kể lại cho nàng nghe:

-Chị Tuệ phải, Đơn Tâm Tử chính là người để lại cuốn thư. Ông sinh ở thời Chiến Quốc, là đồ đệ của Lý Nhĩ, thủy tổ của Đạo gia, được Lý lão Tổ truyền cho cách luyện đơn, cương khí và kiếm thuật. Ông ta ở núi Hàn tại Tê Lỗ. Khổ tâm tu luyện không biết bao nhiêu năm, mới luyện thành "Huyền Thiên Cương Khí" rồi lại biến hóa nó thành "Đơn Thiết Thần Công". Ông đã dùng chân hỏa đơn điền huyết khí hợp với sắt thần của Hàn Sơn luyện thành bảo kiếm Đơn Huyết này...

Y chỉ vào thanh đoản kiếm trên bàn nói tiếp:

-Mục đích luyện thanh kiếm Đơn Huyết này không phải dùng để giết người, mà là muốn giết chết năm con nghiệt long tác quái ở miền Đông hải. Vì vậy sau khi luyện xong bảo kiếm, Đơn Tâm Tử liền rời Hàn Sơn đi thuyền ra bể tìm sào huyệt nghiệt long, nhưng không ngờ năm con nghiệt long ấy rất lợi hại, ông đâu với chúng luôn ba ngày ba đêm vẫn không đả thương được con nào, suýt tý nữa ông còn bị chúng nuốt sống. Ông tức giận vô cùng liền lên một cái đào hoang ở gần đó tái luyện kiếm pháp. Ông bắt chước cách đấu của các loài thú và nghiệt long, tạo nên "Đơn Huyết Đồ Long Thập Cửu Thức" rồi ông quay lại đấu với năm con nghiệt long ấy. Lần này ông đã thành công, ông giết sạch cả năm con nghiệt long một lúc. Sau đó ông lấy lệ châu và nộ đơn của chúng đem về Hàn Sơn, dùng nội đơn đó phôi hợp với linh dược luyện thành chín viên Xích Long Hoàn. Ông chỉ ăn hai viên đã có thể phi thăng thành tiên.

Nhưng trước khi ông thành tiên, vì không muốn mai một tuyệt học và linh dược của mình nên mới dùng những miếng sắt này ghi lại môn kiếm thuật đó, và dùng những miếng trúc để ghi lại thần Công, y thuật rôi đem Lệ Châu Kiếm Thư và hai pho sách đó niêm phong kỹ lưỡng vào trong hòm sắt và trầm xuống dưới đáy bể, mong sau này người có duyên nào mạo hiểm vớt hòm sắt lên lãnh hội được những di tích bên trong để tế thế cứu người.

Vân Tuệ nghe đến đó ngẩn người ra và trong đầu óc tưởng tượng một người đáu với năm con rồng như thế nào. Nàng càng kính phục thêm nên nghiêm nghị nói với Uyên nhi tiếp:

-Uyên đệ đã lượm được hòm sắt đủ thấy phúc duyên của hiền đệ rất thâm hậu. Từ giờ trở đi hiền đệ phải cố gắng công học tập hai cuốn kỳ thư này. Như vậy mới không phụ lòng của Đơn Tâm Tử lão tiền bối.

Uyên nhi thấy Vân Tuệ nói thận trọng như vậy không dám cười nữa, cũng nghiêm nghị đáp:

-Chị Tuệ, thế nào em cũng nghe lời chị cố công học tập để sau này làm việc lớn và cũng để cho Đơn Tâm Tử lão tiền bối ở trên trời được vui mừng. Như vậy chị đã vui lòng chưa?

Vân Tuệ hớn hở gật đầu, cầm cái ống sắt bẹt lên để vào mũi ngửi và hỏi:

-Có lẽ Lệ Châu và Xích Long đơn để trong này cũng nên. Trong bài tựa có nhắc đến cách dùng không?

Uyên nhi gật đầu đáp:

-Trong đó nói, Xích Long Đơn là một thứ thuốc nóng như lửa, cần phải luyện thành công sơ bộ Huyền Thiên Cương Khí trước, hiểu biết cách điều thức vận hơi rồi mới uống được nó. Bằng không sẽ bị hơi nóng thiêu chết ngay.

Nghe tới đó, Vân Tuệ đặt cái ống đồng bẹt xuống. Uyên nhi thấy vậy suy nghĩ giây lát nói tiếp:

-Chị Tuệ, có phải chị đã biết cách vận khí điều hơi rồi không? Nếu vậy, chị hãy ăn một viên trước đi. Đệ dám chắc ăn xong viên thuốc ấy, thế nào thành công cũng nhanh chóng hơn bây giờ nhiều.

Vân Tuệ nghe vậy cũng muốn dùng ngay, nhưng sau nghĩ lại vội đáp:

-Để chờ khi nào đệ luyện thành công môn Huyền Thiên Cương Khí đã, lúc ấy chúng ta cùng ăn một thể cũng chưa muộn. Thôi đừng nói chuyện nữa mau ăn cơm đi. Ăn xong chúng ta còn phải luyện võ công.

Uyên nhi cũng nóng lòng muốn tập võ trong cuốn Đơn Thư Thiết Quyển, nên y nghe vậy vội và mấy miếng ăn xong bát cơm ấy liền cầm đơn thư định mở ra xem tiếp.

Vân Tuệ vội ngăn càn và ôm hết Thiết Quyển, miếng trúc, ống sắt và bảo kiếm lên nói tiếp:

-Uyên đệ lại đây, chị đưa Uyên đệ vào thư phòng. Từ nay trở đi đẹ ở trong đó, không những có thể nghiên cứu học tập hai bộ sách ấy mà lúc nhàn rỗi hiền đệ có thể xem sách trong thư phòng nữa.

Thư phòng ở phía bên trái của đại sảnh, đối diện với phòng ngủ của Vân Tuệ, Uyên nhi theo nàng vào trong, thấy phòng đó hai mặt Đông và Nam đều có cửa sổ lớn, ánh sagns đầy đủ, cảnh cửa sổ ó hai cái bàn, còn sát vách bên phía Tây có để một tủ sách lớn, trong đó có hàng nghìn cuốn sách đủ hết các loại, bên phía Bắc nơi giáp tường có một cái sập nhỏ bằng đá trên không có nệm chi hết.

Vân Tuệ để hai bộ sách bằng sắt miếng và bằng mảnh trúc lên trên bàn, để bảo kiếm liên trên đầu tủ bỏ ống sắt vào trong hộc tủ. Nàng vừa làm việc vừa nói:

-Uyên đệ, phòng này là phòng ngủ xưa kia của sư phụ chị, giờ tuy nhường cho đệ nhưng đệ không được nghịch ngợm. Nếu những sách nào có chữ khó hiểu, đệ cứ việc tra cứu cuốn "Thuyết văn Giải tự" trong tủ. Bằng không hiền đệ cứ viết vào giấy, để hỏi chị, còn các việc lặt vặt đã có vú Triệu làm hết.

Uyên nhi gật đầu vâng lời. Vân Tuệ đi ra bên ngoài mọt lát, lúc trở vào đã ôm chăn gối, màn chiếu vào và trải cho y hẳn hoi mới đi ra luyện võ công. Uyên nhi tuy vẫn còn tính trẻ con hay nghịch ngợm nhưng trải qua mấy ngày sóng gió, giờ đây nó đã già dặn hơn trước nhiều. Hơn nữa mới đọc Đơn Thư Thiết Quyển, y nhận thấy những võ công giống hệt những cái mà mình đã từng mơ ước, nên y mừng rỡ vô cùng, chỉ muốn đọc hết ngay trong chốc lát.

Vì vậy mà y càng đứng đắn thêm, một mình lẳng lặng đọc hai cuốn sách ấy.

Y thành kính ngồi ở trước bàn, lật qua bài tựa bắt đầu xem từ bài chính. Trang thứ nhất của bài chính tên là "Huyền Thiên Cương Khí nhập môn". Những chữ trong đó rất khó hiểu, tuy có một bức hình vẽ tọa công để dạy cách luyện tập, nhưng y cũng không sao biết rõ được.

Thế rồi cứ lớn tiếng đọc cho thuộc lòng.

"Bế mục minh tâm tọa (nhắm mắt tĩnh tâm ngồi)"

"Ốc cố nghênh tư thần (nắm cho vững tinh thần và tư tưởng)"

"Minh sỉ tam thập lục (hai hàm răng ba mươi sáu chiếc cùng để lộ)"

"Song thủ bảo Côn Luân (hai tay ôm như hình núi Côn lôn)"

"Tả hữa minh thiên cổ (hai tay đấm như gõ trống trời)"

"Tạo hóa đoạt càn khôn (sự thành công của tạo hóa thắng cả trời đất)"

Bài khẩu quyết nhập môn ấy rất dễ học thuộc, Uyên nhi chỉ đọc hai lượt đã thuộc liền, nhưng y không hiểu nghĩa những danh từ như Côn Luân, Thiên cổ, Càn Khôn... Vjif những chữ đó không những y chưa học qua bao giờ mà cũng không hề nghe ai nói tới.

Y rất thất vọng, thở dài một tiếng, bỏ cuốn sách sang bên, lại giở cuốn viết trên những miếng tre ra xem, thấy chữ viết trên đó viết theo lối chữ triện, nhưng lối chữ này không làm khó dễ được y vì khi ở nhà y đã được bác tám dạy cho.

Y thấy trang thứ nhất chỉ viết có bốn chữ "Thần Nông Y Giản". Trang hai thì chữ viết rất nhỏ, tuy bên trong có vẽ cả hình những cây thuốc nhưng cuốn này y dễ hiểu hơn.

Uyên nhi đọc từng chữ từng câu một. Vì dễ hiểu nên y thích lắm. Đến giữa trưa, y đã đọc được một phần tư rồi.

Vân Tuệ vào phòng gọi y ra ăn cơm. Trong bữa ăn y đem những chữ khó hiểu trong bài khẩu quyết nhập môn ra hỏi. Vân Tuệ nhất nhất giải đáp những câu đó cho Uyên nhi nghe.

Chiều hôm đó y lại quay trở vào trong thư phòng nghiên cứu cuốn Đơn Thư Thiết Quyển, quả nhiên thấy dể hiểu hơn trước nhiều.

Thế rồi từ ngày thứ hai trở đi, mỗi ngày hai lần, Uyên nhi luyện môn Huyền Thiên Cương Khí nhập môn, còn những thì giờ khác thì y nghiên cứu Thần Nông Y Giản và các sách để trên kệ.

Vân Tuệ thấy y chăm chỉ như vậy, cả ngày không bước ra ngoài cửa, và cũng không thích đùa nghịch gì cả, trong lòng vừa thương lại vừa yêu mến. Nàng thường dẫn y đi quanh cù lao để du ngoạn.

Đồng thời, nàng lại giới thiệu cho y quyen biết mười mấy nhà nông ở đó, bảo y lúc nào cần đi dạo cứ việc kiếm những trẻ ở đấy đùa giỡn cho vui, nhưng tánh Uyên nhi lạ lắm, suốt ngày chỉ thích đọc sách chứ không đi đâu cả.

Ngoài ra y lại chăm chỉ luyện võ chứ không thích du hí một cách vô ích và cũng không nghĩ gì tới việc trở về nhà y nữa.

Mười ngày sau, y đã bắt đầu luyện tập được tĩnh tọa điều tức. Phương pháp này chia làm năm bộ như sau: Chính khu, điều thức, không tâm, chỉ niệm và thủ khiếu.

Vân Tuệ giải thích cho y nghe thế nào là không tâm và chỉ niệm nhưng chỉ cần giảng giải một lần là y hiểu ngay.

Thế rồi, mỗi ngày y tỉnh tọa một thời gian. Mọt tháng sau, y mới luyện tập tới mức ngồi yên không nghĩ ngợi một tí gì trong một tiếng đồng hồ. Còn thủ khiếu là gì? Thủ khiếu là tập trung sức chú ý vào bất cứ một yếu huyệt nào ở trên người. Trong người có nhiều yếu huyệt lắm, người mới học phần nhiều tập trung vào trong yếu huyệt Đơn Điền trước rồi lên dần cho tới khi luyện lên đến yếu huyệt Bách Hội ở trên đỉnh đầu mới thành công.

Thời giờ thấm thoát như thoi đưa, thoáng một cái mà đã ba tháng. Trong ba tháng đó Uyên nhi và Vân Tuệ suốt ngày gần gũi nhau, hai người đã nãy lở một tình cảm rất sâu đậm. Tuy mỗi người luyện tập ở một nơi, nhưng lúc nào nàng cũng quan tâm đến sự luyện tạp của Uyên nhi. Nàng không những giảng giải những chữ khó hiểu cho Uyên nhi nghe mà còn làm hết việc vặt cho y nữa. Chứ không chịu để vú Triệu làm. Nàng lấy lý do là vú Triệu tuổi đã già làm việc không được nhanh nhẹn và cũng không nên làm việc quá nhiều như thế.

Sự thật thì nàng quá yêu Uyên nhi và trong lòng nàng đã nảy sanh tình yêu như một người mẹ mà không hay. Còn Uyên nhi không những rất yêu chị Tuệ mà còn rất tôn kính nàng. Y coi nàng như sư phụ vậy cho nên nàng bảo gì y cũng tuân theo không dám nói nửa lời.

Trong ba tháng đó, Uyên nhi tiến bộ kinh người. Y đã hoàn thành nhập môn và đã bắt đầu luyện đến môn thứ hai. Môn thứ hai là lấy thần dẫn độ khí và cũng là thuật vận khí. Theo trong Đơn Thư Thiết Quyển giải thích thì trong thân thể người ta chia làm lục quan, mỗi quan có sáu từng.

Như vậy, có tất cả là ba mươi sáu lớp, lúc phá quan phải thuận tiền, hậu, thượng, hạ, tả, hữu tuần tự nhi tiến, xông phá từng lớp một, phải tốn tất cả hai trăm mười sáu ngày mới xong.

Từ khi Uyên nhi ăn kình châu, linh khí của những trái kình châu đã đột phá hộ y sáu mạch quan khẩu. Nên khi y luyện tập môn này chỉ hơi vận khí là đã qua ba mươi sáu tầng lớp.

Mừng rỡ vô cùng vộ chạy ra báo cho Vân Tuệ hay, Vân Tuệ cũng ngạc nhiên, vì môn nội công này người khác phải tập đủ hai trăm mười sáu ngày mới thành công, mà y chỉ tập có một buổi sáng đã thành công. Sau nàng mới nghĩ ra là y được những trái kình châu trợ giúp.

Nhưng vì thận trọng, nàng dặn bảo Uyên nhi vẫn phải luyện đúng hai trăm mười sáu ngày. Nàng lại sợ y không chịu nghe lời len học môn thứ ba liền đem cuốn Đơn Thư Thiết Quyển đó vào trong phòng mình để y khỏi sao nhãng luyện tập.

Thời giờ vẫn đi như thoi đưa, hết mùa Đông tới mùa Xuân, khi Uyên nhi và tập đủ số ngày thì đã tới đầu mùa Hạ rồi. Trong gần một năm trời đó y nhất tâm nhất trí luyện phương pháp điều thức của Huyên Môn Cương Khí, và đã tinh xảo tột độ. Đồng thời y cũng cao lên rất nhiều, đầu y đã tới tai của Vân Tuệ rồi. Y lớn không sao, nhưng chỉ tội nghiệp cho Vân Tuệ cứ phải may quần áo cho y luôn.

Y thấy chị Tuệ bận rộn như vậy trong lòng không yên chút nào, nên y vẫn thường đệ nghị với nàng nên may lớn hơn một chút để khỏi phải may luôn như vậy.

Mùa hè năm sau, Vân Tuệ đếm đốt ngón tay mới hay đã đến ngày phải luyện tập tới pho võ công thứ hai, nên nàng đem cuốn Đơn Thư Thiết Quyển trả cho Uyên nhi và bảo tự xem lấy. Thế là Uyên nhi lại bắt đầu tập luyện chương thứ ba.

Nội dung của chương này phức tạp vô cùng, bên trong chia ra làm nội, ngoại và Khinh ba bộ, và cần phải luyện tập cả ba một lúc, nội công tức là Huyền Thiên Cương Khí. Mỗi ngày phải luyện hai tiếng đồng hồ, hai giờ đó là giờ tý và ngọ, luyện cho tới khi nào máu thịt dung hòa với nhau và muốn dồn cương khí tới đâu cũng được, khiến bắp thịt rắn như gang thép và có thể làm cho mềm như bông lúc ấy mới gọi là hoàn thành. Muốn có thành tích như trên phải mất mười năm mới có thể thành công được. Vì vậy cuối chương tác giả có dặn lúc bắt đầu học phải uống một viên Xích Long Hoàn.

Còn ngoại công là một pho chưởng pháp này có cả thảy bảy thức, mỗi thức ba thế, cộng tất cả là hai mươi mốt thể.

Về mặt khinh công có ba thân pháp, một là Tùy Ba Trục Lưu (theo gió đuổi dòng), hai là Phục Điệu Chu Phong (nằm phục xuống đất đuổi gió), thứ ba là Thiên Cơ Bộ (bước đi thiên cơ).

Hai thân pháp đầu là dùng để chạy nhảy, còn Thiên Cơ Bộ là dùng để khi đối nghịch phối hợp với Huyền Thiên Chưởng.

Ngày hôm đó Uyên nhi học thuộc lòng khẩu quyết xong, liền mời Vân Tuệ vào để cùng uống Xích Long Hoàn.

Từ khi ăn kình châu tới giờ, mọt năm nay võ công, nội lực của Vân Tuệ gia tăng gấp bội. Thiên Địa Cương Khí của nàng đã luyện tới sáu thành hỏa hầu, nên nàng không uống Xích Long Hoàn nữa mà muốn để cho Uyên nhi dùng.

Ngờ đâu Uyên nhi nhất định không chịu, bắt Vân Tuệ phải uống với mình một viên. Vân Tuệ không nỡ phật lòng Uyên nhi nên đành nhận lời. Uyên nhi cả mừng lấy cai hộp sắt ở trong hộc tủ ra.

Hộp sắt vừa dẹt vừa dài, chưa hề được mở bao giờ, Uyên nhi lấy hộp ấy ra rồi dùng dao nhỏ nạo hết sáp niêm phong ở hộp đi, vừa mở nắp ra trong phòng đã sáng hồng.

Trong hộp đó có xếp mười hai hạt châu to bằng trái long nhãn trong đó có năm hạt ánh sáng lóe ra làm chói mắt Uyên nhi và Vân Tuệ. Còn bảy viên kia cũng màu đủ nhưng vì có bao sáp bọc ngoài nên không có ánh sáng tỏa ra.

Uyên nhi biết những trái có sáp bọc ngoài mới thật là Xích Long Hoàn, còn những cái có ánh sáng tỏa ra là Xích Long Lệ Châu, chỉ là vật báu dùng để xem chứ không ăn được. Y lấy mọt viên thuốc và một hạt châu đưa cho Vân Tuệ, còn y thì lấy lmootj viên thuốc ra để sửa soạn ăn.

Vân Tuệ cầm hạt châu lên coi, hình như trong hạt châu có hình bóng một con rồng xanh và trông giống như nó còn sống trong hạt châu vậy. Nàng thích thú lắm bỏ luôn hạt châu đó vào trong túi, Uyên nhi liền dục nàng uống thuốc.

Hai người cung bóc bao sáp ra, mùi thơm tỏa ngào ngạt cả căn phòng. Hai người đều khen ngợi thầm và cho vào miệng rồi xếp vòng tròn điều thức ngay.

Hai người cùng cảm thấy Xích Long Hoàn vào đến cổ họng đã tan liền theo nước bọt chảy xuống đơn điền và hóa thành một luồng hơi nóng như thiêu. Hai người không dám trì hoãn vội chuyển vận chân khí đưa luồng hơi nóng đó vào trong các kinh mạch.

Hai người tựa như ngồi ở trong lò lửa, khó chịu hết sức, cả hai nghiến răng mím môi cố gắng chịlu đựng, lát sau hơi nóng dần phát tiết ra ngoài, mồ hôi đổ ra làm quần áo ướt đẫm như tắm.

Trải qua không biết bao lâu, hơi nóng dịu dần, quần áo cũng khô hẳn. Hai người từ từ thức tỉnh, cảm thấy chân khí trong người dồi dào vô cùng, mắt sáng đầu óc minh mẫn, nhẹ nhõm và kình lực mạnh vô cùng.

Uyên nhi nhìn Vân Tuệ lè lưỡi một cái và xuống đất trước. Ngờ đau, vừa cử động các khớp xương liền kêu "lốp bốp", như bắp rang vậy. Y rờ tay vào sau lưng với dưới mông mới hay áo quần đã nứt một đường dài.

Vân Tuệ cười khì rồi đứng dậy, ngờ đâu nang cũng vậy, nhưng may thay áo và váy nàng khá rộng chứ không như áo quần của Uyên nhi. Nhưng nàng cũng hổ thẹn đến hai má đỏ bừng.

Uyên nhi cười khanh khách. Vân Tuệ lườm y rồi chạy thẳng về phòng, thay đổi áo trong xong thì đã thấy Uyên nhi mặc bộ quần áo chật ních chạy vào mặt méo mó như khóc nói với mình rằng:

-Chị Tuệ áo em chật rồi biết làm sao đây.

Vân Tuệ kinh ngạc vô cùng nhìn y một hồi, rồi lại nhìn mình mới hay cả hai đã cao lớn hơn nhiều. Nàng bụng bảo dạ: "Xích Long Hoàn công hiệu thực!"

Nghĩ đoạn nàng an ủi Uyên nhi:

-Không sao, chị cắt cho hiền đệ bộ quần áo mới liền. Đệ cứ ra ngoài chơi một chút là sẽ có đồ mới ngay.

Uyên nhi vâng lời đi đến cạnh nàng đo thử xem. Y cả kinh la lớn:

-Chị Tuệ sao chị cũng lớn nhiều như thế? Bằng không sao em cũng chỉ cao đến tai chị thôi?

Vân Tuệ nhu mì vừa cười vừa vỗ vai Uyên nhi nói:

-Chả lẽ chỉ có mình hiền đệ được phép lớn còn chị không được lớn hay sao?

Uyên nhi giang tay ôm ngang lưng nàng, rúc đầu vào lòng nàng nũng nịu:

-Đệ có cấm chị lớn đâu? Đệ chỉ kinh ngạc sao hai chúng ta lại lớn nhanh như vậy?

Vân Tuệ thấy y nói nhưng thế bỗng trào dâng một cảm giác lạ mà từ xưa tới nay nàng chưa cảm thấy bao giờ. Bỗng hai má nàng đỏ bừng, vội đẩy Uyên nhi ra và bảo đừng nói nữa.

Uyên nhi rụt đầu lè lưỡi ngây thơ vội chạy ra ngoài.

Vân Tuệ ngẩn người giây lát mới bắt đầu cắt áo cho Uyên nhi.

Từ đó trở đi Uyên nhi quyết tâm luyện chương thứ ba của Đơn Thư Thiết Quyển, tới đúng một năm y học xong võ công của chương này.

Trong suốt một năm đó chỉ có buổi sáng là y ở trong nhà thôi, còn những giờ khác y đều ở bên ngoài luyện tập, vì luyện khinh công với chưởng pháp phải luyện ở chỗ rộng, cho nên tảng đá lớn sau nhà là chỗ y với Vân Tuệ hàng ngày tới luôn.

Nửa năm đầu tuy hai người cùng khổ luyện một chỗ, nhưng mỗi người luyện riêng một môn võ công.

Nửa năm sau muốn để Uyên nhi lãnh hội được tinh túy của chưởng pháp, Vân Tuệ thường đối chiêu với y. Hai người không đấu thì thôi, đã đấu ít nhất cũng phải đấu trên hai tiếng đồng hồ mới xong.

Uyên nhi thông minh tuyệt thế, trí nhớ đặc biệt rất lâu, nên chỉ đấu với Vân Tuệ hai lần đã nhớ hết những thế võ liền. Vì vậy nửa năm sau đó không những đã luyện được hai pho Huyền Thiên Chưởng và Thiên Cơ Bộ tới mức xuất thần nhập hóa, y còn học lỏm được khá nhiều võ công của Vân Tuệ nữa. Nhưng Vân Tuệ cũng không thiệt thòi gì cả, vì Uyên nhi nài ép nàng phải theo học Huyền Thiên Chưởng và Thiên Cơ Bộ. Nhưng vì Vân Tuệ chưa luyện Huyền Thiên Cương Khí nên dù học Huyền Thiên Chưởng nhưng không sao giở hết được mười thành công lực như Uyên nhi. Còn Thiên Cơ Bộ thì huyền diệu và nhanh như điện, luyện hết môn này không những có thể tấn công kẻ địch, mà còn có thể tránh được hết thế công của địch nữa. Nhưng nói về công lực tuy Uyên nhi đã luyện được bảy thành hỏa hầu của mon Huyền Thiên Cương Khí nhưng so với Thiên Địa Cương Khí của Vân Tuệ thì vẫn còn kém một chút.

Mùa hè hai năm sau, lúc ấy Uyên nhi đã lên chín, nhưng y chóng lơn nên đã cao lớn như một thanh niên mười bảy. Đồng thời về mặt võ công y đã luyện tới mức mà nếu lúc này y hành đạo giang hồ, tuy chưa thể bất bại nhưng cũng đã thuộc vào hàng đại cao thủ võ lâm rồi. Vì y chưa đấu với người thứ ba nên y chưa biết công lực của mình tiến bộ đến mức nào.

Uyên nhi bắt đầu luyện tới chương thứ tư của Đơn Thư Thiết Quyển, còn Vân Tuệ vẫn luyện Thiên Địa Cương Khí, chương thứ tư là chương cuối cùng của cuốn sách và cũng là tinh hoa của toàn thư, gồm: Đơn Thiết Thần Công, Đơn Tâm Đồ Long Thập Cửu Thức kiếm pháp, còn Phi Long Cửu Thức khinh công dùng Đơn Thiết Chỉ và Đơn Thiết Chưởng làm phụ.

Hồi trên đã nói Đơn Thiết Thần Công là Đơn Tâm Tử biến hóa Huyền Thiên Cương Khí mà sáng tạo thành, lợi hại vô cùng, không những có thể luyện thành Kim Cương Bất Hoại mà còn có thể khiến chân khí bản thân hóa vô hình thành hữu hình, và còn luyện thành nội đơn to bằng hạt đậu phun ở trong mồm ra hay tự phát ra đầu ngón tay hoặc gan bàn tay muốn thâu hay phát tùy theo ý muốn của mình, dùng nội công ấy đả thương người cách xa mình mười trượng kẻ địch sẽ chết mà không hay. Không khác gì một ám khí sống vậy.

Còn Đơn Thiết Chỉ với Đơn Thiết Chưởng là võ công phụ cho Đơn Thiết Thần Công, lúc thần công chưa luyện thành được sử dụng thay thế. Chỉ phong và chưởng lực đó cũng có thể đả thương được người cách xa mười thước.

Đơn Tâm Đồ Long Thập Cửu Thức kiếm pháp với Phi Long Cửu Thức là Đơn Tâm Tử sáng chế ra là dùng để giết năm con nghiệt long kia, cho nên hai pho kiếm pháp và khinh công này không những lợi hại nhanh nhẹn đồng thời ở trên cũng có thể xoay chuyển để tấn công kẻ địch.

Vì thế mà Uyên nhi phải khổ luyện hơn một năm trời mới thành công, nhưng nói ra rất tội nghiệp vì y thấy mãi không tiến bộ chút nào.

Vân Tuệ thấy Uyên nhi ngày đêm khổ luyện mà tiến bộ lại rất ít như thế trong lòng cũng ái ngại hộ, nàng biết thần công ấy không những khó luyện mà phải tốn rất nhiều chân khí chân lực, nếu quá mệt nhọc không những vô dụng, trái lại còn gặp phải kết quả ngược lại là khác.

Vì thế nàng bắt Uyên nhi phải uống thêm một viên Xích Long Hoàn nữa và khuyên y không nên dụng công quá sức như vậy, vì dụng công quá sức chỉ có hại chứ không có lợi gì cả.

Cũng vì thế mà nàng đã lập một chương trình cho y học tập, không những bắt y mỗi ngày phải luyện tập thần công mà còn học cả điển cố, và học vẽ nữa.

Học vẽ phải có tài mới thành, bằng không học đến trăm năm cũng không đạt công trạng gì.

Uyên nhi là người kỳ tài tuyệt thế mấy năm nay y đã học hết nghìn cuốn thư ở trong tủ sách của Vân Tuệ, tuy không thể thuộc lòng hết nhưng cũng biết đại khái, hết nội dung. Thi từ ca phú môn nào y cũng hiểu cả.

Hồi 4 Diệt kình ngư bị lôi vào tử địa

Thời gian thấm thoát thoi đưa, hết năm này qua năm khác. Năm đó Uyên nhi đã mười ba, chàng không những cao hơn Vân Tuệ một chút mà cử chỉ, hình dáng cũng thay đổi rất nhiều.

Uyên nhi không còn là trẻ con nữa, chàng đã trở nên một thư sinh tao nhã, ăn nói văn vẻ, cử chí khuôn phép. Tất cả những võ công ở trong Đơn Thư Thiết Quyển chàng đã học hết, chỉ còn kém hỏa hầu thôi.

Nếu chàng ở trên đại lục mà có sư phụ trắc nghiệm võ công của chàng, thể nào ông cũng gật đầu hài lòng mà cho chàng hạ sơn đi hành hiệp trên giang hồ học hỏi kinh nghiệm rồi, nhưng không may cho chàng vì chàng không có sư phụ mà chỉ có chị Tuệ thôi.

Tuy vậy, chị Tuệ cũng như là thầy, là bạn, và cả là mẹ trông nom chàng, thương yêu chàng.

Vân Tuệ cũng biết công lực của Uyên nhi có thể một mình hành tẩu giang hồ, nhưng nàng không cho đi, viện lý do chàng hãy còn ít tuổi.

Còn Vân Tuệ tuy năm đó nàng đã gần đôi mươi, bề ngoài trông trẻ trung như một cô gái nhỏ mười lăm mười sáu tuổi thôi.

Nhưng bên trong nàng đã phát triển và càng lớn càng đẹp, nhất là thân hình nàng, ai trông thấy cũng phải đem lòng yêu mến ngay. Nàng có bộ tóc vàng ngã, có đôi mắt xanh lại thêm da trắng như ngọc, như ngà, ai trông thấy cũng phải tấm tắc khen ngợi.

Nàng luyện Thiên Địa Cương Khí đã tới mức chín thành hỏa hầu, hiện giờ có một điều duy nhất nàng chưa làm nổi là chưa thể khiến chân khí chuyển hóa thành vô hình được. Cho nên mỗi khi luyện tập chân khí của nàng đều dồn ra như mây, bao chùm khắp mình mẩy tựa như đi trong mây vậy.

Đầu mùa hè năm ấy, đò dùng trong cù lao đã hết sạch, vì võ công của mình đang tập tới mức quan trọng, không sao bỏ dở mà đi được, nàng đành phải sai môt ông già tên là Lý Thất, xưa kia vẫn theo sư phụ nàng vào Trung Nguyên phụ trách đi mua vật dụng cần dùng.

Lý Thất vâng lệnh, mang theo con trai là Lý Thu biệt hiệu là Tiểu Hắc Thủ đi cùng. Nhân lúc đêm khuya, nước thủy triều rút, thủy động mở ra, hai cha con đi bằng thuyền đặc biệt của cù lao, chui qua cửa động ra ngoài luôn. Chiếc thuyền đặc biệt của cù lao cũng khác thường, thân thuyền dài ba trượng mà bề ngang chỉ có tám thước, đáy thuyền lại bọc sắt, cứng rắn lạ thường nên không sợ va chạm phải đá ngầm hay bất cứ một vật gì.

Vì phải đi qua thủy động nên cột buồm của chiếc thuyền đó có thể gỡ ra để nằm xuống được, Lý Thất vẫn thường lái chiếc thuyền này vào ra luôn nên y rất thuộc đường lối của cù lao này. Tuy đêm khuya mà y lái không va chạm một tảng đá nào hết. Nhưng y vừa ra khỏi khu đá ngầm, thì đột nhiên nghe thấy có tiếng rào rào, thân thuyền bỗng bị nâng lên trên không rồi bị nước đẩy cho thuyền úp xuống. Lý Thất thấy vậy kinh hoảng vô cùng, vội nắm tay con nhảy ra ngoài thuyền.

Hai cha con Lý Thất vừa nhảy khỏi thuyền thì thuyền liền bị lật úp. Y biết vùng đó có nhiều cá mập và cá lưỡi cưa, hễ bị chúng đớp phải không chết cũng bị cụt chân hay cụt tay. Vì vậy y không kịp xem tại sao thuyền lật úp vội lôi tay con bơi vào một tảng đs ở chỗ gần nhất, ngờ đâu, mới bơi được nửa đường đã nghe phía sau có tiếng kêu như long trời lở đất, hai cha con liền bị nước cuốn trôi về sau tức thì.

Lúc ấy y mới quay đầu lại nhìn. Dưới ánh sáng trăng, chỗ cách xa y chừng ba trượng, có một con cá kình nhô lên to như một quả núi nhỏ, mồm nó có thể nuốt chửng được một ngôi nhà nhỏ, nó đang hút nước vào nên cha con y mới bị lôi ngược ra như vậy.

Y thất kinh hoảng đến mất cả hồn vía, mồ hôi lạnh toát ra, vội kêu la cầu cứu. Nhưng y kêu khan cả cổ và hết sức bơi ra xa cũng không sao thoát khỏi chốn nguy hiểm đó. Nhưng khi y đã hết hy vọng, và yên chí thế nào cũng bị trôi vào miệng cá thì bỗng nghe một tiếng quát vang, rồi một đạo hồng quang làm lóe mắt y. Đạo hồng quang đó, như một cái cầu vồng, nhanh khôn tả, chỉ trong nháy mắt bắn trúng vào mắt con cá kình.

Con cá kình bị thương vội ngậm miệng lại và lặn vội xuống biển sau tiếng "sầm" thật lớn.

Hai cha con Lý Thất đang kinh hoảng, chưa kịp nhận rõ chuyện gì xảy ra, thì lại thấy có một sức hút mạnh lôi về phía trước.

Nhân đó Lý Thu vội bơi vào tảng đá gần bờ. Khi hai cha con bò được lên trên tảng đá thì thấy một bóng người đứng sẵn trên đó. Cả hai cha con vội quỳ xuống vái lạy và khấn vái thầm.

Bóng người trông thấy hai cha con y khấn vái như vậy vội đỡ dậy và hỏi:

-Lý đại thúc làm sao thế? Cháu là Uyên nhi đây mà? Vừa rồi...

Chàng chưa nói dứt, đột nhiên đằng sau đã cso tiếng động. Một bóng trắng từ trên không hạ xuống, chưa đáp xuống đã cất tiếng hỏi:

-Uyên đệ không việc gì đấy chứ?

-Chị Tuệ, chị đã tới đấy à? Em không việc gì, chỉ có Lý đại thúc với Lý Thu bị hoảng sợ một phen thôi.

Thì ra người mới tới đó là Vân Tuệ. Nàng vừa phi thân xuống cạnh Uyên nhi đã quan sát xem chàng có việc gì hay không? Nàng thấy rõ chàng ta quả thực vô sự nên mới yên tâm. Nàng liền nói với Lý Thất:

-Lý đại thúc, câu chuyện đầu đuôi ra sao?

Hai cha con Lý Thất đột nhiên thấy Vân Tuệ và Uyên nhi ở trên trời giáng xuống đã kinh hoảng đến ngẩn người, quên cả sự kinh hiểm vừa rồi. Lý Thất nghe Vân Tuệ hỏi như vậy, hai hàm răng vẫn còn run cầm cập, rồi kể những chuyện vừa qua cho Vân Tuệ và Uyên nhi hay.

Vân Tuệ nghe nói kinh ngạc vô cùng, liền cau mày lại định lên tiếng hỏi thì Uyên nhi đã dùng giọng mũi kêu "hừ" một tiếng và nói trước:

-Con cá kình này đáng ghét thực! Sáu bảy năm nay nó vẫn bơi quanh đây. Bây giờ nó lại đem theo thanh Đơn Huyết của đệ đi nữa. Đệ phải nghĩ cách giết chết nó lấy lại thanh kiếm mới được.

Vân Tuệ nghe nói, thở dài vội hỏi:

-Hiền đệ định đi đâu tìm kiếm? Bây giờ trời tối như thế này, nếu nó lặn xuống đáy biển thì biết làm sao mà kiếm được?

Uyên nhi cứ tưởng lúc đó không phải là trời tối, nghe nàng nói vậy ngạc nhiên vô cùng , vội hỏi:

-Chị Tuệ, bây giờ trời sáng... chị không thấy gì ư?

Vân Tuệ nghe nói rất ngạc nhiên vội hỏi:

-Cái gì? Ngoài mười trượng tối không thấy gì hết, sao đệ bảo là trời sáng?

Uyên nhi vỗ đầu lẩm bẩm:

-Trời! Sao hai mắt của ta lại thấy sáng vậy kìa?

Cha con Lý Thất thấy chàng nói như vậy kinh hãi, họ tỏ vẻ hoài nghi nhìn Uyên nhi.

Uyên nhi rất thông minh, trước kia cứ tưởng nơi đây xưa nay không có trời tối nhưng giờ nghĩ lại những việc xưa nay mọi người trên đảo đã làm. Lại nhớ kỹ lại cuốn Thần Nông Y giản thấy có ghi công dụng các thứ thuốc thế nào, chàng mới tỉnh ngộ. Sở dĩ mình trông thấy ban đêm như ban ngày là vì mình đã bôi nước của "kình châu" vào mắt nên... Chàng đang định nói cho Vân Tuệ hay thì ngoài trăm trượng con cá kình khổng lồ lại xuất hiện.

Chàng thấy đầu nó rung động mạnh làm cho nước xung quanh nổi sóng, ngọn sóng nào cũng cao như núi, không khác gì trời long đất lở.

Vân Tuệ và hai cha con Lý Thất tuy không trông thây rõ nhưng tai vẫn nghe, nhất là cha con Lý Thất lại càng hoảng sợ thêm, có rung lẩy bẩy như hai cái lò xo vậy.

Uyên nhi thấy bảo kiếm Đơn Huyết của mình vẫn còn cắm ở trong mắt con cá kình, hồi hộp hết sức, chỉ sợ nó rung như vậy kiếm của mình sẽ rớt xuống dưới đáy bể. Lúc ấy, khó mà mò thấy được thanh thần kiếm ấy nữa. Chàng không nghĩ ngợi gì hết định nhảy luôn xuống bể để lấy lại thanh kiếm, ngờ đâu bị Vân Tuệ nắm chặt lấy cánh tay hờn giận nói:

-Hiền đệ định đi đâu thế?

Uyên nhi biết nàng không muốn mình mạo hiểm; nghe hỏi, chàng đành phải ngừng chân lại, chăm chú nhìn con cá kình, rồi đáp:

-Chị Tuệ hãy về nhà trước! Chị về lấy thuyền ra đây đón Lý đại thúc và Lý đại ca về. Còn tiểu đệ ở đây nghĩ cách trục chiếc thuyền lớn kia lên để cho Lý đại thúc còn dùng nó đi vào Trung Nguyên buôn bán.

Vân Tuệ biết Uyên nhi muốn bảo mình tránh mặt để một mình đối phó với cá kình; nhưng nàng không nói rõ vội cố ý quay đầu lại nhưng lại lắc đầu đáp:

-Bây giờ trời tối quá, tôi không trông thấy lối đi, lỡ chân một cái rớt xuống nước thì sao? Chi bằng chờ trời sáng hãy hay.

Uyên nhi cau mày, tỏ vẻ bất mãn nhưng bụng bảo dạ:

-Tại sao lúc đi chị trông thấy lối mà bây giờ quay trở về lại bảo không trông thấy đường?

Sự thật lời của Vân Tuệ cũng không phải giả dối. Lúc nàng tới đây vì quan tâm đến Uyên nhi, sợ chàng bị nguy hiểm, mới vội giở khinh công đuổi theo. Còn bây giờ, nguyên nhân đó không những tiêu tan hết, mà nàng còn biết hễ mình rời đi, Uyên nhi thế nào cũng nhảy xuống bể đuổi theo giao đấu với kình ngư. Như vậy, nàng an tâm sao được, hơn nữa còn phải mạo hiểm mới rời khỏi được chốn này.

Thì ra, đêm nào cũng vậy cứ đến giờ tý, Vân Tuệ với Uyên nhi đều ở trên đỉnh núi luyện tập nội công. Tối nay, Uyên nhi vừa luyện xong, đang đứng ngắm phong cảnh, bỗng thấy dưới nước có con cá kình đang lẳng lặng bơi tới, định tấn công chiếc thuyền của cha con Lý Thất nên chàng vừa lo âu vừa tức giận.

Lúc ấy chàng đã luyện xong khinh công Phi Long Cửu Thức rồi. Tuy chưa ở trên đỉnh núi cao hơn hai mươi trượng mà nhảy xuống bao giờ, nhưng tầm cao đó không sao khó dễ được chàng. Hơn nữa, chàng lại nóng lòng cứu người, nêu quay lại nói với Vân Tuệ mỗi một câu:

-Đệ phải đi cứu người đây!

Nói xong chàng dụng thân pháp "Phi Long Hồi Không" (Rồng bay lượn trên không), nhanh như chớp thân hình như một con rồng lượn lên không rồi từ từ đáp xuống. Hai mắt chàng rất sáng lại thêm công dụng của kình châu nên trông rõ như ban ngày vậy. Chàng định tâm đến thật gần hai cha con Lý thúc, nên vừa chạm chân vào hòn đá nhô lên trên mặt nước liền tung mình nhảy lên, giở môn khinh công "Tùy Phục Trục Lưu" (theo gió đuổi nước) nhảy lên cao hơn hai mươi trượng.

Lần thứ hai hạ chân xuống, thân hình chàng đã tới chỗ thuyền của Lý Thất vừa bị đánh đắm rồi. Đồng thời, động tác của chàng nhanh không thể tưởng. Dù hành động của con cá rất nhanh, chàng thấy nó đang há mồm định nuốt cha con Lý Thất nên chàng càng tức giận thêm, liền rút thanh bảo kiếm ra dùng thế "Họa long điểm nhãn" (vẽ rồng điểm mắt), lao thanh kiếm đó vào mắt con cá ngay.

Thế "Họa long điểm nhãn" đó đáng lẽ lao thanh kiếm ra khỏi tay giết xong kẻ địch, lại có thể thâu thanh kiếm chở về như thường. Nhưng lúc này công lực của chang chưa luyện tới mức thượng thừa, hơn nữa, chỗ chàng đứng lại cách xa con cá nên mới bị con cá mang thanh kiếm đi.

Lại nói, Vân Tuệ thấy Uyên nhi đột nhiên nhảy xuống bể cả kinh muốn cản nhưng không kịp. Nàng đứng ở trên đỉnh núi nhìn xuống nhưng trong đêm tối nàng chỉ nhìn xa độ chừng mười trượng thôi. Và nàng cũng chưa hề từ trên cao nhảy xuống những hòn đá lởm chởm ở trên mặt nước như thế bao giờ, nàng cũng không biết Uyên nhi đi đâu, cứu ai. Nhang chỉ vì sợ chàng bị nguy hiểm mà nàng đánh liều nhảy xuống đuổi theo.

Nàng lượn ở trên không rất chậm, và nàng đã vận "Thiên Địa Cương Khí" ra bao quanh mình, dù có té xuống nước nàng vẫn mượn cương khí đó mà nảy nên được. Cũng may nưoi đó không có nhiều đá ngầm như những nơi khác, nên khi sắp rơi xuống mặt nước liền trông thấy một tảng đá lớn nàng liền uốn mình nhảy lên đó đứng yên một chỗ, vì nàng không dám nhảy quá xa như Uyên nhi, khi trông thấy ánh sáng đỏ lấp loáng, nàng vội nhảy về phía đó. Cùng vì vậy mà nàng tới sau Uyên nhi là thế.

Khi nàng tới nơi thì con cá kình đã lặn xuống đáy bể rồi, nên nàng không trông thấy hình bóng của nó. Con cá kình khổng lồ này lại chính là con mà năm xưa Uyên nhi đã trong dạ dày nó ba ngày. Vì nó luyến tiếc nội đơn đã tu luyện mấy nghìn năm mới luyện thành nên mấy năm nay nớ cứ bơi quanh quẩn ở Cù lao này để chờ dịp may cướp lại những trái kình châu đó, và để trả thù nữa.

Ngờ đâu mấy năm nay Uyên nhi cứ ở trong cù lao, mải mê luyện võ học văn, không chịu ra ngoài một bước.

Con cá, vì mình mẩy đồ sộ không sao lại gần cù lao được, nên nó chỉ có bực mình không thôi, chứ không làm gì được Uyên nhi cả. Nhưng vì nó tu luyện đã lâu ngày nên rất linh mẫn. Tối nay, thấy Lý Thất ở trong thủy động bơi thuyền ra, nó chờ cho thuyền của cha con người nông dân ấy tới gần, nó mới nhô lên làm cho thuyền đắm để dụ Uyên nhi ra cứu.

Quả nhiên nó đã dụ được Uyên nhi ra khỏi cù lao. Nhưng không may cho nó, chưa làm gì được Uyên nhi đã bị trúng kiếm. Nó vừa đau vừa tức giận, chỉ muốn nuốt cả bốn người vào bụng mới hả dạ.

Tất nhiên, Uyên nhi cũng đã hiểu rõ ý muốn của con cá kình. Chàng vừa muốn lấy lại thanh bảo kiếm của mình, vừa muốn giết con cá để trừ hại cho mọi người. Nhưng Vân Tuệ không chịu cho chàng mạo hiểm. Do vậy bốn người cứ đứng yên trên tảng đá rộng không đầy một trượng để chờ trời sáng sẽ tính tiếp.

Cha con Lý Thất quần áo ướt đẫm, lại bị gió lạnh thổi tới khiến cả hai run lên cầm cập. Uyên nhi và Vân Tuệ thấy vậy thương hại vô cùng, nhưng không nghĩ được cách gì giúp họ khỏi rét. Đột nhiên, trên mặt bể lại có nhiều đợt sóng nổi lên như những trái núi nhỏ, nhằm tảng đá cảu bốn người đang đứng mà lấn át tới.

Uyên nhi đã trông thấy rõ, chính là con cá kình đang bơi tới, nhưng chàng không cho Vân Tuệ hay, định bụng đợi con cá tới gần là ra tay tấn công luôn.

Tuy không trông thấy gì nhưng Vân Tuệ đã đoán biết nếu có sóng như thể thì thể nào con cá kình cũng đã tới gần, nên nàng vội bảo Uyên nhi mau đem cha con Lý Thất vào tảng đá lớn phía bên trong để tránh.

Tuy lòng không muốn, nhưng Uyên nhi không dám cãi lời Vân Tuệ. Chàng đành hậm hực cắp cha con Lý Thất giở khinh công tuyệt mức ra phi thân vào một tảng đá lớn phía bên trong.

Thân pháp của chàng rất nhanh, lại thêm trong lúc bốn bề tối om như mực. Vân Tuệ chỉ thấy chàng nhẩy lên cao đánh vụt một cái đã mất dạng.

Vân Tuệ vì không thấy tỏ đường lối, nên theo sau chậm hơn, và khi nhảy lên trên cao rồi nàng phài cẩn thận tìm kiếm xem Uyên nhi hạ chân xuống tảng đá nào rồi nàng mới dám hạ chân theo xuống đó. Vì thế Uyên nhi đặt cha con Lý Thất đứng xuống rồi mà vẫn chưa thấy nàng tới. Nhân dịp may hiếm có đó, chàng vộ quay trở lại tảng đá hồi nãy.

Con cá kình, tuy chỉ còn một mắt, nhưng nó vẫn không kém sáng suốt. Nó thấy Uyên nhi bỏ đi lại quay trở lại, tức giận vô cùng phun ngay một vòi nước lớn lên thật cao và bơi thẳng tới. Đồng thời mồm nó ngậm sẵn một hụm nước bể, định khi tới gần sẽ phun bụm nước ấy hất Uyên nhi té xuống bể.

Uyên nhi đứng yên ở trên mặt tảng đá, vận sẵn Đơn Huyết Thần Công, hai chân trụ vững, một trước một sau, chân sau như đóng đinh vào mặt đá vậy, hai tay buôn suôi, vận sẵn nghìn cân nội lực để chờ đón con cá voi.

Khi con cá đến chỗ cách chàng chừng năm trượng, chàng hú lên một tiếng thật dài, giơ tay phải lên, chỉa năm ngón tay như nắm cái móc sắt nhằm đầu con cá chộp một cái, đồng thời chàng giơ tả chưởng lên nhắm mắt trái của cá tấn công luôn một thế cực mạnh.

Cùng lúc đó, con cá kình cũng há mồm ra phun luôn hụm nước hàng vạn đấu vào người Uyên nhi. Tuy Uyên nhi đã luyện môn thần công phi thường, nhưng nếu bị vòi nước cao to như hòn núi nhỏ đánh trúng cũng khó mà chịu đựng nổi, nên sau khi chàng ra tay tấn công liền vội vã tung mình nhảy lên cao mười mấy trượng để tránh né. Vòi nước của con cá vừa lướt qua dưới chân của chàng và đánh trúng vào tảng đá chàng đứng hồi nãy, tảng đá vỡ làm mấy mảnh bắn tung lên.

Uyên nhi ở trên không, thây vậy kinh hãi bụng bảo dạ:

"Nguy hiểm thật."

Chàng vừa nghĩ vừa vận hết công lực vào bàn tay phải, cách không chộp một cái. Thanh bảo kiếm đang cắm ở mắt con cá liền theo nội kình của chàng bay ngược trở lên. Chàng cihr khẽ chộp đã nắm được cán thanh kiếm.

Có bảo kiếm trong tay không khác gì hổ thêm cánh, chàng không do dự gì cả, hóa thành thế "Giao Long Quy Sào" (rồng trở về tổ) hai chân chàng co lại rồi đạp mạnh. Đầu chàng lập tức trúc xuống dưới, chân ngược lên, nhanh như điện chớp, phi xuống lưng con cá tức thì.

Con cá kình vì thân mình to lớn, chuyển động chậm chạp, mà thân pháp của Uyên nhi quá nhanh, nên nó tưởng Uyên nhi đã bị vòi nước của nó đánh rơi xuống nước rồi, cho nên nó vội há mồm hút nước vào bụng để mong hút được xác của Uyên nhi.

Uyên nhi hạ thân xuống lưng mà nó không hề hay biết, vẫn liên tục hút nước. Uyên nhi thấy con cá như vậy, tức cười vô cùng. Chàng nhẹ nhàng nhẩy lên đầu nó, múa kiếm nhằm mắt nó đâm luôn. Con cá kình rất tinh mắt, thấy hồng quang lấp loáng, biết là khí giới của đối phương đâm tới, vì lần trước nó đã chột bởi hông quang này rồi, nó liền vội vàng nhắm mắt lại.

Uyên nhi không ngờ nó lại khôn ngoan đến thế. Kiếm của chàng đâm trúng mi mắt nó, chỉ nghe thấy "soạt" một tiếng, mi mắt con cá bị đâm trúng, nhưng chỉ thủng một lỗ nhỏ, chứ con ngươi không hề hấn gì.

Uyên nhi thấy vậy, vôi tung mình nhảy lên thật cao. Cũng may, chàng nhảy ngay, bằng không vòi nước ở trên mình nó đã phun chúng chàng rồi.

Vân Tuệ đuổi theo tới chỗ cha con Lý Thất đứng, thì không thấy hình bóng Uyên nhi đâu hết, biết chàng ta không chịu nghe lời mình, nên nàng lập tức phi thân trở lại chỗ cũ ngay. Nàng lo âu vô cùng. Khi nàng quay vè tới chỗ cũ thì ánh trăng trong đám mây lso ra chiếu xuống mặt bể. Xa xa nàng trông thấy Uyên nhi đang ở trên không ngộ hiểm suýt bị vòi nước đánh trúng.

Nàng càng hoảng sợ thêm, quên cả lợi hại thét lớn vận Thiên Địa Cương Khí tấn công luôn hai chưởng.

Kình phong của nàng đem theo một làn sương mù trắng nhắm mắt còn lại của con cá kình tấn công.

Thân hình của nàng nhanh như điện chớp dưới ánh sáng trăng trông nàng như một đám mây trắng lao tới, do vậy cá kình không nhận ra được nàng là vật gì.

Bất cứ là người hay cầm thú đều coi trọng con mắt của mình. Tuy con cá kình không biết vật bay tới trước mặt mình là vật gì, nhưng nó biết vật đó sẽ làm hại con mắt của nó. Do đó nó nổi cơn thịnh nộ, liền há mồm đớp cái bóng trắng ấy.

Vì nóng lòng, Vân Tuệ đinh ninh thế công của mình thế nào cũng trúng địch, ngờ đau khi tới gần nàng mới biết đạnh trật mục tiêu hơn trượng; nàng đang định vận chưởng tấn công thì đột nhiên thấy miệng con cá kình há to cản lối đi của nàng. Nàng thất kinh la lớn, vội dùng Thiên Cân Trụy cố giữ người lại không cho lao về trước nữa, và lập tức giơ song chưởng đánh mạnh.

"Bùng!"

Chưởng này trúng ngay vào hàm trên con cá. Nàng lại mượn sức phản chấn nhảy lui về sau.

Uyên nhi ở trên thấy như ngộ hiểm nhưng thật sự thì chàng tinh thông Phi Long Cửu Pháp, có thể ở trên không bay bay lượn lượn và thay đổi thế thức nên khong việc gì cả. Vì thế khi vòi nước của cá phun lên, chàng chỉ xoay người giơ chưởng ra khẽ đập ào vòi nước là người lại bắn lên cao hơn trượng ngay, khi đã vòng qua được vòi nước chàng mới từ từ hạ chân xuống bên dưới.

Mắt của Uyên nhi sắc bén lạ thường, chàng đã thấy chị Tuệ ở đằng xa tới, nhưng chàng không ngờ nàng ta lại mạo hiểm đến như vậy, cho nên chàng vừ trông thấy Vân Tuệ nhảy xổ vào mồm cá thì chàng kinh hãi rú lên, đẩy ra một luồng gió mạnh khôn tả, tay phải lập tức múa kiếm nhắm ngay vào mồm con cá.

Nói thì chậm hưng lúc ấy là lúc Vân Tuệ đã ngừng được người lại, giơ tay ra tấn công hàm trên con cá, là một người tiếng một người lùi vừa va chạm nhau. Vân Tuệ nghe thấy phía sau có tiếng gió mạnh, vội quay đàu lại thì đã thấy một luồng ánh sáng đỏ nhắm người mình chụp xuống. Nàng biết ngay đó là Đơn Huyết bảo kiếm tuy không thấy bóng người trong làn kiếm, nhưng nàng biết đó là Uyên nhi rồi. Nàng thất thanh kêu to:

-Uyên đệ, tôi đây.

Uyên nhi đã không kịp thâu kiếm lại.

Sự thật Uyên nhi đã trông thấy Vân Tuệ nhưng thế đâm bổ của nàng đã nhanh và kinhy nghiệm của chàng non nớt nên mới cuống quýt nhảy sổ xuống như thế.

Tuy vậy chàng vẫn kìm kịp kiếm thức, từ thế Thần Long Truy Vĩ hóa thành Thương Long Bãi Vĩ, kiếm trong tay chàng rạch xuống bên dưới đánh soẹt một tiếng trúng ngay vào lưỡi con cá kinh đang thè ra định cuốn lấy Vân Tuệ. Lúc ấy tuy chưởng của chàng đã giảm bớt hai thành công lực nhưng vẫn đánh trúng vào lưng Vân Tuệ đánh bùng một tiếng, thân hình nàng bị đẩy bắn ra.

Uyên nhi thấy mình đã gây lên họa lớn, đả thương lầm chị Tuệ nên hối hận vô cùng, vội nhảy xuống theo ôm ngang lưng nàng. Nhưng động tác đó nhanh như điện chớp, chỉ xảy ra trong chớp mắt thôi.

Hàm trên con cá kình bị Vân Tuệ đánh trúng một chưởng đau nhức vô cùng, nó đang định ngậm miệng lại và lưỡi cuốn lên định bắt Vân Tuệ, ngò đâu lại trúng kiếm của Uyên nhi, nó đau đớn ngậm miệng nhanh hơn.

Uyên nhi ôm được người Vân Tuệ thì đồng thời mồn con cá kình cũng vừa mím chặt và nó vội chúi đầu xuống dưới uống một bụm nước bể vào.

Uyên nhi ôm được Vân Tuệ vào lòng cúi đầu nhìn mặt nàng. Uyên nhi thấy thần sắc nàng nhợt nhạt không có sắc máu, hơi thở yếu ớt, hai mắt nhắm nghiền trong lòng hoảng sợ vô cùng.

Uyên nhi vừa lo âu vừa hối hận, chỉ muốn giơ kiếm tự vận, vì vậy chàng quên cả lúc này mình đang ở đâu. Nước mắt ứa ra, chân khí trong người chàng cũng lập tức tắc nghẽn.

Thế là thân hình chàng cùng Vân Tuệ rơi xuống, khi hai chân chàng chạm nước chàng mới nhớ mình đang ở đâu, vội ngẩng đầu lên nhìn, phía trước mặt chàng có một cái hang động cao hơn hai trượng. Chàng muốn nhanh chóng thoát khỏi đây để cứu chữa cho Vân Tuệ, nên không nghĩ ngợi gì cả vận chân khí giở thân pháp Tùy Ba Tục Lưu dẫm chân lên mặt nước lao vào trong động tức thì.

Hang động lớn ấy hình như có một đường hẻm đi sâu vào bên trong, nhưn sự thực đó là mồm và cổ họng con cá kình. Khi Uyên nhi vào tới bên trong mới ngửi thấy mùi tanh quen thuộc ngày trước, chàng ngạc nhiên nhìn xung quanh, chàng nhận ra hang động trò và lại to vô cùng, vách lồi lõm và cú rung động hoài, và từ từ có những nước chua nhỏ xuống.

Lúc ấy chàng mới tỉnh ngộ và biết mình đã đi lầm đường. Chàng định quay trở ra thì bỗng nghe thấy có tiếng ào ào, nước bể cuồn cuộn đổ vào. Chàng vội dùng tay trái ôm Vân Tuệ, giơ tay phải lên dùng thế Phi Long Hồi Không tung mình nhảy lên lượn một vòng tránh dòng nước đó. Nước càng ngày càng lên, một lát sau đã lên tới ba bốn trượng, sắp đụng vào người của Uyên nhi rồi.

Chàng thấy vậy lại đạp vào một làn sóng nhảy lên cao hơn hai trượng nữa vf người chàng sắp va vào dỉnh động, chàng ngửng đầu nhìn thấy nới đỉnh dộng còn có một cái đinh ba đâm cá bị rỉ sét còn cắm ở trên đó. Lần này chàng tỉnh ngộ, bụng bảo dạ:

"Thế ra ta trước đây ta ở trong bụng cá kình mà không hay. Thảo nào động này lại rung động như vậy."

Nghĩ xong chàng đạp chân đá mạnh, người liền lao lên hơn trượng, tay phải giơ kiếm lên trên cao theo đà người quay tít một vòng, vách đỉnh động liền thủng ngay một lỗ rộng hơn trượng. Vách dạ dày cá thủng, máu tươi phun ra ướt cả lưng Uyên nhi. Con cá kình bị đau, dạ dày rung động mạnh hơn, nước bể nhân thế cũng như nổi sóng, từng ngọn từng ngọn bắn lên đỉnh vách.

Chỗ vết thương có nước bể dính vào, con cá càng đau thêm, dạ dày nó lại rung động mạnh thêm.

Uyên nhi nhân đó chân liên tiếp đểm vào đầu ngọn sóng, người ở trên không bay lượn nhanh thêm, nhưng tay phải của chàng không yên. Hễ khi nào bay lên chàng đâm túi bụi vào vách động, nên chỉ trong nháy mắt trên đỉnh động máu đã chảy xuống như suối.

Chắc con cá kình biết cách hút nước vào như vậy không phải là phương pháp hay, nó lại mở cửa hậu để cho nước trong dạ dày chảy ra ngoài, chỉ trong nháy mắt nước còn lại rất ít.

Uyên nhi thừa cơ nhảy xuống bên dưới, tay múa tít thanh kiếm. Kiếm của chàng lia đến đâu máu thịt bắn tung đến đó và chỉ trong nháy mắt đã mở được một lỗ hổng.

Đâu đâu cũng là mỡ vàng, chàng học qua Thần Nông Y Giản, đối với nội tạng người cấu kết thế nào chàng cũng biết rõ lắm. Chàng vừa ra khỏi ruột già tiến thẳng về phía quả tim của nó ở bên trái, chỉ có nơi chứa đựng quả tim là ít thịt và mỡ nhất. Uyên nhi quay mấy vòng thì đã trông thấy quả tim của con cá kình khổng lồ. Chu vi của nó hơn hai trượng to như một bể đựng máu vậy, Bể này cứ rung động liên hồi. Chàng biết mình đã đến nơi cần đến.

Lòng cả mừng, vội vận công lực không dụng thế thức gì hết đâm luôn bảy tám nhát kiếm. Chỗ bị đâm máu phun như suối. Chỉ nháy mắt máu ngập lên hơn cả thước. Lúc ấy chàng đã leo lên trên đỉnh quả tim, thâu kiếm vào bao ngồi trên mấy huyết quản lớn để xem xét thương thế của Vân Tuệ.

Vân Tuệ vốn đã vận Thiên Địa Cương Khí để bảo vệ thân thể, nếu không phải Uyên nhi dùng Đơn Thiết Chưởng thì không khi nào nàng bị đả thương như thế, dù võ công nag chưa luyện tới tuyệt đỉnh nhưng vết thương của nàng không nặng lắm và cũng không nguy hiểm đến tính mạng. Nàng chỉ chết giấc thôi.

Khi Uyên nhi hoảng sợ đâm đầu vào miệng cá kình, vào đến dạ dày nước chua của cá xông lên kích thích dây thần kinh nên nàng đã tỉnh lại từ lâu, nhưng cảm thấy khó thở và tay chân yếu ớt, lại nằm trong vòng tay Uyên nhi nàng đột nhiên cảm thấy một sự kích thích kì lạ. Nàng nghĩ mãi mà không nghĩ ra đó là nguyên nhân gì. Chỉ biết được Uyên nhi ẵm thì thấy khoan khoái lạ thường. Hơn nữa lại có một luồng hơi nóng từ người Uyên nhi chuyền sang khiến nàng càng thấy dễ chịu hơn. Nàng lại thấy tim mình đập rất mạnh, mặt nóng hổi.

Nàng sợ Uyên nhi biết mình tỉnh, nên giả bộ mê man, đầu rúc vào nách chàng để chàng khỏi trông thấy.

Uyên nhi có biết chuyện đó đâu. Chàng thấy chị Tuệ cứ nằm yên không cử động lòng hối hận vô cùng. Lúc ấy chàng nghĩ mãi mới ra được cách thoát khỏi bụng cá kình. Nhân lúc nghỉ ngơi này, chàng muốn làm cho Vân Tuệ khỏi ngay. Ngồi trên đỉnh qur tim của cá kình, ngồi lên mấy đại động mạch rồi khẽ đặt Vân Tuệ xuống hai đùi, nhìn sắc mặt đỏ bừng của nang liền ngẩn người ra rồi lại nắm cổ tay nàng thăm mạch.

Chàng bắt mạch giây lát rồi thở dài lo âu, vì chàng thấy mạch Vân Tuệ khác hẳn mạch của người chết giấc và bị thương nặng. Chàng không có kinh nghiệm chữa bịnh cho người nên không hiểu tâm lý và trạng thái của Vân Tuệ. Lúc này chàng chỉ thấy mạch nàng đập hơi nhanh hơn bình thường. Không đoán được bệnh, nước mắt chàng tuôn dầm dề trên má của Vân Tuệ.

Vân Tuệ thấy Uyên nhi đặt mình nằm lên đùi của chàng lúc này không còn lý do gì hồi hộp nữa, nên nàng không dám mở mắt ra nhìn.

Nàng đang suy nghĩ bỗng nghe thấy tiếng hô hấp rất mạnh, mặt mình lại có mấy giọt nước ấm nhỏ xuống, trong lòng ngạc nhiên vô cùng, không hiểu chàng ta đang làm gì, thì bỗng nghe thấy chàng nức nở gọi:

-Chị Tuệ... chị Tuệ...

Lúc này mơi biết chàng ta quá lo mà khóc lóc như vậy, không nỡ để chàng phải đau lòng, nàng đành mở mắt ra.

Uyên nhi nghĩ mãi không tìm được nguyên nhân tại sao Vân Tuệ mãi không tỉnh lo quá hóa khóc, ngờ đâu tiếng khóc lại có tác dụng làm Vân Tuệ mở mắt tức thì. Tuy Vân Tuệ mở mắt nhưng nàng đang ở trong người con cá tối đen như mực, giơ tay không trông thấy ngón, nên dù nàng có mở mắt thì người khác cũng không thể biết, nhưng Uyên nhi lại có thể trong đêm nhìn rõ như ban ngày. Vì vậy nàng vừa hé mắt chàng đã trông thấy, mừng rỡ vô cùng, cười khì một tiếng và nói:

-Chị Tuệ tỉnh rồi đấy à? Chị thử vận khí xem đau ở chỗ nào, để lát nữa chúng ta ra ngoài đệ sẽ nghĩ cách cứu chữa cho.

Nhắc tới vết thương của nàng, chàng mới nghĩ đến sự lỡ tay của mình, không dám cười nữa, mặt tỏ vẻ hổ then:

-Chị Tuệ, chỉ tại đệ...

Chàng chưa kịp nói hết đã bị Vân Tuệ đưa tay mềm mại lên bịt miệng lại, miệng tủm tỉm cười, an ủi chàng và định hỏi hiện giờ đang ở đâu. Ngờ đâu nàng vừa há mồm đã thấy cổ họng ngọt ngọt, khạc một tiếng phun ra một đống máu.

Uyên nhi giỏi về y lý, thấy nàng thổ huyết như vậy mới an tâm, có vậy nàng mới chóng khỏi. Quả nhiên chàng thăm mạch cho Vân Tuệ đã thấy mạch điều hòa nhiều. Vân Tuệ tuy không trông thấy nhưng chờ chàng thăm mạch xong liền hỏi:

-Thưa thầy đang...

Nàng vừa nói thì Uyên nhi đã vội bịt miệng không cho nàng nói.

-Chị Tuệ, chị hãy còn bị thương, tốt hơn hết chị đừng nói chuyện để giữ chân khí. Hiện giờ chúng ta còn đang nằm ở trong bụng cá kình, đệ đang nghĩ cách ra khỏi nơi đây, khi ra khỏi chốn này đệ sẽ chữa cho chị ngay.

Vân Tuệ bị bịt mồm má đỏ bừng, gật đầu đồng ý.

Uyên nhi cõng nàng lên vai bảo nàng ôm chặt cổ mình, rồi rút Đơn Huyết bảo kiếm, vận Đơn Thiết Thần Công xuống cánh tay, dồn ra mũi kiếm. Thanh bảo kiếm lập tức phát ra ánh sáng đỏ chói lọi xua đi màn đen trong bụng cá. Những tia sáng đầu mũi kiếm trông như rắn phun nọc vậy.

Uyên nhi cầm kiếm trong tay liền đâm ngay vào đại động mạch ở cạnh người chàng. Chàng không rút kiếm ra vội mà nhảy sang bên rồi rạch mạnh, huyết quản bị đứt làm đôi, máu bên trong cũng lập tức phun ra như suối. Uyên nhi lại cắt đứt luôn hai huyết quản nữa.

Trái tim là tính mạng, dù người hay cầm thú cũng vậy, con cá kình bị Uyên nhi đâm vào tim đã mất nhiều máu rồi, nó đang uể oải. Giờ lại bị cắt đứt mấy huyết quản thì còn sống làm sao được. Con cá vừa bị cắt đứt động mạch thì Uyên nhi lập tức cảm nhận nó nhún người, nẩy thực mạnh rồi như trời long đất lở lăn đi lộn lại hoài.

Chàng biết con cá thế nào cũng giãy chết nên không kinh hoảng chút nào, chờ tới khi con cá ưỡn bụng lên trên chàng liền nhảy tới cạnh xương hông của nó múa kiếm đâm thẳng vào, tay phải dùng chưởng công một thế thực mạnh. Thế là chàng đã mở một lỗ hổng nhỏ, chàng thuận tay rạch luôn một miếng thịt lớn để tạo chỗ chui ra. Chàng chui ngay vào lỗ hổng đó, vừa chui vừa rạch, quần áo hai người đều bị máu của cá kình nhuộm đỏ. Lúc ấy còn để ý gì đến sạch sẽ hay không, chàng chui vào khoét tiếp, khoét chừng nửa trượng mà chưa ra khỏi bụng cá.

Càng chui sâu vào bao nhiêu lỗ hổng càng chật bấy nhiêu, và càng lúc càng khó thở, nhất là mùi tanh hôi của thịt cá làm Vân Tuệ không sao nhịn được nôn ọe. Chàng lo âu vô cùng, vận hết thần lực đâm mạnh một nhát kiếm lên nữa. "Phập" một tiếng, chàng biết sắp thoát cả mừng dùng kiếm vạch luôn một vòng và dùng chưởng lực đẩy mạnh một cái. Miếng thịt cá trên đầu chàng đã bị đẩy bắn ra bên ngoài, ánh sáng mặt trời cùng không khí trong lành theo lỗ hổng chui vào, chàng mừng rỡ vô cùng rú lên một tiếng thực dài tung mình nhảy ra khỏi bụng cá.

Ngờ đâu chàng vừa nhảy ra bên ngoài đưa mắt nhìn quanh liền thở dài buồn bã. Thì ra lúc ấy chàng với con cá đang ở giữa biển cả, không trông thấy bờ bến đâu hết. Cũng không biết chỗ chàng đang đứng cách cù lao bao xa nữa.

Nhưng cũng may con cá tuy chết, bụng cá nổi bềnh lên trên mặt nước, chỗ bụng của nó nhô lên mặt nước rộng chừng bảy tám trượng như một cù lao nhỏ, đủ ch hai người ngồi và nằm nghỉ như thường.

Vân Tuệ tuy nằm phục ở trên vai Uyên nhi, nhưng nàng cảm nhận không khí và ánh sáng khác trước nhiều. Nàng ngẩng đầu mở mắt ra nhìn thấy toàn cảnh bốn bề xung quanh, người của Uyên nhi đỏ như máu.

Nàng liền hỏi ngay:

-Uyên đệ, sao người đệ đẫm máu như thế? Hiện giờ chúng ta ở đâu vậy?

Uyên nhi đã đứng trên bụng cá và đã tra kiếm vào bao, chàng đang định đặt Vân Tuệ xuống bỗng nghe nàng hỏi vậy, quay đầu lại nhìn thấy Vân Tuệ mặt vì nằm úp trên vai chàng nên không nhiễm tí máu nào nhưng tóc và quần áo đều nhuộm đỏ hết. Chàng vội đặt nàng ngồi xuống vừa cười vừa đáp:

-Chị Tuệ, chị xem người chị có giống đệ không?

Nghe chàng nói vậy nàng mới nhìn lại mình, khắp mình mẫy của nàng đỏ như máu tươi khiến nàng kinh hãi thêm.

Uyên nhi thấy vậy thở dài và nói tiếp:

-Hà... chị Tuệ, chị nhìn xuống xem có phải đất hay là con cá chết. Vừa rồi chúng ta ở bụng cá ra, cho nên mới nhuộm đầy máu. Nhưng giờ tuy thoát khỏi bụng cá nhưng không trông thấy đất liền đâu hết. Gần đây lại không có cù lao hay thuyền bè. Làm thế nào mà trở về được?

Vân Tuệ nghe chàng ta nói như vậy, cúi đầu nhìn xuống quả thấy dưới chân mình mềm nhũn như không phải là đất, nàng lại đưa mắt nhìn bốn bể chung quanh lại càng kinh hãi thêm, nàng nghĩ mãi không ra được cách nào để thoát khỏi chốn đó cả.

Lúc ấy trời sắp chính ngọ, mặt trời nóng như lửa chiếu xuống đầu hai người, chỉ trong chốc lát máu trên mình hai người đã khô.

Uyên nhi rất quan tâm đến vết thương của Vân Tuệ nên vội hỏi:

-Chị Tuệ, mau vận khí thử xem, nếu thấy chỗ nào đau hay bị trắc trở nói cho đệ biết, để tiểu đệ nghĩ cách cứu chữa cho chị. Chữa khỏi cho chị xong chúng ta phải nghĩ cách rời khỏi nơi đây.

Nghe Uyên nhi nói vậy, Vân Tuệ mới cảm thấy mình mệt mỏi và yếu ớt thực, nàng dẹp sự kinh hãi và lo âu sang bên, vội vàng xếp bằng vận khí điều thức, ngờ đâu vừa vận khí đã khạc ra một đống máu tươi, người lảo đảo suýt ngã.

Uyên nhi đứng cạnh thấy vậy, vội ôm lấy nàng và luồn tay qua nách đưa về phía trước ôm chặt ngực trái cảu nàng soa bóp luôn. Đồng thời tay phải đặt vào Đan Điền Huyệt.

Vân Tuệ thấy Uyên nhi ôm chặt mình, tay xoa ngực, tay để lên bụng như thế hổ thẹn vô cùng, hai má đỏ bừng, nhưng nàng không chống cự, trái lại còn tựa cả lưng vao người Uyên nhi.

Tuy Uyên nhi phát triển nhanh, cao lơn không kém gì người mười tám mười chín, nhưng dù sao tuổi của chàng chỉ mới mười ba, chưa biết tình ái là gì, vì thế tuy chàng ôm Vân Tuệ vào lòng, hai tay xoa bóp nơi quí báu nhất của thiếu nữ mà lòng không dao động chút nào, chàng chỉ nhất tâm nhất chí muốn chữa khỏi cho chị Tuệ, cho nên chàng vận Đơn Thiết Thần Công ra theo trong cuốn Thần Nông Y Giản mà chữa cho Vân Tuệ. Một luồng chân khí ở gan bàn tay cảu chàng dồn sang người của Vân Tuệ đả thông các huyệt bị tắc, giúp nàng thâu lượm lại chân khí đã tản mát.

Vân Tuệ chưa học qua cuốn Thần Nông Y Giản, nhưng phàm người có võ công đều biết vận nội công để chữa thương cho người khác.

Nhưng nếu chân khí của bản thân không luyện tới mức thượng thừa thì không ai dám ra tay chữa thương cho người khác cả, vì chữa như thế không những bị tiêu hao chân lực rất nhiều, mà nếu thiếu định lực hay bị ngoại vật chi phối chân khí sẽ chạy loạn ngay, nhẹ thì nội thương, nặng hơn thì tẩu hỏa nhập ma hay bị mất mạng.

Vì thế mà Vân Tuệ cảm thấy hai gan bàn tay của Uyên nhi nóng hổi, hai luồng chân khí như hai ngọn lửa kèm them tam muôi chân hỏa thấu sang bên người mình. Nàng cả kinh thất sắc, nàng không ló cho mình mà sợ cho Uyên nhi, nhỡ sơ suất một chút thì chàng không bị tẩu hỏa nhập ma cũng bị thương nặng, như vậy dù có chữa khỏi cho nàng cũng vô ích. Cho nên nàng tuy kinh ngạc nhưng thấy Uyên nhi đã như cưỡi trên mình hổ rồi cự tuyệt cũng không được nữa. Vì nàng cố sức vận nội công phụ giúp Uyên nhi.

Nhờ có sự hợp tác của nàng Uyên nhi đỡ mệt nhọc hơn trước. Một lát sau chân khí của nàng đã nghênh tụ, dần hòa hợp với chân khí của Uyên nhi thông qua cá quan huyệt rồi trở về Đơn Điền. Uyên nhi lại giúp nàng chuyển vận thêm hai lần như thế nữa, thấy không còn bị cản trở gì chàng mới dừng tay.

Vân Tuệ không những lành mạnh như thường, lại còn được tam muội chân hỏa thuần dương của Uyên nhi dồn sang, nội công của nàng tinh tiến hơn trước nhiều.

Uyên nhi chữa cho Vân Tuệ xong liền buông tay ra. Vân Tuệ vội quay lại ôm chàng, cảm động vô cùng khẽ gọi:

-Uyên đệ...

Nàng vừa nói tới đó đã thấy Uyên nhi mồ hôi toát ra như tắm, mặt chàng bị máu cá nhuộm đỏ nên không sao biết được sắc mặt ra sao, nhưng trông thái độ cũng đủ biết chàng mệt nhọc lắm rồi. Nàng càng cảm động thêm ứa nước mắt nức nở hỏi:

-Uyên đệ hà tất phải tốn công mệt nhọc như vậy, vết thương của tôi có nặng lắm đâu, giờ tuy tôi lành mạnh ròi mà hiền đệ mệt nhọc như thế này tôi yên lòng sao được.

Uyên nhi mỉm cười, đang định an ủi nàng mấy câu để nàng yên tâm, nhưng nàng nhất định không cho chàng nói và còn nói thêm:

-Uyên đệ mệt rồi mau nghỉ ngơi đi.

Nói xong, nàng đã đỡ chàng ngồi dậy rồi kéo chàng nằm xuống gối vào đùi mình, móc túi lấy khăn tay lau mồ hôi và máu cá trên mặt ch chàng. Chàng được Vân Tuệ săn sóc như vậy cũng cảm động hết sức, chàng nhìn thẳng vào mặt nàng, đôi môi mấp máy muốn nói nhưng Vân Tuệ đã dùng tay bịt mồm chàng và giả bộ hờn giận nói:

-Hiền đệ không chịu nghe lời tôi thực tức chết đi được, nếu hiền đệ còn nói nữa thì tôi đánh cho đấy.

Nàng nói xong miệng tủm tỉm cười, hai má đỏ bừng rồi lại bịt tay vào mắt Uyên nhi nói tiếp:

-Hiền đệ nhìn tôi làm chi, mau nhắm mắt vào nghỉ ngơi đi. Hiền đệ chẳng nói mau nghĩ cách rời khỏi nơi đây là gì?

Vốn dĩ chân khí của Uyên nhi chưa luyện tới mức thượng thừa, nên sau khi tiêu hao bấy nhiêu chân khí để chữa thương cho Vân Tuệ cảm thấy mỏi mệt vô cùng, nên nghe nàng nói vậy cảm động vô cùng, vội nhắm mắt lại nghỉ, ngờ đâu ngủ thiếp lúc nào không hay.

Lúc ấy trái lại Vân Tuệ tỉnh táo vô cùng, thấy Uyên nhi nằm gối vào đùi mình ngủ rất ngon, nàng vừa mừng vừa lo. Nàng cúi đầu nhìn mái tóc đen của chàng bị máu cá nhuộm thành đỏ, bộ mặt đẹp của chàng tuy nàng đã lau chùi sạch nhưng vẫn còn lấm tấm chưa hết, nhưng không tổn hại gì đến bộ mặt đáng yêu của chàng. Nàng càng ngắm càng thấy chàng đẹp như tranh vẽ, đầu óc cứ nghĩ vơ vẩn hoài, chỉ thấy lúc ấy nàng thay đổi sắc mặt luôn, khi thì cau mày lo nghĩ, khi thì mỉm cười, sau cùng lại hổ thẹn, hai má đỏ bừng và vội ngẩng mặt lên không dám ngắm nhìn mặt của Uyên nhi nữa. Nhưng không bao lâu nàng lại cúi xuống ngắm nhìn, bụng bảo dạ:

"Nếu mặt y xấu xí thì khi nào ta lại yêu y như vậy."

Vấn đề đó quả thực khó giải đáp. Nàng nghĩ mãi mà không nghĩ ra được câu trả lời, nhưng có một điều nàng dám chắc là sau này Uyên nhi không may ngộ nạn, bộ mặt bị hủy xấu như ma quỷ đi nữa nàng vẫn yêu chàng như thường. Vì khuôn mặt Uyên nhi đã in sâu vào tận đáy lòng nàng rồi. Nàng cứ ngắm nhìn và nghĩ vẩn vơ quên cả mình đang ở đau và đang đói khát, sự thực suốt một ngày trời nàng chưa hề ăn uống gì.

Lúc ấy, mặt trời đã sắp lặn. Bốn bể tối dần. Gió bể thổi đến càng lúc càng mạnh. Nàng ngơ ngác nhìn bố bể xung quanh thấy chỉ có nước với nước. Ngoài sóng gió ra thì không còn vật gì nữa, vì thế nàng mưois lo âu quay đầu lại ngắm Uyên nhi thì thấy chàng vẫn ngủ say, miệng tủm tỉm cười hình như đang mơ một giấc mộng rất đẹp vây, nàng khẽ thở dài một tiếng, không đang tâm gọi chàng dậy.

"Ta nên gọi chàng dậy... nhưng thôi để chàng ngủ thêm vì chàng quá mệt rồi."

Quả thực Uyên nhi quá mệt nhọc. Chàng ngủ say quên hết cả những chuyện chung quanh, miệng chàng cười tủm tỉm vì chàng nằm mê thấy mình bước chân vào giang hồ làm những việc nghĩa hiệp diệt trừ kẻ gian, nên chàng đắc chí, giơ tay lên đấm một cái, ngờ đâu đánh trúng phải bộ ngực của Vân Tuệ.

Vân Tuệ giật mình kinh hãi vội ngửa người về sau tránh, còn Uyên nhi chỉ trở mình một cái lại ngáy khò khò ngay.

Lúc ấy mới biết Uyên nhi nằm mơ vừa buồn cười vừa tức giận. Nàng định đỡ đầu chàng nằm lên đùi mình nhưng lại sợ chàng thức giấc. Đồng thời nàng thấy máu trên người mình tuy đã khô nhưng tanh hôi vô cùng, nên nàng nghĩ thầm:

"Sao ta không nhân dịp này xuống bể tắm rửa một lát, đằng nào Uyên đệ cũng đang ngủ say kia mà. Vả lại không có người xem trộm, ta tắm một cái cho thoải mái có hơn không?"

Nghĩ đoạn, nàng lẳng lặng đi tới cạch nước nhảy xuống bể. Vì nắng chiếu suốt ngày nên nước bể lúc bấy giờ rất mát. Nàng cứ nhô lên ngụp xuống ở trên ngọn sóng và thấy trong người dễ chịu vô cùng. Nàng lặn xuống bể để gội đầu, rửa sạch rồi nàng mới giặt quần áo. Máu đã bám vào quần áo cả ngày nên không sao giặt sạch được.

Nàng tức giận cứ để cho nói nổi trên mặt nước không thèm vò nữa. Đoạn nàng bơi đi bơi lại và lặn xuống nhô lên nghịch ngợm một hồi.

Uyên nhi bị ánh mặt trời đang lặn xuống mặt biển phản chiếu qua nước vào mặt làm chàng chói mắt liền tỉnh dậy. Chàng mở mắt ra không thấy Vân Tuệ đâu cả, cả kinh thất sắc, chàng tỉnh táo ngay vội lên tiếng gọi:

-Chị Tuệ, chị Tuệ...

Tiếng kêu của chàng có vẻ hoảng hốt.

Vân Tuệ đang ở dưới nước nghe tiếng tưởng chàng xảy ra chuyện gì, quên cả mình đang tắm. Nhô đầu lên và nhảy lên lưng cá, vừa trông thấy Uyên nhi chạy tới đông thời bị gió bể thổi đến, nàng cảm thấy người giá lạnh thì mới nhớ ra mình vừa mới trầm mình dưới nước nên nàng hổ thẹn vô cùng. Nàng la thất thanh rồi lại nhảy xuống bể.

Hồi 5 Dưới đáy bể sâu

Uyên nhi bỗng thấy Vân Tuệ từ dưới bể nhảy lên đã ngạc nhiên, rồi lại thấy nàng té xuống nước chàng lại ngạc nhiên thêm. Chàng không biết là vì nàng hổ thẹn mà tưởng nàng trượt chân hay vì vết thương chưa khỏi nên chàng vội nhảy ngay xuống bể bơi đến gần chỗ Vân Tuệ mà ôm chặt nàng vào lòng.

Chuyện xẩy ra quá đột ngột khiến Vân Tuệ giật mình, nhưng ở trong nước muốn đẩy Uyên nhi ra cũng không được, muốn kêu cũng không sao nói ra lời. Bất đắc dĩ nang cứ để cho chàng ôm chặt và nhô lên, khi đầu của hai người lên khỏi mặt nước nàng mới rỉ tai chàng:

-Uyên đệ mau buông tôi ra... hiền đệ... làm sao thế? Mau quay mặt đi đừng nhìn tôi.

Thì ra Uyên nhi nghe nàng nói vội cúi xuống thấy đôi tay mình ôm chặt nang lưng nàng thì lòng bỗng cảm thấy khoan khoái lạ thường. Chàng ngẩn người ra như người lạc bước vào cảnh âm u.

Vân Tuệ thấy chàng không chịu buông tay, hổ thẹn vô cùng ngửng đầu lên nhìn thấy đoi mắt của chàng khác thường trống ngực liền đập mạnh, lòng mừng thầm nhưng nàng cố trấn tĩnh ra lệnh cho Uyên nhi quay mặt đi.

Lúc ấy lòng Uyên nhi mới biết mình đã thất lễ xâm phạm đến chị Tuệ, chàng hổ thẹn mặt đỏ bừng vội buông tay ra quay mặt, lặn xuống nước mà bơi ra xa, cách xác con cá kinh bốn năm trượng.

Chàng bơi đến cạnh thân cá đang định leo lên bỗng nhận thấy thân con cá hơi rung động, dưới nước có một giòng nước đỏ đột nhiên nổi lên, chỉ trong nháy mắt đã lan tràn khắp mặt bể. Chàng bụng bảo dạ:

"Chắc con cá kình bị những con cá khác cắn phải nên mới có máu chảy nhiều như vậy, nhưng cá nào có răng sắc bén mà cắn thủng được da của con cá kình này?"

Lòng hiếu kì thúc đẩy, chàng muốn biết rõ cá gì lại lợi hại đến thế, nên chàng không leo lên bụng cá mà lặn xuống bên dưới. Lúc ấy trời bắt đầu tối, nước bể đen như mực. Nhưng mắt của Uyên nhi có thể nhìn thấy trong đêm tối, ngay ở trong nước chàng cũng có thể nhìn xa hơn mười trượng.

Dưới nước sâu mười trượng sức nước bề đè xuống rất nặng, người thường lặn xuống đến đó là chịu không nổi, chỉ có cá bơi đi bơi lại như bình thường thôi. Uyên nhi vận Đơn Thiết Thần Công lên dồn vào tứ chi mới đỡ bị sức nước đè, cũng nhờ vậy mà mắt chàng sáng hơn trước nhiều. Chàng nhìn chung quanh thấy xác cá kình đang nhấp nho, và quanh nó có vô số cá mập với cá lưỡi kiếm đang cấu xé, nhưng rất ít con có thể cắn thủng được lớp da dầy của con cá kình.

Chàng lẳng lặng lặn tới gần, bỗng thấy bên trên có môt luồng ánh sáng đỏ như máu rớt xuống, trong làn ánh sáng đỏ đó có một thiếu nữ tuyệt đẹp, chàng nhìn kĩ mới hay đó là Vân Tuệ.

Thì ra Vân Tuệ mặc quần áo xong lên trên mình cá không thấy Uyên nhi đâu cả đồng thời lại thấy mặt nước đỏ ngầu, nàng biết chàng thể nào cũng hiếu kì lặn xuống xem, nên nàng không yên tâm cũng nhảy xuống tìm kiếm. Khổ nỗi mắt của nàng không nhìn được xa như Long Uyên, cũng may nàng nhớ tới lệ châu trong túi, ánh sáng rất mạnh, có thể dùng làm đèn chiếu được. Nàng vội lấy ra để ở tay rồi nhảy xuống dưới biển.

Long Uyên thấy Vân Tuệ cũng nhảy xuống vội bơi tới gần, khi hai người gặp nhau rồi Vân Tuệ nắm lấy tay chàng định kéo lên.

Long Uyên giơ tay ra hiệu bảo nàng đừng lên vội hãy xem vật gì đã. Bất đắc dĩ Vân Tuệ đành phải theo chàng lặn xuống bên dưới.

Lũ cá trông thấy hai người tưởng là con mồi ngon. Chúng liền bơi lại, nhưng chúng tới gần bị ánh sáng của lệ châu uy hiếp nên không dám tới gần nữa, mà chỉ bơi quanh hai người. Hình như chúng rất sợ ánh sáng của hạt châu ấy.

Hai người lặn xuống sâu năm trượng đã tới chỗ lưng con cá kình. Lúc ấy Long Uyên đã trông thấy rõ một con rùa to đang bám vào lưng con cá.

Lưng con rùa màu vàng đường kính dài hơn trượng bên dưới mai có sáu chân. Lúc ấy mồm nó đang ngậm vào lưng con cá kình hút máu cho nên không để ý đến hai người.

Hai người bơi tới cách con rùa chừng bảy trượng nhưng vì Vân Tuệ vẫn chưa trông thấy gì và Long Uyên trông thấy con rùa kỳ lạ như thế, chàng thích thú quên cả hỏi ý Vân Tuệ đã giơ tay lên đẩy một luồng kình lực như bài sơn đảo hải dồn một dòng nước mạnh như nước lũ nhằm lưng con rùa tấn công luôn.

Con rùa đang hút máu thích thú không ngờ bị người tấn công lén như vậy, cho nên dòng nước đó đánh trúng ngay vào lưng nó, tuy mai nó không nứt rạn nhưng cũng phải rụt đầu lại.

Long Uyên ngạc nhiên vô cùng, chàng không ngờ mai con rùa này cứng đến thế, vội vận lực Đơn Thiết Thần Công tấn công thêm một chưởng nữa, chưởng này của chàng dù nặng nghìn cân cũng không làm gì nổi con rùa đó.

Chàng không sợ hãi chút nào lại kéo Vân Tuệ bơi đến gần con vật nọ.

Con rùa khổng lồ bị tấn công mạnh như vậy, tuy chưa bị thương nhưng nó cũng đau không chịu nổi, cho nên nó vội rụt đầu xoay người lại chìa sáu chân ra thoát đi khỏi người con cá kình, nhằm Long Uyên xông đến tấn công luôn.

Lúc ấy, người với quái vật cách nhau chỉ có hai trượng.

Vì vừa rồi cách quá xa nên Vân Tuệ không trông thấy rõ, bây giờ nàng đã thấy rõ con rùa khổng lồ mình tỏa những luồng ánh sáng vàng , đầu to như cái bồ, bốn mắt nhấp nháy tia ra những luồng ánh sáng vàng rất hung tợn và đột nhiên lại tấn công nhanh như điện chớp khiến nàng hoảng sợ khôn tả.

Long Uyên đã thấy rõ hình con rùa quái dị ấy, quả thực hung tợn vô cùng, chàng cũng hơi kinh hoảng cùng Vân Tuệ không hẹn mà nên giắt tay nhau đều nho lên trên mặt nước.

Con rùa thấy hai người tay cầm hạt lệ châu nhô lên khỏi mặt nước, nó thấy mồi ngon như thế khi nào chịu buông tha, liền quẫy sáu chân đuổi theo ngay.

Long Uyên, Vân Tuệ hai người thấy vậy lấy hết chân khí ở Đan Điền dồn xuống chân, khua mạnh chân lẫn tay lướt nhanh như hai mũi tên. Con rùa nọ tuy linh thông nhưng dù sau nó cũng bị cản trở bởi thân hình quá đồ sộ, vi vậy tốc độ không sao kịp nổi hai người. Khi nó vừa nhô lên mặt nước thì hai người đã nhảy được lên thân con cá kình rồi.

Lúc ấy trời đã tối, sao trăng còn ẩn trong những đám mây đen chưa ló dạng. Nhưng hạt lệ châu trong tay Vân Tuệ tỏa ra muôn ngàn tia sáng lấp lánh, hai người đưng trên mình con cá kình nhìn xuống mặt nước xem con quái vật định giở trò gì? Con rùa khổng lồ vừa nhô lên mặt nước đã ngửng đầu lên kêu "ú ú", tiếng kêu của nó như sấm ầm vang tai nhức óc hai người. Nó há mồm phun ra một luồng kim quang nhắm hai người phóng tới.

Luồng kim quang đó nhanh như điện chớp kèm theo tiếng kêu phì phì nhắm hạt lệ châu của Vân Tuệ bay tới. Vân Tuệ thấy vậy kinh hãi vội giơ tay định nén hạt lệ châu ddeer chống lại luồng kim quan ấy. Bỗng nghe thấy Long Uyên quát lớn một tiếng giơ cả hai tay lên, mười ngón tay hơi cong lại nhằm luồng ánh sáng đó chộp luôn.

Vân Tuệ biết Long Uyên đang xử dụng thế Song Long Thủ Châu trong Đơn Thiết Chưởng và dồn hết Đơn Thiết Thần Công vào mười ngón tay cách không chộp vật. Thế võ này có thể chộp được những vật ở cách xa mình mười trượng. Nhưng lúc này công lực của Long Uyên chưa luyện tới mức thượng thặng nên chỉ có thể chộp được những vật ở cách mình hai trượng thôi. Quả nhiên chàng chờ luồng ánh sáng đó bay đến gần hai trượng, nhưng chưa, chàng chưa dám chộp lại chờ nó bay tới gần thêm năm thước nữa chàng mới hét lơn, bỗng lùi về phía sau hơn trượng.

Tuy vậy luồng kim quan đó đã bị chàng khống chế, tiếng của chàng vừa dứt chàng đã nhảy lên trên cao lượn một vòng rồi giang hai tay ôm chặt luông kim quang đó.

Con rùa khổng lồ thấy nội đơn của mình bị người kìm chế tức giận vô cùng lại kêu "ú ú", phùng mồm như muốn thâu lại nội đơn ấy vậy.

Long Uyên hai tay nắm lấy kim quang, láy ấy mới hay đó là một hạt châu to bằng trái long nhãn. Lúc ấy chàng biết hạt châu này là nội đơn của con rùa rồi. Phàm loài rùa luyện thành nội đơn này cũng mất mấy nghìn năm "đạo hành". Chàng thấy con rùa kỳ dị sáu chân, bốn mắt lại biết thả châu như thế, nhớ lại trong sách có ghi quái vật này gọi là Chu Ngao.

Sở dĩ quái vật được đặt tên là Chu Ngao là vì bên ngoài nó đỏ như máu nhưng bên trong lại vàng hạc vậy. Nên chàng còn nghi ngờ không biết nó có đúng là Chu Ngao không. Trong lúc Long Uyên đang nghĩ ngợi thì thấy trái kim châu ở trong tay cứ nhảy nhót như muốn chạy khỏi tay mình. Chàng vội nắm chặt lấy không để cho nó chạy thoát đồng thời chàng thấy con rùa đang phùng mồm trợn mắt tỏ vẻ vô cùng giận dữ.

Long Uyên thấy vậy không nhẫn tâm đang định buông tay để cho nó lấy lại viên nội đơn. Ngờ đâu con Chu Ngao lại nóng lòng há hốc mồm phun luôn năm trái nữa ra một lúc nhằm hai người tấn công tới.

Vân Tuệ đứng ở đó dã vận hết công lực vào người phòng bị nên nàng vừa thấy hai hạt châu nhằm mình bắn tới, vội bỏ hạt lệ châu vào túi rồi giơ song chưởng để chống lại hai hạt châu kia.

Ngờ đâu con Ngao đó đã tu luyện mấy nghìn năm, sức mạnh vô cùng, trong lúc giận dữ phun ra nên kình lực của hai hạt châu mạnh khôn tả.

Chưởng lực của Vân Tuệ vừa đụng vào hai đường kim quang đó chỉ nghe thấy hai tiếng kêu lốp bôps, nàng đã bị đẩy lui về phía sau hai trượng. Nhưng hai hạt châu đó bị cản trở đã xoay hướng nhằm Long Uyên tấn công tới.

Lúc ấy Vân Tuệ đã nhảy lên cao thấy vậy kinh hoảng cố hạ chân xuống định chạy lại cứu viện, ngờ đâu nàng loạng choạng hai bước ngã ngồi xụp xuống và cảm thấy hai cánh tay đã mỏi nhừ khó mà giơ lên được, khí huyết ở trong người cũng đang rạo rực. Bất đắc dĩ nàng nàng phải điều hơi vận sức để lấn át huyết khí. Một mặt nàng trợn to đôi mắt xanh lên vẻ lo âu nhìn Long Uyên.

Long Uyên đứng ở sau lưng Vân Tuệ thấy con Ngao khổng lồ lại phun hạt châu ra tức giận vô cùng liền bỏ hạt châu trước vào trong túi da rồi giơ hai tay lên không vận hết mười thành Đơn Huyết Thần Công ra chờ đợi.

Tới khi chàng thấy Vân Tuệ bị kim châu bắn về phía sau, chàng không kịp cứu nàng vì ba trái khác đã nhanh như điện chớp nhằm chàng tấn công tới.

Chàng không biết Vân Tuệ sẽ bị thương hay không nhưng trong lòng tức giận chịu không nổi. Chờ ba trái kim châu nọ tới gần chàng liền giơ bốn ngón tay trái lên búng mạnh, liền có bốn luồng Đơn Huyết Cương Khí rất âm nhu bắn ra làm giảm bớt thế mạnh của ba hạt châu đó, rồi chàng lại giở hữu chưởng lên cách không chộp luôn, đồng thời chàng lùi về phía sau hơn trượng để tránh hai hạt châu tấn công phía sau, tế là chàng lại chộp them được ba hạt châu nữa vào trong tay.

Hai hạt châu phía sau vì đã bị Vân Tuệ dùng kình lực cản lại nên thế bay của nó chậm hơn, khi nó phi tới thì LU đã nhảy được sang bên tránh né rồi. Nhưng hai trái hạt châu đó cũng rất thông minh, thấy tấn công không trúng, chúng vội quay một vòng bay trở về mồm con ngao khổng lồ ngay.

Long Uyên lại bỏ ba hạt châu vào túi da, đóng kín miệng túi rồi đến cạnh Vân Tuệ đang định hỏi thì Vân Tuệ đã đứng dậy mỉm cười nũng nịu nói:

-Uyên đệ, tôi không sao cả, vừa rồi tôi sơ ý coi thường sức mạnh của con rùa ấy nên dùng có hai thành chân lực chống đỡ vì vậy suýt tí nữa nội phủ của tôi bị thương nặng.

Nàng nói rất đúng với công lực của nàng hiện giờ không mạnh hơn Long Uyên bao nhiêu, nhưng vì nàng không luyện môn Hư Không Nhiếp Vật, nên không thể nào bắt chước Long Uyên chộp bắt hai hạt châu đó.

Quí vị nên rõ, về võ công kị nhất là lấy rắn chọi rắn. Nếu công lực và hỏa hầu của đôi bên hơn kém nhau thì va chạm một cái là phân thắng bại ngay.

Nhưng khi công lực của hai người ngang nhau, nếu đấu thẳng tay như vậy, đôi bên đều hao tổn rất nhiều chân khí và công lực. Vì vậy người luyện võ phải dụng cương khắc nhu, lấy nhu chế cương, dùng mưu mẹo và tinh sảo bao giờ cũng dễ thắng hơn là dùng sức. Vì Vân Tuệ khinh thường sức lực của hạt kim châu, không dùng toàn lực ra hàng phục nó nên mới bị nó đẩy bắn trở ngược như vậy, vả lại Thiên Địa Cương Khí của nàng dù sao cũng là một môn võ công phi phàm, tuy bị chấn động nhưng chỉ điều thức vận hơi một lát là lành ngay.

Long Uyên ra tay một cái bắt được luôn bốn hạt châu mà nàng thì bị hạt châu đẩy bắn lại như vậy, tất nhiên nàng hổ thẹn vô cùng. Long Uyên biết tâm ý nàng nên không dám nói nhiều.

Con ngao khổng lồ ở dưới nước một lúc mất luôn bốn nội đơn tức giận không chịu nổi, ngoác miệng kêu ú ú hoài. Rồi nó nhân lúc hai người đang chuyện trò đột nhiên phun nốt hai viên nội đơn ra nhằm mặt hai người bắn tới.

Lần này nó giở hết toàn lực nên ánh sáng của nội đơn càng sáng hơn trước, và kình lực mạnh hơn trước nhiều. Hai trái hạt châu nhanh như điện chớp nhắm lưng Long Uyên phi tới.

Chỉ nghe tiếng gió Long Uyên đã biết quái vật dùng nộ đơn tấn công mình, nên chàng không đợi hai hạt châu đó tới gần, lập tức quay người lại.

Lần trước Vân Tuệ bị nội đơn đẩy té, vừa tức giận vừa cảm thấy mất mặt nên nàng ghét con rùa này vô cùng. Bây giờ thấy con rùa lại phun nội đơn ra tấn công, nàng liền nhảy xổ lại trước mặt Long Uyên giơ song chưởng lên dùng hết nội lực phản công luôn.

Long Uyên thấy vậy giật mình kinh hãi bụng bảo dạ:

"Chị Tuệ vừa bị nó đẩy té như vậy sao lại xông lên như thế?"

Nhưng chàng đã thấy Vân Tuệ dồn một luồng sương mù trắng ra bao vây lấy khắp mình mẩy, chàng biết nàng dùng Thiên Địa Cương Khí để bảo vệ thân trước, chàng không tiện can thiệp, sợ nàng giận nên chỉ vận công lực vào hai tay chuẩn bị tiếp ứng. Nhưng Vân Tuệ đâu phải người ngốc, biết sức mình không địch nổi hai hạt châu đó khi nào nàng lại dại dột như hồi nãy. Nàng đã nghĩ cách đối phó, giơ hai chưởng lên vận hết Thiên Địa Cương Khí, chỉ đợi kình lực của mình va vào nội đơn của con rùa là nàn thu sức nhảy sang một bên, và dùng cánh tay ngọc rung mạnh một cái khiến Thiên Địa Cương Khí hóa thành một làn sương mù bao trùm lấy hai hạt châu nọ. Tiếp theo đó nàng dậm chân một cái người lùi lại theo sức đẩy của viên nội đơn, chỉ trong nháy mắt nàng đã lùi xa hơn hai trượng, suýt tí nữa thì rớt xuống dưới bể.

Long Uyên đứng cạnh thấy nàng ra tay như vậy cũng phải kính phục, vì chàng nhận thấy sức Vân Tuệ kém hơn sức của hai hạt châu nhiều, mà lại có thể dụng lực yếu hơn đó để thâu dụng hai hạt châu n hư vậy thực khéo léo vô cùng.

Cũng nên biết Thiên Địa Cương Khí của Vân Tuệ với Đơn Thiết Thần Công của Long Uyên tuy hơi giống nhau, đều dùng bảo vệ lấy bổn thân được nhưng dù sao Đơn Thiết Thần Công của Long Uyên vẫn lợi hại hơn. Vân Tuệ đã dùng Thiên Địa Cương Khí hóa thành một làn xương mù trắng chụp lấy hai hạt châu đó, hai hạt châu không khác gì nằm trong lưới. Nhưng vì sức nội đơn quá mạnh, nếu nàng không lui nhanh về phía sau như thé thì đã bị đẩy bắn lui như trước. Khi Vân Tuệ lui ra ngoài xa rồi, sức mạnh của nội đơn cũng suy yếu nhiều nên nàng mới giở song chưởng ra bắt một cách nhẹ nhàng.

Long Uyên thấy nàng đã bắt được hai trái nội đơn rồi thì mừng rỡ vô cùng, vội chạy lại khen ngợi.

Con rùa khổng lồ bị mất thêm hai hạt châu tức giận điên cuồng càng kêu to hơn, tiếng ú ú vang lên như sấm động. Sáu chân nó đập bì bộp vào mặt nước mấy cái rồi nó phi thân lên trên bụng con cá kình đánh bộp một tiếng. Nó há mồm đỏ như máu, kêu ú ú bò lại định cắn hai người.

Long Uyên thấy vậy không dợi nó bò lại gần, nắm tay Vân Tuệ thét lớn một tiếng tung mình nhảy lên cao. Long Uyên rút thanh Đơn Huyết bảo kiếm ra dùng thế Khương Long Nhập Hải lượn một vòng rồi bổ xuống lưng con rùa. Ngờ đâu kiếm của chàng đâm vào lưng nó kêu đánh "coong" một tiếng, lưng nó không suy chuyển gì.

Trái lại tay của chàng tê tái suýt tí nữa không cầm nỗi thanh bảo kiếm.

Lúc ấy Vân Tuệ cũng hạ xuống phía sau con rùa vận Thiên Địa Cương Khí vào tay phải, dùng mười hai thành công lực tấn công vào đuôi nó một chưởng.

Đuôi con rùa dài có ba thước thôi trông rất mềm mại yếu ớt, ngờ đâu chưởng chưa kịp chạm nó đã rụt vào trong mai.

Vân Tuệ không ngờ đuôi nó rút nhanh như thế, thất kinh la lớn, vôi xoay tay tấn công vào chân nó. Lần này nàng đánh trúng, nhưng chân nó mềm nhũn như bông gòn vậy, chưởng của nàng có đánh trúng cũng không làm gì được nó.

Con rùa khổng lồ bỗng không thấy bóng người ở trước mặt, quay đầu lại mới phát giác một người ở trên lưng và một ở sau đuôi, nó tức giận lại kêu ú ú, bốn mắt sáng quắc như nẩy lửa, và phun ngay ra một luồng hơi nóng kèm theo nhớt tanh hôi, nhằm Long Uyên tấn công tới.

Đồng thời chân nó rụt lại rồi thò ra đánh vào chân Vân Tuệ.

Long Uyên dùng thế Thần Long Thăng Thiên nhảy lên trên cao để tránh khỏi luồng hơi nóng của con rùa phun tới.

Vân Tuệ vội nhảy sang bên để tránh cái đá đó, cả hai cùng lo lắng, không biết dùng cách gì diệt trừ nổi con rùa khổng lồ kia.

Long Uyên lượn trên không một vòng, bỗng nghĩ ra được một kế, nhảy xuống cạnh Vân Tuệ nói:

-Chị Tuệ, mai con rùa này cứng lắm, bảo kiếm của đệ cũng không làm gì nổi nó. Nhưng tiểu đệ đoán chắc dưới bụng nó thế nào cũng có chỗ yếu, chúng ta hợp sức lật ngửa nó lên, chị nghĩ sao?

Vân Tuệ nhận thấy phương pháp này có thể làm được, liền gật đầu ngay.

Cả hai vôi nhảy sang bên để tránh hơi nóng thứ hai của con rùa phun ra, và lẹ làng tiến tới phía trái của con rùa.

Long Uyên nhanh nhẹn cắm kiếm vào bao rồi hai người bốn tay cùng nắm vào mép mai con rùa giờ hết sức bình sinh hất mạnh một cái. Lúc ấy sức của hai người mạnh hàng ngàn cân va con rùa cũng không ngờ hai người lại có hành động đó, nó chưa kịp chống đỡ thì người đã bị lật ngửa lên trời kêu đánh bùng một tiếng. Sáu chân nó vì thế khua động trong không khí hoài.

Giống rùa sợ nhất là bị lật ngửa, vì chân nó ngắn, khi đã bị lật ngửa rồi thì khó mà lật ngược lại được. Nên sau khi bị lật ngửa, nó kêu ú ú một cách tức giận, sáu chân khua loạn xạ cố lật sấp lại mà không sao làm được.

Vân Tuệ với Long Uyên cả mừng, vỗ tay cười ha hả, vẻ mặt thích thú nhìn con rùa đang cử động sáu chân mà không vội giết nó ngay.

Con rùa cửa động mãi mà không sao lật sấp lại được. Từ tức giận biến thành nản chí, rồi dần dần sợ hãi. Bốn mắt nó cứ nhìn thẳng vào hai người, miệng kêu ú ú hoài, tiếng kêu trở nên hiền từ và van lơn chứ không còn hung ác như lúc nãy nữa.

Long Uyên thấy vậy nói với Vân Tuệ:

-Chị Tuệ xem con rùa này tội nghiệp thực, trông nó không còn hung ác như trước nữa, chúng ta tha nó nhé?

Vân Tuệ đáp:

-Con rùa này không những kì quái mà ít nhất nó cũng tu hành trên mấy ngàn năm rồi, giết chết nó cũng đáng tiếc thực, nhưng tha nó nhỡ nó lại cắn người thì sao?

Long Uyên thở dài một tiếng nghĩ giây lát rồi nói tiếp:

-Đệ đã nghĩ lại những loài rùa ở trong bể mà có ghi ở trong sách, nhưng không thấy sách nào ghi loại rùa như con này cả, chị bảo có lạ hay không? Nhưng theo trong sách thì loài rùa rất hay tu luyện, hễ chúng tu luyện được một thời gian là thông linh liền. Nếu con này đã tu hành mấy nghìn năm tức nhiên nó phả thông linh mới đúng.

Khi hai người chuyện trò con rùa cứ kêu hoài nhưng không dãy dụa như trước nữa, hình như nó biết nghe lời nói của hai người vậy. Nhất là khi Long Uyên nói xong nó kêu "u u" hai tiếng và tiếng kêu lại nhu hòa vô cùng.

Long Uyên rấ tinh nghịch, nghe thấy con rùa kêu vậy tiến lại gần hỏi luôn:

-Mi nghe được lời nói của chúng ta ư?

Vân Tuệ cười khì, vì thấy Long Uyên ngây thơ, ngờ đâu con rù đã kêu ú ù hai tiếng, hình như trả lời Long Uyên vậy, nàng kinh ngạc vô cùng, còn Long Uyên thì mừng rỡ nhảy bắt người lên, nói tiếp:

-Nếu ngươi biết nghe thực kêu hai tiếng nữa đi.

Con rùa lại kêu ú ú hai tiếng liền, Long Uyên khoái chí vô cùng, vỗ tay cười ha hả lại nói tiếp:

-Chị Tuệ xem nó thông linh thực.

Nói xong, chàng lại quay đầu nói với con rùa tiếp:

-Nếu mi thông linh thực, chúng ta không giết mi đâu, nhưng chỉ sợ thả mi rồi sau này mi lại nổi hung cắn người thì sao?

Con rùa kêu một tiếng trả lời.

Long Uyên liền hỏi ý kiến Vân Tuệ:

-Chị Tuệ chúng ta có nên thả không?

Vân Tuệ gật đầu, rồi hai người đang chạy lại cạnh con rùa định lập sấp nó lại, nhưng Long Uyên bỗng ngưng tay và hỏi con rùa tiếp:

-TA có hai điều kiện: Một, sau này bất cứ đối với ai ngươi cũng không được giết hại, hai, mi phải đưa chúng ta về, mi có nhận không? Nếu mi chấp nhận thì kêu bốn tiếng đi, không những chúng ta thả mi mà còn trả lại nội đơn cho mi nữa. Nếu mi không bằng lòng, ta cứ để yên mi như vậy mặc cho mặt trời thiêu mi đến chết khô thì thôi.

Con rùa kêu luôn bốn tiếng nhận lời, Long Uyên cả mừng nháy mắt ra hiệu cho Vân Tuệ, rồi cũng đi tới cạnh con rùa, hai người vận sức lật sấp nó lại.

Sau khi được hai người lật sấp lại rồi con rùa theo đúng lời hứa nằm yên không cử động. Lúc này nó không những mất hết vẻ hung ác mà trông mặt nó còn hiền lành vô cùng.

Long Uyên thấy vậy mới yên tâm, rút bảo kiếm ra cắt lấy bảy tám sợi gân bằng da cá kình, mỗi sợi chừng bảy tám trượng. Cắt xong chàng còn rửa sạch máu và thịt còn dính ở trên rồi mới đi tới trước mặt con rùa và nói tiếp:

-Bây giờ chúng ta làm hai cái yên ngồi để ở trên lưng mi, làm xong mi đưa chúng ta về nhà nhé!

Con rùa gật đầu lia lịa mặt tỏ vẻ bằng lòng và cầu khẩn.

Long Uyên thấy vận kêu ủa một tiếng rồi nói:

-Mi muốn lấy lại nội đơn phải không? Được bây giờ ta trả cho mi nhưng mi không được nuốt lời nhé!

Nói xong móc túi lấy nội đơn trả cho nó.

Vân Tuệ đứng cạnh thấy vậy buồn cười trước cử chỉ ngây thơ của chàng, cũng kính phục trí óc của chàng. Nàng cũng cầm hai hạt châu đi tới bỏ vào mồm con rùa, con rùa đớp luôn, gật đầu mấy cái tỏ vẻ cảm ơn, mồm lại kêu ú ú.

Long Uyên giơ tay ra, khẽ vỗ đầu nó mấy cái, rồi cột sáu đầu dây da cá vào sáu chân nó, còn sáu đầu dây kia thì chàng cột vào một cái yên cũng làm bằng da cá kình để ở trên lưng nó. Chàng lại cột hai đầu dây vào đầu nó để làm cương.

Con rùa cứ nằm yên nhắm mắt, để mặc cho chàng cột.

Lúc ấy trời đã sáng tỏ, Long Uyên hình như trông thấy cù lao đen ở phía Bắc. Chàng cùng Vân Tuệ liền leo lên chỗ ngồi để thúc giục con rùa lên đường ngay. Vì hai người suốt một ngày đêm chưa được ăn uống gì, nhờ đã ăn kình châu cùng Xích Long Đơn, nên cả hai cũng không cảm thấy khó chịu cho lắm, nhưng trong bụng cũng thấy đói và khát. Nếu không đi ngay bây giờ chỉ sợ mặt trời mọc lên cao, ánh nắng nóng bức, lúc ấy lại khát thêm. Vì vậy chàng không dám chần chờ là thế.

Hai ngời ngồi lên lưng rùa, chàng ngồi phía trước cầm cương, Vân Tuệ ngồi ở phía sau, ôm lấy ngang lưng chàng. Chàng khẽ giật cương một cái, mồm thì quát bảo:

-Đi thôi! Mi đừng ngủ nữa.

Con rùa nghe nói, quay đầu lại nhìn chàng, bốn mắt nó chớp chớp mấy cái, rồi nó bò ngay xuống nước nhưng người nó không chìm chút nào, không khác nào một chiếc thuyền lênh đênh trên mặt bể vậy. Sáu chân của nó khẽ khua động một cái, người nó đã như bay, bơi thẳng về phía Bắc.

Long Uyên ngồi trên lưng rùa, thấy vững chãi hơn thuyền nhiều, chàng khoái chí vô cùng, cười khì rồi ngâm nga:

Nhữ quân bất phụ đăng làm ước.

Đồng thượng kim ngao bối thượng hành.

Dịch nghĩa:

"Cùng bạn không phụ chuyến đi này.

"Ngồi trên lưng con rùa vàng mà đi ngao du".

Vân Tuệ cũng cảm thấy trò chơi rất mới mẻ không khác gì nằm mơ vậy, và nàng nhận thấy hai câu thơ của Long Uyên trích ra trong bài thơ của Từ Thần Ông rất hợp tình, hợp cảnh.

Long Uyên ngâm xong hai câu thơ đó đột nhiên nghĩ ra một việc liền hỏi Vân Tuệ:

-Chị Tuệ, chị có biết con vật chúng ta đang cưỡi đây tên gì không?

Vân Tuệ nghĩ ngợi hồi lâu vẫn không sao nghĩ ra được, Long Uyên đắc chí cười khì rồi mới giảng giải cho nàng nghe:

-Trong Nam Việt Chí nói: trong bể có một loài vật tên là Chu Biệt giống như con rùa, có buốn mắt sáu chân; mồm lại có hạt châu phu ra, cho nên vật này thuộc về loài Biệt (ba ba lớn hay cua đinh) nhưng có một điểm đáng nghi, là nó màu vàng chứ không phải màu đỏ. Vì vậy, tiểu đệ đoán, cha của nó thể nào cũng là Kim Ngao và má nó là Chu Biệt. Hai con đó hợp lại với nhau nên mới sinh ra con vật này. Vì vậy nó mới có hình mẹ, còn màu thì giống cha, tiểu đệ nghĩ nên gọi nó là Ngao Biệt thì đúng hơn.

Thấy lời nói của chàng rất có lý, nhưng vì chàng ngồi trên lưng con Biệt, vừa nói đầu vừa lắc lư, trông rất tức cười khiến nàng không sao nhịn được, cứ cười khúc khích và vừa cười vừa vỗ vai chàng liên tiếp.

Con vật đó đi rất nhanh, mới hơn tiếng đồng hồ đã trông thấy rõ cù lao đen hiện ra trước mặt rồi.

Long Uyên ngắm nhìn một hồi, thấy đúng là cù lao, vội nói cho Vân Tuệ hay. Vân Tuệ cũng mừng rỡ vô cùng. Ngờ đâu lúc ấy, con Biệt bỗng quay đầu lại, nhìn Long Uyên, khẽ kêu mấy tiếng.

Thoạt tiên Long Uyên không hiểu con Biệt kêu như thế làm chi, chàng đoán mãi cũng không hiểu. Bỗng thấy nó cứ nhúng đầu xuống nước hoài, chàng mới nghĩ ra vội hỏi lại:

-Mi định lặn xuống phải không?

Con Biệt kêu "u" một tiếng, gật đầu mấy cái ý nói chàng nói đúng.

Vân Tuệ thấy vậy cau mày, định phản đối, nhưng Long Uyên thấy con Biệt không có ác ý gì, nên chàng đoán chắc nó muốn lặn xuống là phải có nguyên do gì đó. Vì hiếu kì, chàng gật đầu nhận lời, bằng lòng để cho nó đưa mình xuống dưới bể.

Con Biệt thấy chàng nhận lời, liền kêu "u" một tiếng rôi lặn ngay.

Bất đắc dĩ Vân Tuệ phải ôm chặt lấy Long Uyên, nín hơi lấy sức để chuẩn bị lặn xuống.

Long Uyên tinh nghịch, đưa mắt nhìn bốn bề xung quanh, thấy cá bơi đi bơi lại rất nhiều, và có đủ các loại. Bất cứ loại cá nào cũng vậy, thấy con Biệt khổng lồ bơi tới là chạy tán loạn, không dám đến gần.

Long Uyên biết con Biệt này tu luyện lâu năm nên các loài cá mới sợ nó như thế.

Con Biệt càng lặn càng xuống sâu, Long Uyên cảm thấy sức nước ép ngày càng mạnh hơn, và nước cũng giá lạnh dần. Chàng và Vân Tuệ phải vận nội công ra chống lại hơi lạnh và sức ép đó, nhưng con Biệt thì không thấy bị ảnh hưởng chút nào, nó cứ thế lặn xuống hoài, và không biết nó lặn xuống bao sâu?

Long Uyên vận nội công theo Đơn Thiết Thần Công nhờ vậy đã dần dần chịu đựng quen với sức ép và hơi lạnh ấy. Lòng hiếu kì của chàng rất cao, nên không thấy chàng hoảng sợ chút nào, mà chỉ thấy vẻ thích thú khi ngắm nhìn cảnh kỳ lạ xung quanh. Cảnh dưới đáy bể quả thật đẹp tuyệt và cũng kỳ lạ vo cùng, nếu xung quanh không phải là nước, có lẽ Long Uyên tưởng đó là Thiên Đường, vì cảnh hiện ra trước mắt chàng có cả núi, có cả non, có đủ các thứ cây cỏ lạ, muôn màu muôn sắc.

Trong những thứ cây cỏ đó đâu đâu cũng có những con trai khổng lồ đường kính dài hàng trượng, giữa lòng những con trai đó đều có những hạt châu to bằng cái bát, chiêu sáng chói lọi. Ánh sáng của những hạt châu đó chiếu vào những cây san hô ở quanh đó trông lại càng lung linh huyền ảo, và những cây san hô trong suốt ánh sáng ngũ sắc phản chiếu lại trông càng đẹp thêm. Suýt tí nữa chàng quên mình ở đâu vừa chắc lưỡi định khen thì nước bể đã vào đầy mồm, mặn khôn tả.

Chàng quay đầu lại nhìn Vân Tuệ, thấy nàng đang nhắm nghiền hai mắt hình như không thấy gì hết. Ánh sáng ngũ sắc chieus vào mặt nàng lúc đỏ lúc xanh, trông càng đẹp thêm. Chàng tinh nghịch giơ tay lên khẽ bóp mũi nàng một cái.

Vân Tuệ mở mắt ra nhìn đột nhiên thấy cảnh sắc xung quanh kì ảo đẹp như vậy, nàng kinh ngạc cũng mở mồm định nói, nước đã vào mồm, nàng vội mím môi lại, và nhìn Long Uyên mỉm cười.

Con Biệt khổng lồ tiếp tục vượt qua những ngọn núi xanh mà lặn xuống sâu bên dưới. Bên dưới là một tuyệt cốc giữa hai sườn núi, nước bể càng đen, càng lạnh thêm và không biết sâu bao nhiêu nữa.

Chàng giật dây da kình mấy cái tỏ ý bảo con Biệt đừng lặn xuống sâu như thế nữa, vì càng xuống sâu bao nhiêu sức ép dưới đáy bể càng mạnh bấy nhiêu. Chàng không những khó chịu mà còn khó thở nữa. Dù người có nội công thâm hậu đến đâu, nếu lâu không hô hấp thể nào cũng bị chết ngạt. Long Uyên và Vân Tuệ lặn xuống nước đã lâu, đừng nói là bị sức ép của nước, chỉ chậm không hô hấp cũng đủ làm cho hai người khó chịu rồi.

Ngờ đâu con Biệt ấy không chịu nghe lời, cứ xuống thêm hơn trăm trượng nữa.

Lúc nầy Long Uyên mới giật mình kinh hãi, nếu còn xuống sâu nữa, thế nào cũng bị chết ngạt chứ không sai. Lúc ấy chàng cảm thấy chân khí đã sắp cạn kiệt đến nơi, nếu không hít không khí mới vào, chỉ trong nữa khắc đồng hôc là sẽ phải uống nước bể liền và còn bị sức ép của nước bể ép cho thất khiếu rỉ máu mà chết ngay tại chỗ chứ không sai.

Chàng quay lại nhìn Vân Tuệ thấy nàng ta cũng vậy, mặt nàng đã đỏ bừng và đôi mắt xanh của nàng đang nhìn mặt mình.

Chàng lấy làm lạ không hiểu tại sao, trước lúc sắp nguy hiểm này, chị Tuệ lại không cương quyết ra lệnh mà cứ nhìn mình như vậy làm chi?

Sự thật, Vân Tuệ không phải không cảm thấy khó chịu, sở dĩ nàng làm như thế là vì vừa rồi nàng đột nhiên trông thấy cảnh tượng kì lạ và thấy bộ mặt của Long Uyên cũng đẹp khác hẳn mọi khi, vì vậy nàng mới nghĩ ngợi vẩn vơ mà quên cả hiện tại.

Nàng tưởng tượng mình là tiên nữ mà Long Uyên là tiên đồng, hai người đang du trong cảnh tiên, đang dắt tay nhau vào một nơi rất thần bí để phó hội. Vì vậy nàng tuy thấy hơi khó thở nhưng trái lại, nàng không bảo Long Uyên rời khỏi chốn đó.

Nàng cảm thấy Long Uyên che chở nàng sẽ được an toàn và sung sướng. Vì vậy nàng không những không ra lệnh mà lại còn rất hiền lành như mì nghe chàng chỉ huy.

Vì thế Long Uyên không do dự gì nữa, nắm lấy hai tay của Vân Tuệ nhảy ra khỏi mình con Biệt không chịu nghe lời để nhô lên mặt nước... Ngờ đâu chàng vừa định hành động thì con Biệt kia bỗng ngừng lại. Chàng thấy chố đó là cạnh vách núi trong tuyệt cốc. Chàng nhìn kĩ thấy vách đó có một cái động đá cao năm thước, rộng hai thước, trong động có một luồng ánh sáng nhu hòa chiếu ra. Con Biệt hình như bảo hai người vào trong động ấy.

Long Uyên tập trung tinh lực nhìn vào trong động. Chàng rất ngạc nhiên khi thấy bên trong khô khan không có một giọt nước bể nào, chàng kinh ngạc vô cùng kéo Vân Tuệ cùng đi xuyên qua làn nước bể, nhảy vào trong động ấy. Chỉ nghe thấy kêu "lõm chõm", hai người đã thoát khỏi nước bể, vào trong hang động có không khí để hô hấp.

Hai người ở trong nước quá lâu, mới vào trong động liền hít mấy hơn thật mạnh, và cảm thấy không khí trong đó trong sạch và mát mẻ lắm, dường như đã tới một chốn thiên đường vậy.

Hai người hít đủ không khí rồi mới bắt đầu ngắm bốn bề xung quanh. Thấy hang động đó có một đường mòn rộng chừng một trượng, nhưng cong queo chứ không phải là đường thẳng, vì vậy hai người không biết trong đó sâu bao nhiêu và đi vào tới đâu? Hai người lại thấy trên vách động có khảm những hạt châu to bằng trái trứng bồ câu có ánh sags bạc tia ra. Nước bể ở ngoài động như bị một sức lực vô hình ngăn cản, không sao chẩy được một giọt nào vào trong động.

Long Uyên ngạc nhiên giơ tay ra thử tìm tìm xem có vách ngăn nào không, nhưng không thấy có vật gì cản trở mình cả. Chàng lui về phía sau ngắm nhìn những hạt chau một hồi rồi hỏi Vân Tuệ:

-Chị Tuệ tại sao nước bể lại không vào được trong hang này?

Vân Tuệ ngơ ngác lắc đầu, suy nghĩ một hồi rồi đáp:

-Có lẽ là do công hiệu của vách hạt châu ở trong hang động chăng?

-Phải rồi, trong Nam Việt Chí có ghi rằng: trong bể có một loại tê giác gọi là Phích Thủy Tê, nó đi đến đâu ánh sáng chiếu ra tới đó và nước bể cũng phải rẽ sang hai bên. Những hạt châu khẳm trên vách kia, đệ đoán chắc là nội đơn của con Tê giác tị thủy kia cũng nên. Chắc mấy trăm nghìn năm trước, động này nguyên ở trên mặt bể, sau vì động đất mà chìm xuống đáy bể. Vì cửa động có hạt châu ấy, nước mới không sao vào được.

Vân Tuệ thấy lời của chàng rất có lý, gật đầu mỉm cười nói tiếp:

-Đi! Uyên đệ! Chúng ta thử vào đó xem sao. Chắc trong hang động thể nào cũng có những vật lạ lắm. Bằng không, con Biệt khổng lồ này không khi nào vô duyên vô cớ mà đưa chúng ta tới đây.

Long Uyên với Vân Tuệ hai người đi sát nhau, thấy đường hầm ấy cứ đi ba trượng là phải quẹo sang bên liền. Đồng thời trên đỉnh động cũng một hạt châu như hạt châu ở vách động vậy.

Hai người đi quanh co một hồi, lúc ấy đã đi qua mười hai khúc cua rồi. Lối đi ở phía trước đột nhiên lớn rộng hơn bên ngoài nhiều, xa xa trông như một thạch thất trong đó ánh sáng chói lọi có đủ muôn mầu, đẹp khôn tả. Hai người rảo bước lướt tới gần đưa mắt nhìn xung quanh, cả hai đều giật mình đánh thót một cái.

Long Uyên hồi hộp vô cùng, hai tay nắm chặt lấy cánh tay phải của Vân Tuệ, chàng cảm thấy cánh tay nàng cũng hơi rung động, mới biết nàng cũng sợ như mình. Nhưng chàng nghĩ lại dù sao mình cũng là con trai, mình phải có trách nhiệm bảo vệ nàng. Vì thế chàng cố hết sức lấy can đảm ra bình tĩnh nói:

-Sao trong này có lắm người chết đến thế? Có lẽ năm xưa vì động đất khiến họ bị giam dưới này không lên được...

Thì ra trong thạch thất đó rộng chừng năm trượng, nưoi chính giữa có một cái chậu lớn đường kính hơn trượng đừng đầy vàng ngọc châu báu tựa như một quả núi nhỏ vậy. Những ánh sáng ngũ sắc và ánh sáng chói mắt đều do những bảo chân ở trong chậu chiếu ra. Cái đó không có gì đáng sợ hết, riêng có chung quanh thây người chết nằm ngổn ngang, người nào người nấy mặt trông rất hung ác, hình như trước khi chết họ chịu đựng nhiều đau khổ. Vì thế Long Uyên với Vân Tuệ mới vào tới nơi mới có vẻ hoảng sợ như vậy.

Vân Tuệ định thần xong trong lòng hoảng sợ vô cùng, bụng bảo dạ:

"Hang động này ít nhất cũng bị chìm trên ngàn năm, sao xác của những người này lại toàn vẹn như vậy, và cũng không có mùi hôi gì cả?"

Long Uyên cũng thắc mắc như vậy, chàng thấy Vân Tuệ cứ trố mắt nhìn mà không nói nửa lời vội buông tay ra, nhảy tới cạnh chậu nắm tay một cái xác lôi ra bên ngoài. Ngờ đâu chân tay mình mẩy của cái xác đó lạnh như băng, khi chàng nắm tay của cái xác đó lôi lên thì xác đó vẫn y nguyên dáng điệu ấy mà theo tay chàng nhắc bổng lên.

Chàng hoảng sợ vội vứt cái xác đó xuống kêu đánh "bộp" mọt tiếng, cái xác nảy lên cao hơn ba tấc mới rớt xuống. Chàng nhìn kĩ mới hay tất cả những xác người đó đều cứng ngắc và rắn như sắt đá vậy.

Chàng ở ngoài bể quần áo ướt dầm nhưng khi vào hang động thì nước khô hết. Vào trong phòng này cả giày vớ đều khô hết.

Lúc ấy Vân Tuệ đã đi tới gần, vì đế giày của nàng rất mỏng nên nàng vừa vào tới trong phòng đã nhận ra dưới sàn đất khác lạ. Nàng ngồi xổm xuống nhìn kỹ mới hay, sàn đất đỏ như lửa và nóng hổi, nàng để tay xuống cũng thấy nóng ran. Nàng vội bảo cho Long Uyên hay, Long Uyên thử khắp mọi nơi đâu đâu cũng vậy đều có hơi nóng như thế. Vân Tuệ lôi mấy cái xác sang bên, đi đến gần chậu đựng châu báu, nàng thấy chậu đó bằng bạch ngọc, san hô, mã não trong chậu không sao đếm được. Món nào cũng là vật vô giá ở trên trần gian,nhưng nàng chưa hề bước chân vào trung thổ bao giờ cho nên không rõ giá trị của những châu báu này. Nàng chỉ thấy chúng rất đẹp và thấy thích nó. Nàng cầm một chuỗi hạt châu có ánh sáng lên choàng vào cổ, nàng vô ý để tay phải đụng vào thành chậu ngọc, bỗng thất thanh la lớn:

-Ối chà...

Long Uyên nghe thấy tiếng kêu vội quay đầu lại, thấy nàng đeo chuỗi hạt châu trông không khác gì một tiên nữ giáng trần, chàng liền khen ngợi:

-Chị Tuệ đẹp thực, ủa vừa rồi chị kêu gì thế?

Vân Tuệ thấy Long Uyên khen mình thì thích vô cùng, lườm chàng một cách tình tứ, tủm tỉm cười đáp:

-Uyên đệ hỏi tôi ư? A này... Uyên đệ lại đây xem cái chậu này lạnh như vậy có kỳ lạ không?

Long Uyên rờ thử xem cũng kinh ngạc vô cùng. Chàng vội ngồi xuống xem xét, thấy cái chậu đó hình như liền với mặt đá. Chàng rất thắc mắc, sao trong phòng nóng hổi như vậy, mà riêng có cái chậu lại lạnh như thế? Nếu không phải trời sinh ra như vậy sao ta kiếm mãi không thấy khe hở gì cả?

Chàng nắm thử mép chậu, dùng sức nhấc thử xem nhưng không sao nhấc nổi, chàng lại lôi sang bên phải một cái thì bỗng nghe thấy có tiếng kêu cả mừng cố hết sức lôi thêm, nhưng chàng bỗng nghe Vân Tuệ gọi:

-Uyên đệ mau xem phía đàng kia, có một cánh cửa hiện ra kìa.

Long Uyên ngừng tay nhìn qua, thấy vách bên trái đã hiện ra mọt cánh cửa từ hồi nào không hay.

Cửa đó rộng hơn một thước, bên trong hình như cũng có một thạch thất và có ánh sáng xanh nhạt rất nhu hòa tỏa ra, chàng tự nhủ:

"Chắc nơi đây là chỗ tu hành của một vị tiền bối đắc đạo nào đó. Con Biệt khổng lồ đưa mình tới đây tất phải có thâm ý gì? Bây giờ ta đến được đây phải điều tra cho ra nguyên nhân của việc này mới được."

Không những lòng hiếu kì thúc đẩy mà chàng không muốn lỡ dịp may này nên quyết định phải tìm cho ra manh mối. Thế rồi chàng đi trước tiến thẳng sang phòng bên kia. Chàng kinh ngạc vô cùng, vì trong phòng rộng chừng hai trượng nhưng bốn vách đều có treo the xanh, dưới đất giản mền, giường ghế sập đều có đủ hết, trên giường có cả màn the nệm gấm.

Tất cả đồ dùng trong đó đều màu xanh, khiến người ta vào tới trong đó cảm thấy mát dịu vô cùng. Chàng kinh ngạc vì không ngờ dưới đáy biển lại tồn tại được một động phủ lịch sự đến như vậy. Vân Tuệ đi sau thấy Long Uyên bỗng ngừng chân đứng nhìn, nàng vội đẩy chàng đi vào để nàng được vào gần xem kĩ.

Long Uyên khoác tay nàng cùng đi vào trong căn phòng màu xanh và lịch sự ấy.

Hai người đi tới trước cái bàn đá xanh. Thì ra bàn đó làm bằng ngọc màu xanh thẫm, trên bàn có mọt ngọn đèn cung đăng, sáu mặt căng bằng lụa xanh, cả ngọn lửa của chiếc đèn đó cũng tỏa ra ánh sáng xanh nốt! Cạnh ngọn đèn còn có hai cái chốt nhô lên không hiểu dùng để làm gì. Trên mặt bàn chỉ có thế thôi chứ không còn vật nào khác.

Long Uyên mở hai cái hộc tủ ở bên dưới thấy trống không chẳng đựng một vật gì hết.

Vân Tuệ thử bấm một cái xem có cửa ngõ khác hiện ra không? Ngờ đâu tay nàng chưa đụng vào cái chốt ấy thì cánh cửa hai người vừa bước vào đã từ từ đóng lại không còn một khe hở nào hết, vì vậy nàng không nghĩ gì đến chuyện bấm thử cái chốt ấy nữa, vội chạy ra nhưng cửa đã đóng chặt rồi.

Hai người ngơ ngác nhìn nhau, Vân Tuệ luyền vén tấm màn treo màu xanh ở cạnh đó lên, thì thấy trên vách liền với cánh cửa vừa vào có những chữ nổi.

Long Uyên thấy không còn lối ra mới đoán hai cái chốt ở trên bàn thế nào cũng dùng để mở cửa, chàng vội chạy lại bấm thử cái chốt thứ nhất, liền có tiếng kêu kèn kẹt. Tất cả những màn the treo trên vách đều tự động cuốn vào góc vách.

Trên tường lộ ra vách ngọc và có khắc chữ cùng hình vẽ.

Chàng lo âu vì lối ra đã bị đóng kín, nên chàng không có tâm trí gì để ý xem những chữ và hình vẽ đó. Chàng lại bấm luôn cái chốt thứ hai thử xem, ngờ đâu góc vách phải kêu "kẹt" một tiếng đã có một cái cửa hình tròn hiện ra, cửa này không phải cửa chàng vào hồi nãy.

Long Uyên tưởng có lối thoát khác, vội nhảy vào trong đó, không ngờ trong đó chỉ là một cái vườn hoa nhỏ hình tròn thôi. Vườn hoa đó cũng là một cái thạch động, nhưng vì đỉnh động đặc biệt cao và bên dưới có trồng rất nhiều hoa quả kì lạ cho nên mới gọi là vườn hoa thôi.

Đỉnh động không những cao hơn mười trượng mà bên trên lại có khảm rất nhiều hạt châu to bằng cái chén có ánh sáng tỏa ra. Những hạt châu ấy tia ra ánh sáng như ban ngày vậy. Những vật đó vẫn chưa lạ bằng nơi chính giữa của khóm cây có cái ao nhỏ rộng chừng năm thước, nước xanh biêng biếc trông thấy đáy, bên trong có rất nhiều cá bơi đi bơi lại.

Bốn bề chung quanh vờn hoa đều là vách đá hình vòm ngoài ra còn có ba cái cửa nữa, không biết có phải là cửa đi ra bên ngoài không?

Long Uyên ngơ ngơ ngác ngác đi vào trong vườn, thuận tai hái một trái cây đỏ hồng đưa vào mồm cắn một cái, thấy ngon lành vô cùng. Chàng vừa ăn vừa đi quanh vườn hao một vòng. Lúc ấy chàng mới biết ba cái cửa đó thông sang ba căn phòng: phòng bếp, phòng tắm và cầu tiêu. Chàng thất vọng vô cùng thuận tay hái một trái cây nữa rồi trở lại căn phòng hồi nãy.

Lúc ấy Vân Tuệ đang tươi cười nhìn những chữ ở trên vách có vẻ say mê vô cùng. Chàng chạy lại đưa trái cây cho nàng. Nàng ta đỡ lấy trái cây đưa lên miệng ăn, nhưng mắt vẫn nhìn vào hàng chữ và hình vẽ ở trên vách.

Long Uyên thấy vậy vội đứng cạnh nàng xem những chỉ viết ở trên vách, chàng thấy trên đó viết:

"Tôi là Vương Lâu thời Hán Triều, không may thân là con gái mặt lại xấu như Chung Vô Diệm, tuy có tài ba hơn người nhưng không một người đàn ông nào dám gần tôi, vì thế tôi đau khổ vô cùng. Vể sau tôi nổi giận bỏ nhà ra đi, lên đỉnh Mao Sơn ngẫu nhiên được một dị nhân cứu giúp và được ông dạy bảo cho võ công lẫn phép dị dung. Tôi ẩn dật ở trong Thần Ngũ Phong mười năm mới thành công môn thay đổi bộ mặt và sau đó ngao du thiên hạ. Lúc ấy đàn ông ông ngu xuẩn mê tôi như điếu đổ thấy thế tôi càng ghét hận thêm vì tôi thấy người đời chỉ biết chuộng bộ mặt thôi. Lòng yêu của tôi biến thành thù hận, phàm người nào mê sắc đẹp cảu tôi, tôi đều giết sạch và lấy tiền của họ.

Có không biết bao nhiêu người chết ở trong tay, tôi không sao đếm được.

Lúc tuổi già: tôi càng chán nản đời sống của trần tục, liền đem hết tiền bạc đã cướp được của những người đàn ông bị tôi giết chết đến Đông Hải gặp sư phụ tôi.

Sư phụ trách tôi ra tay quá tàn nhẫn, sau dạy tôi cách luyện đơn và bắt tôi phải sám hối, rồi sư phụ tôi cưỡi con Biệt đi xa. Sáu mươi năm trời tôi mới luyện thành nội đơn và cũng giác ngộ những hành động xưa kia. Âu cũng là ông trời sai khiens nên mượn tay tôi mà không khiển trách tôi, lòng tôi mới yên, nhờ vậy tôi mới luyện thành chính đạo.

Thiết nghĩ tôi không muốn đạo và thuật của tôi bị thất truyền tôi ở trong động, biết động này trăm năm sau thể nào cũng chìm xuống đáy bể, và người có duyên thế nào cũng tới được. Vì vậy tôi lấy vách này làm giấy và ngón tay làm bút mà ghi lại những tuyệt kĩ của tôi lên đây, còn đạo cảu tôi là dung hòa ở trong võ công. Võ công thành tựu, đạo cũng thành nhưng phải lấy tôi làm gương mà đừng giết người bừa bãi.

Những vật báu ở phòng đằng trước, người hữu duyên có thể dùng nó, duy chỉ có cái chậu ngọc là do Huyền Băng nghênh tụ dùng để trấn áp ngọn lửa dưới đất, mong đừng có đụng vào nó, bằng không sẽ gây lên họa lớn.

Cửa của động này ba năm mới mở một lần, sức người không sao mở nổi.

Người hữu duyên vào trong này rồi, cửa ngõ sẽ tự đóng lại, nhưng đừng có sợ, phía sau động có cá tươi và trái cây đủ ăn no hai bữa hàng ngày. Ba năm sau tài ba thành công rồi ra đời hành đạo có thể tung hoành thiên hạ không bị lép vế một ai cả. Tôi xin chúc mừng ở đây trước, người hữu duyên hãy chăm chỉ luyện tập cho tới khi thành công đi!.

Đọc xong những chữ đó, hai người vừa kinh vừa mừng, nhất là Long Uyên nghĩ đến vừa rồi nếu không được chị Tuệ kịp thời phát hiện cửa ngõ bảo mình vào xem thì thế nào mình cũng di động cái chậu ngọc và gây ra họa lớn rồi.

Đồng thời chàng đọc xong những chữ đó không còn thắc mắc như trước nữa. Điều thứ nhất, con Biệt đưa hai người tới đây, chắc là con Biệt xưa kia sư phụ của Vương Lâu cưỡi. Thứ hai, động phủ này quả thực đã từng ở mặt đất, sau mới chìm xuống đáy bể, chứ không phải là xây dựng tự dưới đáy bể, nhưng Vương Lâu đi đâu? Sư phụ của bà ta là ai?

Những xác chết bên ngoài là những ai mà làm sao lại tới đây được? Những vấn đề đó chàng vẫn không sao hiểu biết được, nhưng chàng suy nghĩ giây lát liền nói với Vân Tuệ:

-Chị Tuệ, theo đệ nghĩ thì những người chết ngoài kia có lẽ là bọn hải tặc xưa kia. Trước khi động phủ này chìm xuống đáy bể, chúng đã tới, chúng thấy nhiều châu báu như vậy liền nổi lòng tham không ngờ chúng vào trong hang khong lâu thì động này đã chìm xuống đáy bể. Bọn người đó không ra được, khôn có gì ăn cho nên mới chết đói hết.

Vân Tuệ thấy chàng nói vậy cũng có lý, nhưng cũng hỏi vặn lại:

-Theo đẹ nói có lẽ chũng đã chết rất lâu phải không? Sao xác của chúng không bị hôi thối?

-Động chủ chả nói rõ rồi là gì?

Vân Tuệ ngơ ngác, nàng lại xem lại những chữ ở trên vách vẫn không thấy nhắc nhở gì đến chuyện người chết, nàng liền lườm chàng một cái rồi nói tiếp:

-Hiền đệ nói bậy, bà ta có nói ở trên vách đâu chẳng lẽ bà ta chỉ nói cho một mình hiền đệ biết hay sao?

-Trên đó chả nói cái chậu ngọc dùng để trấn áp ngọn lửa dưới đất là gì?

Vân Tuệ nghe vậy, gật đầu, Long Uyên lại nói tiếp:

-Vừa rồi lúc chúng ta vào chả sờ thấy mặt đất nóng hổi là gì? Những người đó ngã lăn ra chết, nước trong người của chúng đều bị hơi nóng đó rút khô, thịt và xương đều khô cả thì còn hôi thối sao được.

Vân Tuệ thấy lời Long Uyên rất có lý, nhưng vẫn không phục hỏi tiếp:

-Họ đã chết đói, lúc chết rất chậm chứ không nhanh như người bị giết chết phải không?

Long Uyên cũng bắt chước nàng gật đầu. Nàng lại hỏi tiếp:

-Nếu vậy ngồi ở trên đất nóng hổi chờ chết có phải là khó chịu biết bao không? Sao họ không chạy trở ra chỗ đường hầm mát mẻ mà chết có hơn không?

Long Uyên thấy nàng hỏi vậy không biết trả lời thế nào cho phải. Vì chết ở đâu cũng là chết cả. Sao người ta không kiếm một phương pháp hay một nơi nào để chết một cách dễ chịu có hơn không?

Vì thế mà Long Uyên không trả lời được. Vân Tuệ thấy vậy cười khì và nói tiếp:

-Để tôi nói cho hiền đệ nghe, chắc thạch thất bên ngoài cũng có một cánh cửa tự động như cánh cửa này vậy. Sau khi họ vào trong phòng rồi, cánh cửa liền đóng kín. Chúng không sao ra được nên mới phải chết ở trong phòng như thế.

-Phải, phải, chị Tuệ thông minh thật! Sao vừa rồi đệ lại không nghĩ ra?

Thấy chàng khen mình, Vân Tuệ rất khoái chí, trong lòng hân hoan vô cùng, nhưng lại thấy ngượng nghịu nên nàng cố ý vỗ chàng một cái giả bộ hờn giận nói tiếp:

-Sao giỏi múa mép thế? Ai bảo hiền đệ khen ngợi tôi như thế nào? Ủa, trái cây này tìm ở đâu ra thế? Sao ngọt quá như vầy?

Long Uyên liền kéo nàng vào trong vườn hoa và nói:

-Trong này nhiều lắm.

Vào tới trong vườn hoa ấy, Vân Tuệ thấy có nhiều cây trái rất lạ lùng, cây nào cũng cao bằng nửa người và trái rất sai, to có nhỏ có nhưng thứ trái nào cũng thơm ngon lắm.

Những cá bơi ở trong cái ao nhỏ, giống hệt những cá ở trong cù lao nhưng nó nhỏ hơn cá ở trong cù lao.

Còn ba căn phòng nhỏ kia, ngoài phòng tắm và cầu tiêu ra, căn phòng làm bếp bên trong có đủ dụng cụ.

Nhất là cái bếp lò làm bằng đá ở giữa có ba cái lỗ nhỏ lửa ở trong lò bốc lên ngùn ngụt, hình như lửa đó là lửa thiên nhiên vậy.

Trong phòng tắm có một cái bể con dài hơn trượng, bên dưới có một lỗ nhỏ phun nước ngọt ra đều đều nhưng có một điều lạ là nước ở trong bể lúc nào cũng chỉ sâu bốn thước thôi. Hai người cũng không hiểu nước chảy ra lối nào mà bể nước không đầy.

Vân Tuệ trông thấy nước ngọt mừng rỡ vô cùng vội đẩy Long Uyên ra ngoài phòng rồi cởi quần áo ra, nhảy luôn vào trong bể tắm liền.

Vì nước bể có muối, dù khô rồi người cũng nhơm nhớp khó chịu, nhất là thiếu nữ thì sự khó chịu đó càng nhiều hơn, nên Vân Tuệ vừa trông thấy nước ngọt tất nhiên mừng rỡ không thể tượng tượng được.

Long Uyên quay trở ra thạch thất, bỗng để ý đến quần áo mình dính đầy máu và muối bám khắp người khó chịu vô cùng, vì vậy chàng cũng muốn vào tắm.

Chàng thấy cạnh cái giường có một cái tủ bằng đá.

Chàng vội chạy lại mở ra xem. Chàng thấy trong đó có bốn ngăn. Ngăn thứ nhất chứa đầy những lọ nhỏ, ngăn thứ hai để những đồ lặt vặt, ngăn thứ ba và thứ tư đựng đầy những thứ mà chàng đang cần.

Những vật đó là quần áo, có đến ba mươi bộ. Những quần áo cả nam lẫn nữ, cũ và mới, có cả vải lẫn lụa, chàng đoán chắc những đồ dùng và quần áo đó là của chủ động Vương Lâu dùng để hóa trang cũng nên.

Chàng tìm kiếm mãi mới được một bộ của đàn ông bằng lụa trắng. Chàng vội vàng ôm quần áo đến trước cửa phòng tắm gọi:

-Chị Tuệ tắm xong chưa? Đệ đem quần áo đến cho chị đây.

Vân Tuệ đang ngâm trong bể, nghe tiếng chỉ sợ chàng xông vào, nên không kịp hỏi chàng lấy quần áo ở đâu mà vội vàng đáp:

-Tôi chưa tắm xong, hiền đệ cứ vứt quần áo vào cho chị.

Long Uyên đưa tay qua khe cửa ném vào bên trong, miệng thì giục:

-Chị Tuệ mau lên, đệ cũng muốn tắm.

Vân Tuệ ở trong đỡ lấy quần ào đê lên ghế rồi trả lời:

-Sắp xong rồi. Đệ ra bắt mấy con cá để lát nữa chị thổi cơm cho hiền đệ ăn.

Một lát sau nàng ở trong phòng tắm ra. Sau khi tắm rửa sạch sẽ và mặc quần áo gấm vào, Vân Tuệ không khác gì một tiên nữ ở trên cung trăng giáng trần vậy.

Long Uyên ngồi ở mép ao vừa bắt được hai con cá nhỏ màu hồng tươi, thì chàng vừa trông thấy Vân Tuệ bước ra, chàng bỗng thấy ngực đập rất mạnh. Từ thuở bé tới giờ chàng chưa hề có cảm tưởng lạ lùng như thế này.

Vân Tuệ và chàng bốn mắt nhìn nhau, trống ngực đập của nàng cũng đập mạnh, má của nàng ửng đỏ lên.

Long Uyên ngắm nàng hồi lâu; thấy nàng không nói nửa lời. Chàng bỗng rùng mình rồi vội đưa hai con cá cho Vân Tuệ và chạy vào phòng tắm ngay. Chàng vừa đi vừa nói:

-Chị Tuệ, đệ vào tắm rồi ra ngay, chị thổi cơm mau lên nhé!

Vân Tuệ đứng ngẩn người ra giây lát, thở dài rồi mới đi vào bếp.

Trong bếp có đủ thứ dụng cụ, nhưng đồ gia vị chỉ có muối thôi chứ không có thứ khác. Bất đắc dĩ nàng phải rửa sạch cá và dùng muối nấu. Tới khi Long Uyên vừa tắm xong thì nàng cuãng thổi chín cơm.

Hai ngày rồi, hai người chưa được ăn cơm, tuy ăn cá với muối nhưng cũng ngon khôn tả.

Hồi 6 Trở về cố hương.

Từ đó trở đi Long Uyên và Vân Tuệ ăn trái cây với cá và ở trong thạch thất luyện tập những võ công khắc ở bốn vách đá và thủ pháp dị dung.

Hai người ở cùng một phòng, tuy Long Uyên nằm ở trên cái thảm trải dưới đất, nhưng vì căn phòng ấy quá nhỏ khiến hai người được tiếp xúc luôn luôn nên tình cảm của hai người ngày càng khắng khít thêm.

Long Uyên lớn chóng lắm nên tình cảm của chàng thành thuộc cũng rất mau. Hai người ngày đêm gần nhau như vậy, Vân Tuệ lại đẹp như tiên nga nên Long Uyên đã đem lòng yêu nàng. Tuy chàng không nghĩ đến tình dục nhưng lúc nào chàng cũng muốn được ăn ở với nàng mãi mãi.

Tuy Vân Tuệ là người ngoại quốc, nhưng từ nhỏ đã sống theo tư tưởng của người Trung Hoa, nên tư tưởng và hành động của nàng cũng như những thiếu nữ người Hoa vậy, từ lúc mới gặp nàng đã đem lòng yêu Long Uyên nhưng lòng yêu lúc ấy khác với cảm giác yêu lúc bây giờ, vì lúc này nàng thấy Long Uyên đã như người lớn rồi nên nhất cử nhất động của chàng đều làm cho nàng yêu, dù nàng lớn tuổi hơn và hiểu biết hơn nhưng đàn bà bao giờ cũng thụ động nên nàng cứ chờ đợi Long Uyên tỏ lòng yêu trước mới dám thỏa thuận.

Ở trong động không có đêm ngày và cũng không có xuân hạ thu đông, Long Uyên phải lấy đá gạch vào vách để tính ngày tháng. Không bao lâu hai người đã ở trong động hơn hai năm rồi.

Long Uyên là người thông minh cái thế đã học thuộc lòng võ công và dị dung thuật khắc ở trên vách đá rồi. Vân Tuệ kém thông minh hơn chàng một chút nên mấy thế võ vẫn chưa học thuộc hẳn. Ngoài ra, trong hai năm đó Long Uyên đã cao hơn Vân Tuệ một cái đầu, về võ công cũng vậy. Giờ đây Vân Tuệ còn phải học chàng, đồng thời chàng còn dạy nàng những môn võ công ở trong "Đơn Thư Thiết Quyển".

Dị dung thuật khắc trên vách đá là lợi dụng quần áo đồ trang sức và mấy thứ thuốc màu không phai để cải biến dung mạo chứ không phải là môn võ công thay đổi khuôn mặt, như phép tiên. Trên đó có ghi rõ những đơn thuốc.

Khi ở cù lao, Long Uyên đã nghiên cứu qua cuốn Thần Nông Y Giản, nên chàng hiểu biết hết tính chất của các vị thuốc lại thêm chàng rất thông minh, bất cứ học hỏi môn thuốc nào cũng vậy, chỉ đọc qua hai lượt là thuộc lòng liền, nên các đơn thuốc khắc ở trên vách đá, chàng cũng học thuộc lòng hết.

Chỉ có một điều khiến chàng buồn nhất, là không sao ra được bên ngoài để hái thuốc làm thử. Nhưng Vương Lâu, chủ nhân của hang động hình như biết trước điều này, nên đã để sẵn nhiều thứ thuốc ở trong tủ đá cho chàng. Vì thế hai người cứ lấy những thứ thuốc đó ra mà bào chế và thi nhau hóa trang xem ai hóa trang nhanh, giỏi mà không có sự sơ hở.

Long Uyên và Vân Tuệ đều là tiên đồng ngọc nữ, do vậy chàng chỉ thích hóa trang thành người tuổi trung niên rất xấu hay người già nua yếu đuối thôi; Vân Tuệ cũng thường hóa trang thành một cụ bà, tóc vàng của nàng cũng hóa thành tóc bạc. Vì vậy trong thạch thất thường thường xuất hiện rất nhiều hạng người: già, trẻ, đẹp, xấu.

Không chỉ khuôn mặt, cả giọng nói cũng thay đổi.

Sở dĩ hai người thay đổi được giọng nói là nhờ trên vách đá có khắc môn "Ảo Vân Phục Ma Âm", môn này cần phải có nội công luyện tới mức thượng thặng mới học được để vận chân khí lên cổ họng, điều khiển thanh quan tùy theo ý muốn của mình. Mon đó khi luyện tới mức thật cao siêu có thể dùng chân khí đưa tiếng nói vào tai những người ở cách xa mình mấy trượng làm cho những người đó mất hết thần trí hoặc chết.

Nhưng môn này có một khuyết điểm là nếu dùng để giết người, thì chân khí trong người sẽ tiêu hao hơn nửa. Trong bốn mươi chín ngày, phải kiếm chỗ tịnh tu trong hai mươi bốn ngày, mới có thể trở lại bình thường. Bằng không, sau bốn mươi chín ngày, nội tạng sẽ bị thương tổn nặng, thổ huyết mà chết.

Đồng thời trong bốn mươi chín ngày đó, không những không thể xử dụng được lần thứ hai, mà thậm chí nếu đấu với người, chỉ dùng hơi sức hơi mạnh một chút, cũng nguy hiểm đến tính mạng. Vì thế, bất đắc dĩ lắm mới phải dùng tới nó để giết người.

Cho nên, hai người tuy đã luyện đến mức có thể giết người nhưng không dám vận dụng. Hai người chỉ dùng để thay đổi giọng nói.

Cũng nhờ có môn dị dung này, những ngày sống trong hang động của hai người mới khỏi khô khan buồn tẻ.

Trên vách còn khắc một võ thuật tên là "Phục Ma Kiếm Pháp", Vương Lâu đặc biệt chỉ rõ pho kiếm pháp này là một môn bí học của đạo gia huyền môn, oai lực rất mạnh, và phải có ngộ tính cao mới có thể lãnh hội được sự huyền diệu ở bên trong.

Bề ngoài pho kiếm pháp chỉ có năm thứ, tuy học rất dễ, nhưng rất khó tinh xảo.

Uyên nhi thông minh như thế mà cũng phải luyện tập hàng tháng mới thành công. Vì kiếm pháp ấy biến hóa rất nhiều, nên thể thức nào cũng có oai lực khôn tả, đối thủ càng lợi hại bao nhiêu, kiếm thức càng biến ảo khó lường bấy nhiêu.

Điều cốt yếu của pho kiếm pháp này là khi xử dụng là thiên thần và kiếm phải hợp nhất, tâm trí thống nhát, bằng không, không sao giở hết được sự huyền diệu của pho kiếm ấy ra.

Cái gọi thần, kiếm hợp nhất? Nghĩa là lấy lòng mình thay lòng trời, lấy kím mình thay kiếm trời. Người xử dụng pho kiếm này phỉa chính tâm thành ý, hoàn toàn giữ tôn chỉ "thay trời hành đạo" chứ trong lòng không được nghĩ đến chút tà niệm nào.

Long Uyên từ nhỏ đã không nhuốm bụi trần, rất lương thiện, nên lúc luyện pho kiếm đễ dàng đi đến cái tinh túy của pho kiếm. Vân Tuệ, vì bị ảnh hưởng của Cô Độc Khách, tính tình còn cố chấp, trong lòng nàng lúc nào cũng có ý muốn trả thù cho sư phụ, nên học tới pho kiếm đó, không tài nào tinh xảo bằng Long Uyên được.

Vì vậy, khi luyện Phục ma kiếm tốn công gấp đôi mà kết quả chỉ được một nửa, không sao phát huy được oai lực của pho kiếm. Long Uyên đã giải thích rõ cho nàng, mà nàng vẫn không sao quên được chuyện đó.

Thời gian của một năm sắp hết, chỉ còn một ngày nữa là hai người đã ở trong thạch động được ba năm rồi. Cả hai phấn khởi vô cùng, vì vậy mà cả hai không nghĩ ngợi, ngồi đợi cánh cửa thạch thất mở ra.

Vân Tuệ dùng vải khâu thành ba cái túi lớn, hai túi nhỏ. Túi dùng dùng đựng những trái cây kì lạ, còn túi lớn chàng để không.

Trong lúc chờ đợi Long Uyên nhìn chung quanh, ánh mắt lộ vẻ luyến tiếc, dù sao chàng ở trong động cũng được ba năm rồi, nên bất cứ vật gì ở đâu cũng trở nên thân thương. Chàng biết võ công của hai người hiện giờ đã có hỏa hầu rất thâm hậu, chỉ rời khỏi nơi đây là hai người không thể nào gần gũi nhau suốt ngày như vậy nữa. Điều này càng làm cho chàng luyến tiếc thêm. Nhất là sau khi rời khỏi nơi đây, chàng phải về nhà thăm cha mẹ, còn Vân Tuệ thì thế nào cũng vào Trung Nguyên trả thù cho Cô Độc Khách, như vậy hai người làm sao mà gần nhau được.

Còn Vân Tuệ nghĩ khác, nàng nhận thấy tương lai của mình rất đẹp và cũng rất buồn vì việc thứ nhất của nàng là phải đi trả thù cho sư phụ, phải làm xong việc đó nàng mới hết trách nhiệm, mới được tự do tự tại. Lúc ấy nàng sẽ cùng Long Uyên ngao du sơn thủy, và sẽ ký thác thân mình cho chàng.

Nhưng việc trả thù cho sư phụ rất lớn lao và cũng rất nặng nề. Bảy đại trưởng môn của bảy đại phái ở Trung Nguyên đều là những người có võ công cao thâm, dù võ công của nàng có cao siêu đến đâu cũng khó lòng giết hết bọn họ cùng một lúc, nên nàng phải dụng kế tầm ăn dâu mà đánh chết từng người một, nhưng dùng cách ấy thì lâu lắm.

Ngoài ra nàng lại không muốn Long Uyên giúp mình, vò Cô Độc Khách chỉ là sư phụ của nàng, nàng muốn chính tay mình trả thù cho sư phụ chớ không muốn nhờ ai hết, hơn nữa Long Uyên là người nối dõi duy nhất của họ Long; khi nào nàng lại để cho chàng mạo hiểm như thế, nhỡ mệnh hệ nào có phải là nhà họ Long tuyệt tự không? Đồng thời người của bảy môn phái đông như vậy, nếu như chàng giúp sức thì thế nào chàng cũng kết oán với chúng rồi chúng kiếm người nhà họ Long báo thù thì sao? Vì thế nàng không muốn cho chàng biết, vì chàng biết thế nào cũng giúp mình chứ không khoanh tay đứng nhìn đâu. Những việc đó làm hco nàng khó xử hết sức, nên nàng mới rầu rĩ như vậy. Trước khi chưa hoàn thành công việc báo thù cho sư phụ; lỡ trả thù không xong, bị kẻ địch giết chết có phải là đau đớn biết bao không? Hai người vì vậy cứ lẳng lặng nhìn cánh cửa, mỗi người nghĩ đến một chuyện nên không ai nói với ai một lời.

Long Uyên liếc mắt nhìn trộm thấy đôi ngươi tia ra những luồng sáng chói lọi, chàng kinh hãi vô cùng, và nhận thấy sắc mặt của nàng đáng sợ lắm, vì trước kia Vân Tuệ đã kể cho chàng nghe khi sư phụ của nàng sắp chết đã có sắc mặt như thế nào, nên bây giờ chàng biết Vân Tuệ đang nghĩ đến mối thù của sư phụ.

Chàng là người hiền lành trung hậu, không ưa những chuyện lạm sát. Theo nhận thức của chàng thì người đời ai ai cũng có quyền sống một cách tự do, người khác không được can thiệp tới và càng không được làm nguy hại quyền sống của người khác. Vì thế chàng không muốn Vân Tuệ quá lo nghĩ đến việc trả thù cho Cô Độc Khách nhưng bây giờ chàng thấy sắc mặt của nàng, biết nàng đã quyết chí trả thù.

Chàng không những đội ơn cứu sống của nàng mà còn rất yêu nàng nữa. Lúc này chàng không biết nên làm như thế nào cho phải? Giúp nàng trả thù cho Cô Độc Khách ư? Hay là làm thinh để mặc nàng đi trả thù lấy? Chàng nhận thấy hai điều đó đều trái với tôn chỉ định tâm luyện võ của mình, chàng muốn tìm ra cách hoàn hảo nhất để hòa giải mối oán thù cho nàng, nhưng chàng nghĩ mãi mà không nghĩ ra được phương pháp nào thì cánh cửa đã đến giờ khai môn. Hai người mải nghĩ nên quên cả cửa đã mở, tới khi cánh cửa khổng lồ bắt đầu đóng lại mới giật mình kinh hãi thét lớn, vội phi thân nhảy ra giơi hai tay chống đỡ. Lúc ấy khe cửa chỉ còn rộng hơn thước thôi. Chàng vận hết mười thành công lực ra đẩy mạnh một cái chỉ nghe thấy kêu ầm một tiếng, cánh cửa ngưng đóng trong giây lát.

Nghe tiếng quát của chàng, Vân Tuệ giật mình thức tỉnh, lúc này nàng biết dịp may chỉ trong nháy mắt la mất, nên nàng không dám trì hoãn, vội xách mấy cái túi nhảy vọt qua đầu Long Uyên phi thân ra bên ngoài.

Long Uyên dùng sức cầm cự với cánh cửa không cho đóng lại mất rất nhiều hơi sức. Máy móc sau cửa càng lúc càng mạnh. Lúc ấy tiếng kêu ùm ùm càng ngày càng lớn, cánh cửa càng ngày càng mạnh, nếu chàng lơi tay, cánh cửa sẽ đóng lại ngay. Vân Tuệ vừa đáp chân xuống, ném chồng áo và mấy cái túi xuống, quay lại thấy Long Uyên mặt đỏ bừng, mồ hôi toát ra như tắm, vội tiến tới giúp chàng chống đỡ để chàng chui ra.

Thấy Vân Tuệ đã chống cánh cửa hộ mình Long Uyên nhún chân nhảy qua đầu nàng ra phòng bên ngoài.

Lúc ấy Vân Tuệ cũng buông tay, chỉ nghe thấy kêu ầm một tiếng, cánh cửa đá đã đóng kín. Hai người nhìn nhau cười và nghĩ thầm:

"Nguy hiểm thực."

Vân Tuệ trông thấy mấy cái xác vẫn còn y nguyên liền cau mày lại nói với Long Uyên rằng:

-Long đệ mau bỏ hểt châu báu vào mấy cái túi lớn này, để tôi ra xem con Ngao biệt có còn đợi chúng ta ở bên ngoài không?

Lúc này Long Uyên mới biết Vân Tuệ khâu ba cái túi lớn mà không đựng gì, là dùng để đựng những châu báu ở ngoài này. Chàng vâng lời cầm mấy cái túi nhặt những hạt châu báu bỏ vào bên trong, mâm châu báu đó vừa chứa đầy ba túi.

Vân Tuệ đi ra một lúc đã quay trở vào, vui vẻ nói:

-Uyên đệ, con Ngao biệt vẫn đợi chúng ta ở bên ngoài, mau đi thôi.

Nói xong, nàng xách một túi châu báu với những túi nhỏ đựng trái cây, còn hai túi lớn để cho Long Uyên xách. Khi ra tới đường hầm, Long Uyên trông thấy hạt châu gắn ở trên đỉnh động liền nói với Vân Tuệ:

-Chị Tuệ, những hạt châu gần ở đỉnh động này đều là hạt châu kỵ thủy. Chúng ta lấy hai hạt xuống để dùng nhé!

Vân Tuệ gật đầu rồi nàng từ từ nhảy lên lấy hai hạt xuống. Ra đến cửa động Long Uyên đã thấy con Ngao biệt sáu chân bốn mắt đang bơi ở trong nước.

Nó vừa trông thấy hai người liền thò đầu vào trong động kêu ú ú hai tiếng tỏ vẻ vui mừng, nghênh đón.

Long Uyên không ngờ con vật này lại khôn ngoan đến thế. Chàng đoán chắc nó đã được chủ nhân dặn bảo bằng không nó biết sao được ngày giờ đến đây nghênh đón, hay nó đợi ở đây ba năm liền? Nhưng dù sao, chàng cũng cám ơn nó, nên chàng đưa tay vuốt đầu nó và hỏi:

-Sư phụ chủ nhân của cái động này đã dặn ngươi đưa chúng ta đến đây phải không?

Con Ngao biệt vui vẻ kêu ú một tiếng rồi gật đầu mấy cái.

Long Uyên hỏi tiếp:

-Nếu vậy, chúng ta phải cám ơn ngươi. Chị Tuệ, chúng mình phải cám ơn nó phải không?

Vân Tuệ cũng nghĩ như vậy, thấy Long Uyên nói thế vội mở cái túi nhỏ lấy mấy trái cây tươi ra và nói với con Ngao biệt:

-Ngao biệt ơi, chúng ta rất cám ơn ngươi, bây giờ ta mời ngươi ăn mấy trái cay tươi này để cảm tạ ngươi nhé!

Ngao biệt há mồm ra đớp, gật đầu cám ơn, rồi rụt đầu ra ngay.

Vân Tuệ cầm hạt châu kỵ thủy vừa lấy ở trên đỉnh động đưa cho Long Uyên một hạt, hai người cùng để hạt chau len bàn tay và đưa vào trong nước, quả nhiên nước biển liền rẽ ra tựa như trong hang động vậy.

Hai người thấy thế mừng rỡ vô cùng, Vân Tuệ đi nhẹ nhàng nhảy lên lưng con Ngao biệt. Long Uyên đi sau cũng nhảy theo lên. Hai người ngồi sát cạnh nhau. Hạt châu ở tay hai người tới đâu rẽ nước tới đó, tuy ở trong bể mà không ướt tí nào, hai người tựa như ngồi trong một quả cầu bên trong là không khí bên ngoài là nước.

Con Ngao biệt thấy hai người đã ngồi vững, liền bơi sáu chân như một mũi tên bắn thẳng lên mặt biển. Độ nửa tiếng đồng hồ sau đễ lên tới mặt nước, con Ngao biệt cỡi sóng mà đi. Hai người không trông thấy mặt trời đã ba năm, lúc này đã trông thấy mặt trời thì mặt trời đã bắt đầu lặn, sóng gió rất lớn.

Hai người nhờ có hạt kỵ thủy châu nên không bị ướt một chút nào. CẢ hai người đều sung sướng nhìn nhau cười. Tuy trời tối nhưng Long Uyên vẫn còn trông thấy cù lao ở phía Tây vẫn đen thùi thũi như xưa. Chàng liền giật cương con Ngao biệt đi về phía đó. Con Ngao bietj kêu ú một tiếng và nhanh như bay thẳng tiến về phía cù lao.

Không bao lâu hai người đã tới cù lao. Cả hai vô cùng mừng rỡ. Lúc gần tới thủy động Long Uyên ra hiệu cho con Ngao biệt bơi vào trong động nhưng nó kêu ú ú và lắc đầu cự tuyệt. Long Uyên cảm thấy nó định rời khỏi mình, tỏng lòng không nỡ, vì nó đã giúp hai người có được kỳ duyên, nên hai người đều muốn đền ơn nó, chàng hoảng sợ nhảy lên một tảng đá rầu rĩ hỏi:

-Ngươi định đi ư?

Ngao biệt lại kêu ú một tiếng, bốn mắt nó chớp nháy nhìn chàng, hình như nó cũng không muốn xa chàng vậy. Nhưng nhiệm vụ của nó đã xong, nó có nơi của nó, nó sẽ về với biển cả bao la, với đồng loại, nó sẽ thoải mái với không khí tự do.

Vân Tuệ cũng nhảy lên tảng đá ấy, trông thấy thái độ của con vật liền nói:

-Uyên đệ mau cởi những dây da ở trên người nó, nên để nó đi! Trên đời không có bữa tiệc nào là không có lúc tàn, chúng ta còn giữ nó lại ở trên này làm chi.

Nói tới đó nàng nhìn con Ngao biệt nói tiếp:

-Chúng ta rất cám ơn ngươi giúp đỡ, nhưng không bieets lấy gì cảm tạ ngươi, sau nầy chúng ta sẽ mãi cầu phúc cho ngươi. Nhưng mong ngươi đừng có làm những việc tàn hại sinh linh nữa. Khi nào ngươi đi ngang qua đây cứ kêu mấy tiếng, nếu chúng ta còn ở đây thể nào cũng ra gặp ngươi.

Trong khi nàng nói chuyện, Long Uyên đã cởi dây ở trên người nó ra nên nàng vừa nói xong, nó đã kêu U một tiếng rồi lặn xuống bể mất dạng.

Long Uyên không ngờ nó đi nhanh như thế, đứng ngẩn người ra như mất mát một vật gì vậy, Vân Tuệ thấy thế cười khanh khách nói:

-Uyên đệ, đi về nhà chứ? Nó đã về nhà nó sao chúng ta không về nhà chúng ta?

Thế rồi, hai người cùng đi nhanh như hai mũi tên phi lên đỉnh cù lao.

Long Uyên bỗng nổi hào khí ngửng mặt lên trời rú lên một tiếng thực dài rồi dụng thế Thần Long Thăng Không lướt như gió về trước.

Cảnh vật ở trong cù lao vẫn như xưa, và cũng như lúc hai người ra đi vày vì lúc ấy cũng là một đêm mùa hè, bây giờ cũng thế.

Hai người cũng về vào mùa hè cùng trong đêm tối. Nhưng cách biệt ba năm, khi trở về hai người cảm thấy mọi thứ ở cù lao trở nên thân thiết vô cùng. Một lát sau hai người đã về tới nhà cũ, trong ngoài không thay đổi chút nào, vẫn sạch sẽ như xưa, hiển nhiên vú Triệu không vì chủ nhân mất tích mà sao nhãng công việc.

Hai người lẳng lặng đi vào trong sảnh, lắng tai nghe thấy vú Triệu đang ngủ say, hai người nhìn nhau cười rồi lẳng lặng để túi xuống bàn về phòng ngủ một giấc ngon lành.

Trời sáng dần, vú Triệu ngủ dậy đi ra ngoài sảnh quét dọn, bỗng thấy trên mặt bàn có ba túi vải lớn, mồm lẩm bẩm tự hỏi:

-Những đồ này của ai thế?

Vú ta vừa quay đầu lại đã thấy Vân Tuệ đứng ở đằng sau, hai người vội chạy lại ôm choàng lấy nhau mừng mừng tủi tủi. Lúc ấy Long Uyên vừa bước ra, thấy vậy cảm động vô cùng. Vú Triệu đã già hơn trước nhiều, trên mặt đã có nhiều nếp nhăn hơn, còn mái tóc đã bạc trắng.

Vú Triệu trông thấy Long Uyên cao lớn như vậy suýt tí nữa không nhận ra chàng, lát sau vú mới chạy lại nắm tay chàng ngắm nhìn hỏi han luôn miệng. Theo lời của vú Triệu thì tối hôm hai người mất tích, những người ở trong cù lao đi thuyền ra tìm kiếm luôn mấy ngày, cha con Lý Thất nhờ hai người cứu cho thoát chết nhưng vì chiếc thuyền đã bị con cá kình phá vỡ, mãi nửa năm sau mới làm lại được chiếc thuyền khác vào Trung Nguyên mua dồ. Lúc ấy ai cũng tưởng hai người đã chết, cho nên đau lòng vô cùng. Nên những nông dân và người đánh cá ở trong cù lao này mỗi năm đã cử hành tế lễ hai người một lần.

Vú Triệu luôn đau đớn ứa nước mắt ra, vú nuôi và bồng bế Vân Tuệ từ hồi nhỏ đến lớn, tuy là người làm nhưng không khác gì mẹ vậy, nhưng vú vẫn tin tưởng thế nào cũng có ngày hai người trở lại, chứ hai người không thể chết yểu như thế đươc. Quả nhiên bây giờ hai người đã về, vú lại thấy hai người càng cao lớn xinh đẹp thêm làm sao mà không mừng rỡ. Sau khi nghe hai người kể cho biết ba năm qua ở đâu, vú Triệu vội ra ngoài báo cho dân làng hay.

Một lát sau, đã có mấy chục người lòng ôm con dắt trẻ đến đầy khách sảnh để thăm hai người và hỏi hai người trong ba năm đi đâu mà mãi bây giờ mới thấy về.

Long Uyên sợ mọi người nghĩ mình là thần tiên, nên chàng nói dối là lạc lên hoang đảo, gần đây mới có được một chiếc thuyền trở về.

Tất nhiên lời kể của chàng có nhiều mâu thuẫn nhưng mọi người thấy cả hai bình yên vô sự, cũng không hỏi lại nữa.

Những người đó chuyện trò một hồi rồi lần lượt cáo từ ra về. Lúc ấy Vân Tuệ với Long Uyên mới được nghỉ ngơi.

Từ đó trở đi hai người lại trở về cuộc sống yên bình như xưa.

Vân Tuệ một mặt may quần áo mới cho Long Uyên, một mặt ôn tập lại võ công.

Còn Long Uyên cũng ôn tập lại Đơn Thư Thiết Quyển và Thần Nông Y Giản. Lúc ấy Long Uyên đã trưởng thành, võ công cũng tự tin và có thể xông pha trên chốn giang hồ ở Trung Nguyên rồi. Chàng nhận thấy ở lại cù lao này, tuy ngày ngày có Vân Tuệ ở cạnh, nhưng trong lòng lúc nào cũng nhớ đến quê hương và cha mẹ.

Chàng nghĩ từ khi mình rời khỏi nhà đến giờ thấm thoát đã được mười năm, các bác và cha mẹ tuổi đã sấp sỉ bảy mươi chả sống được bao lâu nữa, nên chàng rất mong, chỉ muốn trở về thăm nhà ngay.

Vân Tuệ thấy sắc mặt của chàng biết chàng nhớ nhà, nên nàng liền lên tiếng hỏi, Long Uyên thành thực nói cho nàng hay và cũng muốn nàng cùng về với mình.

Vân Tuệ cũng muốn lắm, xong nghĩ mình đã quyết định làm dâu nhà họ Long rồi, dù sao cũng phải về chào cha mẹ chồng, lần này đi cùng chàng về thế nào cũng được lòng thương của các bác và cha mẹ chàng. Vì nàng là ân nhân cứu Long Uyên thoát chết và cũng như là sư phụ của chàng nữa, chỉ hai điểm đó gia đình của chàng cũng phải hoan nghênh nàng rồi, nhưng miệng nàng lại trả lời:

-Uyên đệ, tôi thiết nghĩ lần này hiền đệ nên về nhà một mình, vì ở đây tôi còn nhiều việc phải làm, nhưng tôi biết hiền đệ không thể ở nhà được lâu đâu, chắc thế nào chúng ta cũng gặp nhau trên giang hồ. Tôi định hai tháng sau đi Ninh Ba để hỏi thăm tin tức của cha mẹ tôi để xem cha mẹ tôi tên họ gì? Tuy tôi không nhớ ra được hình dáng của cha mẹ, nhưng làm con mà tên họ của cha mẹ cũng không biết thì còn gì đau đớn bằng?

Long Uyên nghe nàng nói vậy nghĩ thầm:

"Chị ấy đi hỏi thăm lai lịch và tên họ của cha mẹ, ta không có quyền gì khuyên ngăn hết, nhưng dù sao chị ấy cũng đi với ta về nhà một chuyến trước. Chắc chị ấy nói như thế để lấy cớ thoái thác thôi, chứ thực sự chị ấy không muốn như vậy có khác gì là không muốn ở đời với ta không?"

Nghĩ vậy, chàng cúi đầu rầu rĩ không nói một lời.

Vân Tuệ đoán được suy nghĩ của chàng, liền nói tiếp:

-Uyên đệ, nếu đệ có ý đi chơi Giang Nam thì một năm sau cháng ta gặp nhau ở núi Hoàng Sơn nhé. Tôi nghĩ hiền đệ nên ở nhà lâu một chút vì hiền đệ đã vắng mặt bá mẫu lâu thì cũng nên ở nhà một thời gian để cho bể trên vui một chút.

Long Uyên lẳng lặng gật đầu, nhưng trong lòng nghe đau thêm.

Sự thực Vân Tuệ có dụng ý riêng, nhất thời không muốn nói ra nên nàng nói sang việc khác:

-Uyên đệ, sau này hành đạo giang hồ phải cẩn thận lắm mơi được. Hiền đệ anh tuấn như vậy phải đề phòng những đàn bà xấu xa ở giang hồ. tôi còn nhớ lời của sư phụ nói những người giang hồ rất hiểm ác, khó mà đề phòng được, nhất là những người có vẻ mặt hiền hậu, nhưng có thủ đoạn xảo trá, ví dụ như những đàn bà dâm đãng chuyên mê hoặc đàn ông và ngấm ngầm hại người. Hiền đệ đẹp như vậy ai trông thấy mà chả yêu, hiền đề mới bước chân vào giang hồ kinh nghiệm non nớt nhất định sa ngã vào tròng của những người đàn bà ấy thì khó mà thoát thân được.

Vân Tuệ nói vậy là có dụng ý riêng, nhưng vì Long Uyên đã hiểu lầm nên không lãnh hội được ý nghĩa sâu sắc câu nói đó, thậm chí chàng còn hận là khác, nên chàng tưởng nàng có ý giễu cợt mình.

Vân Tuệ không thấy chàng nói gì thở dài nói tiếp:

-Hà, Uyên đệ, không phải tôi nói ngoa đâu, sự thật hiền đệ quá đẹp, bất cứ ai trông thấy cũng phải động lòng. Nhất là những thiếu nữ mới lớn, nếu hiền đệ không đề phòng chỉ hơi dễ dãi với họ một chút là họ lôi hiền đệ vào bẫy ái tình liền. Nếu đối phương là người hư thân mất nết, hiền đệ có thể bỏ mặc họ cũng không sao, nhưng nếu là con nhà tử tế, thử hỏi đến lúc đó hiền đệ xử trí ra sao... Tôi lo lắng nhất là vấn đề này...

Vân Tuệ đã thổ lộ hết tâm sự của mình cho chàng ta nghe, quả thực nàng lo nhất là Long Uyên gặp những thiếu nữ yêu chàng, chàng là người giàu tình cảm sẽ không sao bỏ rơi những thiếu nữ đó. Như vậy có phải là nàng xôi hỏng bỏng không không?

Long Uyên vẫn hiểu lầm, nên vẫn không nhận rõ được tâm sự của Vân Tuệ, vẫn tưởng nàng đang giễu mình, nên giọng ai oán:

-Chị Tuệ, tôi không đồng ý lời nói của chị, tôi chắc chị bị ảnh hưởng của Vương Lâu tiền bối cho người đời ai cũng trọng bộ mặt. Trái lại tôi cho ý kiến ấy không đúng, có bộ mặt anh tuấn tuy dễ gây được thiện cảm với người thực. Nhưng cốt yếu nhất vẫn là nhân phẩm và tâm tính mới được.

-Lời hiền đệ cũng có lý, nhưng người có ý nghĩ như hiền đệ quả thực ít ỏi, nếu hiền đệ không tin cứ thử hóa trang thành một người xấu xí xem. Tôi dám chắc không đầy một tháng hiền đệ thể nào cũng bị người trên giang hồ ghẻ lạnh, không một người bạn tri âm nào cả cho mà xem.

Long Uyên không phục cãi lại:

-Được, chúng ta đánh cuộc, khỳ hạn là một năm; đi lại trên giang hồ tôi sẽ hóa trang thành một thiếu niên xấu xí thử xem coi ai bằng lòng gần gũi tôi không?

Vân Tuệ nghe vậy mừng thầm, vì nàng biết Long Uyên rất trọng lời hứa, trong một năm xa cách nếu chàng cải trang thành một thanh niên xấu xí như vậy, chàng sẽ được biết lòng người như thế nào và mình cũng đỡ sợ thiếu nữ khác yêu chàng.

Như thế không khác gì đã mua bảo đảm một năm, tới khi gặp nhau ở Hoàng Sơn lúc ấy nàng đã trả thù xong cho sư phụ. Trong thời gian cách biệt đó thể nào Long Uyên cũng sẽ hiểu rõ tâm ý của nàng.

Ngay hôm sau Long Uyên vừa rầu rĩ, vừa quyến luyến mà rời khỏi cù lao. Cha con Lý thất đưa thuyền tiễn chàng ra khơi. Vân Tuệ tuy buồn rầu nhưng mặt vẫn gượng cười tiễn chàng ra đi, và bảo chàng đem theo hai túi châu báu và những quần áo thường dùng. Nàng đứng ở trên đỉnh cù lao nhìn theo chiếc thuyền của Long Uyên cho đến khi hút bóng mới thôi, rồi mới rầu rĩ trở về nhà.

Tất nhiên Vú Triệu cũng đau lòng vô cùng, vú ta thấy Vân cô nương như kẻ mất hồn, lại càng thương thêm. Vú vừa khuyên giải vừa nghĩ cách để ghép hai người thành vợ thành chồng.

Long Uyên cũng như Vân Tuệ, chàng đứng ở đằng lái nhìn về sau tới khi hút bóng nàng mới thôi. Chàng cảm thấy mình có hàng vạn lời muốn nói với nàng mà không sao nói ra được.

Tuy chàng rất yêu nàng nhưng trong lòng cũng còn sự hiểu lầm, chàng tự bảo:

"Ta hãy về nhà hưởng hạnh phúc gia đình một thời gian đã, rồi sẽ ra giang hồ như vậy ta sẽ khuây khỏa mà có thể tạm quên nàngd được."

Chàng chuyện trò với cha con Lý Thất để gắng quên đi hình bóng Vân Tuệ.

Ngày hôm sau thuyền đã sắp cập bờ. Long Uyên đã trông thấy lầu các ẩn hiện, chàng mừng rỡ khôn tả, không chờ thuyền vào tới bờ đã dụng khinh công tuyệt đỉnh nhảy ngay lên trên bãi cát chạy thẳng lên trên sườn núi. Chàng thấy cỏ hoang mọc đầy trên núi, khi tới nhà lại thấy cửa lầu đóng kín, mạng nhện giăng đầy như đã lâu không có người ở vậy.

Chàng kinh ngạc vô cùng vội đi tới gian giữa, mở cửa vào trong đại sảnh. Trong đại sảnh bụi bám đầy và không có một bóng người nào hết, chàng vội lên lầu mở hết các cửa phòng ra xem. Đồ đạc trong phòng vẫn bày biện như xưa nhưng người thì không biết đi đâu hết?

Chàng đau lòng vô cùng, đi quanh quẩn trong phòng của mẹ một hồi, đầu óc thì hồi tưởng lại khuôn mặt hiền từ của cha mẹ, đang suy tư tiếng động từ cầu thang vang lên làm chàng giật mình trở lại với hiện tại, tiếng chân người, chàng mừng rỡ vô cùng chạy ra nghênh đón. Ngờ đâu đó lại là cha con Lý Thất đang khuân đồ đạc đến cho chàng.

Lý Thất cũng ngạc nhiên hết sức, vì không thấy có người nào cả, lại thấy chàng rầu rĩ, y cũng ái ngại vô cùng.

Long Uyên cảm ơn cha con Lý Thất và giữ hai người ở lại một đêm, nhưng họ từ chối và bảo phải trở lại thuyền, và hỏi y có nhắn gì cho Vân Tuệ không?

Chàng đang rối trí nên chỉ ầm ừ, không biết nói năng gì. Rồi chàng tiễn cha con Lý Thất ra tận cửa.

Cha con họ đi khỏi, chỉ còn lại một mình. Chàng lại lên trên phòng ngủ của cha mẹ, nước mặt đột nhiên lăn dài trên má, mãi một lúc sau chàng mới cầm được những giọt lệ thương cảm, rồi đi kiếm chổi quét dọn phòng ngủ cho sạch. Chàng đem hành lý của mình lên, trải chăn lên giường để ngủ. Nhưng không sao chợp mắt được, bao nhiêu suy nghĩ lởn vởn trong đầu chàng, chàng ngồi dậy nhìn quanh. Chàng thấy căn nhà nguyên lành không bị suy chuyển chút nào, như vậy không phải là tai nạn. Nhưng sao không còn một người nào ở lại? Chắc là dọn đi nơi khác, nhưng dọn đi đâu?

Chàng lại đi quanh nhà xem xét một lần nữa rồi mới quyết định, nhưng vẫn không có dấu vết gì cho chàng biết là cha mẹ và các bác đã dọn đi đâu cả. Sau chàng quyết định chờ đến sáng sẽ đi hỏi những người ở lân cận xem họ có biết gì không?

Sáng hôm sau chàng rửa mặt qua loa, ăn một chút lương khô, rồi lại cố tìm trong các phòng một lần nữa. Nhưng chỉ thấy phòng nào phòng nấy bụi bám đầy.

Sau cùng chàng đi đến một căn lầu, lầu xây ở nơi sau cùng, trước kia là phòng của bác bảy Chi Trí ở. Hôm qua, chỉ có nơi này là chàng chưa đặt chân tới.

Khi lên tới cửa lầu, chàng bỗng giật mình đánh thót, trong lầu rất sạch sẽ, hình như có người quét dọn thường xuyên. Chàng bỗng thấy có hy vọng, vậy là còn có người ở đây. Chàng vội vàng mở từng căn một ra xem, quả nhiên thấy trong một căn phòng ở cuối lầu vẫn còn chăn gối và đồ đạc bỏ xót lại. Nhưng không vẫn không có bóng người nào cả, chàng nghĩ thầm:

"Có lẽ người này đã rời khỏi nơi đây rồi, nhưng đồ đạc chưa dọn đi, thế nào y cũng quay trở lại.

Bất cứ người ấy là ai, đã ở đây, tất nhiên phải biết tin tức của người nhà mình cho nên chàng quyết định ở lại đó chờ đợi.

Hồi 7 Gia đình đoàn tụ

Mặt trời vừa mọc ở phương Đông. Gió bể thổi vào mát dịu, trên núi Lao Sơn đang ngắm buổi bình minh, có một thiếu niên công tử, anh tuấn tuyệt phàm, đang đi lại ở trên đó. Hai mắt nhìn ra bể, tỏ vẻ buồn bực lo âu, đôi mày cau lại, hình như đang nghĩ ngợi vì một việc gì khó giải quyết vậy.

Không cần nói, quí độc giả cũng biết chàng ta là Long Uyên. Từ khi về tới núi Lao Sơn, mong được đoàn tụ với gia đình. Nhưng ngờ đâu cảnh vật vẫn như xưa mà người thì không còn. Chín ngôi lầu đều nguyên ven mà người thì đã don đi đâu không rõ?

Lòng mong mỏi cùng hy vọng của Long Uyên đều tiêu tan hết nhưng chàng vẫn không nản chí, lục soát lại lần nữa. Rút cục đã tìm được chút manh mối ở trong lần thứ bảy. Manh mối đó là một căn phòng có dấu hiệu của người ở, chăn gối đồ dùng, thức ăn đều có. Hiện tại người đó không có ở đây nhưng thế nào người đó cũng quay lại. Chàng đoán chắc người đó, dù thân hay sơ thế nào cũng biết đôi chút tin tức về người thân của chàng.

Nhưng chàng đợi đã ba ngày liền vẫn không thấy bóng dáng ai. Chàng có vẻ nản chí và cảm thấy trong lòng không yên. Chàng sống ở đó từ nhỏ, nhưng vì còn nhỏ nên chàng không hiểu rõ chuyện của gia đình.

Từ năm lên sáu, chàng lại bị người bắt cóc đem đi, từ đó chưa được gặp lại người nhà. Thậm chí cả những người ở Trung Nguyên này.

Nếu giờ chàng bỏ đi, trời đất rộng lớn này, biết đi đâu mà tìm cha mẹ và các bác? Vì thế chàng mới khó xử và do dự, không sao quyết định được. Còn một chuyện nữa cũng khiến chàng bồn chồn, cách xa Vân Tuệ mấy ngày chàng mới biết Vân Tuệ đối với chàng quan trọng như thế nào. Chàng cần có Vân Tuệ ở cạnh mình luôn luôn.

Ba ngày hôm nay những bữa ăn của chàng đều có lương khô do tay Vân Tuệ làm ra. Nếu ăn hết chỗ lương khô này mà vẫn chưa tìm thấy người nhà, thì biết làm sao đây? Có lẽ chỉ có một cách là đia hái những trái cây dại mà ăn thôi, vì chàng chưa hề thổi cơm và giạt dũ quần áo bao giờ. Lúc này vắng Vân Tuệ, chàng mới nhận thấy khó chịu vô cùng.

Ngày thứ hai, chàng đã thử nấu cơm, nhưng không hiểu tại sao, nồi cơm mãi không chín, quần áo giặt mãi không sạch, dù vò rách cả ra. Chàng nhìn ra ngoài khơi, nhìn về phía hòn đảo lòng vọng tưởng đến Vân Tuệ. Hình bóng Vân Tuệ chiếm gần hết tim chàng rồi. Tiếng nói, tiếng cười cứ hiện lên trong đầu óc chàng luôn! Chàng cảm thấy lúc này nếu có Vân Tuệ ở bên thì hạnh phúc biết bao!

Nếu có nàng ở cạch, cái gì cũng đẹp, vui vẻ. Vì thế mà chàng nhớ nhung đau khổ.

Chàng cứ đinh ninh khi nàng nghe Lý Thất kể cho nghe, thế nào nàng cũng tới đây ngay để an ủi chàng. Nhưng sự thật đã chứng minh là nàng không đến, nàng không coi chàng vào đâu, và nàng không muốn gặp người nhà của chàng.

Như vậy hiển nhiên nàng không muốn ở cạch chàng nữa. Chàng càng nghĩ càng đau lòng. Chàng đang nghĩ vẩn vơ thì bỗng nhận thấy có một người ở trên mỏm núi chạy xuống. Chàng nhanh nhẹ bay xuống cản lối đi của người ấy.

Thì ra người nọ vừa lên tới đỉnh đồi, bỗng thấy có người đứng ở mép núi đang nhìn lên không trung và rú lên, khiến y đinh tai nhức óc. Y tưởng là ma quỷ, nên hoảng sợ bỏ chạy xuống núi như vậy. Ngờ đâu, vừa quay đầu chạy đã thấy người đó ở trước mặt rồi. Y càng kinh hãi thêm, sợ đến mất cả hồn vía, hai chân mềm nhũn, liền quì ngay xuốn.

Long Uyên nhanh mắt nhận ra người đó chính là Long Ngũ, một lão bộc của gia đình mình. Chàng biết lão bộc quá hoảng sợ, nên chàng vừa nhìn y vừa mỉm cười, phấn khởi đỡ y dậy mồm hỏi.

-Bác! Bác có phải là Long Ngũ không? Sao bác không nhận ra tôi? Tôi là Uyên nhi đây mà!

Người đó quả là Long Ngũ nghe hỏi liền ngửng mặt lên nhìn, thấy thiếu niên anh tuấn này quả thật hao hao giống cậu ấm. Nhưng mười lăm năm về trước, cậu ấm bị người ta bắt cóc và từ đó đến nay biệt vô tăm tích, tại sao hôm nay lại xuất hiện ở nơi đây? Y không dám tin vội giơ tay lên dụi mắt.

Y lại nghe Long Uyên hỏi tiếp:

-Long Ngũ! Tôi là Uyên nhi đây! Lão gia cùng thái thái mấy người đâu? Các người... dọn đi đâu rồi? Sao chỉ có một mình bác ở lại đây trông nom nhà cửa?

Lúc này Long Ngũ đã trông rõ hơn. Quả thật thiếu niên đứng trước mặt mình đây là Uyên thiếu gia chứ không sai. Y mừng rỡ vô cùng, ứa nước mắt ra, vì người nhà họ Long, cả chủ lẫn tớ, ai ai cũng quý trọng Long Uyên như một báu vật vậy. Chàng mất tích hơn mười năm nay, mà cả những đầy tớ con sen, ngày đêm đều thương nhớ chàng.

Bây giờ, Long Ngũ đột nhiên thấy tiểu chủ nhân đột nhiên xuất hiện, y không mừng rỡ và ứa nước mắt sao được!

Long Uyên không biết cha mẹ và các bác mình sống chết ra sao, trông thấy mặt người đầy tớ này đã vội hỏi. Nhưng chàng bỗng thấy Long Ngũ ứa nước mắt ra khóc. Chàng cả kinh, lại tưởng cha mẹ và các bác có mệnh hệ nào, nên chàng vội nắm chặt hai tay Long Ngũ, vội hỏi:

-Long Ngũ, lão gia và thái thái các người đâu? Có chuyện gì không hay chăng?

Chàng quên là mình có võ công tuyệt thế, hai tay cứ nắm chặt lấy tay của Long Ngũ, như vậy lão bộc làm sao mà chịu nổi? Chỉ thấy tiếng kêu "ối chà" mấy tiếng, mặt biến sắc, mồ hôi lạnh toát ra như mưa, mồm kêu la hoài.

-Thiếu gia buông tay!... già này chịu không nổi!...

Lúc ấy, Long Uyên mới phát giác, cười khì một tiếng, vội buông tay ra. Long Ngũ mặt cau có, quên cả lau mồ hôi, vội suýt soa hai tay, mồm kêu đau hoài.

Long Uyên áy náy vô cùng, vội xoa bóp hộ người đầy tớ già đó và một mặt hỏi tình hình của cha mẹ và các bác mình.

Long Ngũ thấy thái độ của Long Uyên nóng nảy như vậy không khác gì hồi còn nhỏ, nên y vừa suýt soa vừa kể lại tình hình của gia đình chàng trong mấy năm gần đây nhe thế nào cho chàng nghe.

Thì ra từ khi Long Uyên đột nhiên mất tích, nửa năm sau quí vị lão gia đã có bẩy người đau ốm. Người nào người nấy đều đau lòng hết sức vì tưởng là chàng đã chết rồi.

Long Trí Chi là người lạc quan nhất và giỏi về tướng số y lý, biết chàng chỉ có kịch hiểm chớ không việc gì tới bản mệnh, sau nầy thế nào cũng làm nên. Ông vội chữa bệnh cho các người anh, và một mặt giảng giải cho mọi người khỏi đau lòng.

Trí Dũng là một vị hiệp sĩ trong võ lâm, tuy qui ẩn ở trong một gia đình, nhưng tính vẫn hào phóng như xưa.

Tất nhiên, ông ta cũng nhớ con, nhưng ông biết Long Uyên cốt cách rất thanh kỳ, thể nào cũng thoát hiểm được và còn có duyên kỳ ngộ là đằng khác. Vì ông ta mới yên tâm phần nào mà giúp đỡ người anh thứ bảy là Trí Chí hầu hạ trông nom các người anh đang đau ốm. Dần dần, bảy ông già nhà họ Long đã lành mạnh hết, nhưng vì ốm một trận như vậy, người nào người nấy đều suy nhược hết.

Trí Chí thương lượng với Chí Dũng nên dọn về nhà cũ ở thì hơn, để tránh cho các người anh già nua khỏi phải ngày ngày trông thấy những cảnh vật làm cho họ lúc nào cũng tưởng nhớ đến Uyên nhi. Hơn nữa, ở bờ bể gió bể quá mạnh làm các ông già chịu đựng không nổi.

Trí Lễ đồng ý. Thế rồi, năm sau, tức là ngày Long Uyên đã rời khỏi gia đình được hai năm, thì nhà họ Long đã dọn vào trong thành ở, chỉ để mình lão bộc ở lại trông nom nhà cửa.

Mấy năm gần đây, cửu lão của nhà họ Long tuổi tác đều già nua, nhưng nhờ có Trí Chí trông nom thuốc thang cho, nên người nào người ấy vẫn còn khỏe mạnh.

Long Uyên nghe nói mừng rỡ vô cùng, liền hỏi địa chỉ ở đâu? Long Ngũ mừng rỡ, vội đáp:

-Xin thiếu gia đợi chờ một lát, tháng nầy đến phiên lão bộc ở đây trông nom, để lão bộc xếp đật đôi chút rồi đưa thiếu gia về nhà.

Long Uyên nóng lòng sốt ruột, chỉ muốn về tới nhà ngay, nhưng thấy thái độ của Long Ngũ thành khẩn như vậy, chàng phải chịu chờ đợi y xếp đạt đồ đạc quần áo.

Sự thực, Long Ngũ có xếp đặt gì đâu, chỉ để quần áo của mình vừa đem xuống, cất những lương thực vào trong tủ đấy thôi.

Thế rồi hai người vội vàng xuống núi. Suốt dọc đường, chàng vừa đi vừa hỏi thăm Long Ngũ về những chuyện sau khi mình đi, rồi ở nhà các người như thế nào?

Tha hồ cho chàng nóng lòng hỏi vội đến đâu, nhưng Long Ngũ vẫn cứ thủng thẳng đáp. Long Uyên hỏi địa chỉ nhà ỏ đâu để đi một mình về trước, Long Ngũ trả lời:

-Xa lắm, thiếu gia cứ theo lão bộc mà đi. Trưa ngày mai thế nào cũng về tới nhà. Bằng không chung ta xuống tới dưới núi thuê một chiếc xe lừa thì may ra đến canh ba đêm nay sẽ tới...

Long Uyên thấy lão bộc nói như vậy nóng lòng sốt ruột thêm, chàng chỉ muốn vài ba bước là tới nhà ngay. Nên chàng vừa bực mình vừa tức cười, nghĩ giây lát liền hỏi tiếp.

-Long Ngũ, thế này vậy, bác cứ nói cho tôi biết địa chỉ để tui về trước còn bác xuống núi thuê xe tìm hai người phu đem những hành lý của toi để ở trên phòng lão gia xuống rồi đem cả về nhà cho tôi.

Nói xong, chàng nhét một nén bạc vào trong tay Long Ngũ, Long Ngũ suy nghĩ một hồi rồi đáp:

-Thưa thiếu gia, nhà của chúng ta ở phía tây thành Chức Mạc, ngay chỗ chân thành, dễ kiếm lắm, lão bộc chỉ sợ thiếu gia không biết đường lối thôi.

Long Uyên nghe thấy mới hay Long Ngũ coi mình như đứa trẻ lên ba liền mỉm cười, vội át giọng y:

-Không sao, bác cứ nghe lời tôi mà làm nhất định không sai đâu.

Nói xong, chàng không đợi Long Ngũ trả lời đã giở khinh công tuyệt học ra đi nhanh như một luồng gió tiến thẳng về phía tây tức thì.

Long Ngũ vẫn tưởng chàng là đứa nhỏ, sợ chàng lạc lối đang định phản đối, ngờ đâu y cảm thấy hoa mắt một cái thì không trông thấy hình bóng của chàng đâu nữa. Y sợ vô cùng lại tưởng là trông thấy ma giữa ban ngày, ngẩn người giây lát, nhưng thấy thỏi bạc trong tay là thực, y vội lên núi tức thì.

Y chạy một hoi thẳng lên trên lầu của Trí Dũng vào tới trong phòng quả thấy trong đó có rất nhiều hành lý.

Lúc ấy y mới bán tín bán nghi, ngồi chốc lát rồi mới theo lời dặn của Long Uyên xuống núi thuê xe va fphu lên khuân hành lý.

Lại nói, Long Uyên đã biết người nhà vô sự và biết rõ địa chỉ rồi chàng phấn khởi vô cùng. Lúc này chàng đã giở hết tốc lực khinh công tuyệt đỉnh ra: chàng không đi đường cái mà chỉ xuyên qua đường núi tựa như sao sa điện chớp, dù là ban ngày, nếu có ai thấy cũng chỉ như thấy một luồng khói.

Chàng chạy một hơi thẳng về phía tây không bao lâu đã tới cánh đồng bằng và xa xa đã trông thấy một thành trì nho nhỏ rồi. Chàng nóng lòng về nhà cũng không nghĩ đến người đời kinh hoàng nếu chàng cứ tiếp tục giở khinh công đi tiếp, sau cùng càng thấy nhiều người và cách thành cũng xa chàng mới đi chậm lại.

Chức Mạc là một đô thị của nhà Tề xưa kia, thành trì rất cổ kính nhưng không kém hùng vĩ và là nơi có rất nhiều di tích cổ.

Tuy Long Uyên học rộng, nhưng vì bình sinh chưa bước chân vào phố của người đời bao giờ. Bây giờ mới thấy thành cổ ở trước mặt, người người đông đúc chàng càng phấn khởi thêm.

Chàng từ từ đi vào trong phố, trông thấy thương điếm ở hai bên đường nhiều như những cây ở trong rừng vậy. Những người buôn bán đi lại mỗi người làm một nghề không ai giống ai. Những người ấy thấy chàng là một thanh niên phong lưu tuấn tú đều trố mắt lên nhìn. Thấy mọi người nhìn mình như thế hổ thẹn vô cùng, hai má đỏ bừng.

Một hồi lâu chàng mới quen dần, chàng nhận thấy đi trong đám đông mình không nhìn người, người cũng nhìn mình, nhưng cái đó không lấy gì làm lạ hết. Chàng tìm một tên bán hàng rong hỏi thăm địa chỉ. Tên bán hàng thấy chàng hỏi thăm địa chỉ nhà họ Long liền chỉ ngay và còn định đưa chàng đi.

Thì ra nhà họ Long ở thành Chức Mạc này tuy không lâu năm nhưng vì nhà cửa đồ sộ và giàu nhất nhì trong thành, hơn nữa nhà họ Long có tiếng là từ tâm, ưa giúp đỡ cho những kẻ nghèo hèn nen hễ nói đến nhà họ Long là người trong thành ai ai cũng biết.

Cho nên chàng vừa hỏi người bán hàng rong kia mới chỉ đường ngay là thế.

Chàng khiêm tốn cám ơn, nhất định không chịu để cho người đó đưa mình đi. Chàng hỏi rõ phương hướng rồi một mình đi luôn, không bao lâu đã đến phía tây thành. Xa xa chàng trông thấy rõ nhà cửa của mình rồi.

Nhà của họ Long rất rộng lớn, chung quanh xây bằng tường đỏ, bên trong rất nhiều cây cối và những nhà ở trong bờ tường đều xây hai từng.

Long Uyên xúc động vô cùng, tay run run giơ lên gõ cửa. Chàng không đợi chờ người nhà mở cửa cho mình vào đã vội hỏi ngay:

-Cửu lão gia có nhà không? Ông ta đang ở lầu nào thế?

Người mở cửa đó cũng là một lão bộc của nhà họ Long, trông thấy thiếu niên gọi cửa anh tuấn vô cùng và hao hao giống Uyên thiếu gia nên trố mắt nhìn.

Y nghe thấy Uyên nhi hỏi Cửu lão gia nên buột miệng hỏi:

-Thiếu gia có phải là Uyên thiếu gia đấy không? Ủa Cửu lão gia ở bên trái, Uyên thiếu...

Thấy Long Uyên gật đầu nhìn nhận, y càng kinh hãi thêm và chỉ chỗ ở của Trí Dũng cho chàng, và đanh định hỏi thêm thì thoáng thấy có bóng người, Long Uyên đã biến mất dạng.

Vì vậy, y ngơ người ra như tượng gỗ không biết nói năng gì nữa.

Long Uyên biết cha mẹ ở đâu rồi, liền chạy vào trong lên tòa lầu hồng ở phía bên trái. Vừa vào đến cửa chàng đã lớn tiếng gọi:

-Cha, mẹ, Uyên nhi đã về.

Trí Dũng đang cùng Trí Chi đánh cờ trong thư phòng: Long Uyên trông thấy một ông già râu tóc hoa râm, chàng đã nhận ra là cha mình, lâu ngày cách biết bây giờ gặp lại hai cha con đều đứng ngẩn người ra không biết làm cách bì cho phải.

Trí Dũng thấy trong sảnh có một thiếu niên anh tuấn chính là đứa con cưng của mình mất tích lâu ngày ông ta cứ đứng đờ ra không biết làm gì.

Trí Chi thấy vậy mừng rỡ vô cùng, giọng run run hỏi:

-Có thực... Uyên nhi còn đã về đấy không?

Cha con Long Uyên thấy Trí Chi nói như vậy mới hoàn hồn. Long Uyên la lớn một tiếng nhảy xổ lại quỳ trước mặt bác và cha dập đầu xuống đất vái lạy lia lịa:

-Uyên nhi báy lạy cha và thúc phụ.

Chàng chưa nói dứt, nước mắt đã trào ra như mưa và không sao nói tiếp được.

Trí Dũng vội cúi người đỡ chàng dậy ngắm nhìn hồi lâu và ôm chàng vào lòng:

-Con! Mẹ con nhớ con đến chết đi được...

Ông cũng quá cảm động mà không sao nói tiếp được nữa. Nhưng dù sao ông ta cũng là một vị đại hiệp hào phóng hơn người nên ông ta không nói mình mà chỉ lấy vợ ra nói mà thôi. Ông nức nở một hồi rồi kéo Long Uyên đến trước mặt Trí Chi lớn tiếng cười ha hà và nói:

-Thất ca, tiểu đệ chịu phục tài bói toán thần diệu của Thất ca, Thất ca xem này, Uyên nhi của chúng ta chả bình yên trở về là gì? Chắc thế nào nó cũng có kỳ ngộ gì và đã luyện thành công môn kỳ học gì cũng nên...

Trí Chi cũng ứa nước mắt ra nắm hai tay Long Uyên ngắm nghía một hồi khiến Long Uyên ngượng vô cùng, Trí Dũng nói xong cười ha hả tiếp:

-Bây đâu! Mau báo cho phu nhân và các vị lão gia hay là Uyên thiếu gia đã về. Một lát nữa ta sẽ đưa thiếu gia sang thăm các vị lão gia. Nếu đợi không được thì mời các vị lão gia sang đây.

Lúc ấy những con sen và vú già đã nghe thấy tiếng cười vội chảy cả ra sảnh, ai nấy đều tươi cười và vui vẻ nhìn Long Uyên. Sau nghe chủ dặn bảo, chúng đều vâng lời, vội vàng đi báo tin ngay.

Tuy Trí Chi không biết võ học nhưng giỏi về bói toán, xem người đã nhiều, nên ông ta trông thấy Long Uyên như vậy đã biết ngay chàng đã gặp kỳ ngộ, nên có đôi mắt sáng như hai ngọn đèn, da hồng và bóng như ngọc, thân hình nỡ nang rất đều đặn, bất cứ so sánh với ai chàng cũng đều đặc biệt hơn hết. Có thể nói là Rồng trong đám người, nếu chàng không kỳ ngộ và không học cả văn lẫn võ thì làm sao được như vậy.

Trí Chi càng ngắm cháu càng khoái chí rồi lớn tiếng cười khen ngợi, nói tiếp:

-Uyên nhi quả đã học thành tài, các vị huynh trưởng thấy chắc mừng rỡ lắm. Uyên nhi, mười năm nay con ở đâu thế? Con mau nói cho bá bá và cha con nghe đi.

Long Uyên cố mãi mới nén được tình cảm của mình xuống. Chàng đưa mắt nhìn thấy bác và cha mừng rỡ như vậy, trong lòng rất vui mừng. Chàng đang định trả lời thì bỗng nghe thấy cầu thang có tiếng chân người nhộn nhịp và tiếng nói quen thuộc mừng rỡ và cảm động hết sức. Tiếp theo đó một giọng nói quen thuộc vọng lên:

-Con... Uyên nhi đó à? ... Con...

Long Uyên đã nghe tiếng mẹ mình, chàng không còn nghĩ đến chuyện trả lời câu hỏi của Thất bá phụ nữa, vội gọi mẹ một tiếng rồi vội chạy ra ngoài cầu thang ôm chầm lấy một bà cụ dáng gầy gò và rất hiền lành, rồi chàng òa lên khóc.

Bà cụ nọ tuổi đã quá ngũ tuần, đầu tóc hoa râm đủ thấy tuổi tác còn trẻ hơn hình dáng và thái độ của bà.

Bà cụ ấy chính là mẹ Long Uyên, vì nhớ thương con suốt mấy ngày lấy nước mắt rửa mặt nên mới chóng già như vậy. Tuy nước mắt nhỏ giọt nhưng mặt bà hớn hở vô cùng, giọng nghẹn ngào, gọi luôn mấy tiếng:

-Con... Uyên nhi... Con...

Rồi cứ ôm chặt lấy cổ người con vì sợ buông ra sẽ mất nó đi.

Long Uyên gục vào lòng mẹ gọi mẹ luôn mồm, hao tay ôm lấy ngang lưng bà mẹ khóc.

Chí Dũng bình tĩnh trước, liền cười ha hả nói:

-Phu nhân, hai mẹ con thương nhau như vậy đã đủ chưa, có mau đứng dậy đi không, đại ca tới rồi đấy.

Mẹ Long Uyên nghe chồng nói như vậy mới cảnh tỉnh, LU cũng từ từ ngửng mặt lên nhìn mẹ, mắt lại ươn ướt. Bà mẹ hiểu lòng con gượng cười dùng khăn lau nước mắt cho con và nói tiếp:

-Con ngoan, con về tới đây mẹ mừng đến chết đi được. Xem con này, đã lớn thế này rồi, có còn bé bỏng gì nữa đâu mà khóc.

Nói xong bà khẽ vạch vào má Long Uyên chế diễu:

-Lớn thế này rồi mà còn khóc, không biết xấu hổ!

Long Uyên mặt đỏ bừng, hai tay ôm chặt lấy mẹ, bế mẹ đi xuống đại sảnh. Mọi người thấy chàng khỏe như vậy đều giật mình kinh hãi; khi đặt mẹ xuống đại sảnh mới hay mình đã cao hơn mẹ một cái đầu.

Bà mẹ lại giật mình đánh thót một cái, sau bà khẽ tát má Long Uyên một cái, hờn mà mừng nói tiếp:

-Mười mấy năm không gặp con, con đi đâu học được mấy miếng võ mang về đây dọa mẹ như vậy, có đáng đánh đòn hay không?

Bà ta với Chí Dũng kết hôn mấy chục năm nhưng chưa hề học qua một miếng võ công nào, nhưng mắt thấy tai nghe nhiều, nên biết nhiều danh từ của làng võ. Chí Dũng nghê thấy vợ nói vậy không sao nhịn được cười. Chí Chi cũng vậy.

Lúc này Long Uyên mới biết mình ẵm mẹ như thế là vô lễ, hổ thẹn vô cùng, bà mẹ thấy vậy biết ngay liền kéo tay chàng ngồi xuống cạnh bên:

-Mấy năm nay con đi đâu thế? Con có được sung sướng không? Mẹ suốt ngày mong nhớ bắt cha con đi tìm kiếm, nhất là các bác, từ khi con mất tích đến giờ ai nấy lần lượt đau ốm, may có bác bảy của con giỏi về y lý tinh tướng, bác ấy gieo một quẻ nhận thấy con không bị nguy hiểm và lúc trở về thế nào cũng có kỳ ngộ, chưa đến ngày giờ có đi tìm cũng không sao thấy đâu. Cha con tin lời bác bảy nên nhứt định không đi tìm kiếm con, dù mẹ có giục đến đâu cha con cũng làm thinh, đấy con xem có tức đến chết đi được không? Ngờ đâu mười năm sau, hôm nay con lại mạnh khỏe trở về thế này, thực lúc này mẹ mới chịu tài ba của bác bảy con.

Chí Chi đứng cạnh nghe, không chờ Long Uyên lên tiếng đã xen lời nói:

-Thím chín, không phải tôi nói khoác, nếu ngày đó mà tôi nói sai không những thím chín không nghe, ngay đại ca, bác tư gái với nhà tôi thế nào cũng nói tôi đến chết mới thôi.

Nói xong ông ta cười ha hả.

Lúc ấy ngoài cửa sảnh đã có tiếng chân người đi vào nhộn nhịp và có một giọng già vừa cười vừa mắng:

-Lão thật không đáng nói hay sao? Nếu năm xưa khoong phải chú tự tiện cho nó đi chơi một mình như vậy thì làm gì có chuyện xảy ra như thế.

Lúc ấy mọi người trong phòng biết đại ca đã tới, ai nấy vội đứng dậy nghênh đón. Long Uyên đứng ở đằng trước vừa trông thấy ông già nọ đã cúi mình vái chào:

-Đại bá phụ.

Chào xong chàng định quỳ xuống, nhưng ông già tuổi trạc bảy mươi tay cầm quải trượng đầu tóc bạc phơ với ông già nữa cũng mặt mũi hao hao và tuổi sâp sỉ như vậy theo sau bước lên. Sau cùng các các bà già.

Ông già trông thấy Long Uyên đã ngắt lời tiến lên đỡ chàng và nói:

-Uyên nhi...

Nói xong, ông ngắm nhìn chàng hồi lâu, còn sáu ông già kia cũng dõi mắt nhìn chàng, vẻ mặt tươi cười nhưng nước mắt ràn rụa.

Chí Lễ cứ luôn nói:

-Hay lắm, hay lắm...

Ông ta vừa nói vừa kéo Long Uyên vào trong sảnh. Lúc ấy trong sảnh đã bày sẵn mười mấy cái ghế để cho mọi người ngồi. Chí Lễ vào ngồi ghế ở chính giữa và bắt Long Uyên ngồi ở cạnh mình, rồi các ông già kia lần lượt ngồi những ghế ở hai bên. Chí Lễ bảo Long Uyên bái kiến các bác, nhưng không được quỳ lạy:

-Con ra chào các bác đi, nhưng không được quỳ lạy nhé? Bằng không con quỳ lạy từng người một đầu con đến rụng mất.

Chín anh em họ Long người nào cũng thương yêu đứa con duy nhất nối dõi này nên ai nấy thấy Long Uyên đều mừng rỡ khôn tả, chỉ vái chào như vậy mà đã gần đến trưa. Chí Lễ bảo người nhà sửa soạn cơm nước, cả nhà có tất cả mười chín người đều quây quần ngồi vào bàn ở giữa sảnh. Long Uyên tay cầm ấm rượu rót rượu cho mọi người một tuần. Chí Trung phu nhân nóng lòng muốn biết mười năm qua Long Uyên sống thế nào ở đâu, nên thúc dục luôn.

Vấn đề đó các ông già có mặt tại đó cũng đều muốn biết. Long Uyên bèn đem chuyện của mình giản dị kể cho mọi người nghe, có nhiều đoạn kinh hiểm chàng sợ các bác không chịu đựng nổi nên chỉ nói phót qua mà thôi. Tuy vậy mấy ông già cũng đã kinh hoàng trợn mắt, mồm há hốc tưởng như nghe chuyện thần thoại vậy.

Nếu không phải Long Uyên kể thì không ai dám tin những lời nói của chàng là sự thực.

Chí Chi tài trí hơn người và cũng có kiến thức rộng hơn; cho nên ông định thần trước hết, liền lên tiếng nói.

-Đại ca với các huynh trưởng chớ có kinh dị như vậy, phải biết Uyên nhi gặp gỡ như thế tuy trái thường lý thực, nhưng cũng đủ tỏ Uyên nhi của chúng ta là người phi phàm như thế nào: trước kia qur của đệ đã đoán rõ Uyên nhi của chúng ta không phải là đứa trẻ tầm thường, ngày hôm nay mới biết quẻ đã ứng nghiệm.

Mẹ Long Uyên như người nằm mơ mới tỉnh, vội xen lời nói:

-Con... Cô Vân Tuệ là ân nhân cứu con thoát chết, sao con không đưa cô ta về để cả nhà cảm ơn cô ta.

Chí Chi phu nhân là người rất cẩn thận, để ý lời nói của Long Uyên thấy chàng khen ngợi như vậy đã biết hai người thế nào cũng có một sự liên can mất thiết, vì vậy bà ta xen lời hỏi:

-Phải, Uyên nhi tại sao không đem cô ta về để cho các bác xem, nếu cô ấy xứng đáng làm vợ con thì chúng ta cưới cô ấy cho con có phải là hơn không?

Mọi người đều vỗ tay tán thành. Long Uyên hổ thẹn hai má đỏ bừng. Một lát sau chang mới ngượng nghịu nói:

-Thất bá mấu!

Rồi chàng lắc đầu tỏ ý nói Vân Tuệ không chịu về với mình nhưng chàng lại cho mọi người biết, một năm sau sẽ gặp lại Vân Tuệ ở trên Hằng sơn.

Trí Trung phu nhân là người nhanh nhẩu, thấy vậy vội nói đùa rằng:

-Được, một năm sau để cha con đi Hằng sơn một phen xem, nếu hợp ý thì đưa co ta về đây để hai con kết hôn. Còn con thì ở nhà chứ không được đi đâu hết.

Các vị phu nhân đều tán thành, ai ai cũng không muốn cho Long Uyên ra ngoài mạo hiểm nữa.

Chí Lễ phu nhân lại còn nói, nhà mình giàu có như thế, Uyên nhi lại đẹp trai như vậy, chỉ đánh tiếng là không thiếu gì người đẹp đến tận cửa.

Lúc ấy câu chuyện của mọi người chuyển thành việc hôn nhân của Long Uyên, các ông bà già mặc kệ Long Uyên xấu hổ hay không ai nấy phát biểu ý kiến của mình.

Chí Hiếu rất ít nói, lúc này cũng đứng dậy vuốt râu xen lời:

-Các vị huynh trưởng nói rất phải, cổ nhân đã dạy "bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại" anh em chúng mình lực bất tòng tâm, cũng may trời thương, cho Uyên nhi để nối dõi họ Long nhà ta. Nghĩ đến năm xưa anh em ta vì việc thừa kế mà đã tranh luận, sau quyết định tạm thời dẹp chuyện thừa kế sang một bên mà để sau này cho con của Uyên nhi thừa kế. Bây giờ anh em chúng ta tuổi sấp sỉ bảy mươi. Uyên nhi cũng đã lớn, cho nên để chủ trương phải lấy ngay mấy người vợ cho Uyên nhi, trước là mong y đẻ nhiều con cái để duy trì thanh thế của nhà họ Long chúng ta được bảo tồn mãi mãi. Hia là để chúng ta được trông thấy con cháu nối dõi cho mình. Như vậy lúc chết mới không làm ma cô độc dưới cõi âm.

Long Uyên ngồi một bên, thoạt tiên chàng càng nghe càng hổ thẹn, chỉ muốn chui xuống đất, nhưng chàng thấy các vị bác vẻ mặt nghiêm nghị ai nấy còn rầu rĩ không tả. Lúc ấy chàng mới biết đó không phải là chuyện nói bông đùa.

Chí Lễ là gia trưởng, nghe bát đệ Chí Hiếu nói như vậy, nghĩ ngợi giây lát rồi cũng lên tiếng:

-Bát đệ nói rất có lý, ngu huynh cho là tốt hơn hết các anh em hợp sức, mỗi nhà tìm một con dâu, bằng không sau này lại có sự tranh chấp. Oán ngu huynh hay Chí Dũng xử trí không được công bằng, nếu mỗi người cưới một nàng dâu, con của nàng dâu nhà nào thi thừa kế cho người ấy, như vậy tránh được sự tranh chấp và con cháu nhà họ Long lại nhiều thêm.

Lòi nói đó rất công bình và hợp lý ai nấy đều vỗ tay khen ngợi, riêng có Chí Dũng, Chí Chi không tán thành mà thôi.

Chí Dũng là người võ lâm biết người luyện võ tuy không phải cự tuyệt nữ sắc nhưng gần nhiều đàn bà không có ích lợi gì hết. Uyên nhi tuổi hãy còn nhỏ, nếu một lúc lấy chín vợ cho y, không phải là thương mà có ý giết hại là khác.

Chí Chi chú ý thấy Long Uyên hình như không tán thành, đồng thời ông còn biết rõ nữ sắc tai hại thế nào. Uyên nhi cốt cách thanh kỳ, mặt có vẻ đào hoa, trong đời y thế nào cũng có lắm chuyện tình duyên, không thể người khác làm giúp y được. Cho nên ông cũng không đồng ý chủ trương của người anh cả, nhưng ông với Chí Dũng thấy mọi người mừng rỡ như vậy không tiện làm mọi người cụt hứng, nên cứ làm thinh không nói năng gì hết.

Long Uyên tuy không nói, nghe thấy mọi người định lấy chín vợ cho mình lòng kinh hãi, một là chàng chưa biết gì cả, hai là trong lòng chàng chỉ có hình bóng của Vân Tuệ thôi.

Tuy chàng không dám vọng tưởng lấy nàng vể làm vợ, nhưng chàng cảm thấy trong thâm tâm quả thực ngoài nàng ra không thể chứa đựng một hình bóng thiếu nữ nào khác nữa. Nhưng lúc này chàng không tiện tỏ vẻ phản đối vội, chỉ lẳng lặng nghĩ thầm:

"Nếu các bác lấy nhiều vợ cho ta như vậy thì ta biết đối phó thế nào đây?"

Trong bữa tiệc mọi người ăn uống hai tiếng đồng hồ mới giải tán. Các ông già bà già đều vui vẻ hy vọng mà về phòng của mình nghỉ ngơi, chỉ để lại mẹ con Long Uyên chuyện trò với nhau.

Từ đó trở đi Long Uyên ở nhà, hưởng những ngày hạnh phúc, chàng qua vấn an các bác hàng ngày và lần lượt ăn cơm ở gia đình các bác.

Ngày thứ ba Long Ngũ đã đem hành lý của chàng về tới. Chàng lấy hai túi châu báu ra lựa những thứ đặc biệt đem biếu các bác, đồng thời chàng cũng thưởng cho các con sen, người giúp việc chút ít nên, nên người nào người nấy đều mến mộ chàng.

Ngoài ra chàng thấy sức khỏe của các bác rất suy nhược, liền lấy một viên Xích Long Hoàn hòa vào nước rồi mang cho các bác uống, nhờ vậy mọi người khỏe mạnh lên rất nhiều. Lúc thường không có việc gì chàng sang nhà Thất bá phụ Chí Chi để học nghề tinh tướng, còn y thuật thì chàng cùng Chí Chi nghiên cứu. Cho nên hai tháng sau y thuật của chàng tiến bộ hơn trước nhiều và tinh tướng thuật chàng cũng học được khá nhiều. Trong hai tháng đó chàng vẫn theo bác Bảy đi chữa bịnh cho người, hoặc đi theo cha ra ngoài du ngoạn. Vì thế trong thành ai ai cũng biết nhà họ Long có một công tử đẹp như tiên đồng, nên có rất nhiều đám tự đến gạm hỏi.

Mẹ Long Uyên biết con trai mình mê Vân Tuệ vì thế chỉ một lòng muốn cưới nàng ta về làm dâu thôi. Bà không nói rõ cho Long Uyên biết và mong y sớm mời được ân nhân, Tuệ cô nương, tới nhà để cám ơn.

Long Uyên không rõ ý muốn của mẹ, nhưng chàng cũng nhận lời mọt năm sau lên Hoàng sơn gặp nàng và mời nàng về chơi.

Vì thế mẹ chàng không nóng lòng kiếm vợ cho chàng, nhưng còn tám vị phu nhân kia thì suốt ngày gặp bà mai, nghe bà mai kể con gái của địa chủ nào hay của quan lớn hồi hưu nào xinh đẹp. Nhưng các bà ấy không đường đột nghe lời nói của bà mai mà nhận lời ngay, vì bà nào bà nấy nhận thấy Uyên nhi của mình là "thần tiên" trên trời giáng xuống, con gái tầm thường không xứng làm vợ, cũng vì thế mà các bà mới đặt tiêu chuẩn để kén vợ cho chàng.

Thứ nhát là để cho bà mai xem trộm Long Uyên rồi để bà mai tự nói xem có phải tiểu thư mà bà mai định giới thiệu đó có xứng với chàng không? Vì bà mai dù có tham tiền đến đâu cũng không dám nói láo bảo cô con gái đó xứng đáng với chàng nữa, cũng vì điều kiện ấy mà hai tháng liền trong hai mươi bà mai chỉ có một bà dám nói tiểu thư ấy xứng đáng với chàng ta thôi.

Còn những bà mai kia đều lắc đầu rút lui.

Tiểu thư nọ là con gái của viên ngoại họ Đường và cũng là mỹ nhân số một của huyện Chức Mạc này.

Trước khi Đường viên ngoại là tri phủ. Kể ra ông ta là đồng liêu với Chí Chi nữa. Ông cũng lớn tuổi mới sinh được một cô con gái nên ông cưng như vàng ngọc vậy.

Sau ông ta cáo lão hồi hương ở nhà quê xây một sơn trang đặt tên là Đường Gia Trang. Ngày thường ông ở nhà dạy con học và trồng hoa. Quả thực là một con người rất tao nhã.

Đường tiểu thư tên là Tuệ Châu, từ nhỏ đã nổi tiếng thống minh, tài trí xuất chúng, theo cha mẹ học thêu viết chữ, nên rất giỏi về văn học và biết lễ phép, thực hiền hậu. Năm nay tuổi nàng mới mười lăm.

Năm xưa Chí Chi làm quan ở trên triều, vì là đồng hương với nhau nên phu nhân thường cùng ông sang chơi nhà họ Đường, do vậy Chí Chi phu nhân cũng biết Đường phu nhân là một mỹ nữ có tiếng. Bấy lâu nay tuy chưa gặp lại, nhưng bà đoán chắc con Đường phu nhân chác đẹp không kém gì mẹ vì thế khi nghe bà mai nói bà đã muốn cưới Đường tiểu thư cho Long Uyên. Bà và chồng bàn bạc một hồi rồi quyết định báo cho bà mai biết để tìm cơ hội cho hai người gặp nhau.

Một hôm bà mai đến cho biết Đường phu nhân định mùng năm tháng sáu sẽ ra ngoài am ở ngoại thành lễ bái. Biết vậy Chí Chi phu nhân quyết định đến hôm đó sẽ đưa Long Uyên đi xem mặt Đường tiểu thư.

Bà cho chồng biết chuyện này. Chí Chi nghe nói mỉm cười, không tán thành cũng không phản đối, chỉ nói:

-Vẫn biết hôn nhân phải có lệnh của cha mẹ, nhưng phu nhân nên rõ bên trong còn có số trời mà sức người không thể nào cưỡng lại được, nếu ép uổng quá không những con mình không được hạnh phúc mà còn mang họa cho nó là khác. Việc đi xem mặt vợ thế này, tôi không phản đối, nhưng phải xem Long Uyên nó có ưng Đường tiểu thư không, nêu không có duyên với nhau mà cứ miễn cưỡng ép chúng lấy nhau thì cũng vô ích.

Tất nhiên Chí Chi phu nhân phải nghe lời chồng nhưng bà nhận thấy việc này không cho Long Uyên biết vội, vì người trẻ tuổi hay mắc cỡ, đa số không chịu nói rõ tâm ý của mình. Nên cho chàng biết trước thì khó mà biết được tâm ý của chàng.

Chí Chi nhận lời giữ bí mật chuyện đó, nhưng Long Uyên nghe những con sen nói, đã biết hết chuyện. Vì hiếu kỳ chàng muốn đi xem cho biết. Nhưng mặt khác chàng lại do dự vì đã nhận thấy mình làm như thế là có lỗi với chị Tuệ.

Dù vậy chàng không muốn cưỡng lời bá mẫu. Long Uyên bỗng nghĩ đến lời của Vân Tuệ lúc chia tay, nàng bảo chàng quá đẹp trai, thiếu nữ nào trông thấy cũng phải động lòng. Lúc ấy chàng đã cam kết với nàng, trong vòng một năm chia tay, chàng quyết không để cho người khác trông thấy rõ bộ mặt thật của mình, trước hết là để tránh những sự phiền phức. Hai là chàng muốn thử xem lòng người đời có phải chỉ coi trọng bộ mặt như Vân Tuệ nói không?

Vì vậy từ hôm đó trở đi, Long Uyên hóa trang khiến bộ mặt cứ vàng dần tựa như đau yếu vậy. Các bác cảu chàng thấy thế tưởng chàng đau ốm, vừa đau lòng vừa lo âu, cứ khiển trách Chí Chi không chịu thang thuốc cho chàng.

Gần gũi chàng nhiều nên người bác Bảy biết chàng có nguyên nhân gì chứ không phải là đau ốm nên ông không lo lắng gì cả, trái lại còn an ủi mọi người. Vì ông ta thấy chàng chỉ thay đổi sắc mặt thôi, chứ người vẫn khỏe mạnh như thường. Sau các ông già trông quen đi rồi cũng không lo như trước nữa.

Ngày xem mặt đã tới, mới sáng tinh sương trước cửa nhà họ Long đã đóng sẵn một cỗ xe ngựa đợi sẵn, rồi bốn con sen đỡ hai vị phu nhân Chí Trung và Chí Chi ra cửa lên xe, Long Uyên ngồi ở trước với người phu xe.

Những người qua đường thấy trên xe có một thiếu niên mặt vàng khè, ai nấy đều lấy làm ngạc nhiên vô cùng, vì họ vẫn nghe nói công tử của nhà họ Long đẹp trai, sao bây giờ lại trông như ốm nặng như thế.

Chí Chi phu nhân ngẫu nhiên ngó mặt ra nhìn, trông thấy mặt của Long Uyên càng kinh hoảng thêm, bà giật mình kinh hãi kêu ối một tiếng, rồi lo âu hỏi:

-Uyên nhi, con thấy khó chịu phải không? Có cần về bảo bác Bảy thăm mạch hốt thuốc cho không?

Long Uyên vừa cười vừa lớn tiếng đáp:

-Thất bá mẫu yên tâm, Uyên nhi không có việc gì cả.

Chí Trung phu nhân cũng ló đầu ra nhìn thấy chàng như vậy cũng kinh ngạc, vội hỏi:

-Uyên nhi con mau vào trong xe, có lẽ vì bị trúng gió phỉa không? Mau vào đây.

Bà vừa nói vừa đưa tay kéo chàng vào, Long Uyên mừng thầm nhưng vẫn nghe lời vào trong xe ngồi. Hai vị phu nhân lo âu nhìn chàng, lòng phân vân không biết có nên đi hay không?

Lúc ấy xe đã khởi hành, không bao lâu đã tới cửa am. Long Uyên đã hai bà bác xuống, tiếp sau đó chiếc xe của bốn thị nữ cũng tới nơi. Long Uyên đứng ngắm một hồi thấy am này cũng khá lớn, tường xanh ngói ống trông rất cổ kính, chúng quanh trồng rất nhiều cây, có vẻ tĩnh mịnh.

Lúc ấy trước cửa am có hai chiếc xe ngựa đậu sẵn, chàng đoán chác đó là xe nhà họ Đường và họ đã tới trước mình.

Bốn thị nữ chia nhau ra đỡ hai vị phu nhân đi vào trong am, Long Uyên cũng theo sau. Khi ấy chủ am hay tin liền cho hai ni cô ra nghênh đón.

Long Uyên thấy hai ni cô tuổi trạc ba mươi, mặt gầy gò, nhưng thái độ rất nghiêm nghị. Cả hai cùng chắp tay vái chào và mời hai vị phu nhân vào trong điện.

Trong điện trước bàn thờ Phật, hương khói nghi ngút, mấy ni cô đang tụng kinh, Long Uyên theo hai bà bác lễ Phật. Hai nữ ni phụ trách tiếp đón vội mời ba người sang phòng khách nghỉ ngơi. Từ điện chánh sang điện ngách phải xuyên qua một cái vườn hoa, một dãy phòng ngủ của ni cô, chừng bảy tám gian, chưa tới nơi, trong điện ngách đã có tiếng cười khúc khích vọng ra.

Hai lão phu nhân hiểu ý đưa mắt nhìn nhau một cái rồi quay đầu lại nhìn Long Uyên. Lúc ấy hai vị thấy cháu mình mặt càng vàng thêm thì lo âu vô cùng.

Lúc ấy đã có một lão ni ở trong điện ngách bước ra tay cầm thiền trượng trông rất già nua, nhưng hai mắt lóng lánh có thần, khiến ai trông thấy cũng kính nể.

Long Uyên biết não ni này công phu nội công rất tinh thâm nên đôi mắt mới sáng như vậy.

Chí Trung phu nhân đã lên tiếng trước:

-Đại sư vẫn mạnh giỏi đấy chứ? Lâu quá không thấy đại sư tới thăm chúng tôi?

Lão nei cô niệm câu Phật xong, mới mỉm cười đáp:

-Gần đây bần ni bận lắm nên không có thì giờ đến thăm hai vị thí chủ, hai vị thí chủ có lòng như vậy bần ni rất cám ơn. Chắc vị công tử này là đại thiếu gia?

Chí Chi phu nhân vừa cười vừa đáp:

-Sư thái hay tin nhanh thực, Uyên nhi của chúng tôi mới về nhà được ít bữa, cho nên ngày hôm nay chúng tôi mới đưa cháu nó đến đây lẽ Phật và thăm đại sư.

Nói tới đó, bà ta quay lại nói với Long Uyên:

-Uyên nhi lên chào sư thái đi.

Long Uyên chỉ thấy tay vái lão ni một cái thôi chứ không nói năng gì hết. Sư thái chấp tay đáp lễ và nói:

-Thiếu thí chủ lễ phép quá, xin mời vào trong điện dùng nước.

Nói xong sư thái đứng sang bên để mời khách đi trước, vừa đi Chí Trung phu nhân vừa nói với Long Uyên:

-Uyên nhi có biết sư thái đây là sư tỉ của cha con không? Nghe cha con nói võ công của sư thái cao siêu lắm. Năm xưa cũng là một nhân vật khét tiếng.

Long Uyên nghe nói đưa mắt ngắm nhìn sư thái. Sư thái cũng đang nhìn chàng, bốn mắt vừa chạm nhau lão sư thái giật mình kinh hãi: "Sao mắt thí chủ này sắc bén như vậy?"

Nhưng bà vẫn tủm tỉm cười đỡ lời:

-Lão thí chủ tâng bốc bần ni quá, bần ni chỉ học có chút ít võ công thì có nghĩa lý gì đâu, huống hồ bây giờ đã già rồi, lại lâu không luyện tập. Còn thiếu thí chủ đây, nếu mắt bần ni không hoa thì thiếu thí chủ ắt phải luyện nội gia chân truyền rồi. Nhưng...

Bà định nói sắc mặt của Long Uyên khó coi như vậy, chắc bị ốm đau nặng, nhưng bà mới nói tới đó không tiện nói nốt. Vì bà nghĩ Trí Dũng võ học xuất chúng. Trí Chi y học lại cao minh như thế, nếu Long Uyên có bệnh tất nhiên họ phải biết, vì vậy bà chỉ nói đến đây không dám nói nữa là thế.

Điện ngách ấy chia làm hai gian, một gian sáng và một gian tối, vợ chồng Đường viên ngoại ngồi ở gian sáng, nhưng mọi người không thấy mặt Tuệ Châu, đoán chắc nàng ở trong căn tối cũng nên. Nhà họ Đường cũng biết biên nhà trai là Trí Chi phu nhân, phu nhân đồng liêu cũ vì lâu không gặp nên cả hai chỉ mang máng nhận được nhau thôi. Cho nên mọi người vừa vào tới điện ngách vợ chồng viên ngoại đã vội đứng dậy chào. Lão ni giới thiệu đôi bên.

Trí Chi phu nhân chờ lão ni giới thiệu xong liền đỡ lời:

-Lão sư phụ, tôi với Đường phu nhân quen biết nhau từ lâu rồi, nhưng cách biệt lâu năm không biết Đường phu nhân hãy còn nhớ tôi.

Đường phu nhân tuổi đã ngoài ngũ tuần, hiển nhiên trông đã già nua. Bà ta nghe nói vội tiến lên nắm tay Chí Chi phu nhân mỉm cười đáp:

-Sao tiểu muội lại không nhớ, năm xưa chúng ta ở trên kinh thành được qusi phủ quán xuyến giúp, nên lúc nào cũng nhớ nhung bà chị, chỉ vì quá bận việc nhà và thay đổi chỗ ở luôn cho nên không có dịp may tới quý phủ cảm tạ bà chị.

Trí Chi phu nhân khiêm tốn vài câu, liền gọi Long Uyên tiến lên bái kiến thế bá phu mẫu. Chào hỏi xong Long Uyên ngồi xuống cạnh đó không nói nửa lời, trông chàng lại càng ngơ ngẩn và khờ dại thêm, vợ chồng Đường viên ngoại thấy vậy lắc đầu chửi thầm ba mai nó dóc khen ngợi Long Uyên đẹp như thần tiên, ngờ đâu giờ thấy tận mắt chàng ta lại là một người mặt vàng khè như vẻ ốm nặng và khù khờ như một chàng ngốc thế kia xứng sao được với con gái nhà mình?

Trí Trung phu nhân cũng lo vô cùng, nhân không thấy Đường tiểu thư bà ta liền đánh trống lảng lên tiếng hỏi:

-Hôm nay chỉ có viên ngoại với phu nhân đến bái Phật thôi ư?

Viên ngoại đã biết ý, tuy không vui nhưng cũng không tiện nói dối, bất đắc dĩ phải nói thực:

-Không, tiểu nữ Tuệ Châu có đi cùng với chúng tôi hiện đang ở phòng bên. Nói xong viên ngoại biết không sao tránh khỏi, liền hướng sang căn phòng tối gọi:

-Châu Nhi mau sang đây chào Long bá mẫu...

Hồi 8 Cổ am nổi phong ba

Thì ra trong lúc Long Uyên đang đi ở ngoài sân người nha họ Đường đã trông thấy rõ rồi, vợ trồng viên ngoại với tiểu thư thấy chàng ngớ ngẩn và mặt khác hẳn lời giới thiệu của bà mai, hai vợ chồng với cô con gái đều thất vọng vô cùng: cho nên Đường viên ngoại mới bảo Tuệ Châu lui vào trong phòng tối tạm thời đừng ra mặt vội. Bây giờ thấy Long phu nhân hỏi tới đành phải gọi con ra chào và ông ta cũng định tâm rồi, chờ con mình vái chào hai vị Long phu nhận xong là cáo từ về ngay.

Ngờ đâu ông ta gọi luôn mấy tiếng không thấy con gái trả lời lại tưởng nàng xấu hổ không chịu ra, liền xin lỗi rồi vào phòng gọi con gái ra. Nhưng ông ta vừa vào đến trong phòng đã thất thanh kêu lên một tiếng, vội chạy ra hỏi lão sư thái rằng:

-Sư thái... căn phòng trong kia có cửa ngõ khác không?

Lão sư thái biết chắc có chuyện gì xảy ra nên vội chạy vào xem. Quả nhiên thấy cửa sổ mở toang và không thấy hình bóng của tiểu thư đâu hết!

Đường phu nhân thấy sắc mặt của chồng biết có chuyện gì xảy ra. Phu nhân chỉ sinh được một mình Tuệ Châu, nên yêu chiều cô con gái này vô cùng, bà ta giật mình kinh hãi, hoảng hốt chạy vào phòng trong.

Lão sư thái giầu kinh nghiêm giang hồ đoán chắc Đường tiểu thư yếu ớt như vậy không khi nào lại leo qua cửa sổ mà đi được, ngàn có leo qua cửa sổ thì với võ công cùng thính giác tinh tường thế này sao lại không nghe thấy. Bà ta đưa mắt nhìn quanh phòng một lượt, liền phát giác trên sà nhà có điểm hoi khác lạ. Lúc ấy bà ta không kịp trả lời vợ chồng Đường viên ngoại đã vội nhảy lên trên sà nhà cao hơn hai trượng.

Lão sư thái chỉ khám xét qua một chút vội phi thân xuống, miệng niêm Adi đà phật rồi nói:

-Xin hai vị thí chủ chớ có lo ngại, tiểu thư quả thực đã bị người ta bắt cóc rồi.

Đường phu nhân nghe nói dậm chân đấm ngực khóc lóc kêu la thảm thiết còn Đường viên ngoại thì ứa nước mắt.

Trí Trung và Trí Chi hai phu nhân cùng bốn thị nữ đều kinh hãi đến biến sắc, cuống quýt không biết xử lý thế nào cho phải.

Lão sư thái ngượng vô cùng khẽ nói:

-Xin hai vị thí chủ hãy bình tĩnh nghe bần ni... Bần ni tuy bất tài nhưng năm xưa cũng đã lăn lộn trên giang hồ vài năm nên có đôi chút kinh nghiệm, vừa rồi bần ni thấy vết trên sà nhà, hiển nhiên kẻ gian tới cũng không lâu. Như vậy kẻ gian lẻn vào trong phòng này trước rồi thừa cơ bắt cóc lệnh ái đi.

Đường phu nhân nghe nói càng khóc thêm:

-Trời ơi... biết... làm sao bây giờ?... Ối con ơi là là con!

Đường viên ngoại chỉ biết nhỏ lệ lắc đầu thở dài.

Lão sư thái lại an ủi vợ chồng viên ngoại:

-Hai vị thí chủ chớ quá lo âu như vậy, nên giữ gìn sức khỏe, việc này xảy ra trong am của bần ni, tất nhiên bần ni phải chịu trách nhiệm. Phen này đành phải khai sát giới đấu với kẻ gian một phen.

Nói tới đó bà ta tức giận trợn to đôi mắt lên vẻ mặt đầy sát ý khiến ai trông thấy cũng phải kinh hãi. Lão sư thái lại nói:

-Đường lão thí chủ thử nghĩ lại xem, lúc thí chủ tới giữa đường có phát giác người nào khả nghi không? Hay người lạ mặt nào chủ ý tiểu thư không?

Đường viên ngoại lắc đầu, nhưng đột nhiên kêu lên một tiếng đáp:

-Ừ! Phải rồi, khi lão tới đây vì trời hãy còn nhá nhem người đi đường rất ít, vì mải xem phong cảnh tiểu nữ không cho buông mành xe xuống, lúc xe ra tới ngoại thành thì đột nhiên gặp một công tử ăn vận sa hoa cưỡi con ngựa cao ở đàng xa phóng tới. Khi đi cạnh xe y trông thấy tiểu nữ liền kêu lên ngạc nhiên, nhưng y không dừng chân lại thúc ngựa đi luôn. Lúc ấy nội nhân lại còn nói với lão: "chắc người ta là Long..."

Nói tới đó ông ta đưa mắt nhìn người nhà họ Long không nói tiếp.

Lúc ấy mọi người mới biết rằng rằng ông ta đinh nói Long Uyên. Ai cũng quay mặt nhìn lại chàng ta, nhưng khôgn thấy hình bóng chàng ta đâu hết, không biết cũng biết đi đâu từ lúc nào rồi?

Trí Trung phu nhân ngạc nhiên vô cùng, đang định hỏi mấy thi nữ thì một tên trong bọn đã tiến lên thưa rằng:

-Vừa rồi thiếu gia nói thiếu gia thấy khó chịu không yên nên thiếu gia đã đi về nhà trước.

Trí Chi phu nhân càng lo sợ thêm không biết Long Uyên đau bệnh gì mà lại bỏ về như thế? BÀ ta cũng muốn về xem nhưng nơi đây đang xảy ra chuyện phiền phức như vậy mình không tiện bỏ về ngay, cau mày lại nhìn thị nữ nọ một cái, có ý trách nó sao lại không báo cho mình hay trước.

Lúc ấy sư thái lại lên tiếng:

-Thí chủ chưos lo việc này đã có manh mối đôi chút, bần ni thế nào cũng điều tra ra và đưa lệnh ái về. Việc này không thể trì hoãn được, bần ni phải đi ngay mời quí vị thí chủ hãy về phủ trước hễ có tin gì bần ni sẽ sai người đi báo cho quý vị hay ngay. Theo ý bần ni thì tót hơn hết đừng báo quan, vì tên giặc này võ công khá cao siêu, dù y cướp tài hay cướp sắc cũng không giám giết hại lệnh ái đâu. Nếu báo quan bình chỉ làm sao động mà xông ích lợi gì cả.

Nói tới đó, bà ta lại nói với Trí Trung và Trí Chi nhị vị phu nhân:

-Mời hai vị thí chủ hãy về nhà trước, và làm ơn báo cho Trí Dũng sư đề hay, nếu sư đệ của bần ni có rảnh thì mau tới tệ am để giúp bần ni một tay.

Trí Chi phu nhân đang lo cho Long Uyên đã sớm muốn cáo lui rồi, bây giờ nghe nói vậy liền khuyên vợ chồng Đường viên ngoại vài lời rồi cùng Trí Trung phu nhân cáo lui đi về ngay.

Hai chị em dâu về tới nhà chưa kịp thay quần áo đã vội sang nhà Trí Dũng hỏi xem Long Uyên đã về chưa? Mới hay chàng ta chưa về tới. trí Trung phu nhân càng lo, vội nói:

-Như vậy biết làm sao bây giờ?

Trí Dũng đang đánh cờ trong thư phòng nghe tiếng vội chạy ra hỏi.

Trí Tri phu nhân nghĩ đến lời nói của lão sư thái vội kể chuyện Đường tiểu thư bị mất tích như thế nào. Trong lúc mọi người bối rối Long Uyên tự nhiên bảo khó chịu nên về trước nhưng đến bây giờ vẫn chưa thấy y về tới, không hiểu y đi đâu?

Trí Dũng cau mày lại suy nghĩ giây lát rồi nói:

-Ngũ tẩu cứ yên tâm. Uyên nhi đã lớn như vậy không khi nào lại bị người ta bắt cóc được, thiết nghĩ ở quanh huyện Chức Mạc này theo đệ biết rất ít có nhân vật võ lâm và cũng không có một người nào thuộc giới hắc đạo cả. Ao bàn ngày ban mặt như vậy lại có vụ bắt cóc xảy ra như thế được? Năm xưa sư tỉ đệ hành hiệp giang hồ biệt hiệu là Thiết Hốt Ni Pháp Duyên và cũng là sát tinh của bọn hắc đạo. Gần đây bà ta quy ẩn ở huyện này tuy không can thiệp đến việc bên ngoài, nhưng võ công của bà ấy ngày càng điêu luyện... Không ngờ tên dâm tặc nào mù quáng lại dám bạo gan bắt cóc người ở trong am như thế? Việc này không chừng làm bà ta tái nhập giang hồ một phen nữa.

Nói tới đây Trí Dũng thấy mọi người đều trố mắt nhìn mình, liền mỉm cười nói tiếp:

-Thôi bây giờ tôi phải đi gặp sư tỉ, chắc bà ta có việc gì dặn bảo.

Nói xong, ông sai mấy thị nữ lấy thanh bảo kiếm ra, giấu trong người rồi đi luôn.

*

Hãy nói tới Long Uyên, biết tin mình đi xem mặt vợ rồi, chàng liền nghĩ ra một kế hoạch tiêu cực rất khôn khéo rồi theo kế hoạch đó mà chàng hóa trang cho bộ mặt vàng khè, khiến ai trông thấy cũng tưởng đau ốm, tất nhiên chàng không dám giấu diếm bác bảy và cha mình, chàng thành thực thưa với hai người thanh là vì mình hãy còn nhỏ chưa muốn lấy vợ vội, hai là thiếu nữ kia có thật lòng yêu mình thì không cứ gì bộ mặt xấu đẹp, như vậy mới phải là yêu thực.

Trí Chi và Trí Dũng là người khoáng đạt xưa nay, thấy Long Uyên nói vậy thì đồng ý ngay.

Từ khi Long Uyên về nhà tới nay, ban ngày thường ở trong thư phòng học y bốc tinh tướng của Trí Chi, đêm đén lúc mọi người ngủ hết lại hay cùng cha vào trong rừng nghiên cứu võ công, vì vậy Trí Dũng không những biết rõ cá tính của con mình, đồng thời cũng biết con mình đã học hỏi thêm khá nhiều những võ công cao siêu.

Từ khi ra đời hành đạo đến giờ ông đã dự hàng trăm nghìn trận đấu lớn nhỏ, rất giàu kiến thức, nhưng ông thấy võ học của con mình huyền ảo khôn lường, nêu cũng tự nhận còn kém xa, ông biết võ công của mình không thể truyền thụ cho con được, nên ông chỉ dạy con kinh nghiệm thường thức và luật lệ giang hồ, để sau này con mình ra đời khỏi bị thiệt thòi và kém lịch duyệt.

Ngay hôm đi xem mắt vợ, Long Uyên lại bôi mặt vàng khè thêm khi tới ni am chàng cố ý làm ra vẻ khờ khạo để cho vợ chồng viên ngoại với cô con gái khinh mình, rồi tự động cự tuyệt hôn nhân này. Nếu bên nhà gái tự động cự tuyệt thì bá mẫu không sao bắt ép được mình nữa nên từ khi vào đến trong am rồi chàng chàng liền tỏ vẻ ngô nghê, nhưng sự thực tai mắt thì linh mẫn vô cùng. Vì vậy khi lão sư thái hàn huyên, trong phòng tối có tiếng động gì chàng đều nghe hết nhưng chàng lại tưởng là môn hạ của lão sư thái, cho nên chàng không để ý, tới sau nghe thấy Đường viên ngoại nói con gái bị mất tích, chàng mới giật mình sực tỉnh, tự nhủ:

"Tuy Tuệ Châu không quen biết ta, nhưng nàng vì mình mới tới đây, bây giờ nàng lại bị người ta bắt cóc đi như vậy, nếu có hậu quả không may gì thì tuy ta chưa giết bá nhân, nhưng bá nhân vì ta mà chết như vậy về mặt đạo nghĩa ta không thể nào tránh được trách nhiệm, vả lại ta đã có mặt ở đây chẳng lẽ thấy nguy mà không ra tay cứu hay sao?

Nghĩ như vậy, chàng nhân lúc mọi người đang hoang mang vội chạy vào trong phòng xem qua rồi ra dặn thị nữ vài câu rồi chạy đi luôn.

Chàng đoán chắc ban ngày ban mặt như vậy tên giặc không dám đi ra lối chính, nên chàng giở kinh công tuyệt đỉnh chạy thẳng hướng vườn hoa sau am. Trong vườn cây cối um tùm và cao trọc trời chàng cứ đi ở trên cây nhìn xuống, những người hay vật chạy qua bên dưới không sao tránh khỏi được tầm mắt của chàng.

Một lát sau chàng đã tìm được một vài manh mối. Thì ra con đường cái duy nhất ở trước am đi thẳng tới Linh Sơn có một người đáng cưỡi ngựa phóng chạy như bay, chỉ cách chỗ mình chừng 5 dặm đường thôi. Người đó ăn vận rất xa hoa, tay cầm cương, tay cầm roi vừa giật cương vừa quất ngựa chạy như bay bất chấp những người qua đường kinh hoàng né tránh, phía trước lại có một cái bọc rất to, nếu bọc đó là hành lý đáng lẽ phải cột ở phía sau yêu nhưng sao y lại để ở đằng trước làm vướng chân vướng cẳng như vậy. Hơn nữa lúc này đang giữa trưa trời nắng không ai bắt ngựa phóng chạy một cách kì lạ như vậy.

Vả lại y ăn vận nho sẽ trông văn vẻ lại phóng ngựa một cách ngông cuồng như vậy? Vì những điểm đó mà chàng không kịp suy nghĩ thêm liền giở khinh công tuyệt đỉnh đuổi theo, nhưng ban ngày ban mặt giở khinh công ra chạy trên đường cái như vậy, thường nhân lại nghĩ mình là ma quỷ, nên chàng đành trở về am lấy con ngựa già của lão bộc cưỡi tới mà đuổi theo.

Con ngựa này tuổi đã cao nên chạy rất chậm và đây là lần đầu tiên chàng cưỡi ngựa, chàng không quen, còn con ngựa thì chạy rề rề như người đi bộ vậy, chàng tức giận vô cùng, nhưng đã đi được một đoạn đường như vậy rồi, chẳng lẽ lại bỏ ngựa mà đi bộ sao? Bất đắc dĩ chàng đành để mặc cho nó chạy tới đâu hay tới dó. Mãi về sau chàng mới tới một thị trấn. Chàng liền nghĩ thầm:

"Nếu người đó không có ở đây ta phải mua một con ngựa khác mới được!"

Chàng vừa nghĩ vừa lấy thuốc dị dung ra, chỉ trong nháy mắt trên má trái của chàng đã xuất hiện một vết sẹo to bằng trái đào.

Trông mặt chàng lúc này lại càng xấu xí hơn, nhất là đôi mắt bỗng to lớn thêm trông khó coi vô cùng. Người ăn vận lịch sự như chàng mà xấu như vậy khiến ai trông thấy cũng phải tiếc rẻ. Nhưng chàng bất chấp mọi người chăm chú nhìn mình thản nhiên đi vào trong thị trấn, thị trấn này chỉ có một con phố lớn, hai bên có ba bốn tiện ăn và buôn bán còn lại chỉ toàn là nhà ở cả.

Lúc ấy đang là giờ nghỉ ngơi, các xe cộ và ngựa đều đậu ở trước một tử điếm và khách sạn. Trong tửu điếm ấy ngồi đầy khách. Chàng liếc mắt nhìn không thấy con ngựa vàng và cũng không thấy con ngựa nào giao bán. Đồng thời chàng đã thấy bụng đói cồn nhưng nghĩ đến cứu người như cứu hỏa, chàng không dám ở lại lâu.

Long Uyên vào tiệm ăn mua một khúc bánh mì lớn vừa đi vừa ăn rồi vào khách điếm. Tửu bảo thấy chàng ăn mặc lịch sự như vậy, tuy mặt xấu xí đáng ghét, nhưng cũng không dám thất lễ vội chạy lại mời ngồi.

Chàng thấy trước điếm có một con ngựa lông đen, liền hỏi tửu bảo:

-Ngựa kia của ai, chú thử hỏi xem người ta có bán không? Vì tôi có việc bận, đồng thời chuẩn bị cho tôi một cái bánh lớn nữa để tôi vừa đi vừa ăn.

Tửu bảo thấy chàng muốn mua ngựa, nên y yêu chí thế nào cũng có chút tiền thưởng, sau thấy chàng không muốn ăn cơm mà chỉ bảo làm một chiếc bánh mì lớn, y liền nghi ngờ cho chàng là người điên khùng vì không có tiền ăn cơm mà sao lại có tiền mua ngựa như vậy? Vì thế mà y có vẻ chần chờ.

Long Uyên thấy vậy càng nóng lòng sốt ruột thêm nhưng chàng không biết y đang khinh thị mình, chàng vội đứng dậy lớn tiếng hỏi:

-Xin hỏi con ngựa đen ở ngoài kia của ai thế? Chẳng hay có thể bán lại cho tại hạ không?

Chàng mới dùng hai thành nội lực mà tiếng nói của chàng đã làm váng tai mọi người rồi. Tất cả những người có mặt tại đó đểu trố mắt nhìn chàng. Chàng lại chắp tay chào và nói một lượt như trước. Mọi người không hiểu quái nhân xấu xí này đâu ra mà lại ăn nói như vậy.

Lúc ấy có một đại hán mặc võ trang ngồi ở bàn cạnh cửa sổ, mặt hung ác, lưng đeo khí giới trợn trừng mắt lên nhìn chàng la lớn:

-Con ngựa đó là của đại gia, tiểu tử xấu xí kia muốn mua định trả bao nhiêu?

Thấy thái độ của tên đó hung hăng như vậy, mọi người ngồi ở đó đều lo thay cho Long Uyên và còn bất bình hô chàng nữa, nhưng Long Uyên không tức giận chút nào, móc tay vào túi nấy một hạt minh châu to bằng trái long nhãn ra để vào bàn tay và nói:

-Hạt châu này đổi con ngựa của các hạ, các hạ bằng lòng không?

Mọi người đều kinh ngạc và xôn xao bàn tán, không ngờ thiếu niên xấu xí đó lại có một vật báu vô giá, mà lại dùng đổi lấy một con ngựa tầm thường.

Đại hán nọ cũng ngạc nhiên vô cùng. Y ngửng đầu lên cười ha hả, tiêng cười của y như tiếng thanh la vỡ, cười xong, y mới sầm nét mặt đáp:

-Con ngựa của đại gia là con ngựa thần, ngày đi ngàn dặm đêm đi tám trăm, tiểu tử đừng có hòng dùng hạt châu tầm thường ấy mà đổi được con ngựa của ta.

Long Uyên mới về nhà có hơn hai tháng lại không sử dụng tiền bao giờ không biết giá trị của tiền bạc và châu báu gì cả, vì vậy chàng coi hai túi châu báu của mình cũng không có gì quan trọng. Lúc này nghe đại hán nói như vậy chàng tưởng là thực nên móc túi lấy các vật ra xem, thấy ngoài hai lọ thuốc dị dung ra chỉ còn một viên Kỵ thủy châu và một hạt minh châu nữa.

Chàng lấy hạt châu đó ra, còn những vật khác bỏ vào trong túi rồi ngẩng đầu lên định hỏi tiếp, thì thấy mọi người trong quán đều trố mắt nhìn mình, chàng biết nguy tai, không nên để lộ hạt Kỵ thủy châu ra vì hạt châu đó có ánh sáng chói mắt. Chàng đã để lộ hạt châu quý báu ấy nên nên làm cho mọi người có ánh mắt thèm thuồng. Sự thật chàng có biết đâu ngoài hạt châu đó ra, hạt châu kia cũng là báu vật. Nghĩ đến lời dạy cảu cha, chàng giật mình kinh hãi đưa mắt liếc nhìn, quả thấy đại hán nọ quả thực tỏ vẻ tham lam quá đỗi. Chàng đã biết nhưng giả vờ như không biết, giơ hai hạt châu lên hỏi:

-Thêm một hạt nữa bạn đã bằng lòng chưa?

Đại hán nọ cười khì khì tiến lên giơ tay ra định chộp hai hạt châu mồn thì nói:

-Được lám, được lắm.

Long Uyên tưởng y đã bằng lòng quay mình lại cầm gói bánh của tửu bảo đưa và trả bằng bạc rôi quay mình đi luôn. Không ngờ đại hán nọ nhân lúc chàng không phòng bị giơ tay ra chộp ngay vào yếu huyệt ở trên vai phải cảu chàng miệng quát:

-Tiểu tử ngoan ngoãn đưa nốt hạt châu kia đây, ta sẽ nhường ngựa cho ngươi cưỡi bằng không...

Y vừa cười vừa nhấn sức vào bàn tay vì trước mặt đông người như thế nên y chỉ bóp vào yếu huyệt của Long Uyên thôi. Nếu ở chỗ vắng vẻ y đã một đao giết chàng rồi.

Long Uyên không sao nhịn được nữa, chàng liền vận Đơn Thiết Thần Công ra bảo vệ lấy các nơi yếu huyệt nhưng chàng không muốn đả thương người nên chỉ phong bế các yếu huyệt thôi chứ không dùng cương khí phản chấn lại.

Đại hán nọ không cười nữa. Long Uyên giận dữ nói:

-Này, sao ngươi phản phúc như thế? Vừa rồi rõ ràng người đã bằng lòng rồi sao bây giờ ngươi lại tham lam như thể? Nếu ngươi không bằng lòng trao đổi thì trả lại hai hạt châu kia lại cho ta.

Đại hán nọ dùng đến năm thành công lực bóp chặt vào yếu huyệt trên vai của Long Uyên, một trong 36 tử huyệt của thân người, đừng nói là người thường, ngay cả người có võ công cao siêu mà bị người ta kìm chế yếu huyệt ấy cũng bán thân tê tái không thể nào cử động được. Nếu bị đối phương bóp chặt có khi chết ngay tại chỗ là khác. Ngờ đâu đại hán nọ cho là chắc ăn mười mươi thì Long Uyên đã từ từ quay người lại giằng tay ra được. Nếu chàng không có tuyệt học cái thế thì làm sao có thể làm được như vậy, nhưng tức cười thay vì lòng tham làm mờ mắt, đại hán không nhìn ra, trái lại còn nổi giận quát tháo:

-Tiểu tử muốn chết?

Y vừa nói vừa giơ quyền lên nhắm ngực Long Uyên tấn công luôn. Tất cả thực khách có mặt tại đó tuy có ác cảm với bộ mặt xấu xí của Long Uyên, nhưng cũng không ưa hành vi hung tàn của đại hán kia. Không ai dám ra can gián đại hán ấy cả, họ chỉ kinh hãi la lên, vì tên nào tên nấy biết đại hán kia không phải là tay vừa, nên không ai muốn tự cầm giây cột lấy người mình.

Người nào người nấy đều đinh ninh Long Uyên không sao thoát khỏi bàn tay độc của đại hán kia. Nhưng ngờ đâu họ thấy chàng chỉ từ từ giư tay trái lên và chìa hai ngón tay ra kẹp chặt lấy cổ tay của đại hán đó, quyền của đại hán đó ấn mạnh như thế mà lại bị ngón tay của chàng kẹp chặt không sao rút lại được.

Đại hán có biết đâu lúc này Long Uyên đang dụng Đơn thiết chỉ công tuyệt học trong Đơn Thiết Thần Công, y làm sao mà chống đỡ nổi, nhưng y vẫn không tự lượng sức, thấy rút tay không được liền rống lên một tiếng giơ tả quyền lên tấn công tiếp vào đầu Long Uyên.

Long Uyên nóng lòng đuổi theo tên bắt cóc, không muốn dây dưa mãi với đại hán này, cho nên vừa ra tay chàng đã giở tuyệt học làm cho đối phương kinh hãi mà rút lui ngay.

Ngờ đâu đối phương không biết lòng tốt của chàng lại còn hung hăng tấn tới, liền "hừ" một tiếng và nhấn mạnh sức vào hai ngón tay, đại hán nọ liền kêu rú lên như heo bị chọc tiết. Tay trái của y mới được nửa đường đã uể oải buông thòng xuống, mình mẩy đau nhức tê tái và ngồi thụp ngay xuống.

Nghe đối phương kêu rên thảm thiết như vậy Long Uyên giật mình đánh thót, buông hai ngón tay ra và lùi lại năm thước. Chàng thấy tên đại hán đó tay trái đỡ lấy tay phải từ từ đứng dậy mồ hôi trán toát ra như tắm hậm hực nhìn mình. Chàng biết đối phương đã bị thương rồi, trong lòng hơi ái ngại liền mỉm cười hỏi:

-Bạn bị thương ra sao, không việc gì chứ? Thế nào có bằng lòng đổi ngựa không?

Tên đại hán ấy tưởng chàng mỉa mai, vẻ mặt càng dữ tợn thêm, cười the thé rồi đáp:

-Võ học của các hạ cao siêu thực, không biết các hạ là cao nhân môn phái nào? Mỗ, Trại Tần Quỳnh Trương Kỷ, sẽ ghi nhớ mãi, một ngày kia tái ngộ sẽ lãnh giáo lại tuyệt thế võ công công của ngươi.

Đại hán ấy bao danh xong có một vài người trong thực khác giật mình kinh hãi.

Vì Trương Kỷ là một tay cao thủ trong hắc đạo ở Bắc phương mới nổi lên trong mấy năm gần đây, có tiếng là độc ác nhất, chỉ sử dụng song giản bằng đồng thường thường đi lại vùng núi Tần. Hắn chuyên môn cướp khách lữ hành và các tiều xa, y không bào giờ nói đạo nghĩa với luật lệ giang hồ gì hết, hễ y ưa thích phải cướp cho kì được mới thôi.

Long Uyên không nghe thấy cha mình nói qua tên này không biết, nhưng thực khác thì nghe y xưng danh đều sợ hêt sức. Những người khác tuy không biết tên y nhưng thấy những người kia sợ hãi cũng bất giác lạnh lòng.

Long Uyên đảo đôi ngươi một vòng và đã nghĩ ra một kế liền mỉm cười:

-Tại hạ Long Linh Vân là một tiểu tốt vô danh trên giang hồ, sau này Trương đại huynh cần gì, thế nào chúng ta cũng có ngày gặp lại, hôm nay tại hạ có việc cần, phải dùng đến ngựa, huynh trao đổi ngựa cho tại hạ như vậy tại hạ lấy làm cám ơn.

Nói xong chàng chấp tay chào, ra khỏi quán, nhảy lên con ngựa đen mà chàng đã dùng hai hạt châu trao đổi, một tay dắt cương con ngựa của mình, tiến thẳng ra ngoài trấn.

Trương Kỹ ngẩn người nhìn theo, đầu óc suy nghĩ mãi cũng không sao tìm ra nhân vật nào là Long Linh Vân lại có võ công cao siêu như vậy.

Vì bại trận một cách nhục nhã nên y không còn mặt mũi nào ở đó nữa. Hơn nữa y cũng đã no rồi chả cần phải ở lại làm chi. Y liền quay đầu trợn mắt nhìn mọi người một vòng. Tất cả thực khách liền giật mình đánh thót, không dám thở mạnh.

Y thấy mọi người sợ mình như vậy, đắc chí cười khỉnh mấy tiếng rồi tay xoa bụng nghênh ngang đi ra luôn. Bọn tửu bảo thấy y hung ác như vậy cũng không dám đuổi theo đòi tiền.

Hãy nói Long Uyên phóng ngựa ra ngoài thị trấn, thấy con ngựa mình cưỡi quả là ngựa tốt, vừa nhanh vừa êm chứ không như con ngựa già. Nghĩ đến ngựa già chàng quay đầu lại nhìn. Ngờ đau con ngựa này chạy không một mình mà mồm cũng phì bọt mép, hơi thở hồng hộc, chàng vừa bực mình vừa buồn cười, liền gò cương cho ngựa dừng chân lại, đưa mắt nhìn xung quanh. Thấy cách đó không xa có ba nông phu đang ngồi nghỉ ngơi. Chàng chợt nghĩ ra một kế, liền dắt ngựa đi tới đó vái chào mọi người và nói rằng:

-Thúc thúc, tôi muốn gửi con ngựa này ở nhà nghỉ, chẳng hay các vị có nhận không?

Người nông phu ấy tuổi ngoài bốn mươi, trông khá thật thà thấy chàng ăn mặc rất lịch sự, rất xấu xí, nhưng lại ăn nói rất lễ phép, nên y vội đứng dậy đáp lễ và nhận lời ngay.

Long Uyên liên trao con ngựa già cho người ấy và còn đưa cho y một miếng bạc, hỏi rõ chỗ ở của người đó xong chàng định đi, nhưng sực nghĩ ra một việc lại hỏi tiếp:

-Xin hỏi thúc thúc, vừa rồi có vị tướng công nào cưỡi một con ngựa vàng đi qua đây không?

Nông phu ấy đỡ lấy miếng bạc, thấy nặng hơn năm lạng cảm động vô cùng, ứa nước mắt ra. Y nghe Long Uyên hỏi như vậy, cau mày suy nghĩ giây lát rồi đáp:

-Thưa tướng công chúng tôi ở đây từ sáng đến giờ chưa hề thấy người nào cưỡi ngựa vàng đi qua đây cả.

Long Uyên nghe người nông phu nói vậy thất vọng vô cùng. Bỗng một người trẻ tuổi thấy vậy, liền xen lời nói:

-Có, tôi có trông thấy một vị cưỡi ngựa vàng, ăn mặc quần áo như tướng công vậy, có phải là em tướng công đấy không?

Long Uyên nghe nói mừng rỡ vô cùng, ném cho người đó một miếng bạc và hỏi tiếp:

-Huynh thấy y đi nối nào?

Nông phu ấy mừng rỡ vô cùng, giơ tay chỉ bừa về một phía, Long Uyên vội cám ơn rồi phóng ngựa đi luôn.

Người nông phu già vội hỏi nông phu trẻ:

-Ba Chó có thật mi trông thấy không?

Ba Chó, cầm miếng bạc vừa cười vừa đáp:

-Kệ ý, thấy hay không không có liên quan gì đến mình đâu, quí hồ được nén bạc này là mừng rồi.

-Thực là đồ chó có khác.

-Lý lão gia, bác chửi tôi đấy à?

Lý lão gia quay đầu lại thấy Ba Chó hung hăng như muốn đánh mình vậy, ông ta không lôi thôi, liền chỉ con ngựa già và mỉm cười nói:

-Lão chửi con ngựa già này?

Nông phu kia liền cười ồ. Ba Chó đắc ý cười theo:

-Biết mà, ai dám chửi Ba Chó này.

Y chưa nói dứt, thì đột nhiên nghe thấy tiếng quát tháo như sấm động:

-Khốn nạn, vừa rồi mi có thấy một tên đi qua đây không?

Ba Chó đang đắc chí, nghe thấy tiếng quát như vậy hoảng sợ đến nhảy bắn người lên và cũng bực mình nữa, Y quay lại mắng trả đũa:

-Hừ, khốn nạn thật, mi kêu là như...

Bỗng có một tiếng "bốp" vang lên, Ba chó bị đánh một cái bạt tai hộc máu tươi, gãy luôn hai cái răng cửa.

Ba chó có tiếng là du côn, có bao giờ bị ai đánh như thế đâu, y chưa nhìn rõ đối phương là ai, vội quay người húc đầu vào đối thủ, đồng thời chửi ỏm tỏi lên.

Lại một tiếng "bốp" nữa. Y lại bị tát một cái và người cảu y cũng bị đánh bắn ra xa.

Ba Chó bị đánh bắn ra ngoài xa ba trượng nằm sóng xoài trên mặt đất vừa rên vừa nhe răng kêu đau om xòm. Nước mắt nhỏ ròng xuống, đang định bò dậy thì ngực Ba Chó đã bị đối phương dùng chân đạp lên. Y càng đau thêm dụi mắt nhìn, mới hay đối phương là một đại hán to lớn vạm vỡ, mặt rất hung ác.

Ba chó kêu thầm một tiếng "mẹ" rồi nhịn đau chùi nước mắt van lơn:

-Lạy hảo hán, tội cháu đáng chết, cháu là con chó, cháu là con mèo, cháu là cháu của ông tổ....

Đại hán đó chính là Tần Huỳnh Trương Kỷ, y bị Long uyên đánh không dám trả đũa, đang bực mình. Ngờ đâu vừa tới đây lại bị Ba chó chửi như vậy,nên bao nhiêu lửa giận đều đổ dồn vào Ba chó, sau y thấy Ba chó nhận lỗi tự mắng mình như vậy mới buống chân đá thêm một cái. Ban chó lăn lóc ra ngoài xa hai ba trượng.

Trương Kỷ quay lại hỏi mấy người nông phu kia xong, biết Long Uyên đi lối nào rồi, y liên đi vào đường nhỏ chạy về phía trước.

Lý lão gia thấy Ba chó năm yêu trên mặt đất hằng nửa ngày trời không cử động gì cả, không nhẫn tâm liền chạy lại xem, mới hay y đã chết giấc rồi.

Lý lão gia liền gọi hai người nông phu nữa tới, khiêng Ba chó để lên lưng ngựa trở về làng. Bị trận đòn lên thân đó, Ba chó phải chữa gần một tháng mới khỏi va từ đó y không còn du côn như trước nữa.

*

Lại nói Long Uyên phóng ngựa đi năm mươi dặm liền mà không thấy bóng người nào cả, chàng nghi ngờ, bụng bảo dạ:

"Ngựa của y chạy thua con ngựa đen này, ngêu y chạy nối này thì thế nào ta cũng đuồi kịp rồi sao đến giờ vẫn không thấy hình bóng của y đâu hết?"

Nghĩ đoạn chàng liền ngừng ngựa hỏi thăm người qua đường. Người nào cũng bảo không thấy gai cả. Chàng đoán chắc tên gian ấy thế nào cũng rẽ vào một đường ngang chứ không sai. Chàng nản chí vô cùng liền quay ngựa trở lại, vừa đi vừa hỏi thăm.

Không bao lâu chàng lại trở về thị trấn. Vì mắt chàng trông ban đêm cũng như ban ngày, nên chàng muốn biết đêm ngày, chỉ căn cứ vào những người làm và nghỉ việc. Chàng thấy đã vê tới thị trấn mà không thấy tên giặc đâu cả nên nản chí vô cùng, và hổ thẹn vì việc này có liên quan đến trinh tiết của Tuệ Châu, mà còn nguy hiểm đến tính mạng của nàng nữa.

Đồng thời lần này cũng là lần đầu tiên chàng ra tay hành hiệp. Bây giờ đuổi giạc suốt một ngày trời mà không thấy hình bóng giặc đâu cả, như vậy chả hổ thẹn là gì. Vì vậy chàng nản chí không thúc ngựa chạy nữa mặc cho người ngựa đi bước một.

Người trong thị trấn này ai ai cũng biết chuyện trưa chàng đã ra tay đánh tướng giặc, sau chàng hồi Trương Kỷ đi khỏi mọi người đều đem chuyện này ra bàn tán, bây giờ lại thấy chàng quay trở lại, nên người nào người nấy đều chạy cả ra xem, mặt tỏ vẻ kinh ngạc và thì thầm bàn tán.

Chàng không thèm để ý đến những người nhìn và bình luận, đang định thúc ngựa chạy nhưng nghĩ lại liền đi tới tiệm cơm hồi trưa rồi xuống ngựa vào trong tiệm. Chàng đưa mắt nhìn, thi thấy lúc này, hình như đã tới giờ ăn cơm rồi, nhưng chỉ có hai ba bàn là có khách ngồi.

Chàng kiếm cái bàn ở cạnh cửa sổ ngồi xuống, thấy mọi người đều nhìn mình, chàng cố ý giả bộ không trông thấy vẫy gọi tửu bảo. Tửu bảo đã biết thiếu niên xấu xí này giàu sang và tiêu hang lắm nhưng thấy mặt chàng quái dị như vậy không sao nhịn được cười, những cũng phải cố nhịn mà chạy lại tiếp chàng.

Long Uyên bảo y làm mấy món ăn rồi mới hỏi thăm tên tửu bảo có thấy một người cưỡi ngựa vàng đi qua đây không? Tên tửu bảo vừa cười vừa đáp:

-Công tỷ hỏi đúng người rồi, tiểu nhân...

Nói tới đó y làm ra vẻ thần bí, nhìn ngược nhìn xuôi một lát, rồi hai mắt tỏ vẻ tham lam cứ cười hì hì hoài. Long Uyên thấy thái độ của nó biết nó là đứa ham tiền, vội móc lấy một miếng bạc đưa ra và nói:

-Bạc này là ta cho riêng ngươi, còn tiền cơm ta sẽ trả sau. Ngươi biết những gì cứ việc nói cho ta nghe. Ta nhất định không nói cho người khác biết đâu.

Tên tửu bảo thấy Long Uyên tặng cho mình một số bạc hậu hĩ như vậy, y liền bỏ vào túi rồi cười hi hi hỏi:

-Công tử hỏi môit vị cưỡi ngựa vàng ăn mặc văn sĩ phải không?

Long Uyên không biết người đó ăn vận gì cứ gật đầu bừa và bao tên tửu bảo nói tiếp. Hắn nói:

-Vị ấy cũng là một công tử, hiện đang trọ ở trong tửu điếm, công tử đó tới đây mấy ngày rồi.

Long Uyên nghe nói thất vọng vô cùng, vì chàng nghe tên tửu bảo nói y ở đây mấy ngày như vậy thì nghi không phải tên mà chàng muốn tìm. Nhưng tên tửu bảo ấy có biết chàng chán nản đâu, lại kể tiếp:

-Công tử ấy kỳ lạ lắm. Mấy ngày hôm trước lúc tới đây hình như bị thương thì phải. Ngày hôm nay mới thấy công tỷ ấy đi lại được. Trời vừa mới sáng tinh sương đã thấy công tử ấy cưỡi ngựa đi luôn đến giữa trưa mới về. Không hiểu công tử ấy ở đâu mang về một cái túi thực lớn, mà đi lối cửa sau lén lút trở về phòng. Vừa về tới phòng công tử ấy đóng kín cửa phòng và cấm không được ai vào trong cả. Theo nhận xét của tiều nhân cái túi đó, hì hì... hình như là người chết vậy.

Long Uyên nghe thế mừng rỡ vô cùng, vì chàng biết người mà chàng cần tìm đang ở đây rồi. Cái túi vải đó chắc là Tuệ Châu tiểu thư chứ không sai.

Tên tửu bảo nói người chết chắc nàng bị điểm huyệt cho nên mới nằm yên không lên tiếng được, thực là mình tìm kiếm suốt ngày ngờ đâu tên giặc ấy lại ở ngay trong điếm. Chàng mừng rỡ khôn tả.

Nhưng bề ngoài chàng vẫn làm ra vẻ thản nhiên rồi chàng lại thưởng luông tên tiểu nhị một miếng bạc nữa và hỏi xem tên giặc nọ ở phòng nào. Hỏi xong chàng dặn tửu bảo:

-Được rồi, chú đừng nói cho ai biết tôi hỏi chú việc này nhé!

Tên tửu bảo được thưởng nhiều tiền như vậy nên coi chàng như một vị thánh, vội cung kính lui ngay.

Long Uyên cơm nước xong thấy trong tửu điếm đã thắp đèn thì biết trời đã tối, liền đứng dậy sang khách điếm bên cạnh thuê một căn phòng nhỏ ở. Chàng vào phòng rồi liền dặn tửu bảo đừng có hỏi han gì hết, vì mình quá mệt mỏi muốn ngủ một giấc cho đến sáng.

Chàng dặn bảo xong, đóng kín cửa tắt đèn làm như ngủ thực nhưng thật ra thì chàng nóng lòng muốn biết Tuệ Châu sống chết ra sao, như vậy thì làm sao mà ngủ được. Chàng chở tên tửu bảo đi khỏi vội mở cửa sổ nhảy ra ngoài vòng sang tiệm kế bên ngay.

Lúc ấy trời mới tối, mặt trăng còn chưa ló dạng nền trời chỉ có những vì sao sáng lấp lánh. Nhưng Long Uyên có đôi mắt đặc biệt, bất cứ trời tối đến đâu chàng cũng trông rõ như ban ngày vậy.

Các nơi tuy đã thắp sáng đèn nhưng những người thường vẫn khó mà trông thấy rõ tung tích của chàng. Chàng đi như điện, lúc nhảy xuống đất lại nhẹ nhàng như ma quỷ, chàng chỉ nhảy có mấy cái đã tới vườn sau của khách điếm mà mình ăn cơm hồi nãy rồi. Vườn đó rất bé, bốn bề chung quanh có xây mấy căn phòng, ở giữa chỉ còn lại một cái sân thì đúng hơn, giữa sân có một cây cổ thụ cành lá rậm rạp trông như một cái lọng vậy.

Long Uyên nghe tửu bảo nói qua người đó ở căn phòng thứ ba phía bên tay phải. Vì vậy chàng vừa vào khu vườn là nhảy ngay lên cành cây nhìn vào phòng thứ bà ở bên tay phải. Lúc ấy là mùa hè mà căn phòng đó đóng kín cửa sổ lại chỉ có ánh sáng đèn lóe ra thôi, mới trông chàng khả nghi liền.

Long Uyên lắng tai nghe thấy không có tiếng động gì hết trong lòng sốt ruột vô cùng. Chàng từ trên cây tuột xuống và đi tới cửa sổ nhẹ nhàng không một tiếng động. Khi tới trước cửa sổ chàng đục thủng giấy dán ở trên cửa rồi ngó vào bên trong thấy trong đó chỉ có một ngọn đèn nhỏ ở giữa có một cái sập, cỗ màn cửa sập ấy buông xõa xuống và bên trong có một người đang ngồi. Mắt chàng sáng hơn người bình thường,c hàng đã trông thấy người đó là ai, vừa hoài nghi vừa tức giận.

Thì ra trong mùng có một thiếu niên khuôn mặt khá anh tuấn và không hiểu tại sao y lại cởi trận truồng ra ngồi xếp bằng tròn, mắt nhắm nghiền tựa như điều thần dưỡng khí vậy. Nhưng điều đó chàng không tức, chỉ tức là chàng thấy một thiếu nữ trẻ tuổi mình trần truồng như nhộng đang nằm ngửa ở trước mặt thanh niên kia không hề cử động chút nào. Thanh niên ấy một tay đang ấn vào ngực và tay kia ấn vào thân dưới thiếu nữ.

Tuy Long Uyên đứng cách cái sập ấy rất xa nhưng cảnh vật ở trong mùng thế nào chàng đều trông thẩy rõ hết nên trống ngực đập rất mạnh.

Long Uyên thắc mắc vô cùng, sao thiếu niên kia lại nhắm mắt vận công mà hai bàn tay lại để trên hai nơi trên người nàng nọ như thế để làm chi. Tuy chàng chưa gặp qua Tuệ Châu bao giờ nhưng cũng đoán chắc thiếu nữ nằm trên giường đó át là nàng vì vậy chàng đoán chắc người nọ làm như thế nào cũng có hại cho nàng ta. Chàng có trách nhiệm đến cứu người tất nhiên phải hiểu rõ nguyên nhân đã, chàng nhìn kỹ lại mới rõ sự thể ra sao. Chàng đã học qua Đơn Thư Thiết Quyển và Thần Nông Y Giản đối với các loại huyệt đạo trên người và chuyện lạ dị thiết đều biết rất nhiều.

Chàng chú ý nhìn lần thứ hai đã biết ngay người kia tay đang ấn vào Đàm Trung và Âm giao hai huyệt của thiếu nữ.

Chàng vừa suy nghĩ vừa để ý thì bỗng nghe thiếu nữ rên lên một tiếng khẽ, tiếng kêu ấy không phải là Long Uyên thì không sao nghe rõ được, chàng giật mình kinh hãi:

"Nguy tai!"

Chàng vội giơ chưởng lên đánh một thế, cửa sổ mở toang rồi nhảy ngay vào trong phòng tiến đến trước sập, chàng chưa tới nơi miệng đã quát:

-Tên giặc khả ố tàn sát những kẻ vô tội.

Chàng vừa nói vừa giơ tay phải lên khé búng một cái liền có một luồng kình phong nhắm yếu huyệt ở cánh tay phải của thiếu niên kia bắn tới.

Người nọ vừa vận công đến chỗ tối quan trọng không ngờ lại có người xông vào phá bĩnh, và y lại không ngờ đối phương lại nhắm yếu huyệt trí mạng của mình tấn công như thế. Y giật mình kinh hãi trong lúc kinh ngạc chưa kịp tránh nứ thì yếu huyệt của y đã bị ngón tay của Long Uyên điểm trúng đau đến cả cánh tay tê tái không sao cử động được. Y kinh hoảng vô cùng vội lăn vào bên trong, nhưng vì chính khí đang vận đến giữa đường, nay bỗng bị ngừng trệ nen không sao vận lên được nữa.

Long Uyên đi tới trước sập đưa mắt liếc nhìn thấy thiếu nữ nọ hơi thở hồng hộc hình như sắp chết đến nơi, mặt nhợt nhạt không còn chút huyết sắc. Chàng tức giận vô cùng liếc nhìn thiếu niên nằm cứng đờ ở trong giường mặt cũng nhợt nhạt, mồ hôi trên trán toát ra như tắm, hinh như y đau đớn không chịu nổi.

Long Uyên thấy tình cảnh ấy không nỡ nhẫn tâm, chàng vội lấy một cái chăn đơn đắp cho thiếu nữ lõa thể kia rồi trầm giọng quát hỏi:

-Hành vi của ngươi chết một trăm lần cũng không thể chuộc tội được, nhưng bây giờ ngươi đã bị đình trệ khí huyết như vậy, ta cũng không làm gì nữa, tạm thời tha chết cho ngươi, nếu sau này ngươi còn luyện võ công tà môn này để hại người như thể nữa thì Long Linh Vân này quyết không tha.

Nói xong chàng nhặt bộ quần áo của thiếu nữ và lấy chăn đơn quấn chặt lấy nàng, hai tay ôm nàng ta quay mình đi ra ngoài phòng. Chỉ thoáng cái mất dạng. Người trên sập thấy công phu sắp thành công lại bị Long Uyên xông ra phá đám như vậy trong lòng tức giận vô cùng, cho tới khi Long Uyên đi rồi y mới miễn cưỡng bò dậy mỉm cười nghiến răng:

-Tiểu tử vô danh kia, ngươi dám phá đám công việc của Thái gia này. Được, sẽ có một ngày ta để cho ngươi biết Ngũ âm chưởng của Thái gia lợi hại như thế nào. Hừ.

Y vừa nói dứt thì khí huyết trong người lại dạo rực, y hoảng sợ vô cùng cố nén lửa giận và ngồi gắng sức vận công. Thiếu niên này họ Bốc tên là Tường còn lai lịch của u ra sao thì sau này quý vị sẽ rõ.

Hãy nói Long Uyên ẵm thiếu nữ về phòng mình định để lên trên giường, chàng chả cần phải thắp sáng đèn lửa cũng trông thấy rõ, vội mặc quần áo cho nàng nọ trước.

Luc ấy chàng không dám nghĩ ngợi gì hết, nhưng tay va chạm vào người nàng ta. Chàng cảm thấy da thịt nàng mịn màng và thơm tho vô cùng, dù sao trống ngực chàng vẫn đập rất mạnh và trong người cảm thấy rạo rực khó chịu.

Nhưng chàng là một kỳ nam tử, dù gặp hoàn cảnh như thế mà chàng cũng vẫn cầm cự được, đồng thời chàng vội vàng mặc quần áo vào cho nàng ta, nhưng tiếp theo đó lại có mấy vấn đề làm cho chàng khó xử là. Thứ nhất, chàng chưa biết thiếu nữ này có phải là Đường tiểu thư không? Thứ nhì, xem tình hình này thì nàng chưa bị cưỡng hiếp, nhưng chàng lại e sợ đã bị người hiếp dâm, vì vừa rồi nghe tiếng rên của nàng.

Chàng đoán biết thiếu niên kia thể nào cũng luyện tập một môn võ công yêu tà gì đó? Hai tay cả thiếu niên ấy để nên hai nơi yếu huyệt của nàng, chắc là đang hút âm khí để công lực mạnh lên chứ không sai, có thế nàng mới kêu rên như là sắp tắt thở vậy. Tuy LU không rõ những vấn đề đó nhưng chãng đã đoán trúng phần nào. Chàng đang đứng ngẩn người ra suy nghĩ, đột nhiên thấy thiếu nữ khẽ rên rỉ rồi bỗng ngừng hẳn hơi thở.

Chàng cả kinh thất sắc vội đưa tay rờ ngực nàng, tim đã ngừng đập, chàng dậm chân lẩm bẩm nói:

-Việc đã xảy ra như thế này, ta không thể do dự được, nhưng tại sao ta lại cứ gặp phải những chuyện éo le như thế này!

Tiếp đó chàng cúi đầu xuống, miễn cưỡng hà hơi vào miệng nàng nọ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro