Chương 21: Máy móc, linh hồn và bi kịch

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nhưng bọn trẻ hãy còn chưa đi thoát ra được khu vườn đổ nát. Một ánh sáng xanh từ dưới mặt đất như làn nước tràn qua chân bọn trẻ, hắt bóng của chúng ngược lại một cách đột ngột. Ánh sáng xanh chết chóc ấy bỗng chốc lan tràn ra toàn bộ không gian. Cả hai quay đầu nhìn lại phía sau, trong đáy mắt không giấu nổi một tia kinh ngạc, sợ hãi. Bọn chúng bất giác run lên như một con thỏ non. Cái nỗi sợ hãi ấy đương như quán tính đủ để đưa người về phía sau đối mặt với cảnh kinh hoàng. Carlisto vẫn đứng lên, ả đứng lên như một cái xác không hồn, tay chân khùng khoằng như được kéo điều khiển một con rối gỗ bằng sợi dây vô hình. Từng khớp cơ kêu răng rắc, ả đương con lưng cúi đầu, giờ đây ả bật ngửa lại phía sau, ngón trỏ chỉ thẳng vào hai đứa trẻ mà rằng:

- Đức tin! Đức tin chính là tôn chỉ sống của ta. Ngài đã giao cho ta Tịch Cầm Lyre. Chứng tỏ năng lực của ta. Ta tôn thờ Ngài, Đức Chúa Cha, Đức Chúa Mẹ, Kinh Điều Bổn Đạo sẽ đưa sứ giả cho mọi khổ đau trên thế giới này. Hãy để cho là người truyền đạt cho Ngài, để công nhận Ngài và tinh thần bất tử là sức mạnh dẫn đường cho cả nhân loại. Hãy ban cho ta một cái chết bất tử. Ta sẽ hiến dâng linh hồn mình. Cháu ơi, xin kính cẩn dâng Ngài mạng sống này. Mong rằng thân xác tôi có thể trở thành chiếc cầu đưa tất cả mọi người đến bến bờ hạnh phúc. Xin hãy bước qua chiếc cầu ấy và hướng vào vận mệnh tươi sáng của nhân loại.

Carlisto vừa dứt lời cây đàn dây Tịch Cầm Lyre từ dưới đất nay đã bay lơ lửng trên không trung, nó bắt đầu tự động cất lên tiếng đàn của mình, những sợi dây như thể bị kéo bởi hàng chục cánh tay. Không phải một nhạc khí nữa mà đã là một dàn giao hưởng. Xung quanh bỗng chốc trở nên tĩnh lặng như thể sợ làm gián đoạn khúc nhạc kia. Tiếng đàn réo rắt, nhịp khúc, nối với nhau, dính gần lại nhau, trải tay nhau, đứng một mình rồi lại hòa tiếng, chúng đứng cao, chúng đứng thấp, những tiếng đàn bi thương, đau khổ như khóc thương cho nỗi đau của tất cả nhân loại hay nỗi đau của một linh hồn sắp về với bầu trời. Tiếng đàn khiến không gian, con người cũng phải nhỏ lệ xót thương cho những mảnh đời bất hạnh ở trần thế, những sự chia cách, cái chết, những thất bại, bế tắc, mọi khổ đau, rạn vỡ mang quét màu số mệnh, dồn dập, đau thương lại đến. Tiếng đàn nghe như tiếng nhạc nguyện hồn nơi cõi Địa ngục, nghe như một tiếng kéo cao giọng của đứa trẻ thơ, lúc lại thành giọng trầm mê như một bóng ma vọng trong thinh không với gọi linh hồn trên mặt đất. Tiếng đàn bỗng chốc thành tiếng chữ, những câu chuyện khốn khổ hiện lên bằng ngôn ngữ cổ nhiều móc, mềm mại, nhiều nhánh lần lượt hiện ra. Những vòng sáng bằng chữ mở rộng ra đường đi của nó, rồi nó rùng mình, thu lại những dòng chữ sáng rực đó. Những dòng chữ ấy thu lại nhỏ đến nỗi bao phủ toàn thân Carlisto, chúng giờ đây băng kín như xác ướp, mà niệm chú như ma quỷ. Trước mặt Carlisto điều duy nhất hiện lên là những hình thái của khổ đau quằn quại, những thước phim ký ức đã lùi về xa. Trong những mảnh ký ức xa nhất mà cô còn nhớ được, là cảm giác chìm sâu xuống dưới mặt nước, cô đã trải qua đủ mọi cảm giác của việc được gột rửa linh hồn của lễ Passthrough, cơn đau từng hồi, cô nhớ lại những ngày làm nô lệ, những ngày thân thể bị thiêu đốt bởi đòn roi và sặc sụa hơi nóng như thiêu như đốt dưới địa ngục. Những kinh hoàng khi nhìn những nô lệ làm việc ở cái giàn thiêu toàn đá trong ký ức này. Đó hẳn là địa ngục nơi chốn trần gian, cái địa ngục trong Thần khúc của Dante. Không khí sôi lục bục bên dưới, những linh hồn giận dữ đánh nhau trên mặt đá, những lời mắng chửi làm tổn thương người khác như roi quất, những tia lửa bắn xuyên qua, những linh hồn ủ rũ quằn quại, uể oải tan ra và chảy thành những giọt dung nham đá và chịu những cơn mưa lửa. Và sự hoảng loạn lớn dần khi cố với lên trong tuyệt vọng. Carlisto nhớ về những ngày làm thuê, phơi thây ngoài gió mưa, những ngày đầu trần chân đất, bữa đói bữa no, những vụng về e dè cuộc đời của người khốn khổ. Cô tin chắc người vụng về ít khi đi được đến cuối chặng đường của quá trình, có lẽ thế thật. Đó là cảm giác của một cuộc đời thoi thóp chỉ để cố gắng cảm thấy một điều gì đó, một thế lực vô hình không ngừng kéo bản thân mình xuống. Khi mọi thứ trở nên tối dần đi, bóng tối dường như đã ngự trị nơi đó. Carlisto đột nhiên nghe thấy những thanh âm lạ lẫm cất lên từ bên dưới. Tuyệt vời hơn bất cứ âm thanh nào cô từng nghe được. Tựa như dàn hợp xướng của các thiên thần. Cô nhớ mình đã bình tĩnh đến lạ. Rằng thứ đang kéo mình xuống chỉ là những thiên thần, mong muốn cô được đến thiên đường, để cô có thể đàn cùng họ. Những thiên thần đã không buông bỏ cô, cô vẫn có thể nghe thấy tiếng họ hát, họ níu kéo cô.

Vào đầu những năm 1964 ở Harseon, rất ít người biết về tổ chức Đệ Thất Vạn Tượng giáo hoặc bước vào một đền thờ Đức Chúa Cha, Đức Chúa Mẹ của giáo. Tổ chức này thuyết giảng rằng người da trắng có nguồn gốc tổ tiên là loài quỷ dữ, internet và thông tin trên đó cũng là địa bàn của quỷ Satan và chỉ cần tin vào những tín điều được giảng dạy trong Kinh Điều Bổn Đạo, làm một con chiên ngoan, sẽ có một ngày chiếc thuyền Ánh Hồng sẽ giải thoát cho những đứa con của ngài khỏi khổ đau, bệnh tật nơi trần thế. Lần đầu tiên Carlisto gặp Vạn Tượng Công Tử ở bên ngoài nhà thờ và đợi đến lúc giáo đoàn giải tán để chỉ tay vào những người thuyết giáo và nói: "Ông ta đại diện cho Thượng đế của người da trắng, còn tôi đại diện cho Thượng đế của những người da đen." Biết Carlisto chưa đọc Kinh Thánh nên Vạn Tượng Công Tử bắt đầu giảng thuyết: "Kinh Thánh chính là viết lại toàn bộ mệnh lệnh và chỉ thị của Chúa Trời." Vạn Tượng Công tử cho rằng lời tiên tri là khi Đức Chúa Trời cấu từ những tin quan trọng bằng cách sử dụng cảm xúc, mong muốn, mơ ước hay những lần ghé thăm của các thiên sứ để thể hiện các sự kiện sẽ xảy ra trước hàng ngàn năm. Lời tiên tri là điều làm cho Đức Chúa Trời khác biệt so với lời tiên tri của các tôn giáo khác trên thế giới. Ví dụ như bạn sẽ làm gì nếu bạn đọc thấy tên mình trong Kinh Điều Bổn Đạo và nó tiết lộ số phận của bạn trước khi bạn chào đời? Đức Chúa Trời có thể chứng minh cho con người thấy lời Ngài được viết trong Kinh Điều Bổn Đạo là lời mặc khải thiêng liêng đúng và duy nhất về thế giới bởi vì nó chứa những lời tiên tri. 1/3 lời tiên tri trong sách Kinh Điều Khởi Nguồn chưa xảy ra và có 318 điều tiên đoán trong sách Kinh Điều Nền Tảng liên quan đến sự trở lại của Đức Chúa Trời, dưới một cái tên khác, một đất nước khác, và đó chính là Đức Chúa Cha của bọn họ, Người Cha của Vạn Tượng Công Tử, Vạn Tượng Công Tử là hiện thân của Đức Chúa Trời giữa trần gian. Theo tín ngưỡng của Đệ Thất Vạn Tượng thì cứ mỗi hai ngàn năm, linh hồn của đaáng đạo sư thế giới là Đức Maitreya sẽ nhập vào thân xác của một người phàm. Đầu tiên là người đã tái sinh trong thân xác của Sri Krishna, ra đời hai ngàn năm TCN; sau đó đến Chúa Jesus, và người sẽ lại hóa thân một lần nữa, Người Cha Hồng Quang, sẽ là người kế tiếp được đáng đạo sư của thế giới hóa thân vào. Hồng Quanh được phong làm trưởng dòng tu, Ngài tuyên bố: "Ta đã uống được nước nguồn Trí Tuệ. Ta là hiện thân của Thượng Đế", cả Ngài Hồng Quang và con trai là Vạn Tượng Công tử đều đã có những trải nghiệm tâm linh mà các nhà thần trí học gọi đó là những chuyến viếng thăm của đấng đạo sư thế giới. Trước khi có sự xuất hiện của ngôi làng thế giới, Trái Đất là một nền văn hóa cô lập của con người, nơi trái đất phẳng ấy đã thúc đẩy hình thành những trạng thái tinh thần tối cao. Trí tưởng tượng của tôn giáo liên tục biến đổi chúng theo thời gian và nhất là theo chủng tộc rồi mới đến bàn cân chính trị. Đức Chúa Jehovah dữ dội trong Kinh Thánh khác xa Đức Chúa Trời đầy tình thương của Thánh Thérèse, và Đức Phật được thờ ở Trung Quốc lại không phải dòng thờ Đức Phật ở Ấn Độ. Hơn nữa, nhiều nền văn hóa thời trước tin vào sự tồn tại của những trạng thái linh hồn, thần trí, thể giác ngộ của ý thức, mà mọi người có thể vào đến được bằng thiền định, thuốc ma túy, hoặc những nghi lễ. Những thầy pháp, thầy tu, những người luyện khổ hạnh, những giáo chủ đã khám phá một hệ thống những vùng đất bí ẩn của tiềm thức diễn ra trong bộ não, và đã trở về với đầy những truyện kể ngoạn mục. Họ nói về linh hồn, những nơi linh hồn sẽ tới sau khi chết đi, những hạnh phúc vô vi, những trạng thái xa lạ của sự yên tĩnh tối cao, minh mẫn cực kỳ, thấu hiểu sự vận động của thế giới một cách tự nhiên và nhạy cảm vô song. Họ đã nói đến việc có thể hiểu được sự vận động ấy như dòng chảy tri thức giác ngộ đồng thời mà không cần phải thực sự đọc tin tức, tiềm thức của họ vượt ra khỏi cơ thể phàm trần mở rộng tới vô cùng, hay tâm thức tan lẫn vào hư không. Nhưng thực sự là Hồng Quang đã nhận được lời mặc khải, một triết lý triết học đơn giản mà người chịu tìm hiểu sẽ thấu tỏ, đó là chân lý vũ trụ nằm ở bên trong ta. Không có thần linh, cố vấn tinh thần hay tín điều nào có thể giúp ta nhận ra điều ấy bằng chính bản thân ta. Bản thân Hồng Quang cũng không phải thần linh cũng chẳng phải đáng cứu thế mà chỉ là một con người.

Đó là những lời tiên tri đúng đắn tiết lộ tương lai của các quốc gia, người Harseon và tín hữu tin vào lời giao ước. Vạn Tượng Công Tử có vẻ ngoài của một thiên thần tóc trắng, vầng trán rộng tràn đầy tin tưởng, đôi mắt xanh trong dễ hằn lên vằn vện máu đỏ, Công Tử dễ nổi giận nhưng không thể hiện sự giận dữ nhiều trong lời nói mà chỉ bằng cách thể hiện sự sục sôi khi nổi hết gân lên cổ. Công Tử làm cho tín đồ khuây khỏa hơn khi Ngài lên tiếng phản đối trừng phạt bọn ác độc, tham lam, tàn bạo, dâm dục, u minh, phản bội ở đời, những kẻ buôn thần bán thánh ở đời, những linh hồn nhơ nhớp thoa hóa nhân cách khi bang bổ Đức Chúa Trời, Vạn Tượng Công tử chế nhạo những người theo Đảng Tự Do, giễu cợt kẻ ở bên Đảng Cộng Hòa, giễu cợt cả Tổng Thống Crimson. Không một người da trắng nào thoát được khỏi sự miệt thị của Công Tử, Ngài nói là bọn da trắng sử dụng bạo lực thì ta cũng phải dùng ngôn ngữ bạo lực để đáp trả họ, vì đó là thứ ngôn ngữ duy nhất họ hiểu rõ. Công tử hét lớn: "Chống đối bọn chúng là đúng! Ta đã kiềm nén quá lâu rồi! Ai cũng có thể ngồi. Một bà lão có thể ngồi, một tên hèn nhát có thể ngồi. Nhưng một người đàn ông thì phải đứng."

Công tử ảnh hưởng mạnh mẽ đến những người có cùng nỗi tức giận nhưng e sợ không dám biểu lộ. Trong đó có cả Carlisto, Carlisto không chỉ yêu cái ánh sáng thu hút của uy lực nơi Vạn Tượng Công Tử, mà Công Tử là một vị thánh mà cô mãi mãi không có thể chạm tới mà chỉ có thể đứng ngắm nhìn từ xa. Cô e sợ rằng sẽ không bao giờ gặp được một con người đã tin tưởng cô trước, đưa tay về phía cô, cứu cái cuộc đời khốn khổ của cô, luôn luôn bên cô dù có vượt qua những khổ đau, bão tố cuộc đời, đầu óc cô lúc nào cũng đọc những lời cầu nguyện, và trong lúc đó, lại hiện lên một hình ảnh. Hồi Carlisto còn sống, nàng và Vạn Tượng Công Tử hay cùng chơi đàn cầm Lyre, nàng chơi đàn không giỏi bằng Công Tử và dáng điệu của nàng cũng không thanh nhã bằng. Điều này không đáng lo vì chàng sẽ rèn luyện nàng và biến nàng trở thành một tiểu thư. Công Tử cất giọng tựa thái dương ấm áp. Nếu Công tử lý giải được lòng cô, cô chỉ nguyện bầu bạn bên chàng.

Vạn Tượng Công Tử bắt đầu đi diễn thuyết khắp Harseon, ở những quốc gia khác cũng có những người đi truyền đạo, thành lập những giáo phái, và thu về hàng nghìn tín đồ. Vạn Tượng Công Tử được những tín đồ ngưỡng mộ như một đấng thần thánh, một Đức Chúa ngoài đời. Chỉ cần được nhìn thấy chàng cũng có thể khiến người đang ốm khỏi bệnh. Và Ngài không chỉ là Người hướng đạo, Ngài là một triết gia với quyết tâm truyền bá chân lý mà ngài khai phá: Chân lý vũ trụ nằm ở bên trong ta. Chúng ta đang sống trong vũ trụ, và vũ trụ đang sống trong chúng ta. Chân lý đó là ta phải thấy hạnh phúc với những điều giản đơn. Sống hòa hợp với động vật, thiên nhiên, phá bỏ những bức màn ngôn ngữ ngăn cách, những trải nghiệm quá khứ. Vì quá khứ là bài học, tương lai là mộng tưởng khiến con người ta khổ đau, phải sống cho hiện tại. Hiện thực được tạo nên từ chính suy nghĩ, việc làm của con người. Giáo lý của Ngài chủ yếu nói về năm trụ cột chính: tình yêu thương, niềm tin và hy vọng; sự hợp nhất giữa vũ trụ, trời đất và con người; nguồn gốc của mọi khổ đau; quy luật vũ trụ và trạng thái của "sự giác ngộ" và giác ngộ tuyệt đối. Tại Harseon, hay cả Furcidisum nơi Ngài sống phần lớn thời gian, sự trung thành của tín đồ dần chuyển sang sự sùng bái. Nhà thơ Robinson Zereff cho biết mỗi khi Vạn Tượng Công Tử bước vào một gian phòng thì ta có thể thấy không gian nơi đó bừng sáng. Nhà văn Tedna Aldous gặp Ngài lại viết: "Giống như tôi được nghe Đức Chúa Vạn Thượng thuyết pháp – lời nói của người mới mạnh mẽ và đầy uy lực làm sao." Ở Ngài tỏa ra ánh sáng của sự giác ngộ, người người phủ phục dưới chân ngài.

Kinh hãi trước sự sùng bái đó, Vạn Tượng Công Tử ngày càng trở nên cách biệt. Ngài thậm chí còn nói về bản thân mình ở ngôi thứ ba. Trên thực tế, các môn đồ của Ngài đánh nhau để tranh giành được ân huệ của Ngài, phụ nữ thì đặc biệt yêu Ngài say đắm, dù cho đến suốt đời Ngài vẫn chỉ sống độc thân. Nhưng lời cầu nguyện tới Ngài vẫn luôn luôn ở trong tín đồ. Lệnh truyền số một của người theo chủ nghĩa nhân bản tự do: "Hãy lắng nghe chính mình!" Cho cô cũng như mọi tín đồ được hạnh phúc, thỏa mãn, no đầy, yêu thương, miễn là điều răn cho Carlisto khả năng sau cùng nghe được sự tự ngã đích thực sâu thẳm bên trong cô. Carlisto làm mọi việc, chiến đấu, phục tùng, làm nô lệ cho Vạn Tượng Công Tử chỉ để được nhìn thấy vầng hào quang giác ngộ nơi Ngài, chỉ để được nghe thấy một lời Ngài nói "Làm tốt lắm Carlisto, linh hồn con cũng là linh hồn của nhân dân. Và con đã hiến dâng mình cho đức tin ấy." Vạn Tượng Công Tử nói với cô như vậy cũng như Đức Chúa Vạn Thượng nói lời yêu thương những đứa con của Ngài. Còn điều gì thiêng liêng hơn thế nữa với một linh hồn. Sức sống cuối cùng trong tâm hồn Carlisto bùng cháy, ánh sáng theo ngàn mảnh vụn vỡ òa ra, khóc thương đầy trời. Trước khi về với vòng tay vị Chúa của cô, câu cuối cùng mà cô thốt ra là "Công Tử." Gần nhau trong gang tấc mà biển trời cách mặt. Công Tử, ta đã đi rồi, ta mới phát hiện ra rằng mình không là gì so với người cả, cuối cùng ta cũng có thể từ bỏ người rồi...Bầu trời gảy lên khúc đàn tình không biết bắt đầu từ đâu mà vẫn đậm sâu vô hạn, trong lời chữ lại là sài lang hổ báo.

Cùng lúc đó, kẻ thù thực sự đã phơi trần. Tịch Cầm Lyre ôm lấy cơ thể của Carlisto, những đợt ánh sáng như một trận cuồng phong. Từ trong luồng ánh sáng ấy bộ giáp đen dần dần hiện ra và thành hình, nó có một cái mặt nạ màu đỏ với hoa văn cầu kỳ, nối liền một khối với chiếc mặt nạ là vương miện với những mũi giáo dài nhọn đâm lên tua tủa, không thể thấy được đôi mắt phía sau hốc tối hun hút của vực thẳm nơi đáy mắt. Bên dưới ngực của bộ giáp, khuôn mặt của Carlisto hãy vẫn còn đó, trông khuôn mặt đó có một vẻ sầu khổ, quằn quại và dữ dội. Rồi nó khóc, nó liên tục cất những tràng tiếng kinh rợn, như khóc than như tiếng thét gào nơi âm ti. Carlisto giờ đây, dưới sự chuyển hình của bộ giáp, lại mọc ra tới 6 cánh tay bọc giáp sắt nhọn, hoàn toàn rời ra và chỉ được nối bởi những sợi dây xuyên qua khung gỗ cây đàn Tịch Cầm Lyre, giờ đây đã hóa lớn thành trục gỗ của đôi cánh, những sợi dây là lông vũ, mà gỗ là hệ xương. Trong hình dạng của bộ giáp Cửu Mạch Liên Hoa, Carlisto đã ký khế ước hiến dâng linh hồn để triệu hồi Parvul – Amon, một thực thể của bóng tối, nhai nuốt những phần sáng của linh hồn, và dùng cái vật chất tối tăm khổ đau của tâm hồn làm nhiên liệu. Ý thức của Parvul – Amon vẫn là của Carlisto đấy thôi, trao đổi tương đương, nhưng đó cũng không còn là của Carlisto từ lúc cô trao niềm tin của mình cho Đệ Thất Vạn Tượng nữa rồi. Cái sự đổi màu của linh hồn này phải kể đến sự ảnh hưởng lớn lao của một kẻ được tín đồ xưng tụng ngang với thần thánh. Một khi đã trở thành hình dạng như vậy, nó chỉ làm đúng những gì đã được lập trình sẵn mà thôi. Nói cách khác, thứ đó là một cỗ máy, là vũ khí sống kết hợp linh hồn của người chết. Linh hồn đó lại được điều khiển bởi "Kẻ sáng tạo" – Vạn Tượng Công Tử, đau đớn bởi tội ác, tuyệt vọng bởi sự tồn tại của mình, mọi bóng hình của khổ đau, sự dằn vặt của những linh hồn là năng lượng sống cho Parvul – Amon; và bên trong nó là một linh hồn bị trí buộc bên trong. Từ "máy móc", "linh hồn", "ý thức", "khổ đau" hình thành nên Parvul – Amon có khả năng hệ tâm trí, Telekinesis, siêu năng ngoại cảm giúp di chuyển đồ vật bằng suy nghĩ.

Parvul – Amon chụm hai tay vào, ngồi gác một chân lên chân còn lại, dường như đang bay trong không trung. Miệng liên tục đọc lầm rầm những chú ngữ cổ, không phải ngôn ngữ có thể hiểu được bởi con người, đó như âm vang của việc định vị thế giới của loài dơi. Parvul – Amon phát ra một chuỗi rất nhanh những tiếng kêu có tần số cao, vượt ngoài phạm vi tai nghe của con người. Những con dơi sống trong một thế giới của những tần số rung động. Cũng như trong thế giới con người, mọi đối tượng đều có hình dạng, thân nhiệt và màu sắc đặc trưng, trong thế giới loài dơi, mọi đối tượng đều có mô thức tiếng vang của nó. Một con dơi có thể biết được con bướm đêm chỉ bởi những tiếng vang khác biệt vọng lại từ những cánh đập mảnh mai của chúng. Khi cho những rung động đó đi qua một màn chắn. Trong khi Parvul - Amon truyền đi những xung điện siêu nhẹ. Rồi khuếch đại mạnh nó lên. Như bên trong một cái bóng đèn chân không, tạo ra màng chắn ngăn cách hoàn toàn giữa không khí. Sau đó, khi dòng điện đó dao động lặp đi lặp lại cùng một vị trí. Nó trở thành những đợt sóng năng lượng lan truyền vào khu vực xung quanh chúng. Đó gọi là sóng điện từ. Parvul – Amon dựa vào đó để điều khiển những bức tượng thiên thần cầm kiếm, cầm khiên bên trong Thánh Đường Adalberto bay ra giáp chiến. Những bức tượng giờ đây như cháy rực lên ngọn lửa xanh, nhưng những thiên thần ấy lại như được trao cho ý thức. Họ đập cánh bay lượn trước mắt, là thật, không phải mơ nữa, và bức tượng giờ đây đã biến thành những kỵ sĩ bay lượn ngang nhiên trong cảnh hỗn chiến.

Những thiên thần giơ kiếm lên, chụm kiếm lại, rồi giương khiên lên, những tiếng đụng va vào nhau của đá như tiếng trống trận liên hồi. Quân địch mởi một đợt tấn công tối hậu vào đấy và đợt này có kết quả. Những thiên thần cầm theo tua tủa lưỡi lê chạy cầm cập và lao tới không sức nào cản nổi. Hàng ngũ dày đặc những bức tượng thiên thần xuất hiện giữa khoảng vườn, giữa một đám khói mịt mù. Lần này thì không cách gì cứu vãn được nữa. Họ đâm cả chính những tay lính đi cùng. Đám lính ấy không thể làm gì hơn là tháo chạy, họ tháo chạy toán loạn, vấp cả lên nhau mà chạy, người này đạp lên thân người kia để giành nhau sự sống. Họ không muốn chết nữa. Với ý nghĩ đó thế là con thú bên trong họ nổi dậy. Bản năng sinh tồn mãnh liệt ấy. Họ gào lên, họ rú thét lên. Họ tháo chạy khỏi khu vườn như thể con đường trước mặt là con đường sống duy nhất cho những con người tuyệt vọng kia. Nhưng ngả sau, những bức tượng cũng chặn họ lại, họ đồng loạt giơ đũa phép lên hô: "Explosio!", họ kêu, họ gọi, họ chắp tay lạy van xin. Những bức tượng trúng phải Bùa Nổ tan tành, khói bụi cuộn lên, không thể thấy rõ. Rắc một tiếng, rồi nhiều tiếng rắc rắc lộp độp như mưa đá rơi xuống mặt đường, những phần đá vỡ lại ngay lập tức khôi phục như cũ. Một tên phù thủy nhỏ con tên Duarte có chiếc mũi khoằm đôi mắt hãy giương lên vì kinh hãi, miệng há hốc lẩm bẩm: "Chúng là Linh Vật. Sẽ không bị tiêu diệt trừ khi linh hồn của Carlisto chưa tan biến đi. Độc ác quá, nó lấy linh hồn của cô ấy làm lò phản ứng năng lượng" Những tan tành đổ vỡ trước mặt Duarte càng làm cho hắn mê đặc, tiếng sụp đổ của tất cả là một khúc ru êm ái. Khi cây kiếm đá đương xuyên qua bả vai Duarte, dường như nó cần phải có nhiều lực hơn nữa, sự xuống tay ấy lay mạnh Duarte, hắn rút mình ra khỏi thanh kiếm, ngã bật ra sau, cũng như khi một cái xe đang đi nhanh thì đột ngột phanh gấp, Duarte ngã ra thì thiên thần đá cũng đâm thẳng thanh kiếm xuống đất, toàn bộ vỡ toang. Bên này một bức tượng và một anh lính phù thủy vật nhau trên mái ngói, trượt theo chiều dốc của mái nhà, những mái ngói bật bung ra, họ vẫn không chịu buông nhau, cả hai đương như trong một cuộc đấu vật sumo xem ai sẽ là kẻ ôm người kia xuống cửu tuyền nhanh nhất, cả hai cùng rơi xuống đất, rơi mà vẫn siết chặt nhau một cách dữ tợn.

Cùng lúc ấy, hai bàn tày của Purval – Amon như lớn lên, chúng quả thực đã trở nên khổng lồ, chúng đương vẫn như cầu nguyện, nhưng đã giáng một đòn đập chết chóc xuống hai đứa trẻ. Aldara xông xáo trong chiến trận chỉ để nhận mọi sự nguy hiểm. Trong cảnh nghìn cân treo sợi tóc, cậu chỉ có thể đứng trước Inferus mà đỡ lại đòn tấn công như quả tạ nghìn cân giáng xuống, cậu gồng mình, đã cong cả thân mình lại để chống đỡ sức mạnh của cú đánh. Nhưng rồi những đoạn nối kim loại trên bộ giáp Hachiman Kami of War ở phần tay của cậu như lớp mang con rồng mở ra, chúng mở ra và sáng rực lên, chúng như phản lực giúp Aldara nâng được đôi bàn tay niệm chặt đó lên, quật đối thủ quăng qua vai mình, đó là Ippon Zeoi một chiêu quật đối thủ trong Judo hay Sumo, rồi hất văng chúng ra xa. Cơ thể cậu đã phải chịu nhiều vết thương, nhưng không hề có vết thương do bỏ chạy. Carlisto bị hất văng đôi bàn tay đi nhưng nhanh chóng phản ứng bằng việc tạo ra trường từ lực để bảo vệ bản thân và định hình lại. Dường như ả nói, đúng là đang nói, nhưng giọng Carlisto nghe xa xăm như từ một cõi xa xăm, tiếng nói như khít gió qua khung cửi rít lên khe khẽ:

- Điều gì tạo nên những trận chiến ngoài ham muốn chiến tranh xung đột bên trong con người. Chính tông là thiện à, tà giáo là hung ác à? Ai cũng có cái giáo lý tốt đẹp riêng của mình, có đức tin riêng, có lòng tự tôn riêng, lòng thành kính cũng rẽ hướng khác nhau. Từ xưa đến nay hai cái mác đó đã trao đổi cho nhau không biết bao nhiêu lần rồi. Hắc bạch phân minh sao? Kẻ nào đứng trên đỉnh vinh quang sẽ định nghĩa đúng sai theo ý mình. Chính nghĩa tất thắng sao? Ờ tất nhiên rồi! Carlisto ta, kẻ thắng cuộc chính là chính nghĩa.

Aldara có một vẻ lẫm liệt đáng sợ, nó trấn áp mọi sự xôn xao, thái độ dũng cảm trước cái chết nhưng không bao giờ quay đầu lại làm cho người ta cảm nhận được uy lực đầy xúc động.

- Chính nghĩa chỉ có thể bất ngờ xuất hiện khi nó đi cùng với sức mạnh ý chí mà thôi. Chỉ cần hiến dâng đời mình cho một niềm tin, cho sự trung thực cũng đủ rực rỡ uy phong. Đừng bao giờ xem nhẹ nó. Aldara nói.

Aldara dứt lời, cậu vẫn đứng như vậy. Như giang rộng đôi tay ra đón nhận tất cả. Cậu chấp nhận hết những thứ gì trước mắt có thể tới, có thể xảy ra. Giờ đây cậu chẳng còn sợ hãi gì nữa rồi, trong cậu, có cái tâm thế đón nhận, chấp nhận và trách nhiệm của một người đàn ông. Chưa một lần nào cậu bỏ chạy trong một trận chiến. Nếu đây là trận chiến cuối cùng dù cho có là Achilles trút hơi thở cuối cùng cũng vậy, vậy là cậu cũng oanh liệt như thế. Bên cậu chỉ có Inferus, còn gì trân quý hơn khi có một người bạn đứng cùng chiến tuyến. Để biết rằng ta không đơn độc, và mỗi khi gục ngã vẫn luôn có người anh, người em sẵn sàng làm chỗ dựa cho ta. Trong cái giờ phút thiêng liêng ấy, hai đứa trẻ khiến cho cả thảy năm người lính phải kính nể. Sau trận chiến, tuồng như không có vết thương nào có thể đánh gục được chúng, chúng vẫn đứng đỏ, khuôn mặt tràn đầy tinh thần chiến đấu ửng hồng. Chúng dường như là những đứa trẻ thần tiên bay giờ là đứa con của lý tưởng.

Nhưng trong trận chiến thường có những biến thiên mà ngay cả những nhà sử gia cũng không thể nhìn thấy được và những nhà toán học còn chưa tìm ra lời giải. Và phải chăng Chúa cũng có đường lối của Chúa cho những đứa con lầm đường lạc lối. Trong không gian chỉ chợt vang lên giọng nói nhẹ nhàng thanh tao, như tiếng vọng về từ cõi trên:

- Đôi mắt để nhìn về phía trước. Để nhìn về lý tưởng, chính nghĩa soi sáng cho lý tưởng. Và dường như trong cái niềm kiêu hãnh của lý tưởng đang mong đợi những điều kỳ diệu mà tôi sẽ rất vinh dự và sẵn sàng thực hiện. Chính nghĩa không bao giờ quỳ gối hay lùi bước ở Furcidisum.

Giữa trận chiến có một khoảng lặng uy nghiêm. Mọi người đều nhìn về phía phát ra giọng nói, họ như bị đóng băng, như bị thôi miên trong phút chốc mà quên lao vào giằng xé, đâm chém nhau. Bầu trời phía xa tầng mây cuộn lại che khuất đi mặt trăng, ở tầng mây ấy đương như một mắt bão vô tình nhìn xuống. Phía chân trời có dạng chớp, chúng chớp giật vô vàn những luồng điện, màu xanh, ánh vàng, rực lên, lan ra, bén rễ như cội của bầu trời. Chúng lưu chuyển, chúng là những tầng màu sắc của ánh chớp trong tảng mây khổng lồ. Người ta đương tưởng như thấy bóng dáng của một con rồng đen khổng lồ đang dương những vảy ánh sáng của nó, giang cánh, tung mình trên bầu trời. Giữa những sợi ánh sáng dát bạc, mạ vàng, phía dưới chân không khác gì đứng giữa biển đời bao la tĩnh lặng soi sáng được bóng hình cuộc sống như một tấm gương khổng lồ, bắt trọn lấy khoảng không. Và người hiện ra giữa biển trời ấy không khác gì thần Vệ Nữ đang trồi lên từ sóng biển.

Tất cả mọi người đều sững sờ trước sự xuất hiện như từ trong mơ của vị Nữ Hoàng trẻ đẹp. Trời đất cùng cảnh vật như những người chèo thuyền khoan thai theo làn điệu du dương như đến từ cõi thiên tiên. Nữ Hoàng váy trắng, đáp mình trong gió đương bước tới thì cũng như trong thần thoại giáng thế. Chung quanh ánh sáng đương quạt mát cho nàng và hát vang ca ngợi nữ thần Aphrodite. Và những vạt váy trắng đang tung bay trong gió kia cũng ấm áp như đôi cánh của thiên thần. Trong vẻ ngoài trắng trong ấy cũng thánh khiết như linh hồn thiếu nữ. Vầng hào quang người mang đến là ánh sáng, nàng đương ôm lấy bóng hình của Parvul – Amon, nàng ôm thật gần gũi, như thể đó là người em, người bạn, người dân nàng đều tin yêu vậy. Phải tưởng tượng một cái gì phũ phàng nhất với một cái gì dịu dàng nhất mới có thể hình dung nổi trong một ánh mắt thật buồn kia cảm thấy thế nào. Nào khẽ nói, như lời đưa tiễn một linh hồn về nơi an nghỉ cuối cùng:

- Xin lỗi vì đã làm cô đau. Carlisto, xin hãy yên nghỉ trong thanh thản. Hostias et preces tibi Domine laudis offerimus; tu suscipe pro animabus illis, quarum hodie memoriam facimus: fac eas, Domine, de morte transire ad vitam.

Chiếc mặt nạ đỏ dần dần tan biến, nó vỡ ra thành hàng trăm mảnh, từ đó linh hồn của Carlisto được giải thoát. Cô cười, nụ cười của sự giải thoát mãn nguyện, hình bóng cô rung lên vì ngây ngất say mê, y như thấy được trong bóng tối đang dần tràn vào trong mắt, hình bóng một người nào đó hiển hiện. "Về nhà thôi! Anh ở đây rồi!" Cô nhắm mắt lại, chiếc mặt nạ vỡ nát, giọng cô run run đầy rên siết: "Cảm ơn!". Rõ ràng là giây phút dần lìa xa, cô đã sống hết cả mấy giờ còn lại của số mệnh mình. Linh hồn Carlisto thoát ra, sáng rực lên và bùng cháy một ngọn lửa xanh. Điều nhẹ nhất cũng không còn nghe được thấy gì nữa. Vẻ mặt cô sáng bừng lên, an bình nhắm mắt lại, nụ cười vẫn còn trên môi. Vầng trán lại như phản chiếu một thứ ánh sáng vô hình khó tả. Rõ ràng là linh hồn người mãn nguyện trong giấc ngủ được chiêm ngưỡng một cảnh trời huyền bí.

Người sống là khách qua, chết người sẽ về nhà.

Nẻo đường khắp trời đất, nghìn thu lệ tiễn xa.

Cây đàn dây Tịch Cầm Lyre hiện lại nguyên hình, nó bị hút vào một quyển sách dầy, khảm nạm đóng đế đẹp đẽ, giữa mặt sách có hình pentagram với mô hình mặt trời, mặt trăng và các vì sao, Tịch Cầm bị phong ấn bên trong Cuốn sách của Astrologia cũng đóng lại. Một tia sáng của cảnh trời ấy hiện ra ở nét mặt cuối cùng của Carlisto. Tia sáng ấy đồng thời cũng là hào quang tỏa từ linh hồn cô, cảnh trời ấy là yêu thương cả đời của một cô gái. Lúc ánh trăng như hòa hợp với thứ ánh sáng bên trong ấy, toàn thân cô vụt hiện ra như trong một vầng hào quang. Không chói sáng nhưng êm dịu vô cùng. Vầng hào quang ấy bao phủ không gian trong những bánh xe vận mệnh của mình. Những bánh răng trượt vút đi liên hồi. Quay tít như thể ở tâm của một lò lửa khổng lồ. Đem thời gian ngưng đọng lại. Tất cả sự sống chợt dừng bước.

Quá khứ dần trở nên mơ hồ. Nở rộ trong sắc trắng là hoài niệm cuối cùng của một linh hồn. Câu chuyện xưa dần được tái hiện. Giữa muôn nghìn sắc tía của bầu trời, một ánh trăng bạc không vì dấu mình trong mây mà mất đi ánh sáng rực rỡ. Sao trời phủ sắc vàng rực trên cao. Biển không chứa đựng nổi mặt trời. Chỉ có những con sông trở trăng. Bầu trời chuyển mình từ vàng sáng sang xanh nhạt rồi thẫm dần. Bóng cây nơi mặt đất thoáng lay động. Cả vườn cây lá bạt ngàn rùng mình trong đêm sáng. Con suối xuôi dòng về với biển lớn này rút mình lại. Cuộn sâu vào, chảy ngược dòng số mệnh. Chiếc lá chỉ vừa kịp rời cành nay đã dịu dàng trở lại. Những hố gai băng cắm sâu trên mặt đất bật mình trở lại. Vụ cào xé, vụn vỡ bùn đất, những dấu chân in hằn, tường gạch đá đổ, vết thương bắn trúng cũng liền lại.

Từ trên cao thẳm bầu trời, hàng ngàn ngôi sao băng rải xuống, sao đậu mình vấn vương màn đêm mà xua đi mây mù. Có lẽ trong vị chia phôi chớm nở của cảnh vật trong một thoáng thôi, mở mắt ra đã cảm thấy một chút mất mát khó nói thành lời. Không ai biết chúng đến từ đâu. Nhưng những ngôi sao đó rực sáng, và khi hàng nghìn con bướm trắng vỗ cánh trên xanh cao. Rải lên chùm ánh sáng cực quang bảy sắc lung linh, huyền ảo. Nó như lớp màn che phủ tất thảy mọi sự trên thế gian. Ai ai cũng ngập mình trong khung cảnh thần tiên ấy. Những người của Đội hình Cảnh khi tới bắt giữ cũng phải sững lại mà quên mất công việc của mình. Cảnh bắt bớ công lý cũng không thể phá tan nổi phút giây ánh sáng.

Khi những ngôi sao xao xuyến rơi. Khung cảnh ấy như là trong mơ, đẹp đến mức khiến người ta vấn vương. Và giờ đây, chưa từng có, giữa hạ từng cánh hoa chợt nở. Nở rộ trong sắc trắng tinh khiết đang vỡ mình, tách ánh sáng trên mặt băng của nó, quậy mình, đạp chân bước ra. Chúng ta đều rạn vỡ, đó là cách ánh sáng chạm tới. Như chú chim non vừa mới đạp vỏ chào Thần mặt trời. Những sợi gỗ xoắn mình, bện chặt lại rồi vươn dài ra như sự sống tạo cành. Trong tăm tối của lá xanh, vô vàn những tiếng thơ ngây đang thỏ thẻ với tâm hồn con người và tiếng chim không nói thì đã có tiếng ong dế bổ sung. Trong ánh trăng ráng trời xanh thẳm, sâu như đại dương bao la. Lênh đênh trên dòng định mệnh dài lê thê. Một thoáng mơ mộng thoát ra từ những cánh hoa xao xuyến rơi. Tựa như cảm nhận được sự dịu dàng của đất mẹ.

Bao phủ lấy nó là lớp màn ánh sáng mà vị Thần sáng tạo hằng vén rèm hé mở. Có lẽ Chúa đã tung mặt xúc xắc của mình một lần nữa. Một lần trong hàng triệu khả năng. Một niềm u hoài mênh mông êm ả trùm lên vạn vật. Mùi thơm say người của những cánh hoa hay của tâm hồn vừa được gột rửa. Khi chúng ta chết đi, ta mong chúng ta sẽ trở về nguồn cội mà chảy vào biển lớn của cuộc đời. Chúng ta rồi sẽ lại ở trên trời. Bay lượn như những thiên thần. Và mỗi khi trời đổ cơn mưa. Chúng ta sẽ đi tới muôn nơi. Kể cả những nơi khi còn sống chúng ta chưa từng tới.

Vị Nữ Hoàng Trắng đương bước tới bên cạnh lũ trẻ, mọi vết thương của chúng được chữa lành như chưa từng có, cô hôn lên má chúng. Mái tóc như dòng thác bạc đổ xuống, Cặp mắt xanh trong như bầu trời, rộng ngây lòng người. Inferus quan sát người một cách kín đáo, từ tất cả cái say mê của tuổi xuân, của nắng hạ, của chiều thu, không gì thắng nổi một nếp dè dặt, kín đáo trên nụ cười. Cảnh tượng ấy làm cho nó lóa mắt. Có bùa mê. Cái đường nét lấp lánh nhưng không phải là vàng. Người sáng bừng hơn cả ngọn lửa ấm nhất, vẹn tròn hơn cả châu ngọc giấu đi trong nét thầm của nụ cười duyên. Nữ Hoàng có hình dáng tuyệt trần của người đàn bà nhưng hãy còn vẻ ngây thơ của tuổi nhỏ. Trang phục của người mang cho người khác cái cảm giác nàng là một nữu thần mà thi hào Baudelaire mô tả trong bài tiểu luận "Ca ngợi sự hóa trang" của ông. Nữ Hoàng để tóc theo kiểu phụ nữ Bacchus với những chùm nho bằng vàng kết trên mái tóc bới cao theo phong cách Hy Lạp, để phần sau hờ hững trên lần vai trắng ngần. Chiếc váy dài màu trắng, viền vàng, và phía dưới ngực là phần vai áo nối với tay sáng chói đính một con quay hình cầu mặt kính nạm hồng ngọc. Tất cả cải vẻ sang trọng, kiều diễm ấy khiến người khác ngạc nhiên mà say đắm, sắc đẹp của Nữ Hoàng có sức mạnh chinh phục trái tim và khuấy động tâm hồn. Giọng người đương như có phần ai oán nhưng lại du dương như lời trăn trối của hoàng hậu Marie Antoinette. Chỉ cần nhớ đến giọng nói của Nữ Hoàng thôi cũng để mọi người run lên vì xúc động:

- Hai đứa không sao chứ? Xin lỗi vì cô đã đến trễ. Nhìn hai đứa cô có thể thấy được mầm ước mơ của mình cho vận mệnh tươi sáng của đất nước đấy.

Vị Nữ Hoàng ôm theo Cuốn sách sát bên ngực trái, nhưng giọng nói của người lại đi thẳng vào trái tim người khác:

- Mỗi con người đều có những câu chuyện riêng chưa kể, nếu như các cháu đủ quan tâm để hỏi. Carlisto hay bất kỳ ai cũng vậy, đều có trong tim mình một góc tối và khi bi kịch, khổ đau đánh thức góc tối đó, Vạn Tượng Công Tử sẽ xuất hiện trước mặt người đó trong khoảnh khắc đen tối nhất của cuộc đời và những Tà Thần như Parvul – Amon được tạo ra. Carlisto đã phải chịu một nỗi đau vô cùng lớn nên mới trở thành sự hy sinh cho khế ước của Vạn Tượng Công Tử, người được tín đồ tin là Kẻ Sáng Tạo, giờ hắn vẫn đang tiếp tục kịch bản tàn nhẫn đó của mình.

Inferus thấy thế liền hỏi:

- Nơi cô ấy tới là nơi nào? Cô ấy sẽ về bên Chúa chứ?

Nữ Hoàng vươn tay xoa đầu cậu đầy dịu dàng, người nói:

- Đó là một câu hỏi hay. Đôi khi ta cũng hay tự hỏi nơi họ tới có cô đơn không, nếu không, vậy mọi người nơi đó sống tốt chứ? Nơi mọi người chan hòa, không cô độc trong thời gian vô tận là được. Liệu ý chí người sống có thể gửi người đó đến thiên đường hay không? Chúng ta đều gửi những lời tốt đẹp nhất đến một linh hồn đã trở về với dòng chảy của cuộc đời. Đó chính là lý do vì sao tối nay sẽ là kỷ niệm Lễ Hội Người Chết Día de los Muertos được tổ chức hằng năm vào ngày rằm tháng Tám ở Furcidisum. Hai đứa không muốn bỏ lỡ chứ hả? Có muốn thay một bộ quần áo đẹp đúng tinh thần lễ hội không?

Aldara sùng bái như thấy ánh bình minh, thấy mặt trời mọc, cậu bước tới, lịch thiệp như một quý ông, đỡ lấy đôi bàn tay của Nữ Hoàng Trắng và hôn lấy một cách cẩn trọng, cậu để lại lời nói trên đầu môi ngay khi vừa mới dứt nụ hôn: "Her Majesty!" Aldara Damarion, con trai của Giám Đốc Sở Hình Cảnh Furcidisum, đứa trẻ luôn luôn cố gắng phấn đấu trong dòng tộc, người luôn mang trong mình ý niệm về dân tộc với tính đúng đắn của pháp lý. Những vụ cướp bóc, những án điều tra, xự xâm phạm bức hiếp khiến Aldara tức tối không chịu được. Và không có cái gì hùng hồn hơn là sự công phẫn đúng đắn. Aldara là một đứa trẻ điềm đạm và thông minh, trưởng thành hơn nhiều so với tuổi. Cậu có thói quen đứng từ xa quan sát mọi người hay các ý tưởng mà không trực tiếp tiếp xúc hay trải nghiệm chúng, nhằm có cái nhìn toàn diện và sâu sắc về các sự vật, sự việc, chính nhờ tính nhạy cảm, giác quan, óc quan sát nhạy bén, tài năng lần theo dấu vết, phân tích logic khiến Aldara có thể dễ dàng nắm bắt được những xung đột xảy ra khi nó chỉ vừa mới khởi phát. Có hàng trăm những vụ việc, nhưng người thám tử cũng có quyền chọn vụ việc mà họ để tâm tới. Thật may sợi dây định mệnh đã kéo cậu với Inferus vào nhau.

Tuy cách tiếp cận này khiến cậu khó kết thân với nhiều người, nó cho phép Aldara suy nghĩ và hành động một cách khách quan không chút định kiến, có thể đánh giá đối tượng theo đúng bản chất của nó. Cậu có khả năng chiến đấu, không từ chối vật lộn với chướng ngại, đấu tranh với nó mãnh liệt và dữ dội, luyện tập chăm chỉ để có thể tiến bộ thật nhanh và tự đầy ải bản thân nhưng không bao giờ ca thán, chỉ vì mong muốn có thể trở nên hữu dụng cho người khác. Aldara say mê cái tuyệt đối một cách hiệp sĩ, tôn thờ và kêu gọi những cuộc phiêu lưu thỏa chí tang bồng của một người đàn ông. Aldara dành nhiều thời gian nghiên cứu lịch sử và biết nghĩ tới nguồn gốc và tương lai chung của đất nước để công phẫn một cách có ý thức. Cậu quan tâm tới Cách Mạng Tháng Bảy của Người Lùn ở Đảo Nam Quốc, bất bình trước Papa pa Tulga chà đạp Fayu, muốn nghiên cứu Lịch Sử Sự Thật của thời kỳ đã mất trong trận đánh Liên Minh Phù Thủy, người khổng lồ xâm lược Crysto Valley, Vương Quốc Thủy Tề nổi loạn ở eo biển Thessalie, Hiệp Định Liên Minh Phù Thủy, Luật An Toàn Bí Mật Phù Thủy, Hội Đồng Phù Thủy thế giới, đều làm cho Aldara say sưa, cậu say mê chân lý toàn vẹn như một hiệp sĩ.

Bất kỳ cái gì chạm khẽ đến tình thế ấy cũng có sức lan tỏa như ném một viên đá xuống mặt hồ. Inferus ngay lập tức cúi xuống, nó loay hoay không hiểu việc hành lễ như thế nào, nó đương tưởng chào Nữ Hoàng thì cũng sẽ như việc nó chào sơ Emmalieu thôi. Thế là nó gập cong người thật thấp, cúi đầu xuống nghiêm mình chào. Nhưng Nữ Hoàng lại mỉm cười, một vẻ rực rỡ khác thường trong khóe mắt xanh thăm thẳm, Inferus cứ ngỡ nó có thể nhìn thấy bầu trời sao bên trong vầng mắt ướt, hay thấy một dải thiên hà nơi ngụ bao la. Như mặt trời hiện ra, ánh hào quang lan tỏa, sự tin tưởng đến với hai người trọn vẹn chỉ trong có một phút. Nữ Hoàng Trắng đỡ nó dậy:

- Ở Furcidisum này con không phải quỳ gối cúi đầu trước bất kỳ một ai hết. Con có cái đầu để luôn nhìn về đằng trước.

Người chậm rãi mở Cuốn Sách của Astrologia ra, gõ nhẹ đầu đũa phép trắng lên đó. Một đường hình ảnh như một căn lều bị nén bật tung ra, yên vị trên mặt đất. Đó là một cái lều nhỏ, vừa một người đứng vào, có tháp nhọn màu xanh và phủ vải đỏ hình tròn. Nữ Hoàng tiếp tục hướng dẫn bọn trẻ, người có giọng nói như đưa người ta trở về quá khứ, gợi nhớ đến giọng nói dỗ dành đưuá bé của người mẹ ngay cả trước khi đứa bé hiểu được mẹ nói gì, dịu dàng tự nhiên, nhả chữ một cách chậm rãi và mang nhiều hàm ý, giọng nói ấy còn như thể mỹ nhân hãy chưa thức giấc hẳn hoặc chưa bước ra khỏi phòng:

- Đây là Cửa Hàng Trang Phục tự chọn, cứ bước lần lượt vào bên trong rồi các con thay đồ ra nhé.

Người gọi những đứa trẻ là con tự nhiên như thế. Nàng đang suy nghĩ gì? Không ai biết. Nhưng nàng là ánh sáng, là vị thánh là Đức Mẹ bao dung, hiền từ ngoài đời. Aldara dường như quen thuộc hơn, cậu bước vào trước. Và lát sau bước ra với một diện mạo ửng hồng hoàn toàn khác biệt. Cậu mặc một chiếc áo sơmi trắng, bên ngoài là một gile đồng màu, bowtie tự thắt kiểu cổ điển cho thấy sự chỉn chu trong lối ăn mặc, nút thắt ấy không phải là nút mà ai cũng có thể thắt được, thường người ta sẽ mua lại khâu sẵn, đường ve cổ tay áo lớn và đính cúc tinh xảo, chiếc quần đồng màu và một đôi giày da màu nâu wingtip kiểu cổ. Tiết Tháng tám trời Lập Thu, chỉ cần ba hôm là cây hoa ra trái, một khắc là đủ để cho mây trời cũng như con người khoác một lốt bảnh bao. Aldara là một công tử và người ta nhận diện các công tử qua cách họ phục sức, và phần lớn các công tử đều tạo cho mình một phong cách duy nhất để người khác chú ý. Đôi mắt Aldara là hồ nước trong suốt như pha lê có thể nhìn thấy đáy, và vẻ đẹp của cậu là chàng Don Juan khi gặp được nàng Tisbea trong tác phẩm "Gã ăn chơi thành Seville".

Đến lượt Inferus bước vào, bên trong chỉ thấy có một bảng điều khiển, với hai lữa chọn: sử dụng hình ảnh sẵn có, hình ảnh tải lên hay hình ảnh tự thiết kế. Không hiểu Inferus đã lựa chọn kiểu gì mà một lúc sau khi nó bước ra ai ai cũng phải im lặng sững sờ. Không phải là cậu nhóc với bộ áo xanh xù, tấm quần thô, đôi giày học trò và bàn tay đỏ nữa. Cậu giờ đây là cậu bé trai ra đời từ sự kết hợp giữa thần Mercury và nữ thần Venus, cậu bé Hermaphroditus. Nó mặc một chiếc áo khoác ngắn màu xanh navy, cầu vai đơn giản, hàng cúc trước ngực kiểu hải quân, bên trong một áo thun trắng kẻ xanh, quần đồng màu cạp cao, chiếc mũ kiểu thủy thủ Hà Lan, đôi giày Suede tông xuyệt tông. Inferus đẹp ra, sang mà giản dị, không kiểu cách. Cái thằng bé rầu rĩ khốn khổ chẳng còn nữa. Em đã ra khỏi cảnh nghèo khổ và bước vào cảnh đời. Ánh mắt Nữ Hoàng nhìn cậu có ngụ ý gì? Inferus không sao nói được. Không ngụ ý gì mà cũng là tất cả. Người như thấy được đứa con thơ tuổi nhỏ của người trong quá khứ.

Lần thứ hai, Inferus đến gần người, Nữ Hoàng chỉ ngẩng mặt lên, mắt nàng xanh thăm thẳm như da trời, ánh nhìn đó bắt gặp một ngôi sao nâu trầm lặng lẽ che đậy ánh của tuổi thơ. Nó như một thiên thần trắng nõn đặt trong tấm lụa lượt là. Thằng bé là một cảnh thần tiên, Aldara đương bật ồ lên ngạc nhiên:

- Này Inferus, cậu có để ‎ý là cậu đẹp ra không?

- Tớ nghĩ là cũng được. Inferus đáp, nó cười đầy ngại ngùng khi được nghe khen ngợi. Rõ ràng là thích thú lắm.

- Đó là vấn đề của cậu. Cậu quá dễ hài lòng. Aldara đương lên giọng chỉ dạy. 

- Vấn đề là tớ chưa từng có cơ hội tự chọn quần áo cho mình. Để tìm phong cách riêng, để khám phá bản thân. Nghe chắc khó hiểu lắm. Inferus ái ngại, nó đương nhìn xuống xem bộ trang phục của mình có chỗ nào kỳ lạ hay không.

- Ồ không. Cậu trông tuyệt lắm. Tớ cũng mất một thời gian để hỏi những câu hỏi lớn của cuộc đời. Mình là ai? Mục đích, ước mơ của mình là gì? Tớ may mắn vì rất nhanh tìm thấy. Nhưng quần áo không làm nên con người cậu. Aldara đương như muốn khen ngợi, nhưng cái cách khen ngợi của người thích dạy dỗ người khác nó cũng kỳ lạ và ý nhị như chính con người ẩn giấu bên trong họ vậy. Tuy vậy, khen vẫn cứ là khen.

Inferus nghe là tin ngay, nó tin là bản thân nó cũng đẹp đẽ trọn vẹn thật. Thôi không còn nghi ngờ gì nữa. Nó tưởng mình là một cậu công tử như Aldara. Bấy giờ đang giữa khu vườ thế này mà nó lại nghe thấy tiếng chim hót trong bụi phong, thấy nền trời vàng ối, và thấy hoa nở trong bụi rậm. Inferus vẫn là sung sướng. Thực ra nó đẹp người ra khá lâu mới nhận thấy là mình đẹp. Thằng bé đã nếm đủ mùi khốn khổ. Trong lòng còn đang rớm máu vì bao nhiêu xây xát của vận mệnh. Nữ Hoàng như được thấy một mầm non nảy nở rạng rỡ, dưới mắt người, trên vầng trán ngây thơ của đứa trẻ. Cô tự bảo: "Nó đẹp thật!" Cô âu yếm dắt tay hai đứa trẻ như một người mẹ, trong lòng lại cảm thấy một nỗi đau xót sâu xa và khó hiểu.

Về phần Inferus bên trong nó chỉ tràn ngập một niềm vui lâng lâng, trước sự âu yếm của Nữ Hoàng, nó nắm chặt tay người đầy tin tưởng, lòng hết sức tự hào, nó cảm thấy lòng mình như tan ra thành muôn vàn khoái cảm. Đứa trẻ tội nghiệp ấy rùng mình vì thấy hạnh phúc, nó cũng trong sạch, cũng thơm tho và đẹp đẽ như ai. Nó say sưa tin rằng cảnh trong mơ này sẽ kéo dài mãi, nó âm thầm tự nhủ là mình chịu đựng đau khổ là với cái tâm thế tin rằng tương lai nhất định sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Và trong thâm tâm, nó cảm tạ Chúa đã cho phép nó, một đứa mồ côi lại thu được lòng yêu thương ấm áp của người ấy.

"Nếu một cái cây rơi trong rừng và không có ai xung quanh để nghe nó, nó có tạo ra âm thanh không?" là một thí nghiệm tư tưởng triết học đặt ra các câu hỏi liên quan đến quan sát và nhận thức. Nếu như nói thế giới ngầm là những biến ẩn, những người ở đó là một khu rừng, mà ngay khi cái cây rơi xuống, chúng ta không thể nghe được âm thanh đó, không có bằng chứng, nhưng điều đó vẫn xảy ra. Mặt khác cũng có thể nói thế giới tồn tại trong ta như một dạng nhận thức. Nơi này trong bóng tối xảy ra những chuyện mờ ám gì, khi không có người chứng kiến, không có phương tiện ghi lại, không còn người kể lại thì những công việc của bóng tối có giống như cái cây không phát ra âm thanh nào cả? Câu trả lời là có và không. Nếu tôi là một cái cây và tôi ngã xuống, chỉ có những cái cây đứng gần tôi nhất biết được, mối quan hệ của con người cũng như vậy, khu rừng vẫn thế. Bóng tối và ánh sáng vẫn cùng tồn tại. Điều đó có nghĩa là chúng ta chỉ có thể coi chúng là một thực tế thường nghiệm, một thực tế phụ thuộc vào phương pháp đặt câu hỏi của chúng ta. Nhưng ở con người, những nhà hiền triết muốn là mang ánh sáng tới chiếu rọi cái tối tăm.

Khi đã nghiêm khắc nêu lỗi lầm ấy xong, thì không thể không khâm phục những giáo sĩ của lý tưởng ấy, mặc cho họ thành công hay thất bại. Xưa nay con người dễ nghĩ cuộc đời chỉ có kẻ thắng và kẻ thua. Thì kẻ thua cũng đánh kính như vậy, mà trong thất bại thì họ càng lẫm liệt. Đi thuận với quy luật tiến hóa mà thắng thì đáng được người đời nêu danh sử sách, thất bại anh dũng thì cũng đáng được thương mến như vậy. Phải có người bênh vực cho kẻ chiến bại. Tà giáo, dị giáo, người ta chỉ trích lý thuyết của họ, nghi ngờ mục đích của họ, lên án họ đạp đổ nền văn minh, trách họ đã dựng đứng một đống đau khổ, bất công, tuyệt vọng mặc tà giáo là cái mảng đen tối mà nó nấp vào ngay khi được ánh sáng chiếu rọi. Người ta mắng họ: "Các người là binh đoàn địa ngục." Họ có thể đáp lại bạn ngay: "Đức tin của chúng tôi là cây cầu dựa trên những ý định tốt dẫn tới thiên đường tươi sáng của nhân loại." Và chỉ vì bạn không hiểu họ thôi. Nghe thật lạ kỳ khi có những tín đồ chiến đấu cho sự nghiệp vĩ đại với cái logic được định sẵn về lý tưởng, họ cống hiến đời họ cho một vị thánh một cách thuần túy vô tư, họ thực hiện ý muốn của Thượng Đế, hành động của họ là một hành động sùng đạo.

Tôi xin phép gọi họ là những người mang "tình cảm tôn giáo." Các tình cảm dù là tốt hay xấu mà tín đồ thể hiện đều có hai mặt, đó là chúng rất phiến diện và cũng rất thái quá. Tính phiến diện và thái quá của tình cảm tôn giáo đã giúp cho tín đồ không còn nghi ngờ và lưỡng lự, họ đi ngay đến cực đoan. Một nghi ngờ có thể biến ngay thành điều hiển nhiên không cần tranh cãi. Một mầm mống của lý tưởng tôn giáo, ở một cá nhân riêng rẽ chúng sẽ không tăng lên, nhưng ở một cá nhân trong đám đông lại sẽ nhanh chóng trở thành nỗi căm thù dữ dội. Tất cả các đấng sáng lập nên các tín điều và niềm tin chính trị đều thể hiện được uy lực, tầm ảnh hưởng, sự thống trị tuyệt đối đến các tâm hồn mà họ đã chinh phục; chỉ bởi họ biết cách truyền vào tín đồ tình cảm cuồng nhiệt, khiến con người thấy hạnh phúc trong sự sùng bái và phục tùng, và sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng của mình. Điều đó diễn ra ở mọi thời đại. Trong cuốn sách về xứ Gaule thuộc La Mã, Fustel de Coulanges đã chỉ ra rằng Đế Chế la mã tồn tại được hoàn toàn không phải do sức mạnh mà do sự sùng bái mang tính tôn giáo mà nó gợi nên.

Không nên xem đó là những điều mê tín của một thời đại đã qua, những điều ấy đã bị lý trí xóa bỏ hẳn. Trong cuộc chiến vĩnh cửu chống lại lý trí, tình cảm chưa bao giờ thất bại. Chúng luôn luôn trở lại, với lý tưởng truyền bá đức tin trên một bộ áo mới, nhưng khi ta nhìn vào bên trong, ta lại phải thốt lên rằng: "À vẫn thế à!" Việc nhắc lại rằng con người cần có một tôn giáo sẽ là không cần thiết. Tín đồ không muốn nghe thêm bất cứ lời nào bang bổ về thánh thần và tôn giáo – những thứ đã thống trị họ một thời gian dài. Tất cả những niềm tin chính trị, tôn giáo và xã hội chỉ ăn sâu bén rễ trong con người khi mang hình thức tôn giáo, hình thức giúp chúng tránh khỏi mọi tranh cãi. Nếu có thể vận động đám đông chấp nhận chủ nghĩa nhân bản kỹ thuật, đã thánh hóa ý chí của con người, nhìn nó như là cái đinh trên đó tất cả vũ trụ được treo vào. Hay việc ủng hộ Dữ liệu giáo nói rằng vũ trụ bao gồm những dòng chảy của dữ liệu, và giá trị của bất kỳ hiện tượng hay thực thể nào đều được ấn định bởi sự đóng góp của nó vào sự tiến hành dữ liệu. Đám đông chấp nhận chủ nghĩa này, thì sau đó chủ nghĩa này sẽ có được sự cuồng nhiệt của một tình cảm tôn giáo, và sẽ sớm trở thành một thứ mang hình thức tín ngưỡng. Điều này đã được ngòi bút sâu sắc của Dostoievsky thuật lại: "Một ngày, được soi sáng bằng ánh sáng của lý trí, anh ta xé nát những bức hình thánh thần trên bàn thờ của một nhà thờ nhỏ, thổi tắt nến, và không chút lưỡng lự, thay ngay những bức hình đó bằng tác phẩm của vài nhà triết học vô thần, như Buchner và Moleschott, sau đó thành kính thắp lại nến."

Bạo lực cách mạng, những cuộc thảm sát, nhu cầu tuyên truyền, sự tuyên chiến với tất cả các vua chúa chỉ có thể giải thích được, nếu người ta hiểu rằng tất cả chỉ để phục vụ cho sự củng cố niềm tin tôn giáo mới trong tâm hồn nhân dân. Cải cách tôn giáo, cuộc thảm sát ngày Thánh Bartholomew, cuộc chiến tranh tôn giáo ở Pháp, tòa án dị giáo, thời kỳ Khủng bố đều là những hiện tượng guống nhau, chính tình cảm tôn giáo đã thúc đẩy đám đông gây ra, khiến họ thấy cần nhổ tận gốc không thương tiếc, bằng lửa và gươm dao, tất cả những gì cản trở việc thiết lập một niềm tin mới. Các phương pháp của tòa dị giáo là phương pháp của những tín đồ thực sự. Họ sẽ chẳng phải là tín đồ nếu họ đã làm khác đi.

"Thực tế chỉ là một ảo ảnh" Albert Einstein đã từng thừa nhận, "mặc dù nó rất dai dẳng."

Lúc bấy giờ, có một tin đồn như thế này: "Khi người đạo Đệ Thất Vạn Tượng này phản đối thì phía cảnh sát đánh anh ta đến bất tỉnh và quẳng anh ta lên xe đưa về trại giam." Và thế là một đám đông giận dữ biểu tình, chửi rủa, sẵn sàng chống đối bất cứ lúc nào đã tụ tập bên ngoài đồn cảnh sát và sẵn sàng nổi loạn. Khi nghe nói là chỉ có Aldara Damarion mới có thể ngăn chặn được bạo lực xảy ra, một sĩ quan cảnh sát đã đưa cậu tới và yêu cầu cậu dẹp đám đông hỗn tạp này. Aldara từ chối. Bằng giọng nói ôn hòa hơn, viên sĩ quan nài nỉ Aldara xem xét lại. Aldara bình tĩnh đưa ra các điều kiện nếu muốn cậu ta hợp tác: Đó là phải điều trị cho người đạo Đệ Thất Vạn Tượng bị đánh. Viên sĩ quan miễn cưỡng nhận lời. Aldara ra khỏi đồn cảnh sát và giải thích cho họ nghe những điều mà phía cảnh sát thỏa thuận, và thế là đám đông giải tán. Chỉ sau một đêm Aldara đã trở thành người hùng của phố Oldtown và trên toàn đất nước, một người cuối cùng cũng đã hành động.

Nhưng không nên nhầm lẫn giữa cái lý tưởng toàn trị và lý tưởng bạo lực. Lý tưởng trong chiến đấu đã dùng cái quân pháp cũ: nó đã thanh trừng những người nó gán cho là có tội, nó xử tử đứa bội phản, bêu rếu trên truyền thông và ban chết khi muốn kết liễu sinh mệnh người ta, cái lý tưởng toàn trị ấy vứt thẳng tay những kẻ đó vào đêm tối vô danh vô tích. Còn để người đời chửi nhổ và tấm tắc khen: "Làm vậy là đúng lắm." Lý tưởng ấy dùng cái chết làm phương tiện, đó là một điều nghiêm trọng. Phải dùng những thủ đoạn cỡ ấy thì mới lấy lý tưởng chính nghĩa và toàn thiện ra làm lý lẽ cho sự thanh trừng. Nhưng không có thanh gươm nào là đơn giản, lý tưởng nếu đã có hai mặt của nó như gươm hai lưỡi: Chém người ta bằng lưỡi này thì da thịt mình bằng lưỡi còn lại. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro