Chương 17: Bộ tứ trụ cột

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nếu tôi nói với bạn con người sinh ra để phiêu lưu. Thì hãy khoan xét tới đó là cuộc phiêu lưu nghĩa đen hay nghĩa bóng, tinh thần hay thân thể. Mà hãy nhớ tới khi tổ tiên của chúng ta quyết định rời đại dương bước lên bờ hay khi loài vượn người quyết định rời bỏ cành cây để xuống mặt đất rồi đi lại bằng hai chân. Vậy là chúng ta có những nhà thám hiểm thế hệ đầu. Chính những cuộc phiêu lưu từng năm tạo nên cuộc khám phá thế kỷ. Diện mạo từng năm làm nên diện mạo thế kỷ.

Furcidisum mở rộng, thanh lọc sắc tộc, làm tất cả vì sự phát triển của đất nước, nên lẽ tự nhiên sức mạnh của biển là tầm nhìn đã thúc đẩy hành động của họ từ lâu. Các vùng đất mà họ dự định chinh phục đã được khai phá, định cư và tranh giành, các vĩ độ và kinh độ của họ được thiết lập, bản đồ địa hình, các dòng sông, hòn đảo, cư dân của họ được xác định và đặt tên.

Nhưng thứ mang danh lý tưởng thôi thúc kể cả những dân tộc can đảm, tò mò hoặc liều lĩnh nhất tham gia vào những cuộc phiêu lưu không hồi kết, con người chinh phục đỉnh Everest, chinh phục Bắc Cực, going buồm và đi vào những vùng chưa được khám phá của Thái Bình Dương, hay cưỡi lạc đà vượt qua sa mạc Taklimakan. Từ những ngày đầu lịch sử, một số dân du canh hiện đại vùng Đồng bằng hồ (Lakes Plains) của New Zealand phát quang trong rừng rậm, nhiều dân tộc chăn nuôi ở châu Phi và châu Á chuyển chỗ ở dọc những vùng đất họ có thể đặt chân đến. Ban đầu, họ ở đó để làm gì? Ta không hề biết. Nhưng tôi tự nhiên cho rằng con người cũng như cây cỏ phải phát tán và duy trì hậu duệ của mình tới bất cứ nơi nào có thể đến được. Những nhà thám hiểm ban đầu, người hái lượm, người lưu vong, người trôi dạt trên biển, người buôn bán và những người đi cướp bóc không hề có la bàn hay bản đồ. Địa lý và điều hướng là những khái niệm còn chưa được khai phá. Trên đất liền, con người có thể đi theo một con sông, một con đèo, hoặc một con đường loài vật đã đi qua; trên biển, họ có thể cố gắng với tầm nhìn hạn chế human-scale nhưng lại phải tránh những nguy cơ vô tận dưới bề mặt, những tảng đá ôm sát bờ, bất kỳ một cán mốc nào họ có thể ghi nhớ, có thể vẽ lại được, họ tham khảo các đám mây, gió và âm thanh để có thêm manh mối. Họ đã trở nên quen thuộc với sự giãn nở của dòng chảy, lân quang, thủy triều, tác động của những lá cọ và vỏ dừa trôi nổi, các loài thực vật và sinh vật sống ở các độ sâu khác nhau, sự biến đổi màu sắc của nước cũng quan trọng như mùi và vị của các mẫu lấy từ trầm tích bên dưới thuyền.

Chuyến bay của một con chim có thể chỉ ra vùng đất phía ngoài đường chân trời một cách đáng tin cậy. Đó là lý do vì sao bạn dễ dàng thấy trên thuyền có những người thủy thủ mang theo một con chim quạ, chim bìm bịp, chim vẹt, chim ưng thả rông nó theo định kỳ để xem liệu nó có trở về nơi an toàn với con thuyền hay nó có thể đi về phía đất liền một cách an toàn hay không? Genesis 8:11 cho chúng ta biết được rất nhiều bài học bổ ích, rằng Noah đã gửi đi một con chim bồ câu và khi nó quay trở lại với một nhánh ô liu trên mỏ của nó. Người Polynesia cổ đại, khi nhìn thấy chim cu gáy đuôi dài di cư về phía Tây Nam mỗi năm, họ hẳn sẽ nhận ra rằng nó đang hướng tới những vùng đất cạn không thể nhìn thấy, từ đó người Polynesia đã đến New Zealand. Columbus, nhìn thấy những con bồ nông trên đường đến nơi mà ông mong đợi sẽ là Ấn Độ, ghi lại trong nhật ký của mình rằng loài chim này quả thực mạo hiểm. Đại dương và những chuyến phiêu lưu mang đến cho con người sự dũng cảm.

Tuy nhiên, khi đã ra ngoài biển khơi, những người thủy thủ có thể phụ thuộc vào bầu trời để nói họ đã ở đâu. Bên cạnh việc thông báo các mùa, sự gần gũi của thiên nhiên và thời tiết, bầu trời còn báo hiệu vị trí và hướng. Mỗi khi chuyển hướng, bạn cần phải có một điểm mốc. Và giữa biển khơi, điểm mốc đấy chính là những dấu hiệu trên bầu trời: mặt trời, mặt trăng, các hành tinh và các ngôi sao. Trước khi có GPS, trước cả ''kính cự giác'', thậm trí, trước cả la bàn, những nhà thám hiểm đã chinh phục các đại dương bằng cách xác định phương hướng nhờ vào việc quan sát, họ am hiểu một cách hoàn hảo tất cả các mũi đất, hải cảng, sông ngòi, cách chúng xuất hiện từ biển, từ vật thể này tới vật thể khác, ảnh hưởng của mặt trăng tới thủy triều, dòng chảy của nước, sự mở rộng của biển, hướng gió, độ sâu và bản chất của đáy...Vào ban đêm, họ xác định lộ trình chủ yếu dựa vào những ngôi sao riêng lẻ hoặc những chòm sao có vị trí được biết trước trên bầu trời và dựa vào mối liên hệ về vị trí của chúng với nhau. Các thủy thủ và các nhà hàng hải đã sớm nhận ra việc theo dõi chúng là rất cần thiết. Các nhà thiên văn học cổ đại đã bắt đầu lập bản đồ chúng từ ít nhất 5000 năm trước.

Vào những đêm trời trong trẻo, để tìm ra hướng di chuyển của các vì sao thật sự không khó, nếu bạn biết chú ý những gì mình cần. Những ngôi sao là mốc bởi chúng là những hằng số. Mặc dù chúng luôn xuất hiện và di chuyển tương tự như sự quay của trái đất, nhưng vị trí tương đối và hướng đi của chúng so với các ngôi sao khác không hề thay đổi. Vì thế, nếu bạn có thể thấy chúng, thì chúng có thể định hướng cho bạn. Tất cả những gì bạn cần là vận dụng đôi mắt, bộ não và cơ thể của mình để biết chính xác bạn đang ở đâu và nơi bạn đang hướng tới là nơi nào. Nói cách khác, bầu trời đã biến việc tìm đường và điều hướng thành "nghệ thuật tìm kiếm thiên đường". 

Bản đồ bầu trời, bản đồ mặt đất, bản đồ đại dương và dưới sâu đã trở nên rất quan trọng trong những chuyến hải hành. Nhờ sự kết hợp mạnh mẽ của thiên văn học, toán học, bản đồ, trình độ học vấn, vũ khí, thiết bị đo đạc, điều hướng và khai thác, Đại dương và Thế giới đã được khám phá, vẽ thành bản đồ, lập biểu đồ, kiểm kê, hư cấu, mua bán, thuộc địa, phát triển nông nghiệp và được khai thác, hàng triệu dân tộc bị Kito giáo hóa hoặc làm nô lệ. Dựa trên những yếu tố cần thiết sống còn để một con tàu đại diện cho đất nước ra khơi thì các vị trí quan trọng trên thuyền có thể hình dung như sau: thợ lặn, chuyên gia vũ khí, chiến binh, kiếm sĩ, hoa tiêu, y tá, bác sĩ, nhà thiên văn học, nhà toán học, vật lý học, đo trắc địa, nhà sinh vật học, thủy thủ, thủy thủ tàu ngầm, phiên dịch, thợ máy, đầu bếp, phục vụ, nhà văn, kỹ sư, kế toán, dàn nhạc, phi công. Nhưng chúng ta phải kể đến bộ tứ trụ cột, những kẻ được dân chúng gọi là "ác quỷ vùng biển Đông". Họ là Abel, Marmoris, Branwen và Galene.

Abel Goodenough là thuyền phó. Anh có vẻ ngoài rắn rỏi, cao lớn, tóc vuốt chải hất ra sau bóng lộn, râu ria được cắt tỉa gọn gàng, mũi diều hâu, mắt chim ưng. Anh cao gần hai thước, cơ ngực rắn chắc như đá, bắp tay cứng như đồng, hơi thở như gió lùa nhà trống, thân thì hộ pháp, mặc độc một cái quần vải mịn. Anh khoác trên mình bộ áo hải quân, thứ không thể thiếu bên mình là ống nhòm, bản đồ, yêu thích nhất là hộp dụng cụ Korobka, bộ dụng cụ đa chức năng được sản xuất tại xưởng ở Novosibirsk. Chiếc hộp bao gồm: đo nhiệt độ, độ ẩm, la bàn, đèn pin, thước kẻ, kính lúp, gương có thước ngắm, bộ que đánh lửa và còi. Trong khi Thuyền trưởng Solomon sử dụng duy nhất chiếc kính lục phân sextant. Abel sinh ra tại một thành phố ven biển tên Santiago nằm trên đảo Sancho thuộc Furcidisum. Anh là con thứ hai trong một gia đình có năm người anh em trai. Bố anh, ông Hami Goodenough. Một ông già đặc biệt, một người ở thời đại khác, có những lối suy nghĩ thời dĩ vãng ấy, tự vỗ ngực mình là một người địa chủ. Một người mang cái dòng dõi tư sản của mình mà tự hào như những vị hầu mang tước hầu của họ. Ông vẫn hay dùng những từ như địa vị, pháp luật, công bằng, tầng lớp, phân chia, lợi ích, thuế suất, dân vận. Nhưng ông hay dùng từ địa vị hơn cả. Theo cách gọi của người bình dân là "làm sang". Mẹ Abel là bà Rihanon, một người phụ nữ của gia đình hiền lành, thiện tâm. Bà theo đạo Phật, trong nhà thường vang lên tiếng gõ mõ và tụng kinh của bà. Bên ngoài, bà vẫn thường hay tổ chức những buổi phát cơm thiện tâm. Nhưng Abel của chúng ta, từ nhỏ vẫn hay bị liệt vào dạng cừu đen trong gia đình. Anh yêu tự do hơn tất thảy. Anh yêu tự do đến nỗi khuôn mẫu và xã giao khiến anh muốn xổ lồng. Vậy là Abel theo chân tàu Candelaria ra khơi. Bấy giờ Abel mười tuổi. Anh đã rời xa ông Hami ba năm. Quan hệ giữa hai người không ai nghĩ đến chuyện thay đổi, không ai nghĩ đến chuyện hòa hợp, đến chuyện tìm gặp nhau. Nhưng không có người cha nào không yêu con. Hami yêu Abel theo lối riêng của ông: ông để anh tự do lựa chọn cuộc đờimình dù lòng đâu như cắt. Đứa con trai ấy rời đi, lòng ông thấy như có một lỗ hổng tối đen. Thế là ông cấm không ai được nhắc về Abel nữa, còn mọi người lại vâng lời ông một cách triệt để quá. Người già cần sự trìu mến quấn quít của con cháu vun vầy đông vui như cần ánh nắng. Ông Hami không bao giờ hỏi thăm tin tức của Abel, nhưng ông vẫn luôn nghĩ đến nó. Người ta thấy, nhiều năm sau, mỗi khi đọc báo, thỉnh thoảng ông dừng lại và sụt sịt chực khóc.

Abel Goodenough tò mò với mọi thứ trên thế giới. Anh ngắm nhìn lá cây và tự hỏi chúng có biểu đồ cắt lớp khi nhìn qua kính hiển vi như thế nào, nhìn mây và muốn hiểu chúng chứa đựng những gì, chúng đang muốn nói điều gì với anh. Và thế là anh tìm hiểu. Abel là một thuyền phó nhiệt tình những bình tĩnh, cao quý, quảng đại, kiêu hãnh, tự trọng đến mức sắt đá, kiên định tới mức bảo thủ. Năm 1997, thuyền Candelaria đi vào vùng vịnh hẹp Turkheim và bị hải tặc phục kích ở đây. Đạn pháo bắn ra văng kín trời, những cột buồm lần lượt đổ gục xuống, chiếc tàu bị bắn phá thủng lỗ chỗ. Đại bác của băng hải tặc Pontmercy phá tan con thuyền. Giữa lúc đó, trong cơn đổ nát, mùi thuốc sung nồng nặc, cảnh chết chóc, máu chảy khắp nơi, Abel vẫn đứng hiên ngang trên con tàu. Đứa bé dường như chẳng sợ gì hết hoặc vì sợ quá nhưng vẫn giữ nguyên vị trí. Rồi nó cầm súng, thét lên: "Tiến lên!" Đạn bắn ra xuyên thủng tên chỉ huy một hạm đội của địch. Địch nhảy theo dây văng, tràn vào thuyền. Hai bên giáp lá cà đánh nhau một trận dữ dội. Dưới là mặt biển thét gào, bên trên tiếng súng át tiếng người. Abel càng táo bạo hơn, cách Abel điều khiển nòng súng máy trọng liên M3M khiến cho đám hải tặc sợ hãi. Chiếc súng như như một con quái vật liên tục xả đạn với tốc độ cao. Không tên nào dám lại gần thằng bé. Abel kiên quyết ở bên cạnh thuyền trưởng Berthien giữa mưa đạn cho tới khi hải quân ập đến. Tấn công và bắt sống băng hải tặc Pontmercy cùng nhiều chiếc thuyền vận tại của Cửu Quốc trên đường trở quân đến đảo Bắc. Năm đó Abel 14 tuổi, sau trận ấy, Abel Goodenough trở thành thiếu úy của lực lượng hải quân Furcidisum.

Abel Goodenough đồng thời còn là chuyên gia vũ khí trên tàu. Nếu ví Solomon như bộ óc của con tàu thì Abel chính là cánh tay phải. Anh là người sở hữu "Thập nhị thần súng Akaiden", bộ súng kết hợp đã hạ con rồng đen ở Charlemagne. Akaiden là thần khí tượng trưng cho lòng dũng cảm.

Marmoris Geralt Zerman, một bộ óc thiên tài, một kỹ sư cơ khí, một nhà khoa học. Marmoris là học viên xuất sắc nhất Học viện thiên văn. (Astronomical Academy) Anh là giáo sư của thủy thủ trên tàu, anh là con người chú trọng giáo dục và yêu việc giảng dạy những kiến thức tinh hoa mình chắt lọc được cho người khác cũng được biết, được hiểu. Anh luôn muốn rằng xã hội luôn luôn nâng cao trình độ trí thức và đạo đức, lưu hành nghiên cứu khoa học như tiền tệ, làm sáng chói tư tưởng đạo đức, phạm trù triết học, làm trí tuệ của mọi người được nuôi dưỡng, được lớn lên. Anh uyên bác, trong sáng, chính xác, bách khoa, cần cù và đồng thời mơ mộng tới mức "ảo tưởng viển vông", anh tin vào tất cả những thứ gọi là: máy du hành thời gian, cổng không gian đa chiều, phẫu thuật gamma, chữa trị bệnh Alzeimer bằng công nghệ sinh học, vật liệu lưu giữ ký ức, nón helmet khuếch đại năng lượng não bộ, lượng tử đến vạn vật. Yêu thích sinh học hơn là thần học, quan tâm đến bọ cánh cứng hơn là thiên đường. Anh không sợ bất kỳ thành lũy tư tưởng nào chống lại khoa học lịch sử loài người dựng nên khắp nơi bởi mê tín, tôn giáo, chuyên chế và thành kiến. Anh tin rằng khoa học, dữ liệu rồi mới làm chủ nhân loại. Con người cần sớm nhận ra điều đó. Marmoris mơ mộng về những vùng đất chưa từng đặt chân tới, những kiến thức chưa được chạm đến, những vùng đất nóng như Địa ngục hay những khu vực lạnh buốt quanh năm, anh đều không ngại ngần khám phá. Anh thích lang thang trong những cánh rừng và đọc tên từng loài thực vật, thích ghi chép nhật ký hải hành về lịch sử sự thật những cuộc chiến ở các quốc gia nơi anh đặt chân tới, theo dõi mây trời cũng như theo dõi thời sự, nhận định thời tiết chính xác hơn nhà khí tượng học. Anh hay cười, ăn nói dịu dàng, đeo cặp kính sụ, nhưng anh rất nhiệt tình và ấm áp. Một người đáng tin. Marmoris sở hữu thần khí "Thiên kính chi luân Zoraida", tượng trưng cho trí tuệ. Anh là quân sư, đồng thời cũng được thủy thủ trên tàu yêu mến gọi là Big Daddy. Vì anh là người đặt tên cho phần lớn địa danh vô danh trên chuyến hải hành của tàu Solomon's Revolution. Nơi được cắm ngọn cờ tổ quốc đầy tự hào trên đó, anh giải thích: "Đặt tên cho địa danh một cái tên thân thuộc là cách thấu hiểu sâu sắc đồng thời kết nối người với người. Cũng là thứ thiết yếu để kiến tạo nên một xã hội an bình." Đám thủy thủ trên tàu vẫn thường trêu đùa anh bằng những câu như này: "Ổng là loại người sẽ tạc tượng của mình trên núi đá khi chỉ vừa mới thâu tóm được một nhúm quyền lực này", "Cá luôn, cả thành phố sẽ nhan nhản cả đống tiệm bán kính", "Rồi anh ta sẽ xây một tòa thị chính trên đỉnh đồi cao và ra cái đạo luật Đọc sách thường nhật".

Branwen Joaquin là thủ quỹ, đồng thời là người quản trị rủi ro, kiểm toán trên tàu. Anh không phải là kế toán. Nhưng công việc anh làm còn hơn cả một viên kế toán. Anh xuất thân từ đất nước Juan Pablo, đất nước nổi tiếng về việc đào tạo những tay kế toán, kiểm toán, kiểm sát, thuế vụ, ngân hàng, quản trị rủi ro khét tiếng nhất. Nơi trẻ con 3 tuổi đã cho làm quen với con số và tính toán đơn giản, 5 tuổi đã được cho chơi Sodoku với độ khó tăng dần, tiểu học liền cho học cách tính nhẩm thần tốc. Ở Juan Pablo người ta tranh luận bằng số liệu thống kê và xác suất. Không gì hơn những con số đến vô tận là thiên đường đối với cư dân Juan Pablo. Cũng chính nhờ sự tính toán chi li, chuẩn xác này ở Juan Pablo không hề có lạm phát. Vậy nói ở đây là thiên đường cũng có cái lý của nó. Branwen được trao cho "Cây gậy sự thật Veritas", chiếc gậy có khả năng kết nối mọi điểm thông tin và chỉ hướng cho con người đến sự thật sau nhất. Branwen là đêm tối. Có vẻ ngoài trầm tĩnh, tóc đen mắt đen, khoác trên người bộ áo chùng đen, đậu trên vai một con cú lông đen như sương khói. Branwen là đem tối. Anh chỉ xuất hiện khi bầu trời đã đen xịt, còn ban ngày anh ngủ cả ngày luôn. Cái tính ấy ở đâu mà ra, chẳng ai biết. Người ta đồ rằng những sinh vật bóng tối thì thường hoạt động về đêm cho hợp lý. Trong đêm tối dày đặc nhất, khi hội họp với mọi người, anh cũng quay lưng lại. Anh thường nói: "Ánh sáng thì không có bóng của nó đâu". Nên nếu thình lình thấy một ánh đèn sáng, Branwen lập tức đeo mặt nạ vào ngay, người ta không chắc anh có một gương mặt, vì người ta mới chỉ nhìn thấy cái mặt nạ của anh mà thôi.

Trụ cột cuối cùng, Galene Zhangchou, nhà sao chép học. Không ai rõ tiểu sử của Galene. Galene là một đạo chích chính hiệu, tuyên bố dõng dạc: "Không có gì trên thế gian này ta không ăn trộm và tạo ra một bản sao chính xác tới 80% được" (trừ những vết tích thời gian). Galene bị bắt ở Furcidisum khi quậy tung trời những song bạc ở đây, cái tên Galene nhiễm nhiên nằm trong danh sách đen của mọi tụ điểm ăn chơi ở Furcidisum. Tức giận, Galene tuyên bố sẽ thực hiện vụ trộm lịch sử nhằm vào trấn bảo ở đền thờ Thần Tài của vương quốc. Bị bắt khi đang thực hiện phi vụ. Nhưng được Solomon kéo từ nhà tù lên thuyền và cảm hóa. Galene là một cô gái, được mệnh danh là Báo nữ, vì sự nhanh nhẹn của mình. Galene là một đứa trẻ con chưa đến hai mươi tuổi, một khuôn mặt xinh, cặp môi như trái anh đào, tóc đen vấn gọn ra sau ót, mắt như ánh sáng đêm trăng. Galene vận trên mình chiếc yếm lụa, áo khoác ngoài dài với tay chùng khó thấy nổi giấu thứ gì bên trong. Nụ cười khuất sau chiếc quạt giấy dịu dàng. Ít có kẻ lưu manh nào đáng sợ như Galene, một ánh mắt khó dò rất tài tình, một tật xấu dắt sẵn trong túi và một bông hoa trên yếm lụa ở ngực, đó là tất cả hình dung về Galene. Người được trao cho một thần vật, "Hỏa hồng sư", tượng trưng cho nhân từ. Chắc để sau khi thực hiện phi vụ gián điệp, sao chép, trộm cướp xong thì làm hòa và cầu xin lòng nhân từ. Nhưng nghĩ tới cái cao cả hơn, thì Galene là một người mở rộng lòng tay với tất cả mọi vật trên thế giới này. Câu nói nổi tiếng của Galene: "Tất cả là bản sao của bản sao của bản sao. Nhờ đó mà thế giới được tạo thành."

Tứ chủng thần khí trở thành những thần vật biểu trưng mang ý nghĩa thiêng liêng, tôn nghiêm nhất của Furcidisum, là bộ tứ thần khí trong Thập nhị thần vật, được Nữ hoàng Trắng trao cho con trai mình là Solomon, anh ban nó cho bốn trụ cột thân tín của mình. Tuy nhiên có lẽ qua những thần khí này, người ta muốn thể hiện 4 đức tính quan trọng của dân tộc Furcidisum: dũng cảm, trí tuệ, thật thà và nhân từ. Hãy nhìn qua dân chúng, bạn sẽ nhìn thấy chân lý.  

12.40' GMT Inferus chạy dọc theo những hành lang dài, băng qua những cánh cửa mà không hề ngoái đầu để ý. Nó dồn toàn bộ sự tập trung vào đằng trước, đứa bé chỉ kịp dừng lại hỏi một thủy thủ Solomon đang ngồi ở đâu. Anh chàng chỉ dẫn khá dài dòng rối rắm. Trên cả một con tàu lớn thế này cũng không kiếm đâu ra bảng chỉ dẫn trước mắt. Thật khó khăn. Đúng lúc ấy Arion lại rung lên, lần này chỉ có tin nhắn hiện lên màn hình chính.

+Arion: Có kế hoạch gì không hả?

- Không có kế hoạch gì mới là tốt nhất. Inferus nói.

+Arion: Thường khi sắp đối diện với sự kiện lớn, con người thường lo lắng.

- Điều đó có giúp ích không?

+Arion: Tâm thế đón nhận mới là quan trọng. Cậu thấy thế nào?

- Tớ thấy hào hứng.

+Arion: Được rồi. Vậy để tớ chỉ đường cho cậu tới chỗ Solomon.

Trên màn hình, một ứng dụng bản đồ hiện ra. Đã chỉ sẵn lối đi, khi cần rẽ phải, nó báo trước bằng giọng nói, khi cần tránh một đoàn người ở lối trái, nó cũng không bỏ sót. Thậm chí ngay cả khi chạy qua sàn nhà trơn trượt, nó cũng không quên nhắc nhở. Theo sự chỉ dẫn của bản đồ. Inferus rất nhanh tới được chiếc cửa gỗ lớn 2 ngăn. Bất chợt điện thoại lại rung lên, màn hình bật sáng, là Arion.

+Arion: Đợi 2 phút. Họ đang tranh luận đến cao trào. Giờ bước vào chưa phải lúc.

Inferus nghĩ đó là phép lịch sự, giữa khoang tàu ngập tiếng ồn ào, để nghe vào căn phòng bên trong thực sự là điều không thể. Ấy là thằng bé nghĩ thế. Inferus, vô hình, đứng yên, Arion cũng vậy, tuy nhiên Arion không bỏ sót một lời nói, một cử chỉ ở phía bên trong kia. Những điều bí ẩn Arion muốn biết là gì?

Trong phòng, ánh sáng rực rỡ, một phòng họp nhìn khá tối giản, chỉ một chiếc bàn tròn lớn, bộ ghế xung quanh, một tủ bar đứng, bảng đen, nền chiếu, bảng thông tin và đèn trần. Bấy giờ có bốn người ngồi, đối diện mặt với nhau là Solomon, Abel, Marmoris và Gelene. Bốn người vẫn ngồi yên, không hề nhúc nhích, im lặng mới là đỉnh cao của căng thẳng. Branwen đứng đó, hắn châm điếu thuốc, chiếc mặt nạ có sừng và chiếc nanh dài, tất cả bằng xương trắng muốt, đóng đều một khối, trông như mặt quỷ. Phương châm của Branwen là: "Không có sự bí ẩn, chỉ có những câu chuyện, nơi tìm kiếm uy danh. Bởi mọi người quá hiểu nhau, tự sẽ không còn cảm giác kính trọng nữa. Chỉ khi ẩn náu nơi miếu sâu giống như tượng Phật, trở thành những thực thể không thể nhìn thấy được, bạn mới toát lên quyền uy và vẻ oai phong lẫm liệt. Dù là khi bày mưu tính kế hay làm việc gì, cũng không nên để người khác nắm được thóp của mình."

Branwen đi về phía bảng thông tin bên dưới để chỉ ra tất cả những thông tin mà anh đã móc nối vào với nhau, mỗi đầu được ghim lại và móc ngoặc những đường chỉ đỏ, một cách kết nối thông tin thành bản đồ que như dân Polynesia thường dùng. Trên mỗi bức ảnh ghim theo là dòng chữ bên trên, đó lần lượt là: ETJWPX, FECEBT, 10001001000001101011010010011000100. Chúng ta có thể thấy, trong hàng ngàn năm, vua chúa cũng như các tướng lĩnh đều dựa vào mạng lưới thông tin liên lạc hiệu quả để cai trị đất nước và chỉ huy quân đội của mình. Đồng thời, tất cả họ đều ý thức được những hậu quả của việc để lọt thông tin của mình vào tay đối phương, để lộ những bí mật quý giá cho các nước thù địch cũng như hậu quả của sự phản bội cung cấp thông tin sống còn cho các lực lượng đối kháng. Chính nỗi lo sợ bị kẻ thù xem trộm đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của mật mã: đó là những kỹ thuật nhằm che giấu, ngụy trang thông tin, khiến cho chỉ những người cần được nhận mới có thể đọc được. Mong muốn giữ bí mật đã khiến các quốc gia thiết lập những cơ quan mật mã, có nhiệm vụ đảm bảo an toàn cho thông tin liên lạc bằng việc phát minh và sử dụng những mật mã tốt nhất có thể được. Trong khi đó, những người phá mã của đối phương cũng lại cố gắng để giải mã và đánh cắp những bí mật. Người giải mã là những nhà "giả kim thuật" về ngôn ngữ.

Branwen nói, với giọng nói của người tinh tường, nhịp độ không quá nhanh, câu nói hàm xúc:

- Chúng ta không thể có được con đường Tam Đoạn, nếu chúng ta không có được sự đồng ý. Và tất nhiên nếu chúng ta công khai hành động chúng ta sẽ rơi vào cuộc chiến.

- Ừ, vẫn luôn là sự ưu tiên cho cách mạng tự chủ của dân tộc đó. Chúng ta để cho họ nghĩ rằng họ chủ động giành thắng lợi. Không một thế lực nào đứng sau giật dây cả. Chính bản thân họ phải làm điều này thôi. Solomon bổ xung, hai tay đan vào nhau, nhìn không rõ biểu cảm, vết sẹo nơi mắt trái giờ đây đỏ rực lên.

- Anh làm cho người khác nghĩ rằng anh là kẻ dạy đời đấy, Marmoris. Galene cất giọng, cô cười đến là nhí nhảnh.

- Thôi cô tàng hình đi. Branwen nói có phần bực bội.

Marmoris đứng lên, anh giơ ba ngón tay ra trước rồi triển khai kế hoạch:

- Được rồi, có ba nhiệm vụ sau đây cần người chỉ huy, chọn lấy một trong ba vai diễn yêu thích nhé. Mục sư: người lặng lẽ quan sát. Cha đỡ đầu: người truyền đạo, tẩy não, kiểm soát sức mạnh. Tín đồ: người dễ bị ảnh hưởng, tin tưởng vô điều kiện, ước mơ thay đổi số phận, nên nhớ, người nhóm này mỗi bước đi đều phải trả giá rất đắt đấy.

Cuối cùng, dưới sự đối chiếu phẩm chất tính cách, trí tuệ cần thiết của ba vai diễn. Những người đảm nhận ba vai diễn cuộc đời này là: mục sư Branwen, cha đỡ đầu Marmoris, tín đồ Abel. Galene như thường lệ, cô đảm nhận vai gián điệp. Solomon kết thúc bằng việc đúc kết lại như sau: "Chúng ta không theo đuổi sự gia tăng của cải. Chúng ta không viện cái cớ vì mục đích cao cả hơn. Cũng không làm điều này để thỏa mãn tham vọng của chúng ta mà để có công cụ làm việc thiện. Để mọi người cùng được thấu hiểu lẫn nhau. Hiểu chưa?" Tất cả cùng đồng thanh hô hiểu. Trên khuôn mặt họ có một vẻ hào hứng, anh dũng lạ thường.

Kết thúc cuộc họp, lúc này, Inferus mới đẩy cánh cửa bước vào. Cả bốn người Abel, Marmoris, Branwen lẫn Galene nhìn nó và không nói lời nào. Inferus mới là người lạ. Nó thẹn thùng, lúng túng vì thấy mình giống như kẻ nghe trộm, mặc dù nó chẳng nghe được gì cả ngoài tiếng cười của Galene. Thằng bé dường như không nói được nữa. Lúc ấy nó thấy hối hận. Nhưng có phải lỗi tại nó đâu. Solomon nhìn nó, anh mỉm cười, kéo cái ghế ra, rồi mời đứa trẻ ngồi. Anh nói:

- Có chuyện gì hả anh bạn nhỏ?

- Cháu muốn nói, một chút nữa thôi, là sẽ có sóng thần, chỉ mười lăm phút nữa. Cháu muốn cảnh báo. Nó nói, ngực hãy còn phận phồng.

- À vậy ra cháu cũng đã biết. Ta đã truyền tin về tới đất liền và những vùng lân cận. Cháu đừng lo, giờ thì nếu cháu muốn thấy những người đàn ông xử lý thiên tai như thế nào, cháu có thể lên khoang lái. Ta cùng mọi người sẽ ở trước mùi tàu. Đừng ra ngoài nhé, rất nguy hiểm. Solomon vỗ vào vai Inferus.

Anh đích thân dắt tay nó ra ngoài. Trong khi Marmoris gọi điện đàm phân phó lại với khoang lái: "Đánh lái sang mạn trái, con sóng sẽ di chuyển về phía bên phải Bắc bán cầu. Kéo cột buồm lên nếu chúng ta không muốn bị gió thổi tung. Đội 1, ra trước boong, xử lý con sóng. Tản lực của nó để khi tới đất liền, nó không gây ra thiệt hại gì nhiều." Solomon dắt Inferus dọc hành lang, nơi bên dưới, có thể nghe thấy tiếng chạy rầm rập của đám thủy thủ, tất cả đều rất rảo bước, nhịp đều đặn, không sai khắc giữa người này với người kia một bước, họ đang hành quân. Họ thấy vị Thuyền trưởng của mình, tất cả cùng đồng thanh hô: "Chào Thuyền trưởng, công ty Trách nhiệm hữu hạn chuyên phá ủi san lấp xin hân hạnh được phục vụ." Inferus thấy giữa bóng những thủy thủy có Hank Siegel, Dahlia Dotana, William Dampier và Limonov Banks. Đội 1 là đội hình gồm 25 người dưới quyền chỉ huy của Abel Goodenough. Đội hình luôn luôn xông pha, sẵn sàng chiến đấu. Solomon đưa Inferus tới khoang lái, dặn dò mọi người rồi anh lập tức rời đi. Bên trong khu vực điều khiển với hàng trăm nút, màn hình định vị, bản đồ, bánh lái, một hệ thống phức tạp và tinh vi tới nỗi sẽ không chỉ có một người là đảm đương được trách nhiệm đó. Những tay lái tàu đều từ hải quân, họ vẫn mặc đồng phục, mũ mạo, huân chương và cầu vai chỉnh tề, thật thích hợp với sự căng thẳng thường trực trên khuôn mặt những người này. 

Phần lớn những tàu hiện đại được thiết kế để có thể vượt qua hầu hết các loại thời tiết xấu trên biển để tuân theo hải trình. Bầu trời lúc bấy giờ tối dầm lại, những cuộn mây altocumulus như từng đọn kêm bông, giăng kín trời như tổ ong trước đó nhường chỗ cho những cuộn mây cứng ngắc, nặng nề trong làn khói trời xám xịt. Mây không thương tiếc, trực chờ đâm thẳng xuống cắn xé con mồi, đám tùy tùng là tiếng sấm rền vang, ánh chớp nhá lên rạch ngang bầu trời, thật là một ánh sáng kinh thảm. Ai ai cũng là đối tượng chạm đến của thiên nhiên.

Tàu hàng trống là tàu gặp nguy hiểm nhất khi gặp bão do không có khối lượng của hàng hóa giúp ổn định thân tàu. Nước dằn ở đáy tàu giúp ổn định khi di chuyển không phải là giải pháp hoàn hảo cho mọi trường hợp. Nước dằn có thể khiến tàu đang nghiêng 30 độ ở phía này bỗng nhiên quay sang nghiêng 30 độ ở phía kia chỉ sau 3,5 giây. Con tàu khổng lồ cũng chỉ như những đồ chơi trong tay gã khổng lồ. Gã cho nó chơi bập bênh, gã chực chờ nuốt chửng nó, nó cũng không thể không tiến thân vào hành trình sinh tử ấy. Bên trên bầu trời thét gầm, phía dưới mặt nước đói khát. Mặt đất cũng vậy mà ngoài đại dương cũng thế. 

Khi nói tới điều này phải đề cập đến mũi tàu dài ở những con tàu hiện đại. Cái mũi này trong Tiếng Anh được gọi là "bulbous bow", có nghĩa là mũi hình quả lê. Tại sao mũi tàu này lại giúp bảo tồn năng lượng cho con tàu? Để trả lời cho điều này, chúng ta phải nhìn vào những kiến thức về cơ học chất lọc. Khi di chuyển trên mặt nước không tránh khỏi việc tạo sóng theo tên gọi trong cơ học chất lỏng, còn hải dương học gọi nó là "sóng Kelvin". Nhưng khi có mũi tàu, nó sẽ sản sinh một sóng phản ngược 180 độ để triệt tiêu năng lượng của con sóng, do đó làm giảm tổn thất năng lượng cho con tàu.

Những cú đập liên hồi của sóng vào thân tàu là mối đe dọa lớn nhất với thủy thủ. Nếu sóng đủ lớn và đập liên tục trong thời gian dài, một con tàu hiện đại được làm từ thép cứng cũng có thể bị đánh vỡ. Theo chân con sóng, con tàu Solomon's Revolution dềnh thấp xuống, mọi người ở bên trong đều cảm nhận được độ hẫng ấy, có người không giữ được thăng bằng, ngã nhào xuống. Rồi rất nhanh, họ chưa kịp đứng lên, con tàu lại cưỡi sóng nâng mình lên cao. Một cuộc sóng gió gập ghềnh, dập dềnh hết sức dữ dội. Trên mũi tàu, sóng trắng nhô cao rồi đánh ào một cái, rồi lại tiếp một trận, tới tấp liên hồi.

Theo Marmoris, khi buộc phải đối diện với bão, thủy thủ sẽ cố lái tàu đến khu vực có sóng thấp nhất và gió yếu nhất. Ở bán cầu Bắc, phía bên trái hướng di chuyển của bão là nơi an toàn hơn, trong khi ở bán cầu nam, bên phải cơn bão là nơi tàu thuyền có thể hướng tới để đảm bảo an toàn. Khi không thể né tránh được cơn bão, tàu cần giữ chuyển động tiến lên thay vì để bị sóng và gió đẩy đi. Người lái giữ mũi tàu hướng vào các con sóng để tàu không bị sóng đánh lật từ hai mạn.

Đội 1 đứng dàn ra trước, họ nhận trọn những cơn sóng dữ dằn đang quất vào da thịt. Limonov Banks cất tiếng:

- Để làm được công việc của mình, tôi cần biết về mối họa chúng ta đối mặt.

- Sóng thần. Abel trả lời.

Trên khuôn mặt từng thủy thủ của đội 1 cũng không có gì suy chuyển. Họ chỉ cầu nguyện: "Lạy Chúa giải thoát cho chúng con".

- Cô muốn chết như thế nào? Abel quay sang nhìn Limonov, khuôn mặt anh nhẹn nhàng, câu chữ nói ra như một lời nói đùa phỉnh phờ.

- Chết già.

- Vậy thì cô chọn sai nghề nghiệp rồi đấy. Có những trận đánh mà một người đàn ông không được trốn chạy. Abel lúc này bật cười, nụ cười anh như át cả tiếng sóng.

- Chết ư? Không phải hôm nay. Và tôi là phụ nữ. Limonov nhếch miệng. Khuôn mặt cô trắng bệch, những đốm tàn nhang lại ửng lên một cách kỳ lạ.

Thuyền trưởng của bọn họ Solomon vung kiếm chỉ lên, anh quả có sức mạnh của sự may mắn, cơn gió dữ quật thẳng vào mọi người nhưng nó lại lách qua để né tránh anh, như một người lịch sự nhất, gã còn tận tâm tạo hiệu ứng, tóc gió bay trong cơn bão. Anh quyết chí hạ nước cờ, anh hô lớn, dõng dạc như họng súng phát đạn: "Tiến lên!" Thật là một cảnh tượng hào hùng.

Cô đứng ra trước, nhắm mắt, hai tay giơ ra trước ngực, bàn tay chắp vào nhau, cô đọc lẩm nhẩm những cổ ngữ kỳ lạ. Sau khi kết thúc một chuỗi động tác, Limonov hạ tay phải xuống nền tàu thật nhanh, cô hô: "Mang chủng tiết khí". Dưới lớp cỏ trên mũi tàu hiện ra một trận pháp hình tròn, ánh sáng màu xanh dần dần lan ra như nước chảy qua khe nứt, chúng lan ra, thân cây tạo cành, cành trồi lá, đan xen vào nhau, chúng đồng loạt sáng bừng lên, ngập tràn sức sống. Từ dưới mặt nước nhanh chóng vươn lên cây đước, thứ cây mà con người vẫn thường trồng ở vùng nước lợ để ngăn mặn và chống xói mòn. Cái cây nhanh chóng to lớn vươn lên trời cao, ôm lấy con sóng như người khổng lồ Atlas cúi mình đỡ lấy Trái Đất. Cây đước phát triển với tốc độ chóng mặt hệt như cây đậu thần, Limonov chỉ cần dùng tới ba ngón tay chụm vào và kéo dãn nó ra như sợi dây vô hình để điều khiển. Everest chưa phải đỉnh núi cao nhất thế giới. Với độ cao 8.848m, Everest còn kém cây đước này hơn một kilomet (khoảng 1.000m). Cây đước chặn sóng này đạt độ cao 10.203m so với đáy biển. Cây cối cần oxy, như con người cần oxy và nước, nhưng trong đám bùn mà cây đước mọc lên rất thiếu thứ này. Vì thế chúng phải dùng tới một số rễ làm ống thở. Những cái rễ này nhọn hoắt như mũi giáo, không cắm xuống đất như bình thường mà chĩa ngược lên trên để hút không khí, chúng đan vào nhau, cành này vắt qua cành kia, hệt một chiếc lưới khổng lồ. Những cái rễ khác đâm ra từ thân cây đước, khiến nó trông giống đang đứng trên cà kheo. Những cái rễ chắc khỏe này có tác dụng như chiếc bè bên trên mặt bùn nhão nhoẹt, ngăn không cho đước bị trượt ra biển. Bên cạnh đó, Dahlia Dotana và Hank cùng những người khác không bỏ lỡ một giây phút quý giá nào, họ đứng tản ra mỗi phía, giơ đũa phép lên và hô "Molis collocabat" - họ xây nên một kè chắn sóng lõm chỉ trong nháy mắt, cái kè ngay lập tức phát huy công dụng của nó. Nó phávỡ sóng và làm chúng yếuđi. Nhờ đó hiện tượng xóimòn bị chậm lại. Tất cả hành trình ngăn sóng, tạo đê xây đập của đội 1 chỉ diễn ra đơn giản như việc thường ngày với họ. Hay cuộc đời lênh đênh sóng nước chính là vậy. Họ nghĩ họ đã trải qua đủ cả. Nhưng sóng nước vẫn tiến tới, đúng là người bạn đáng tin cậy!

Cuộn chiến với biển cả cũng như bao cuộc chiến trên đất liền. Còn những dân tộc văn minh, nhất là trong thời đại ngày nay, thì không bao giờ vì sự may rủi của một vị tướng cầm quân mà giá trị mình lại tăng lên hay giảm xuống. Vị trí của họ trong nhân loại được quy định bởi danh dự của họ, phẩm chất của họ, ánh sáng tài ba trí tuệ của họ. Ơn Chúa! Đâu phải là những quân bài mà kẻ anh hùng, người chinh phục đem đặt xúc xắc vào cuộc đỏ đen giữa các trận đánh.

Những tưởng tất cả đã đi qua cơn sóng an lành, họ cũng đã thành công tản lực của con sóng trong chuyến hành trình kế tiếp của nó. Nhưng con tàu chỉ vừa mới đi qua bão giông, bầu trời vẫn chưa trong xanh, mây lớn cuộn dày bên trên bầu trời, trông nặng chịch như chực đổ ập xuống bất cứ lúc nào. Con tàu bứt mình, đi qua khỏi vùng biển dữ, sóng biển như quấn quít muốn níu giữ, kìm chân nó lại nhưng bất thành. Cuộc chia tay nào cũng ầm ĩ, cuộc chia tay của tự nhiên cũng vậy.

Nhưng ngay cả trên một vùng biển nhất định, một đặc điểm đã có vào mùaxuân có thể vắng bóng vào mùa thu. Và bởi vì hoa tiêu di chuyển thay vì đứngyên, chuyển động hơn là đứng yên, hệ số độ tin cậy thay đổi tháng này sangtháng khác, tuần này sang tuần khác, thậm chí ngày này qua ngày khác. Vì Trái đấtquay xung quanh Mặt trời mỗi năm một lần, một ngôi sao nhìn lên từ cùng một sânthượng mỗi tháng một lần vào cùng một thời điểm trong đêm sẽ thấy bầu trời đã dịchchuyển về phía Tây 30 độ so với bầu trời củatháng trước. Nên phải nhấn mạnh lại điều này, những ngôi sao bạn tưởng chừng như "luôn luôn nằm yên" thực ra cũng chuyển động. Do hiện tượng tiến động (hay còn gọi là tuế sai) nên Polaris (sao Bắc Cực hiện nay) sẽ không còn là sao Bắc Cực mãi mãi. Đó là quy luật của vũ trụ. Vĩnh viễn là một khoảng thời gian dài. Vũ trụ cũng vậy.  

Để sống sót qua cơn bão, tàu cần tránh xa tất cả các vật thể có thể gây va chạm làm chìm tàu như bờ biển hay rặng đá ngầm. Dường như sự may mắn của Thuyền trưởng chẳng liên quan gì đến con tàu cùng tên với anh. Và rồi cũng phải nói thêm, con người cũng như con tàu, trang bị đủ thứ thiết bị để củng cố lòng dũng cảm của nó trước vị thần Biển cả. Trong đó phải kể đến thiết bị định vị sóng âm quét bề mặt tầm xa Gloria. Nhưng với một biến cố nhỏ nhoi giữa hàng triệu khả năng, máy quét của họ khi vừa mới ra khỏi cơn bão đã không hoạt động thực sự tốt trong vòng vài giây trước khi nó phát hiện ra lỗi lầm của mình. Solomon kéo ống nhòm của anh, anh phát hiện ra một tảng đá ngầm, nhưng cũng không giống với tảng đá ngầm, nó trơn láng và tròn trĩnh, chẳng giống đá tí nào, đang trồi lên khỏi mặt biển. Sau khi phát hiện tảng đá, thuyền trưởng ra lệnh xoay bánh lái sang mạn phải, để thuyền hướng mũi sang trái. Tuy nhiên, người cầm bánh lái đã điều hướng tàu về bên phải do nhận truyền tin sai lệch. Lỗi này nhanh chóng được phát hiện, nhưng quá trễ để sửa sai vì con tàu đã đâm sầm vào tảng đá. Thủy thủ đoàn trên tàu Solomon's Revolution đã biết thế nào sóng. Tảng đá ngóc đầu dậy, nó như bật nhảy khỏi mặt nước như một vận động viên của biển cả. Thân mình nó uốn lượn một vòng rồi lại đáp xuống, cái đuôi to lớn đập ruỳnh xuống nước chực thả neo bất cứ con tàu nào, hệt như hàng triệu tấn đất đá lao xuống biển, tạo ra một con sóng chưa từng thấy. Tàu của họ bị một con sóng cao nhồi cho te tua. Tất cả những người có mặt trên mũi tàu lúc bấy giờ phải bám chặt lấy mạn thuyền để không bị hất văng đi.

Đó là một con cá voi xanh (Balaenoptera musculus), cá voi xanh là loài động vật to nhất từ trước tới nay. To chưa từng có! Còn to hơn cả khủng long! Dài trên 30m và nặng 130 tấn (chỉ một con cá voi đã nặng bằng 20 con voi), nó giống chiếc tàu ngầm hơn là một động vật biển. Trong đại dương có vô vàn sinh vật. Nhưng chúng đều đáng sợ như bạn nghĩ không? Câu trả lời là: có, một số. Một số con còn to lớn và kinh khủng hơn những gì bạn tưởng tượng. Tất nhiên, to bé không thành vấn đề. Có những con thuộc loại độc địa nhất biển xanh nhưng chỉ nhỏ tí tẹo. Và có những con to lớn dềnh dàng mà lại hiền khô như cục đất. Như cá voi xanh chẳng hạn.

Hàng triệu năm trước các chú cá voi đã là cư dân trên đất liền. Tạo hóa đã rất nỗ lực khi giúp chú cá voi đầu tiên từ bờ xuống biển. Từ 50 triệu năm trước, chúng đã kéo xuống biển để tìm thức ăn và rồi không quay trở lại, tiến hóa đã chuyển bốn chân của chúng thành chân chèo. Một số cá voi ngày nay vẫn giữ xương của chân sau. Nếu bạn hỏi một con cá voi rằng nó đã sống sót sau suốt hàng triệu năm lịch sử thay màu biến đổi, cái giá phải trả là gì? Đó là tất cả, chú cá voi chắc chắn sẽ trả lời bạn như vậy. Và nó hoàn toàn không ý thức được nguy hiểm nên hay va chạm với tàu bè. Nguy quá ấy chứ? Không. Sự va chạm chỉ khiến nó lãnh đủ. Thực tế, con cá lớn xác này hoàn toàn vô hại, và hiền lành tới độ để mặc các thợ lặn cưỡi lên lưng. Với lớp da dày cui của mình, nó có thấy gì đâu!

Abel thấy con cá voi nhanh nhảu bước lên, anh ưỡn căng ngực, cơ tay gồng về phía trước, từ trên cánh tay anh mọc ra một nòng súng lớn như Bazoka. Anh còn không quên khoe khoang với đồng đội: "Đại diện Ukroboronexport, khẩu nhiệt áp này bắn được tới 1000m đấy bạn tôi ạ." Hank phản pháo lại đội trưởng của mình, hóa ra anh không chỉ giỏi lướt sóng mà còn giỏi bật sóng: "Thước ngắm vạch tối đa có 600m thôi." Abel nháy mắt: "Thì ngắm bắn bằng niềm tin đó cưng."

Anh hét lớn:

- Con thủy quái ghớm ghiếc kia. Hãy đỡ hỏa tiễn của ta.

Khoan đã, anh định bắn gì cơ? Đúng là thiếu hiểu biết. Thủy thủ đội 1 nhào tới dìm đội trưởng của họ lại: "Không được giết hại cá voi, động vật cần bảo tồn đấy". Thuyền trưởng của bọn họ, Solomon xuất hiện với ánh hào quang, anh hất tay hào sảng nói: "Các cậu tránh ra. Để tôi giải quyết". Ai ngờ đâu, anh lại chỉ xoa xoa tay cầu nguyện, giọng anh như mếu:

- Xin ngài cá voi thương tình. Bọn em cắn răng cắn cỏ xin ngài thương. Đổi lại lỗi lầm, bọn em xin nộp lại ngài con heo ỉn kia. Để ngài làm món nhậu. Tha hồ đánh chén. Em biết đại ca ăn thùng bất chi thình.

Solomon chỉ tay vào Abel. Thuyền trưởng của chúng ta không phải là người chỉ biết nói những câu động viên, những câu mị dân, mà anh còn là một diễn viên tấu hài quần chúng đích thực. Dù anh nhìn nhầm đầu cá voi thành tảng đá thì người ta vẫn ca tụng anh là người đưa cho họ đến với ánh sáng, vượt qua bão tố, vượt qua tăm tối của cuộc đời mà nắm lấy thiên đường tự do. Chú cá voi như đáp lại lời của anh. Nó bắt đầu ca lên bản hợp âm của biển cả. Rung động ấy như thấu hiểu tất cả. Và hình như trong thanh âm tiếng ngâm xa xăm bồi hồi vọng lại của chú cá voi. Chú nói, đúng vậy, không ai nghe nhầm được, chú nói: "Ramen". Đoàn thủy thủ chết trân, bao gồm cả chính thuyền trưởng của họ. Chú cá voi lật mình lên, nhảy thêm một cú nữa thật dữ dội như muốn quất sóng đáp trả con quái vật sắt đáng ghét trước mặt. Chú tiếp tục: "Tamen...Soumen". Thì ra Ramen không phải tên của chú. Chú làm cho tất cả mọi người phải há hốc mồm, họ lẩm bẩm: "Ai dạy cái con này kể tên các loại mì vậy." Và Ramen dường như nghe chính xác được âm thanh ấy. Nó lại quẫy mình đầy bực bội: "Amen!"

- Nó còn cầu nguyện kìa. Solomon lúc này mới hét lên. "Amen".

Rồi anh vung kiếm lên. Một cơn gió lớn đổi chiều đẩy con tàu đi xa khỏi chú cá voi muốn xực họ như ăn một bữa mì, cả con tàu dường như chạy ào ra, họ vẫy chào tạm biệt Ramen: "Chào nhé Amen". Thật đúng là một cảnh chém gió tuyệt hảo. Từ đầu đến cuối việc duy nhất anh làm là nói. Nhưng cũng phải nói thêm, phải có đến hơn 90% người dân thích nghe những lời "nói dóc lãng mạn". Vừa vặn thay, thuyền trưởng Solomon chính là một bậc thầy trong nghệ thuật lãnh đạo đa phần đến từ việc nói nước đôi vô bổ và mơ hồ. Những câu khích lệ tinh thần toàn dân, toàn quân hùng hồn. Những bản cách mạng đầy chất thơ ca. Nhờ vậy mà Solomon đứng trên mọi người. Quả là một trái nước trên vai Titan. Không ít những lời nói dối lãng mạn của cổ nhân, đã trở thành cuốn sách best seller từ xưa đến nay.

Solomon, một con người tiền định, cũng có vết bẩn, cũng có lầm lỗi, có tội ác nữa, nghĩa là vẫn còn là con người; nhưng lầm lỗi mà uy nghiêm, vết bẩn mà chói ngời, tội ác mà oai hùng. Với mọi người, anh là: "Đại chân lý." Còn nữa, bằng lưỡi kiếm cầm trong tay và anh là hiện thân của mọi người bằng ánh sáng anh chiếu rọi. Đối với thủy thủ tàu, Solomon trở thành con người của nhân dân, như Jésus Christ là con người của Chúa. Các thủy thủ đoàn nhìn anh ta với niềm tự hào, vì con tàu của họ có thể luồn qua những bãi cạn nguy hiểm ở vùng biển nông nhất, và tìm thấy những luồng gió yếu ớt nhất xuyên qua những vùng trời âm u. Trên tất cả, anh ấy kiên nhẫn, nói chuyện đơn giản, hài hước và không bao giờ cần phải ra lệnh hai lần.

Anh không nói rõ ràng về các chiến lược, vì bên anh có chiến lược gia tài giỏi như Marmoris. Nhưng anh lại giỏi tổ chức kết cấu ngôn từ. Cho nên dưới lời hùng biện tài tình của anh, các chiến lược hiện lên hết sức sinh động, hào hùng và "đầy yếu tố lãng mạn", đúng là văn chương ngòi bút cũng là mặt trận chiến đấu. Cả một quá trình vượt sóng thần, vượt đụng độ với cá voi xanh. Solomon chỉ nói thế quân phải "động chi vu cửu thiên chi thượng, tàng chi vu cửu địa chi hạ - giống như tảng đá từ trên núi xuống, thế quân không thể ngăn cản được huống gì"; khi tấn công phải "vô cùng như thiên địa, bất kiệt như giang hà" (sử dụng kỵ binh biến hóa vô cùng, giống như sự vận hành của trời đất, và như sông chảy mãi không có điểm ngừng) Thì ra anh làm thơ. Không có một cách giải thích duy nhất và chính xác về những ví von như đúng như không, lối so sánh không thực nhiều ảnh, rất nhiều câu tinh túy đầy màu đầy mùi, hô hào khẩu hiệu tránh buồn, không vui, kể những câu chuyện không đầu không đuôi, rất nhiều mang tính tiên tri và dự đoán mơ hồ, nên người nghe muốn hiểu và biện luận như thế nào cũng được. Đại loại là, anh em phải tin và nghe tôi, nếu anh em không tin anh em sẽ nhận kết cục đắng cay. Nói Solomon sẽ chiến đấu vì bạn? Không anh sẽ chỉ người chiến đấu cho bạn. Bạn chỉ cần đứng vững, để sự tử tế là bằng chứng cho tất cả. Chinh phục được vô số độc giả. Thế là rõ ràng, những người từng được gặp Solomon chỉ có vài người. Nhưng qua truyện truyền miệng và kể lại của nhân dân thì Solomon có cả ngàn phiên bản, viết thành sách cũng không hết được những câu nói bất hủ của anh. Qua ám thị và lây nhiễm, điều huyền diệu do một người loan truyền đã được mọi người tiếp nhận ngay. Quá trình hình thành hoang tưởng tập thể diễn ra như vậy, chúng thường xảy ra trong lịch sử và dường như có đủ những đặc điểm được công nhận của tính xác thực, vì ai cũng nói: "Chính tôi đã thấy vậy", hàng nghìn người chứng kiến, không rõ hoặc chính bạn tôi đã thấy vậy, đủ tin chưa? Nếu có người nói Solomon và The Ark đã ngăn được sóng thần. Đám đông tin ngay, nên ta không nên viện đến năng lực trí tuệ của đám đông. Năng lực đó không quan trọng.

Mọi người thích có người chỉ huy, có nơi để niềm tin hướng đến và mọi người cũng rất thích những câu chuyện thần thoại, những lời cổ động, động viên, khích lệ, răn đe, trừng phạt mơ hồ đó. Bởi một lý do đơn giản, ai cũng có ham muốn được làm người thông minh. Tôi hiểu được những thứ mơ hồ ấy, chứng tỏ tôi thông minh hơn bạn! Nghe có vẻ ngược đời, nhưng những sự kiện đáng nghi ngờ nhất, mang màu sắc thần thánh nhất thì chính là những sự kiện có nhiều người chứng kiến nhất. Thứ nói với bạn rằng bạn chính là ai, thứ giúp bạn đặt được câu hỏi về sự tồn tại của bản thân, kiếp sống, vĩnh cửu. Nhưng thứ đó lại không phải chính bản thân bạn. Là một ngộ nhận sai lầm. Sự thật trong cuộc sống, con người đến được bằng vô số ngã rẽ trên hàng trăm nút điểm thông tin. Thông tin lại có vô vàn thật giả. Sự am hiểu là kết nối vạch đường được cho những thông tin ấy. Nhưng bạn đã đến đích hay chưa? Chưa. Con đường ấy chẳng phải dễ dàng như con đường vàng được vạch sẵn ở xứ Oz. bạn phải trải nghiệm, phải nghĩ suy, phải cảm nhận bằng cả trái tim và bộ óc mới có thể đạt được tới sự thật là nút điểm cuối cùng của một vấn đề. Nhưng ai trong chúng ta cũng phải tin, phải biết xây dựng niềm tin mạnh mẽ, nắm lấy niềm tin ấy. Ở bất cứ thứ gì có thế? Con người bạn. Nếu con người bạn không đủ niềm tin để cứu rỗi chính bạn thì đó là tương lai, là thánh thần song hành với tư tưởng của bạn. 

Thực ra rốt cuộc Solomon lợi hại hay trí tưởng tượng của bạn mới lợi hại? Trên thị trường, la liệt cả trăm loại sách lấy đề tài về cuộc đời của Solomon, chủ yếu gồm: buôn bán, đàm phán, cuộc đời, mưu lược, bán hàng, quản trị, đầu tư, cổ phiếu, nhà đất, giao tiếp xã hội, tình yêu, con cái...Những vấn đề mà đến Solomon còn chưa rõ, chưa sâu. Nhưng mọi người thần tượng anh, họ nghĩ là đọc một cuốn sách về cuộc đời anh sẽ tiếp thêm động lực để họ thành công trong cuộc đời. Những mỗi người có một cuộc đời với số phận riêng biệt, vĩ nhân cũng không ngoại lệ. Ta không thể sao chép thành công của một người và biến nó thành của mình. Đó là quy luật bất biến. Nhưng đã sao, Solomon tỏa nhiều nhiệt lượng, anh cho nhiều ánh sáng, người ta tin yêu, kính trọng anh là chuyện thường tình. Vậy là chúng ta được chứng kiến huyền thoại về một vị anh hùng mà được hư cấu nhiều nhất lịch sử chỉ trong vòng chưa đầy hai mươi năm.

Từ trên đây ta rút ra một điều rõ ràng rằng các tác phẩm lịch sử nên được xem là hư cấu thuần túy. Những câu chuyện được thêu dệt, lòng ái mộ cuồng nhiệt từ đám đông, những hô hào khẩu hiệu coi một con người là thật cao thượng, thật cao quý, những khổng lồ hóa chiến công, coi con người là vị thánh mà bỏ qua lỗi lầm hay chính con người thực của họ. Với đám đông, lỗi lầm mà ngời sáng, thì là thánh cũng sẽ được chấp nhận. Vị thánh cũng như báu vật của con tim mà bọn họ từng có, đồng thời cũng là những giấc mơ tươi sáng rạng ngời. Nếu như Solomon có thể thanh minh, anh sẽ nói: "Dừng lại đi, lũ ngốc! Đừng có tung hô lên như thế." Được thần tượng thế này cũng không tồi chứ nhỉ? Là một sự hiểu lầm nho nhỏ hơi bị ngọt ngào. Thành thần thánh thì ngoại lệ, thành người chính trực là quy tắc. Lầm lạc, sa ngã, phạm tội cũng được, nhưng phải là người chính trực. Càng ít tội lỗi càng tốt, đó là luật của người. Không tội lỗi nào cả, đó là mơ ước của thiên thần. Đã thuộc trái đất thì thoát sao khỏi tội lỗi. Tội lỗi cũng như luật hấp dẫn, chi phối mọi người. Vĩ nhân cũng có lỗi lầm mà thôi. Chỉ có Chúa mới có thể nói từ "hoàn hảo".

Kèm theo những lời gải thích được thêm thắt, nào nhặn bởi hàng nghìn người. Một nhân vật thường để lại cho lịch sử, hiện tại và tương lai chúng ta các tác phẩm đi vào văn học nhiều hơn chiến công của họ, nghệ thuật, những công trình tưởng niệm. Nếu không có đám đông quần chúng thích nghe ca kịch kể truyện từ thời Hy Lạp cổ đại, thì chắc chúng ta chẳng biết gì về "quá khứ" không được kiểm chứng này. Và thể là chúng ta lại có một thiên sử thi thơ ca như Gilgamesh. Chúng ta lại có những trận đại hồng thủy chưa diễn ra nhưng sắp diễn ra. Nhưng liệu chúng ta có biết rõ dù chỉ là một câu sự thật về cuộc đời những vĩ nhân đóng vai trò quan trọng trong lịch sử loài người, như Hercules, Đức Phật, Chúa Jesus hay đấng tiên tri Mohamet hay không? Rất có thể là không. Xét cho cùng, cuộc sống thật của họ không quan trọng với chúng ta. Chúng ta chỉ quan tâm đến những truyền thuyết mà dân gian, rất nhiều con người đã cùng tạo ra. Chỉ những anh hùng trong truyền thuyết chứ không phải những anh hùng trong đời thật mới khiến đám đông xúc động. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro