Bích hải tanh thiên

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHI LỘ

Hàn Sơn Tự

Đêm ngày mùng bốn tháng tám.

Vầng trăng thượng huyền ở chếch phía trên cao, tỏa ánh sáng bàng bạc xuống cây cầu nhỏ dẫn vào Hàn Sơn Tự. Cây cầu này có tên là Giang Thôn Kiều bởi nó bắc ngang qua con kênh nhỏ, nối liền giữa xóm Giang Thôn và ngôi chùa. Hai bên bờ lao xao liễu rủ, đẫm mình trong ánh trăng sáng của tiết trời thu. Tất cả khung cảnh này hòa với nét nghiêm sơ cổ kính của ngôi chùa trên vách núi tạo nên một dư vị phảng phất ý thiền. Chẳng thế mà các tao nhân mặc khách trước giờ khi đến Tô Châu vãn cảnh đều nhất định phải ghé qua thăm ngôi chùa Hàn Sơn này, và đến rồi thì nhất định sẽ đề bút viết mấy dòng mới thỏa cái lòng phong nguyệt bấy lâu.

Lại như cổ nhân thường nói "thượng hữu thiên đàng, hạ hữu Tô Hàng", có phần hơi mang chút thiên vị thường thấy của nhân sinh, nhưng quả thực phong cảnh của một đêm thu như thế này, người ta cũng sẽ không khỏi có chút cảm giác thoát tục.

Lúc này đêm đã gần vào canh hai, trời khuya khuắt vắng lặng, giai nhân tài tử đi vãn cảnh chùa đã về hết, chỉ còn dòng nước nhỏ lấp lánh ánh trăng là vẫn từ từ trôi. Nhưng trên cầu vẫn còn bóng dáng một nam nhân đứng chắp tay sau lưng yên lặng ngắm trăng.

Người này niên kỷ trạc ngoại tam tuần, bên ngoài khoác một tấm áo màu xanh nhạt, phục trang không hoa mỹ nhưng lộ nét cao quý, không cầu kỳ nhưng đầy vẻ tinh xảo. Khuôn mặt y không mấy tuấn tú nhưng rất có thần thái, đôi gò má xương xương, nhìn như đã trải qua nhiều sóng gió, chỉ có đôi mắt lấp loáng thần quang ẩn sau mấy sợi tóc lòa xòa trước mặt.

Hai tay y đưa ra tựa nhẹ vào thành cầu, đầu ngẩng lên về phía vầng trăng, nét mặt đầy ưu tư, khẽ cất giọng ngâm:

Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung,(1) Bán tựa ngân câu bán tựa cung

(Mùng ba, mùng bốn, ánh trăng còn mông lung mờ ảo

Một nửa nhìn như ngân câu, một nửa nhìn như cây cung)

Ngâm xong hai câu thơ, thanh y nhân bỗng nhấc cánh tay phải, phách một tiếng vạt áo đã chém nhẹ vào không trung. Một chưởng của y hờ hững đánh ra vô tình vô ý, tưởng như thuận tay mà phẩy ra, nhưng một phần mặt nước dưới con kênh như bị một lưỡi kiếm chém ngang, rẽ thành hai nửa, nét chém vô cùng sắc bén. Tuy nhiên ngoài phần nước bị chém thì toàn bộ nước xung quanh không hề xao động.

Từ phía chân cầu bỗng có tiếng người ngâm khẽ:

Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn, (1) Bán trầm thủy để, bán huyền không

(Một mảnh hồ ngọc bị phân làm hai

Một nữa chìm xuống đáy nước, một nửa ở trên không trung).

Rồi một nhà sư chậm rãi bước ra khỏi rặng liễu. Tăng nhân này mặc một bộ áo nâu đã bạc màu, nét mặt hiền hòa từ ái, từ từ bước về phía thanh y nhân.

Người kia vội quay lại, rồi chắp tay chào:

- Trí Hiền đại sư, vãn bối thất lễ.

Trí Hiền đại sư mỉm cười đáp lễ:

- Lưu thí chủ, đêm đã khuya sao còn có nhã hứng đứng đây? Ngài đứng ngắm cảnh nhưng nét mặt đầy ưu tư, chẳng phải đã uổng cái cảnh đẹp của đất trời hay sao?

Người áo xanh có tên là Lưu Đan, lúc này cũng nở nụ cười nhẹ trên môi rồi đáp:

- Trí Hiền đại sư, người như đại sư đã không còn ở trong cái lụy hồng trần, nay chẳng còn chi vướng bận nên mới thanh thản mà hưởng thụ vẻ đẹp tạo hóa. Còn như vãn bối, sống rày đây mai đó, còn hàng trăm cái hệ lụy, chẳng biết đến khi nào mới được thư thái.

Trí Hiền đại sư mỉm cười hiền từ:

- Thí chủ đã quá lời, xưa kia đức Phật trước khi ngộ đạo cũng là con người mà thôi, mới hay Phật tánh ở ngay trong mỗi chúng ta vậy. Chỉ cần thí chủ có lòng hướng đạo thì Phật môn lúc nào cũng mở rộng.

Trí Hiền đại sư ngừng một lúc rồi nói tiếp:

- Nhưng cũng khó trách. Một chưởng thí chủ đánh ra lúc nãy, trong phần cương liệt của kẻ võ phu lại có nét nhu thuận của bậc học giả, dùng lực của mình chỉ có ba phần mà mượn lực của nước đến bảy phần, xét về võ học đã gọi là đăng phong tạo cực rồi.

Lưu Đan nghe xong khuôn mặt không khỏi lộ vẻ ngưỡng mộ. Hai tay vỗ nhẹ ý khâm phục rồi nói:

- Trí Hiền đại sư quá khen, một chút công phu nhỏ mọn chẳng đáng cười chê. Xem ra người tuy nương thân cửa thiền môn nhưng kiến thức về võ học vẫn chẳng tuyệt chẳng thua kém những kẻ lịch duyệt giang hồ.

Trí Hiền đại sư nói:

- Lưu thí chủ, đã mười năm nay, năm nào ngài cũng đến Hàn Sơn tự này ở một tháng, bần tăng với ngài cũng gọi là chỗ tâm giao, chẳng hay ngài có muốn nghe lão già này nói đôi lời không?

Lưu Đan vòng hai tay rồi đáp:

- Vãn bối kính cẩn nghe lời dạy của đại sư

Trí Hiền đại sư nói:

- Cái hẹn mười năm của ngài bây giờ cũng chỉ vài ngày nữa là đến. Người mất thì đã mất rồi, oan gia nên giải không nên kết, thiên hạ hiện nay chia năm xẻ bảy, thực là rất cần những người như ngài. Lưu thí chủ không tiếc sinh mạng thì cũng nên nghĩ cho đồng đạo võ lâm, hơn nữa, chuyện đã quá mười năm...

Lưu Đan đưa tay lên bắt mấy chiếc lá vừa bị gió thổi qua. Y thở dài:

- Trí Hiền đại sư, người như vãn bối sống trên giang hồ nào khác gì chiếc lá này, chẳng thể tự làm chủ được. Vãn bối đã chán ghét võ học, quả thật lòng chỉ muốn quy ẩn giang hồ, cùng đại sư hàng ngày đánh cờ thưởng trà, nghiên cứu Phật pháp. Thế nhưng giáo huấn của tổ tiên khó phản lại được, mối nợ giữa hai dòng họ Lưu - Khúc quả thật đã đến lúc phải giải quyết một lần cho xong.

Trí Hiền đại sư lắc nhẹ đầu:

- Thiện tai, thiện tai...

Lưu Đan bỗng vụt tiếng cười lớn:

- Ha ha, "minh nguyệt kỷ thời hữu, bả tửu vấn thanh thiên" (1) , đại sư, nói mấy chuyện đó làm gì chứ. Cảnh đêm đẹp như vậy không nên để những thứ giang hồ đó làm ảnh hưởng đến nhã hứng.

Trí Hiền đại sư cũng cười:

- Lưu thí chủ nói phải. Thật khéo bần tăng mới hái được một ít trà ngon ở sau núi, lại sẵn tiện đêm nay chúng ta đều không ngủ, xin được chiêm ngưỡng kỳ pháp của Lưu thí chủ. Hãy để bần tăng đi lấy trà rồi xin gặp Lưu thí chủ ở thư phòng.

Lưu Đan cúi người:

- Vậy thì cung kính không bằng tuân mệnh. Vãn bối xin đi trước một bước.

Nói rồi tả thủ ném nhẹ qua thành cầu mấy chiếc lá vẫn cầm trong tay từ nãy, người cất lên cao, chân điểm nhẹ liên tiếp lên hai ba chiếc lá, thân hình phiêu hốt như sương, mấy chiếc lá chưa chạm mặt nước bóng người đã mất hút sau rặng liễu. Đây là một chiêu trong môn khinh công tuyệt học của Lưu gia có tên là "Lý Sương Kiên Băng Chí" (đạp lên sương thì biết băng dày), vốn lấy nhu làm chủ, dựa theo sự biến hóa của quẻ chí nhu trong Kinh Dịch là quẻ thuần Khôn mà sáng tạo ra.

Trí Hiền đại sư lắc đầu cười nhẹ rồi tăng bào cũng phấp phới bay vút vào đêm tối.

Hai người đi khỏi rồi dưới mặt hồ bỗng có hai cột nước bắn vụt lên, mấy con cá bắn lên cầu giãy đành đạch. Thì ra một chưởng của Lưu Đan đánh xuống mặt hồ lúc nãy đã tàng chứa dư kình trong nước cả nửa canh giờ, nay mới phát lực thật sự.

Trên trời ánh trăng vẫn nhè nhẹ tỏa ánh vàng xuống cây cầu nhỏ, mấy chiếc lá cũng từ từ rơi xuống mặt nước, gió vẫn thổi, con kinh dưới chân cầu lại trở nên yên lặng như xưa...

oOo

Chú thích:

(1) Tương truyền đây là 4 câu trong bài Vọng Sơ Nguyệt của trụ trì chùa Hàn Sơn thuở trước. Hai câu đầu do trụ trì sáng tác, hai câu sau do chú tiểu bưng trà theo hầu ứng khẩu mà thành.

(2). Trăng sáng đã được bao thời? Nâng chén rượu hỏi trời xanh - Thủy Điệu Ca Đầu - Tô Đông Pha BÍCH HẢI THANH THIÊN - TIỀN TRUYỆN CHƯƠNG 1: TỬ TRƯỜNG LÂU (Phần 1) Tác giả: Nguyên Vân Nguyồn: http://blog.360.yahoo.com/blog-c8pjx...yA-?cq=1&p=111

Tô Châu.

Ngày mùng mười tháng tám.

Người Trung Nguyên vẫn thường truyền tụng nhau rằng :"Sinh tại Tô Châu, trú tại Hàng Châu, thực tại Quảng Châu, tử tại Liễu Châu" (1), ấy là để ca ngợi cái thần sắc của mỗi vùng, cũng là để cho thấy cái thú ăn chơi thật lắm công phu.

Nói "sinh tại Tô Châu" để trỏ rằng đất Tô Châu nổi tiếng về mỹ nữ, nam tử hán ở Trung Nguyên chỉ mong một lần trong đời được hưởng chút thú ôn nhu từ Tô nữ mà thôi. Tô Châu nổi tiếng như vậy cũng nhờ một phần lịch sử của mảnh đất này. Xưa kia Thái Bá rồi Hạp Lư đến Ngô thành khai khẩn đất đai, phát triển quốc gia, rồi lại nhờ Tôn Vũ mà xưng bá Trung Nguyên. Đến khi Việt vương Câu Tiễn dâng Tây Thi mà đánh bại Phù Sai thì sắc đẹp của Tây Thi cũng từ đó mà được lưu danh sử sách và đất Tô Châu này nghiễm nhiên danh trấn thiên hạ về mỹ nhân.

Đó là chuyện của mấy trăm năm về trước. Nay nhắc đến Tô Châu hào khách giang hồ không thể không biết Tử Trường lâu.

Tử Trường lâu không phải ngôi lầu lớn nhất Tô Châu, càng không phải ngôi lầu chứa nhiều mỹ nhân nhất, nhưng chắc chắn rằng nó là cái nổi danh nhất tại đây. Ngôi lầu này được dựng lên cách đây một trăm mười bốn năm, chủ nhân đầu tiên của nó họ Kim, tên là Nguyên Đống.

Sinh thời Kim lão tuy không phải là một đại cao thủ nhưng lại là một học giả danh tiếng trên giang hồ. Nhân sĩ võ lâm truyền tụng rằng từ công phu quyền cước, minh thương ám tiễn cho đến nội công tâm pháp của thiên hạ đại phái, lão không gì không thấu hiểu, không gì không tinh tường.

Nguyên do Kim lão tuy si mê võ học đến điên cuồng nhưng trời già thường chẳng chiều lòng người, lão sinh ra không có căn cơ, gân cốt hai chân lại mắc nan y trở nên vô cùng yếu ớt từ nhỏ nên chẳng thể luyện được công phu thượng thừa. Lão ôm mối hận thổ huyết mà sinh hùng tâm, dồn sức cả đời nghiên cứu võ học các nhà, trở thành một đại học giả, từ bắc chí nam không ai là không biết tiếng.

Năm ba mươi tám tuổi, Kim Nguyên Đống dựng lên Kim gia tửu quán để tiếp đãi những bằng hữu trên giang hồ, và nó trở thành nơi tụ hội của nhân sĩ võ lâm mỗi khi ghé qua Tô Châu. Lão lại đem hết sở học cùng với kiến thức lịch duyệt mà đem viết thành sách, bình phẩm sở trường sở đoản của các đại môn phái lớn nhỏ trên thiên hạ. Con cháu dòng họ Kim kế thừa cái tinh hoa học vấn của lão, các đời sau đều mang trọng trách là phải hoàn thiện bộ sách mang cả tâm huyết của Kim gia này.

Trải qua ba đời, đến đời thứ tư của dòng họ Kim thì có một nhân vật kỳ tài xuất hiện, tên là Kim Khang Biện. Người này tài cao bắc đẩu, kiến thức võ học có thể gọi là quán tuyệt thiên hạ. Kim Khang Biện quyết định mở rộng quy mô của Kim gia tửu quán đồng thời đổi tên thành Tử Trường lâu. Ngoài miệng tuy nói là vì lòng hâm mộ khí chất của Tư Mã Tử Trường (2) đời Hán mà lấy tên đó nhưng người ta ai cũng ngầm hiểu có ý so sánh Kim Nguyên Đống với Tư Mã Thiên, cùng ôm một mối hận mà viết nên bộ sách vang danh thiên hạ, lưu truyền thiên thu.

Nếu như Kim Nguyên Đống là khai quốc công thần của Tử Trường lâu thì Kim Khang Biện chính là người đã đưa nó trở thành một trong bốn thế lực lớn nhất trên giang hồ, tề danh với Lưu gia trang ở Quảng Châu, Khúc gia trang ở Liễu Châu và Thính Vũ lâu của Tần gia ở Hàng Châu.

Năm Kim Khang Biện ba mươi ba tuổi đã hoàn thành bộ sách thâu tóm tinh yếu của võ học các môn các phái trên thiên hạ. Bộ sách đó lão tự phụ gọi là Thông Thiên giám, hàm ý là thấu hiểu tất cả mọi chuyện trên trời dưới đất. Bộ sách này tuy không chứa đựng tâm pháp võ công nhưng có thể coi như bách khoa thư về võ học các nhà, đã hành tẩu trên giang hồ nếu chưa từng đọc qua Thông Thiên giám, thật chẳng khác gì ếch ngồi đáy giếng vậy. Người ta bảo "bất tòng Thông thư, đích thị hoa ngôn", tuy có hơi quá lời nhưng cũng đủ thấy giá trị của bộ sách đó đối với nhân sĩ võ lâm.

Năm Kim Khang Biện bốn mươi mốt tuổi thì đột nhiên biến mất khỏi giang hồ mà không ai rõ nguyên nhân tại sao, từ đó đến nay chưa một ai gặp lại lão mà người trong Kim gia càng tuyệt đối không hé nửa lời ra ngoài. Người con là Kim Khổng Mậu lên làm chủ Tử Trường lâu, cũng tiếp nối truyền thống dụng văn thay võ, không hề làm mất đi bản sắc từ xưa.

Kim Khổng Mậu nạp thất năm hai mươi tám tuổi, đến nay chỉ có duy nhất một người con gái tên là Kim Tĩnh Thư, nhan sắc vẹn toàn, toàn thành Tô Châu không ai là không biết tiếng. Kim Tĩnh Thư sinh ra đã thông minh hơn người, năm mười ba tuổi đã thuộc làu tứ thư ngũ kinh, năm mười bốn tuổi bắt đầu nghiên cứu võ học, đến năm mười tám tuổi đã thấu triệt võ học các nhà từ trong sách vở cha ông để lại. Sau đó do không bằng lòng với kiến thức cũ, đã tự mình khai phá đường lối mới, đi khắp nơi thu thập tư liệu về sở trường các môn các phái, đến năm nay hai mươi tuổi đã được xưng danh Tài Nữ, đó là do nàng không chỉ có nhan sắc hơn người mà kiến thức cũng tuyệt đối không thua kém ai.

Hiềm một nỗi, võ học thì bao la như biển, lại biến ảo đa đoan, mà một bộ sách thì bất biến. Thế nên cứ năm năm một lần, đúng vào dịp Tiết Trung Thu, Tử Trường lâu lại tổ chức Võ Học Thông Biện hội, quy tụ anh hùng hào kiệt bốn phương về tham dự với mục đích thu thập những kiến thức mới về võ học để hoàn thiện hơn bộ Thông Thiên giám đó.

Năm nay là năm Vĩnh Lạc thứ mười tám, khéo sao lại đúng vào năm Võ Học Thông Biện Hội được tổ chức. Còn năm ngày nữa mới đến đại hội nhưng nhân sĩ võ lâm đã tề tựu rất đông đúc ở đại sảnh của Tử Trường lâu uống rượu bàn tàn xôn xao. Chốc lại ta một chén ngươi một ly quả thực vô cùng nhộn nhịp.

Đại quản gia của Tử Trường lâu tên là Kim Nhân Đại, thuộc người trong Kim tộc, gọi Kim Khổng Mậu là biểu ca. Lão lúc này đang chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong đại sảnh đường, vừa để giám sát công việc, vừa để chào hỏi tân khách. Kim Nhân Đạt dáng người thấp đậm, đôi mắt lão hơi nhỏ nhưng có thần, bộ ria trên mép được cắt tỉa rất công phu, sau lưng lão có một tiểu đồng đi theo cầm cây quạt ba tiêu phe phẩy, thật là có uy vũ lắm.

Trong Tử Trường lâu thì Kim Nhân Đại dưới một người mà trên vạn người nên oai danh của lão quả thực không nhỏ. Lão đi được vài bước lại phải đứng lại đón rượu mời một lần. Lúc này, một nam tử hán đang đứng giữa sảnh đường, nâng cốc rượu nói to:

- Tử Trường lâu từ xưa đã là trụ cột của võ lâm, nay lại được Kim Khổng Mậu lâu chủ trí tuệ có thể gọi là quán tuyệt thiên hạ, quả thật là phúc cho giang hồ đồng đạo. Tại hạ là Thượng Quan Nhất Đao, đến từ phái Thái Sơn, xin nâng cốc kính lão lâu chủ người một ly.

Nói rồi tự mình uống cạn. Người này chỉ khoảng ngoài ba mươi tuổi nhưng nội công rất thâm hậu, âm thanh váng cả sảnh đường. Quần hùng chung quanh nghe thế cũng hưởng ứng nâng ly rượu lên uống. Nam tử kia vừa ngồi xuống lại thấy một trung niên nữ tử đứng dậy cầm ly nói:

- Thông Thiên giám ra đời quả thật là võ lâm chi bảo. Kim thế gia lại khoáng đạt hơn người không hề giữ vật làm của riêng, đưa sách cho cả thiên hạ, thật là một tấm lòng trên vạn tấm lòng vậy. Tôn thị tôi xin được dâng trà thay rượu, kính Kim lâu chủ một chén.

Rồi cũng nâng ly lên uống hết.

Lời của Tôn thị tuy có chút tâng bốc nhưng không phải là không có phần đúng. Giang hồ kính ngưỡng Tử Trường lâu vì sự ưu việt của Thông Thiên giám là một chuyện, nhưng sự phóng khoáng rộng rãi của Kim gia phổ biến Thông Thiên giám cho cả võ lâm mới là lý do chính khiến cho danh tiếng của Kim gia càng thêm lẫy lừng.

Kim Nhân Đại khẽ nhăn mặt, nghĩ thầm:

- Hừ, mấy gã này thì chỉ giỏi cái môn công phu vỗ mông ngựa, ngoài cái tên Thượng Quan Nhất Đao kia có chút vai vế còn thì rặt một lũ giang hồ lưu manh. Kim lâu chủ còn chưa thấy mặt đã ta một chén người một chén, thật không biết thẹn. Chỉ vì lâu chủ khẳng khái sẵn sàng tiếp đón tất cả, chứ vào tay ta thì lũ người này đừng hòng được bước chân vào đại sảnh đường.

Kim Nhân Đại ngày thường tự cao tự đại. Lão xưa nay chỉ quen tiếp đón những tiền bối đức cao vọng trọng trên giang hồ nên đâu có để đám người này vào mắt. Lão lại nhíu mày băn khoăn:

- Lạ thật, thiệp mời đã gửi đến đủ cả tam đại thế gia là Lưu, Khúc, Tần cách đây cả tháng trời. Sao đến giờ vẫn chưa thấy họ tới? Không biết tên Tiểu Vĩnh đi đưa thiếp có làm tròn nhiệm vụ không đây.

Rồi lão lại tự trả lời:

- Chắc những kẻ đó tâm cao khí ngạo, không thèm đến sớm để phải hòa mình với đám tiểu tốt này. Phải rồi, là lão phu chắc cũng không tới sớm như vậy.

Kim Nhân Đại lắc đầu mấy bận, nhìn lướt qua đại sảnh một loạt không thấy có ai đáng để ý, lão từ từ xoay người chuẩn bị bước vào nhà trong.

Đúng lúc đó, có một nhân vật bước vào làm lão phải dừng lại nhìn.

Người đó là một lão già lưng đã còng, râu tóc bạc phơ, đang chân thấp chân cao đi vào sảnh đường. Tay phải lão chống một cây gậy dài quá đầu, trên đó treo một mảnh vải đã cũ mèm, ghi bốn chữ: "Thông Thần Thấu Quỷ". Tay trái lão cầm một cái bát bên trong để mấy đồng xu kêu loảng xoảng mỗi bước lão đi. Theo sau là một cô gái còn rất trẻ, khoảng mười lăm mười sáu tuổi mặt mũi xinh xắn, lại có nét tinh anh nghịch ngợm, khiến cho người ta nhìn vào là cảm mến.

Hai người một già một trẻ từ từ đi vào đại sảnh đường, cô gái miệng hô to:

- Xem vận mệnh thiên hạ đây! Một quẻ xem trọn việc thiên hạ, từ thần tiên đến ma quỷ đây!

Giọng cô lảnh lót vui tai, nghe lại rất vang khiến cho giới nhân sĩ tại sảnh đường đang nhộn nhịp câu chuyện mà đều phải ngoái lại nhìn.

Kim Nhân Đại nhăn mày khó chịu. Đám tiểu tốt giang hồ đã khiến lão không thoải mái, nay lại thêm hai kẻ bần cùng khố rách áo ôm này thất thểu đi vào thì bảo làm sao lão chịu được. Kim Nhân Đại đang định bước ra đuổi thì bỗng một nam nhân lớn tiếng hô:

- Tiểu cô nương, nếu cô nương xem quẻ thì ta xem, còn nếu là ông già kia thì xin kiếu.

Mọi người trong sảnh đường nghe thế thì cười rần rần, biết rằng gã này chỉ mượn cớ để trêu hoa ghẹo nguyệt một chút. Người nam nhân vừa nói câu đó chính là Thượng Quan Nhất Đao của phái Thái Sơn, khi nãy vừa mời rượu Kim lâu chủ.

Cô gái không hề lúng túng, môi vẫn nở nụ cười ngọt ngào, khẽ nghiêng mình đáp lại:

- Đại gia, tiểu nữ chẳng qua chỉ là người đi theo bưng trà rót nước, công phu chẳng đáng là bao. Người tinh thông thiên địa thực sự là gia gia của tiểu nữ kìa, nếu đại gia không chê tiểu nữ sẽ nhờ gia gia xem cho ngài một quẻ.

Thượng Quan Nhất Đao cười lớn:

- Cô nương còn trẻ mà mồm miệng thật là nhanh nhẹn. Nếu gia gia của cô xem đúng thì đương nhiên sẽ có thưởng, vậy nếu xem sai thì sao?

Giọng điệu của Thượng Quan Nhất Đao đầy vẻ lơi lả nhưng cô gái vẫn không hề nao núng, nhíu mày một lát rồi đáp:

- Gia gia của tiểu nữ trước giờ xem quẻ chưa bao giờ sai trật, nhưng đại gia có ý nghi ngờ thì cũng phải. Hay là thế này, gia gia tiểu nữ sẽ đoán thử vài điều, nếu ngài thấy vừa ý thì gia gia tiểu nữ mới đoán vận mệnh cho ngài, như vậy có được không?

Lời của cô gái nghe rất có lý, rõ ràng là nhường hết phần tiện nghi cho Thượng Quan Nhất Đao, lại thêm giọng nói ngọt ngào mười phần nhu ý thật là khó có thể từ chối. Bản thân Thượng Quan Nhất Đao vốn chỉ muốn trêu hoa ghẹo nguyệt chứ nào có ý muốn xem bói toán, nhưng nay cô gái nói như vậy mà y lại mượn cớ thoái thác thì thật không xứng mặt nam nhi. Lại thêm quần hùng xung quanh mấy trăm cặp mắt đang trông vào, nếu không giữ chút thể diện nam tử hán thì còn mặt mũi đâu mà về Thái Sơn.

Nghĩ vậy, Thượng Quan Nhất Đao liền phá lên cười ha hả, lấy từ bên thắt lưng ra một đĩnh bạc lớn đặt xuống bàn rồi nói:

- Tiểu cô nương, cô đã nói vậy thì Thượng Quan Nhất Đao ta không thể từ chối rồi. Vậy thế này đi, nếu gia gia cô đoán đúng, đĩnh bạc này sẽ thuộc về hai người, còn nếu đoán sai, chỉ cần tiểu cô nương nói cho ta biết tên và kêu ta một tiếng "hảo ca ca" vậy là được rồi.

Xét về tuổi tác Thượng Quan Nhất Đao đáng là bậc cha chú của cô gái này, thấy y nói mấy câu đó quần hùng trong sảnh đường đều nhăn mặt. Cô gái cười lên khanh khách rồi nói:

- Đại gia muốn biết tên tiểu nữ cũng không phải tổn công sức đến thế đâu, tiểu nữ họ Tôn, gia gia vẫn thường gọi tiểu nữ là Linh Nhi. Còn tiền công xem bói cũng không nhiều đến thế, chỉ ba chục đồng là được rồi.

Thượng Quan Nhất Đao khoát tay:

- Nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy, chỉ cần đoán đúng đĩnh bạc này sẽ thuộc về hai người. Nhưng chẳng hay gia gia cô sẽ xem bói cho ta như thế nào?

Dường như chỉ chờ có thế, Linh Nhi rút từ trong tay nải ra giấy bút, đặt lên bàn hướng về phía Thượng Quan Nhất Đao và nở một nụ cười rất tươi:

- Người ta thường nói chữ cũng là người. Đại gia chỉ cần tùy tâm tùy ý viết một chữ lên tờ giấy này, gia gia tiểu nữ sẽ đoán cho ngài.

Thượng Quan Nhất Đao gật đầu:

- Vậy ra Tôn lão cũng xem theo lối chiết tự, tốt lắm.

Nói rồi hạ bút viết một chữ Nhẫn (3) chính giữa tờ giấy.

Thượng Quan Nhất Đao viết chữ này xong, cảm thấy đắc ý lắm. Nguyên do là xưa nay chữ Nhẫn vốn rất phổ biến trong thư pháp, các thư pháp gia không ai không luyện viết chữ này. Cũng có rất nhiều người treo một chữ Nhẫn chính giữa thư phòng để tự rèn luyện tâm tính. Với một chữ phổ biến, ai ai cũng viết như vậy thì biết lấy gì mà đoán? Thượng Quan Nhất Đao viết chữ đó cũng có ý muốn làm khó ông cháu Linh Nhi vậy.

Tôn lão từ đầu đến cuối theo dõi câu chuyện tuyệt không nói tiếng nào, lúc này mới từ từ đi về phía Thượng Quan Nhất Đao, lão nhìn vào chữ Nhẫn một lát rồi ngẩng lên nheo nheo mắt nhìn Thượng Quan Nhất Đao. Lão cất giọng khàn khàn:

- Khụ khụ...đại gia, lão khi xem số cho người thường hay nói thẳng...khụ khụ...Lời nói có thể hơi khó nghe, ngài nếu cảm thấy miễn cưỡng có thể lấy lại đĩnh bạc kia, lão tuyệt đối không dám ca thán nửa câu.

Thượng Quan Nhất Đao hừ một tiếng:

- Lão già, ta xưa nay làm việc không thẹn với lương tâm, có gì phải sợ, lão cứ nói đi.

Tôn lão gật gù ra vẻ hài lòng rồi nói:

- Khụ khụ...chữ Nhẫn này đao trên tâm dưới, đao cương mạnh chủ là dương, tâm nhu thuận chủ là âm. Đại gia ngài là nam nhi mà chữ Nhẫn của ngài viết ra chữ Tâm át hẳn chữ Đao, âm thịnh dương suy...khụ khụ.. âm dương bất trung bất chính nên thứ lỗi cho lão nói thẳng, tâm địa của ngài không mấy lương thiện, lắm mưu nhiều kế. Chữ Tâm của ngài đang bị đao đè dưới nhưng lúc nào cũng chỉ chực trùm lên nuốt chửng chữ Đao ở trên, hẳn ngài đang ở vị trí dưới một người mà trên nhiều người nhưng ngài luôn nuôi mộng vươn lên, chỉ hận chưa hất đổ kẻ ở trên ngài xuống đất.

Thượng Quan Nhất Đao càng nghe càng tái mặt, tay chân bất giác run rẩy. Đoạn lại nghe Tôn lão nói tiếp:

- Khụ khụ...chữ Nhẫn này thuận theo tượng số trong Tiên Thiên Bát Quái (4) mà được quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp (5). Quẻ Phệ Hạp này có tượng cái miệng bị một cái que chắn ngang, ngài đang nắm giữ thiên thời địa lợi để một bước xưng vương chỉ tiếc có kẻ khó ưa chắn đường. Thoán từ Phệ Hạp viết: "Hanh, lợi dụng ngục", lão đoán chắc kẻ khó ưa đó đã bị ngài dùng mưu mà tống quách vào ngục từ lâu rồi.

Thượng Quan Nhất Đao nghe đến đây không tự chủ được đập "rầm" một tiếng, cái bàn không chịu nổi kình lực tức thì nát vụn. Thượng Quan Nhất Đao run run chỉ tay về phía lão:

- Lão...lão già chỉ toàn đặt điều nói láo..chỉ toàn nói láo...

Nói rồi thở ra hồng hộc tức tối khôn tả. Tôn lão hình như không lường được rằng Thượng Quan Nhất Đao sẽ có thái độ này, lão lùi lại phía sau vẻ sợ sệt, Linh Nhi lúc này mặt mày cũng xám ngoét đang đứng nép vào lão ở góc phòng.

oOo

Chú thích:

"Sinh tại Tô Châu, trú tại Hàng Châu, thực tại Quảng Châu, tử tại Liễu Châu" có nghĩa là "Sinh ra/sinh con tại Tô Châu, ở tại Hàng Châu, ăn tại Quảng Châu, chết tại Liễu Châu". Đây là vì Tô Châu nổi tiếng nhiều con gái đẹp, Hàng Châu nổi tiếng phong cảnh vô cùng mỹ lệ, thức ăn tại Quảng Châu nổi tiếng ngon nhất Trung Quốc, và gỗ tại Liễu Châu thì vô cùng tốt (để đóng quan tài). Tư Mã Tử Trường tức Tư Mã Thiên, sử gia đời Hán Vũ Đế. Ông vì bênh vực Lý Lăng trong trận chiến với quân Hung Nô nên phải chịu nhục cung hình (thiến). Tư Mã Thiên ôm mối hận đó mà viết thành bộ Sử Ký Tư Mã Thiên, được xem như bộ chính sử đầu tiên của Trung Quốc. Chữ Nhẫn trong kiên nhẫn, có chữ Đao ở trên, chữ Tâm ở dưới. Tiên Thiên Bát Quái tương truyền do vua Phục Hy, nhờ nghiên cứu thiên văn địa lý, sáng tạo ra một vạch liền (Dương) một vạch đứt (Âm), rồi chồng hai vạch đó lên nhau mà thành. Tiên Thiên Bát Quái này gồm tám quẻ đơn của Kinh Dịch là Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn, xếp theo một hình bát giác để biểu hiện vận động của vũ trụ. Trong đó, Càn ở phía Nam là Trời (Càn vi Thiên), Đoài ở Đông Nam là sông hồ (Đoài vi Trạch), Ly ở Đông là lửa (Ly vi Hỏa), Chấn ở Đông Bắc là sấm sét (Chấn vi Lôi), Tốn ở Tây Nam là gió (Tốn vi Phong), Khảm ở Tây là nước (Khảm vi Thủy), Cấn ở Tây Bắc là núi (Cấn vi Sơn), Khôn ở phía Bắc là đất (Khôn vi Địa). Từ Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái, chồng 8 quẻ đơn lên nhau được 64 quẻ kép của Kinh Dịch, chuyên dùng để bói. Quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp có Ly ở trên, Chấn ở dưới, là quẻ thứ 21, chủ về hình ngục. Thoán từ tức là lời đoán của quẻ đó, do Văn Vương đời Chu viết khi bị Trụ vương giam trong ngục Dữu Lý.

----- Bài viết này được anhdendem thêm vào sau 11 phút và 27 giây -----

BÍCH HẢI THANH THIÊN - TIỀN TRUYỆN CHƯƠNG 1: TỬ TRƯỜNG LÂU (Phần 2) Tác giả: Nguyên Vân Nguyồn: http://blog.360.yahoo.com/blog-c8pjx...yA-?cq=1&p=111

Chương 1 - Phần 2

Quần hùng trong sảnh đường thảy đều giật mình trước phản ứng của Thượng Quan Nhất Đao, nhưng qua thái độ đó thì lờ mờ đoán ra lão già đã nói phải điều gì đó cấm kỵ của y.

Nguyên do Thượng Quan Nhất Đao vốn là nhị đệ tử của Thương Tùng đạo nhân chưởng môn phái Thái Sơn. Y là người có thiên khiếu võ học lại mưu kế đa đoan nên từ lâu vẫn luôn nhòm ngó chức vị chưởng môn đầy danh giá kia. Hiềm một nỗi trên y vẫn còn đại đệ tử Thường Viễn một thân bản lãnh, lại nhập môn từ nhỏ nên được sư phụ thương yêu như con. Thượng Quan Nhất Đao lòng dạ nham hiểu, bảy năm trước đã bày gian kế hãm hại Thường Viễn khiến y một đi không trở lại. Thường Viễn biến mất đã làm xôn xao cả phái Thái Sơn một thời, Thương Tùng đạo nhân vì thương tiếc người học trò yêu mà đau lòng sinh bệnh, công việc trong môn phái tất cả đều rơi vào tay Thượng Quan Nhất Đao cả. Y lại tự lập ra cái danh hiệu Phó Chưởng Môn nhưng chính thực là tiếm ngôi đọat quyền. Cũng chính vì thế mà lần Võ Học Thông Biện Hội này do Thượng Quan Nhất Đao với danh nghĩa phó chưởng môn, thống lĩnh đệ tử Thái Sơn xuống phó hội. Nay lão già xem bói chỉ vào một chữ Nhẫn đã nói toạc điều mà y cất công giấu diếm bấy lâu bảo sao y không vừa nổi giận xung thiên vừa sợ hãi đến toát mồ hôi ra được.

Lúc này hai ông cháu Linh Nhi nhìn thấy Thượng Quan Nhất Đao mặt mày đỏ rực, răng nghiến ken két thì sợ hãi vô cùng, đĩnh bạc để trên bàn cũng không dám lấy, bụng bảo dạ sớm chuồn không thì rước họa vào thân, hai người nhân lúc Thượng Quan Nhất Đao không chú ý liền rón rén đi về phía cửa ra. Chợt một tên đệ tử trẻ trong phái Thái Sơn nhảy vọt ra quát:

- Lão già dám mạo phạm phó chưởng môn, làm sao dễ dàng đi như thế được.

Gã này dậm chân một cái đã nhảy đến chặn ngay trước cửa ra, đoạn thò tay ra túm lấy Tôn lão. Linh Nhi thấy thế hốt hoảng nhảy vào cản liền bị gã dùng tay kia gạt ra, gã này được chân truyền tâm pháp của phái Thái Sơn còn Linh Nhi chỉ là cô gái chân yếu tay mềm làm sao chống lại được liền ngã sóng xoài dưới đất.

Thượng Quan Nhất Đao thấy đệ tử bản môn làm bậy nhưng không hề ngăn cản bởi y nghĩ bản thân đường đường là phó chưởng môn, bị lão già ăn nói quàng xiên còn ra thể thống gì. Chỉ hận vì thân phận danh môn chính phái không thể cho lão kia một chưởng toi mạng, nay có tên đệ tử làm thay thật chẳng mong gì hơn, cùng lắm nhận cái tiếng quản đệ tử không nghiêm là xong.

Tôn lão bị túm chặt, mặt mũi xám ngoét, run lập cập, gã đệ tử phái Thái Sơn kia phùng mang trợn mắt, nắm đấm giơ cao tưởng sắp cho ông già một chưởng đến nơi. Đúng lúc đó thì một giọng nói vang lên:

- Dừng tay, dừng tay, người ta xem đúng sao lại đánh người!

Rồi một bóng người từ trong đám quần hào chạy vụt ra nắm lấy tay tên kia. Người này vẫn còn thiếu niên, chỉ khoảng mười bốn mười lăm tuổi, mặt mũi thanh tú, nhìn dáng vẻ thì thật đúng với từ "bạch diện thư sinh".

Gã đệ tử Thái Sơn kia trợn mắt quay sang người thiếu niên, quát:

- Ngươi là ai, chán sống hả? Cái gì mà xem đúng? Ngươi biết cái gì?

Người thiếu niên bối rối gãi đầu gãi tai, tay vẫn nhất quyết nắm chặt lấy tên kia, luống cuống đáp:

- Ta...ta...lão bá kia đoán đúng rồi mà...ngươi thả họ ra đi...

Gã đệ tử kia không nói không rằng, tay phải đẩy mạnh một chưởng về phía người thiếu niên. Gã này vốn e ngại người thiếu niên kia thâm tàng bất lộ nên cố ý vận sức, nào ngờ tay vừa đẩy ra, người kia đã bị bắn thẳng vào góc nhà, xô đổ luôn mấy cái bàn, máu mũi hộc ra. Gã đệ tử Thái Sơn cười khẩy:

- Hóa ra chỉ là thứ trói gà không chặt, vậy mà đòi làm anh hùng sao?

Người thiếu niên lúc này đang lồm cồm bò dậy trong góc nhà, hắn mặt mũi tái mét, tay run rẩy chỉ về phía gã kia, nói không ra hơi:

- Ngươi..ngươi...sao lại đánh người vô cớ....

Gã đệ tử Thái Sơn chẳng thèm quay ra nhìn, tay lại đẩy mạnh một chưởng vào Tôn lão khiến ông già ngã dúi dụi dưới sàn, kêu thảm một tiếng, hình như một cái xương sườn đã bị gãy. Người thiếu niên kia máu mồm máu mũi vẫn còn lem nhem trên mặt, thấy vậy hoảng hốt xô mấy cái bàn ra chạy lại đỡ Tôn lão dậy, Linh Nhi cũng vội chạy ra, giọng lo lắng hỏi:

- Gia gia, gia gia có làm sao không?

Quần hùng trong sảnh đường cũng lộ rõ vẻ ngạc nhiên. Lúc đầu thấy người thiếu niên cả gan xông vào ngăn cản đồ đệ phái Thái Sơn những tưởng người này một thân võ học, ai dè cũng chỉ là dân mọt sách trói gà không chặt.

Kim Nhân Đại theo dõi câu chuyện từ đầu nhưng không tiện xen vào bởi lão ngại uy danh của phái Thái Sơn. Nhưng nay thấy sự việc đã rối tung beng hết cả, gã đệ tử Thái Sơn kia lúc này dương dương tự đắc chỉ sợ lại say máu gây ra án mạng thì hỏng bét, Kim Nhân Đại vội bước ra:

- Mấy vị anh hùng phái Thái Sơn, xin ngừng tay.

Gã đệ tử kia vì thân phận trong giang hồ không cao, vốn chẳng biết Kim Nhân Đại là người nào, lại định quay sang gây sự cả với lão. Đúng lúc đó thì nghe tiếng quát của Thượng Quan Nhất Đao:

- Lục Hữu, dừng tay!

Gã Lục Hữu nghe thấy tức thì lộ vẻ sợ sệt, thu nắm đấm lại đứng yên. Lại thấy Thượng Quan Nhất Đao bước ra cung cung kính kính:

- Kim tổng quản, xin thứ lỗi tại hạ quản giáo đồ đệ không nghiêm, thật đã mạo phạm.

Kim Nhân Đại nghe thế nét mặt cũng khoan hòa hơn, vòng tay đáp lễ:

- Thượng Quan phó chưởng môn đã quá lời. Chuyện của quý phái lão không dám xen vào, nhưng mọi người ở đây đều là khách của Tử Trường lâu, nếu có xô xát thì thực sự lão không biết ăn nói thế nào với lâu chủ. Mong ngài hiểu cho.

Thượng Quan Nhất Đao gật đầu:

- Kim tổng quản nói rất phải.

Đoạn quay sang quát:

- Lục Hữu, còn chưa chịu dừng tay.

Gã Lục Hữu này ngày thường công phu vỗ mông ngựa rất cao cường, lại biết đón ý Thượng Quan Nhất Đao nên ở Thái Sơn rất được y yêu mến. Lúc nãy xông ra đánh người cũng chỉ muốn giải mối hận cho Thượng Quan Nhất Đao, nay đang hằm hằm hè hè nhìn Tôn lão và người thiếu niên thì bị quát vội lùi về phía sau một bước.

Đoạn lại thấy Thượng Quan Nhất Đao bước lên trước, giọng nói rổn rảng:

- Các vị anh hùng nhã giám. Tại hạ thật không có ý làm khó người khác, nhưng lão già họ Tôn này ăn nói quàng xiên, lừa thần gạt quỷ, gây tổn hại đến danh dự của tại hạ là chuyện nhỏ, nhưng ảnh hưởng đến uy danh mấy trăm năm của phái Thái Sơn mới là chuyện lớn. Nay tại hạ bất đắc dĩ đành phải chủ trì công đạo, bắt lão già này trước mặt mọi người phải dẹp bỏ cái bảng hiệu lừa gạt, không gây hại cho nhân gian nữa.

Nói rồi giật lấy cây gậy chống của Tôn lão, "rắc" một tiếng cây gậy đã gãy làm đôi, lại xoẹt một tiếng, tấm vải đề mấy chữ "Thông Thần Thấu Quỷ" đã bị rách vụn làm mấy mảnh.

Linh Nhi đang đỡ Tôn lão, thấy cảnh đó tức muốn thổ máu. Hai ông cháu vốn thấy nơi này tụ tập đông người, định vào trổ tài xem bói mà kiếm chút tiền, ai ngờ gặp phải kẻ ngang ngược như gã Thượng Quan Nhất Đao này, kết quả tiền không kiếm được mà cả biển hiệu cũng bị đập vỡ. Cô ức quá không biết làm sao chỉ biết ngồi tấm tức khóc.

Quần hùng trong đại sảnh đường vốn thấy rõ là Thượng Quan Nhất Đao cậy sức ép người, nhưng phần vì ngại công phu của gã, phần vì ngại gây chuyện với phái Thái Sơn nên chỉ biết lắc đầu mà không ai dám can thiệp.

Người thiếu niên lúc này đang ngồi bên cạnh Tôn lão cũng giận tím mặt, tay chỉ vào Thượng Quan Nhất Đao nói lắp bắp:

- Ngươi..ngươi là quân cường đạo..

Gã Lục Hữu đứng bên cạnh, nghe thấy mấy câu đó, quay sang tát bốp vào mặt người thiếu niên một cái, năm ngón tay liền hiện rõ lên mặt, khóe miệng rỉ máu. Lục Hữu cậy đà vung tay lên cao định đánh tiếp thì chợt thấy đau nhói, cổ tay đã bị nắm chặt không thể nào nhúc nhích được. Gã liền vung tay kia đánh mạnh về phía sau thì chỉ thấy đánh vào khoảng không, trong chớp mắt cả hai tay đều bị bẻ quặt như có gọng kìm khóa lại, đau đớn khôn tả. Lục Hữu tức thời lớn tiếng thóa mạ:

- Thằng cẩu tặc nào đánh lén ông...

Chưa nói dứt câu đã ăn ngay một cái tát tối tăm mặt mày, gã tức hộc máu lại gân cổ lên chửi tiếp: "Thằng..." nhưng chưa kịp nói dứt câu lại bị ăn thêm một cái tát như trời giáng, đau đến choáng váng. Chỉ trong giây lát Lục Hữu đã bị khóa chặt lại ăn đến hai đòn búa bổ mà chưa biết mặt mũi kẻ đó ra làm sao.

Quần hùng quay lại nhìn thì thấy người vừa khống chế Lục Hữu là một thanh niên cũng còn rất trẻ, tuổi chỉ khoảng mười bảy, lông mày lưỡi kiếm đôi mắt sắc bén rất có thần, thân hình cao lớn hơn hẳn tuổi của hắn, lưỡng quyền hơi nhô lên, rõ ràng võ nghệ khá có thành tựu. Hắn tay vẫn giữ chặt Lục Hữu, đoạn quay sang quát người thiếu niên vừa bị đánh kia:

- Văn Xương, hàng ngày không chịu nghe lời cha mà luyện võ, bây giờ đã biết mùi chưa?

Người thiếu niên tên Văn Xương tay vẫn ôm mặt nhăn nhó:

- Vân huynh, võ công có gì hay đâu, anh cũng thấy mấy tên cường đạo kia cậy võ ép người thế nào rồi đấy.

Người thanh niên kia lắc đầu:

- Lại còn cố cãi lý nữa, nếu em chịu khó luyện tập thì đâu để một tên tiểu tốt đánh cho lăn dưới đất như thế, nhìn xem còn ra cái thể thống gì không.

Văn Xương vốn tính ngang bướng, gã mặt mũi nhem nhuốc vẫn cố ngóc đầu lên cãi:

- Vân huynh, dùng võ chế người không phải bản lĩnh của kẻ quân tử.

Thượng Quan Nhất Đao thấy đệ tử bản môn bị người ta tát vào mặt mấy cái chẳng hề nể mặt phái Thái Sơn thì giận điên người, nay lại thấy hai tên trẻ tuổi chưa ráo máu đầu đứng giữa trận tiền mà cãi qua cãi lại không xem ai ra gì thì nộ khí xung thiên, y hừ nhẹ một tiếng:

- Hai vị tiểu anh hùng đây không hiểu là thần thánh phương nào đã thay ta dạy dỗ đệ tử, thật không biết phải đáp ơn ra sao.

Người thanh niên thả tên Lục Hữu đang rên rỉ dưới đất ra, vòng tay lên đáp lễ:

- Tại hạ tên Phí Vân, thật tình không dám dạy dỗ ai cả, chỉ vì đệ tử của ngài vô cớ đả thương tiểu đệ của tại hạ nên không thể không can thiệp. Cái nhiệm vụ dạy dỗ đó, e rằng phải để dành cho ngài.

Lời nói của Phí Vân đầy vẻ châm chọc, rõ ràng có ý mỉa mai Thượng Quan Nhất Đao không biết dạy đệ tử. Thượng Quan Nhất Đao nghe Phí Vân xưng tên xong thì nhíu mày, y thật không nhớ ra trên giang hồ bang phái nào có kẻ tên Phí Vân để hắn có thể ngang nhiên gây sự với người phái Thái Sơn. Đoạn y cao giọng:

- Thật hay cho câu "vô cớ đả thương", em trai ngươi rõ ràng là gây sự với người của ta trước, trên giang hồ giao tranh với nhau mà võ nghệ thấp kém thì ăn đòn là chuyện thường. Ngươi dùng thủ đoạn đánh lén người khác, cái đó mới là vô cớ đánh người.

Phí Vân lắc đầu, đoạn chỉ Lục Hữu đang lồm cồm dưới đất:

- Nói thối lắm. Chỉ vì tên này cậy sức ép người nên em tôi mới ra tay can thiệp, chưa hề động đến chéo áo của hắn thì đã bị đánh đến hộc cả máu ra, tôi không cản lại kịp thì hắn đã gây án mạng rồi. Xem ra bắt nạt người không có võ nghệ là công phu sở trường của các ngài.

Thượng Quan Nhất Đao thấy Phí Vân ăn nói vô lễ thì tím mặt lại, y nói giọng mười phần giận dữ:

- Ngươi cũng mồm mép lắm.

Đoạn chỉ vào ông cháu Tôn lão lúc này đã đứng lên đang líu ríu đứng nép vào sau một cái bàn:

- Lão già xem bói này giả thần giả quỷ, ăn nói quàng xiên xúc phạm phái Thái Sơn nên người của ta mới ra tay dạy cho lão một bài học. Thằng em của ngươi không biết đúng sai tự chuốc họa vào thân còn trách ai? Việc riêng của Thái Sơn ai mượn nó xen vào? Nói mau, sư phụ các người là ai?

Văn Xương lúc này đã đứng thẳng người lên, gã phủi phủi quần áo rồi lắc đầu:

- Là ông nội của ngươi đó.

Thượng Quan Nhất Đao nghe lời nói thì đoán là gã đang chửi mình nhưng vẫn không hiểu ý ra làm sao. Nguyên do võ công của Văn Xương và Phí Vân đều do cha dạy nên cha cũng như là sư phụ. Văn Xương nói sư phụ của mình là ông nội của Thượng Quan Nhất Đao chính là chửi y là con mình.

Linh Nhi cũng la lên hậm hực:

- Dòng họ nhà ta là truyền nhân chính tông của Quỷ Cốc toán mệnh, sao ngươi dám nói là giả thần giả quỷ? Nói cho nhà ngươi biết, gia gia của ta trước giờ xem mệnh không hề sai trật, chính ngươi cũng đồng ý là gia gia ta sẽ nói sự thật. Chắc tại xem trúng chỗ nhược của ngươi nên mới muốn sát nhân diệt khẩu đây.

Thực ra thì Thượng Quan Nhất Đao chưa hề muốn giết Tôn lão, nhưng Linh Nhi mồm năm miệng mười nào để cho y thanh minh. Thượng Quan Nhất Đao đường đường phó chưởng môn Thái Sơn, thân phận cao quý, ngày thường chỉ có y quát người khác chứ nào ai dám hé miệng trước mặt y. Ngày hôm nay trước đông đủ quần hùng Trung Nguyên, tên đệ tử thì bị người ta tát cho mấy cái không kịp đỡ, bản thân lại bị mấy đứa nhóc con mắng xơi xơi vào mặt, bảo y làm sao nuốt trôi mối hận này. Cơn giận bốc lên đến đỉnh đầu, y dậm chân nhảy vọt tới, tay phải vung lên tát thẳng vào mặt Linh Nhi.

Chỉ thấy một bóng áo xanh thấp thoáng, Phí Vân đã lướt đến từ lúc nào, tay trái đỡ lấy chưởng của Thượng Quan Nhất Đao, đồng thời tay phải ở bên hông từ từ đẩy chéo lên chém vào ngực của y. Thượng Quan Nhất Đao thấy hắn tuy còn nhỏ tuổi mà nội lực thuần cương, trầm hùng dũng mãnh, rất có khí độ danh gia thì giật mình, đoạn hét lên một tiếng: "Khá lắm", rồi cũng hạ tay phải xuống chặt nhẹ vào chưởng của Phí Vân.

Phí Vân rụt tay về kịp, nhào một cái người đã lộn ra phía sau mấy thước. Thượng Quan Nhất Đao qua một chưởng thấy rõ Phí Vân sức đương nhiên chẳng thề bằng mình nhưng nội công của hắn thuần hậu mạnh mẽ, rõ ràng là có danh sư chỉ điểm thì khen thầm.

Lại thấy Phí Vân tiến lên năm bước, hai chân liên tục thay đổi cho nhau theo một bộ pháp rất cổ quái, rồi vung tay nhằm huyệt Đản Trung trước ngực Thượng Quan Nhất Đao chém tới. Phí Vân tuy nội lực còn yếu nhưng ra chiêu rất thuần thục, chiêu thức lại tinh kỳ hung hiểm khiến cho người ta không biết đón đỡ ra sao. Với thân thủ của Thượng Quan Nhất Đao nếu muốn thì chỉ cần lùi về phía sau là tránh được nhưng y nghĩ mình thân phận tiền bối, phải tránh né một thằng nhóc thì còn mặt mũi nào, thành ra tự đặt mình vào thế khó, vất vả lắm mới hóa giải được chiêu của Phí Vân.

Hai người đánh qua đánh lại một lúc đã hơn chục chiêu. Thượng Quan Nhất Đao thân phận cao vợi, sợ quần hùng chê cười nên chỉ dùng bốn, năm phần công lực. Phí Vân thì ngược lại, biết mình đang tiếp chiêu với cao thủ nên vận dùng toàn bộ sở học, liên tiếp đánh ra những chiêu thức kỳ dị, bàn tay phải như một lưỡi đao, biến ảo khôn lường, liên tục chém vào những đại huyệt trên thân trước của Thượng Quan Nhất Đao. Phí Vân biết điểm yếu của mình là nội lực chưa đủ hỏa hầu, nên dùng sự tinh kỳ của chiêu thức để bù lấp sở đoản đó. Lại vì hiểu rõ Thượng Quan Nhất Đao sẽ không dùng toàn sức với mình nên càng được nước lấn tới, tấn công ào ào như sóng dữ, thế đánh chỉ có tiến chứ không có lùi. Kết quả là trên chiến trường thì Thượng Quan Nhất Đao càng lúc càng yếu thế, còn Phí Vân thì càng đánh càng hăng, hết chém đến chặt, lại thêm Văn Xương Linh Nhi đứng bên cạnh hò hét trợ oai, tưởng sắp dành phần thắng đến nơi.

Quần hùng trong đại sảnh đường dõi mắt theo cuộc chiến thấy võ công của Phí Vân kỳ dị quái đản, lúc thì như đao pháp, lúc lại như chưởng pháp, rốt cuộc không ai đoán ra được hắn thuộc môn phái nào. Bản thân Thượng Quan Nhất Đao tiếp hơn mười chiêu của Phí Vân vẫn không thể nào nghĩ ra thằng tiểu tử này võ công từ danh môn nào ra.

Thượng Quan Nhất Đao gạt một chưởng của Phí Vân, đoạn chửi thầm: "Con bà nó, thằng oắt con nham hiểm thật". Bỗng nghe thấy có tiếng người phía sau láo nháo bàn tán: "Trước giờ vẫn nghe danh bảy lộ Thái Sơn Thất Tinh chưởng được xếp hạng thứ chín trong Thông Thiên Giám, nay thấy tận mắt có lẽ cũng không thực sự ghê ghớm lắm". Lại nghe một tiếng phụ nữ khác: "Lão nương nghe nói Thượng Quan phó chưởng môn là kỳ tài võ học của phái Thái Sơn, được chân truyền của Thương Tùng đạo nhân. Xem ra võ công không bằng Thường Viễn sư huynh y".

Câu đầu tiên Thượng Quan Nhất Đao có thể nghiến răng coi như lời nói của kẻ phàm phu, nhưng câu thứ hai đã đánh vào tử huyệt của y, nhắc đến vị sư huynh đồng môn đã bị y ám hại là điều đại cấm kỵ trên đời. Thượng Quan Nhất Đao nộ khí xung thiên, vứt hết thân phận địa vị, quát lớn một tiếng:

- Nói thối hơn rắm chó! Để ta xem ngươi được danh gia nào chỉ điểm.

Câu đầu chửi người phụ nữ kia, còn câu sau nhắm vào Phí Vân, nhưng quần hùng nào ai hiểu được cái lắt léo bên trong. Chỉ thấy Thượng Quan Nhất Đao tay phải đưa từ trên xuống một hình bán nguyệt, tay trái lúc ẩn lúc hiệu như đang đuổi theo tay phải, chính là chiêu đầu tiên "Tham Lang truy nguyệt" trong bảy lộ Thái Sơn Thất Tinh chưởng. Chưởng phong ầm ầm đổ tới như bão táp.

Phí Vân giật mình, một tay liền thu lại trước ngực hộ thân, hai mắt sáng rực nhìn vào chính giữa khoảng trống giữa hai tay của Thượng Quan Nhất Đao, đề khí vận dụng bộ pháp quái dị luồn lách giữa luồng chưởng phong, tả chưởng chém thẳng vào đó. Nguyên lai chiêu này của Thượng Quan Nhất Đao mượn hình tượng sao Tham Lang (6) trong chòm Thất Tinh Bắc Đẩu đuổi theo mặt trăng mà thành, chỗ tinh yếu của chiêu thức chính là từ sơ đồ vận hành của sao Tham Lang trên bầu trời, nay Phí Vân đánh vào khoảng giữa chính là chặt đứt con đường vận hành đó. Chiêu thức tức thời bị hóa giải, chỉ vì Phí Vân công lực còn non yếu nên cũng bị thối lui ra sau bảy tám bước, máu tươi rỉ ra bên khóe miệng.

Thượng Quan Nhất Đao giật mình kinh ngạc, không ngờ một chiêu tuyệt học của phái Thái Sơn lại bị hóa giải dễ dàng như vậy, y gầm lên một tiếng, nhảy tới ba bước, sử tiếp chiêu thứ hai "Cự Môn (6)hạ sơn" trong Thái Sơn Thất Tinh chưởng.

Chiêu số vừa tung ra, Phí Vân đã thầm kêu khổ, liền đó tay phải dựng thẳng, tay trái đưa ngang, hai tay nhìn như hai thanh đao xếp thành hình chữ thập, đề khí vọt lên cao lộn ba vòng rồi hai tay cứ thế chém thẳng xuống.

Thượng Quan Nhất Đao cảm thấy đao khí như cuồng phong áp đỉnh đang ào ào từ trên cao đổ xuống thì giật mình biến sắc, y thoáng thấy chiêu thức quen thuộc nhưng vẫn chưa thể nhận ra từ đâu. Ầm một tiếng, thấy Phí Vân bị bắn ngược ra phía sau, thổ ra một búng máu, còn Thượng Quan Nhất Đao cũng loạng choạng lùi lại ba bước.

Quần hùng theo dõi trận chiến đến nín thở, thấy rõ ràng tuy Phí Vân bị đánh ngã nhưng đó là do niên kỷ gã còn quá nhỏ nên nội lực chưa tới, nếu chỉ xét về chiêu thức thì xem ra chưa biết ai hơn ai.

Thượng Quan Nhất Đao giờ đã ở vào thế cưỡi trên lưng cọp, chuyện hôm nay đồn đại ra ngoài thì thật uy danh của y bị tổn hại không nhỏ, thẹn quá hóa giận, y gầm lên một tiếng:

- Giỏi thay cho thằng tiểu tử, để ta xem võ công của ngươi rốt cuộc cao đến đâu.

Nói rồi thân hình xoay tít như con vụ, một chưởng đẩy thẳng về phía Phí Vân, đây là chiêu thứ ba "Liêm Trinh (6) nhập cung" trong Thái Sơn Thất Tinh chưởng. Chiêu này xuất ra, quần hùng than thầm một tiếng, Phí Vân lúc này đã vô phương chống đỡ, cầm chắc cái chết trong tay.

Luồng khí đang ào ào đổ đến chợt thấy bóng một vật bay vút qua nhanh như điện xẹt, rồi nghe thấy xoảng một tiếng, vật đó đã vỡ làm mấy mảnh, chưởng của Thượng Quan Nhất Đao cũng hoàn toàn mất tăm mất tích như biến vào khoảng không.

Luồng khí vừa tan biến, nhìn kỹ lại thì vật vừa bắn ra đó là một cái chén uống rượu, vì hứng trọn một luồng chưởng của Thượng Quan Nhất Đao nên không chịu được mà bị vỡ tan. Chỉ dùng một cái chén mà hóa giải sát chiêu của phái Thái Sơn, công phu của người đó ra thật không thể nào mà lường được.

Thượng Quan Nhất Đao gầm lên một tiếng:

- Ai?

Hết chương 1

Chú thích:

6. Tham Lang, Liêm Trinh, Cự Môn đều là tên các sao trong chòm Thất Tinh Bắc Đẩu (Đại Hùng Tinh). Chòm sao này có 7 ngôi sao là: Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân. Trong đó Phá Quân chính là sao Bắc Đẩu. __________________BÍCH HẢI THANH THIÊN - TIỀN TRUYỆN CHƯƠNG 4: MỸ NHÂN NHƯ HOA CÁCH VÂN ĐOAN(Phần 1) Tác giả: Nguyên Vân Nguyồn: http://blog.360.yahoo.com/blog-c8pjx...yA-?cq=1&p=111

Kim Khổng Mậu nâng chén trà nghi ngút khói, hướng về phía mấy người kia, vừa cười vừa nói:

- Lão phu đã ở quá cái tuổi tri thiên mệnh, cũng chẳng còn ham hố tranh đấu gì nữa. Hôm nay ta được gặp cả ba đại gia Lưu Khúc Tần ở đây, lại chứng kiến mấy người trẻ tuổi đã thực sự trưởng thành, văn võ song toàn, thật là sống không uổng kiếp này. Lão phu xin mượn trà thay rượu, kính các vị một ly.

Nói rồi Kim Khổng Mậu đưa tách trà lên miệng định uống nhưng lại như sực nhớ ra điều gì, lão đặt chén trà xuống rồi nói tiếp:

- Mấy vị đây đều là trang hảo hán trên giang hồ, chắc hẳn chỉ ưa thích uống rượu. Hỡi ôi, bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi (1) có ai mà không điên đảo. Hiềm một nỗi, quy luật cả trăm năm nay của Thông Thiên Các là tuyệt đối không được dùng rượu, thế nên lão phu thật lòng mong các vị đại xá cho.

(Dịch nghĩa: Rượu bồ đào uống trong chén dạ quang)

Nơi chuyên dùng để tiếp khách quý mà không được uống rượu thì kể cũng lạ. Phí Vân tò mò hỏi:

- Kim lâu chủ, dám hỏi ngài tại sao lại có quy định như thế?

Kim Khổng Mậu nhìn Phí Vân cười rồi đáp:

- Tiểu huynh đệ thắc mắc cũng phải. Có lẽ cậu chưa biết, trong Thông Thiên các ngoại trừ căn phòng này, còn lại đều chỉ dùng để chứa sách. Đây toàn là sách mà tiền nhân Kim gia chúng ta đã đổ bao tâm huyết để sưu tầm và biên soạn, có thể nói sách chính là mạng sống của Tử Trường lâu đó.

Đoạn lão thuận tay cầm lấy một quyển sách làm từ thẻ tre, nhìn đã rất cũ, nói tiếp:

- Tiếc thay, rượu càng là thứ cực phẩm trên thế gian thì hương rượu càng nồng, vị rượu càng đượm. Cái hương vị đấy chính là kẻ thù của những quyển trúc thư (2) này vậy. Các vị tiền bối trong Kim gia vốn e ngại hơi rượu làm hư mòn sách quý nên đặt ra luật cấm rượu trong Thông Thiên các. Lâu chủ đương nhiệm của Tử Trường lâu cũng tuyệt đối cả đời không được động đến một giọt rượu nào. Thế nên lão phu mới kết thân với vị lão bằng hữu này đây.

Nói đoạn chỉ vào chén trà đang bốc khói trên tay cười sảng khoái.

Phí Vân gật gù: "Thì ra lại công phu như vậy".

Kế đó hắn đưa chén trà lên miệng uống một hớp. Nước trà vừa qua cổ họng, Phí Vân liền cảm thấy rất gắt ở trên đầu lưỡi, nhưng ngay sau đó thì một vị ngọt ngào thơm nồng không biết từ đâu tràn đến khiến đầu óc vô cùng sảng khoái, toàn thân bay bổng như vừa được tắm bằng nước Cam Lồ. Hắn không nhịn được phải thốt lên:

- Trà ngon quá!

Khúc Thừa Dụ và Lưu Đan cũng vừa uống thử trà, đều gật đầu tán thưởng. Kim Khổng Mậu phá lên cười ha hả, đoạn vỗ vai Tần Chính nói lớn:

- Vậy thì ta phải cảm ơn Tần Chính hiền điệt đã không quản ngại khó nhọc, vượt đường xa vạn dặm mà đem tặng Tử Trường lâu thứ trà cực phẩm này cho ngày Võ Lâm Thông Biện Hội sắp tới, giúp ta hôm nay không phải hổ thẹn trước mặt khách quý.

Tần Chính vội cung tay nói:

- Không dám, không dám. Được Kim thúc thúc ưa thích chính là cái may mắn của thứ trà này vậy. Nếu thúc thúc không chê, cháu và Thư muội xin hàng ngày được rót trà hầu người.

Lời nói của Tần Chính đầy ẩn ý bóng gió, y nói xong thì liếc nhìn qua Kim Tĩnh Thư lúc này đang đỏ hồng đôi má, nửa e thẹn lại nửa vui sướng, càng nhìn càng thêm điên đảo tâm hồn. Cảnh đó làm sao qua khỏi mắt Phí Vân, hắn cảm thấy như có quả núi ngàn cân đè lên ngực, chỉ hận không thể hét lên một tiếng thật to.

Kim Khổng Mậu nghe thấy Tần Chính nói thế thì cười lên ha hả: "Nhất định! nhất định!", đoạn lại quay sang Lưu Đan hỏi:

- Lưu huynh đệ, ngươi cảm thấy chén trà này như thế nào?

Kim Khổng Mậu nghe danh Lưu Đan là bậc học sĩ nên có ý muốn thử tài của y. Chỉ thấy Lưu Đan đưa chén trà lên uống một miếng, rồi đặt xuống cười cười:

- Trà thì đương nhiên là cực phẩm, chén trà cũng là bảo vật. Tiếc thay, chỉ vì ba điều sai thế nên cực phẩm trở thành phế phẩm, bảo vật trở thành phế vật.

Nghe xong câu đó Tần Chính tức thì tái mặt, loại trà thượng hạng này y tốn biết bao công sức mới lấy được mà có kẻ dám ngang nhiên coi như rác rưởi. Kim Khổng Mậu chẳng hổ danh Tử Trường lâu chủ, nét mặt chỉ hơi biến đổi một chút nhưng rồi trở lại bình thường ngay, lão nheo mắt nhìn Lưu Đan hỏi:

- Lão phu xin được lắng nghe cao kiến của Lưu huynh đệ. Không hiểu chén trà này có gì không vừa ý ngươi?

Lưu Đan mỉm cười chậm rãi nói:

- Trà này mới uống vào thì cay gắt ở trong miệng, nhưng chỉ trong giây lát thì hương thơm nồng đượm ở đâu đưa thẳng lên khứu giác, lại có vị ngọt mát lưu lại trong cổ họng, uống vào thì đầu óc bay bổng tinh thần sảng khoái, quả là thứ trà cực phẩm trên thế gian. Nếu tại hạ không nhầm, đây chính là Trảm Mã Trà (3), đệ nhất danh trà của vùng Tứ Xuyên.

Kim Khổng Mậu tức thì vỗ tay, vẻ mặt khâm phục:

- Lưu học sĩ quả nhiên danh bất hư truyền, đây chính là Trảm Mã Trà mà Tần Chính hiền điệt đã cử người phi khoái mã ba ngày ba đêm từ Vu Sơn ở Tứ Xuyên mang về đây. Không biết thứ trà phi thường như vậy lại có gì sai?

Lưu Đan lắc đầu:

- Trà này, kẻ không biết thì xưng tụng là danh phẩm, người biết thì thấy cầm nó vào cũng bẩn cả tay. Trảm Mã Trà nguồn gốc từ loại cỏ Phương Chi ở trên Vu Sơn, mỗi năm chỉ mọc đúng một lần vào tháng tám, mỗi lần cũng chỉ sống đúng một tháng mà thôi. Để luyện được Trảm Mã Trà người ta phải nuôi một con bạch mã từ bé bằng lá trà cho nó trở nên quen mùi, rồi vào đúng ngày mười lăm tháng tám, dắt nó lên núi cho nó ăn thứ cỏ Phương Chi đó, đợi đến khi nó vừa ăn xong thì một đao chém lìa đầu rồi phải ngay lập tức mổ bụng lấy lá trà ra phơi khô mà dùng. Chính vì thế mới có tên là Trảm Mã Trà, quả là cực phẩm ở dương gian. Chỉ đáng tiếc...

Lưu Đan thở dài một tiếng, đoạn nói tiếp:

- Chỉ đáng tiếc là thứ cỏ Phương Chi này phải đợi đến đúng ngày Trung Thu mười lăm tháng tám, lúc ấy nó mới hấp thu đủ tinh khí của trời đất mà trở thành danh trà. Sớm một ngày cũng không được, mà muộn một ngày cũng không được. Giờ hãy còn năm ngày nữa mới đến tiết Trung Thu, thế nên cái thứ trà Kim lâu chủ uống hôm nay là miễn cưỡng mà chế tác thành, độ khéo chưa được một phần mà vụng thì đến mười phần, so với trà bán ngoài chợ kia cũng còn thua xa lắm chứ nói gì đến Trảm Mã Trà. Đấy là cái sai thứ nhất.

Khúc Thừa Dụ vốn không ưa thích Kim Khổng Mậu, thấy Lưu Đan chê bai thứ trà thượng hạng của lão thì khoái chí lắm, y liền giục:

- Vậy cái sai thứ hai là gì?

Lưu Đan lại nói tiếp:

- Trảm Mã Trà tuy tiếng là cực phẩm nhưng xét đến cùng cũng chỉ là thứ thức ăn thừa của loài súc sinh. Xưa kia Trà Thánh Ngọc Xuyên Tử nói sơn thượng quần tiên tư hạ thổ (4), một chén trà có thể khiến cho tiên nhân từ trên núi cao cũng phải bay xuống mà thưởng thức, mới hay trà có cốt cách thanh cao đến nhường nào. Nay lại lấy thứ đồ thải của loài ngựa kia mà gọi là danh trà thì chỉ khiến cho người ta cười đến sái quai hàm thôi. Đấy là cái sai thứ hai.

(Dịch nghĩa: Thần tiên trên núi cũng phải động lòng mà bay xuống trần)

Tần Chính nghe Lưu Đan nói một thôi một hồi chê bai thứ trà tâm đắc của mình chẳng khác gì đồ bỏ đi thì hận đến ứa gan. Y cau mày hỏi tiếp:

- Vậy còn cái sai thứ ba thì sao?

Lưu Đan mỉm cười nói:

- Trà khác rượu chỉ một chữ Đạo. Rượu có thể chôn dưới đất, để trong nhà, chất lên xe, từ phàm phu tục tử đến tao nhân mặc khách, ai cũng có thể làm rượu được. Nhưng kẻ chế tác ra Trà mà không phát Bồ Đề tâm thì thứ Trà đó chỉ là phế phẩm. Nay kẻ làm ra cái được gọi là Trảm Mã Trà này, y nuôi một con bạch mã từ bé, rồi sau đó lại nhẫn tâm một đao mà kết liễu đời của loài sinh linh vô tội thì đã tạo sát nghiệp không nhỏ rồi. Cái thứ Trà mà y làm ra sao có thể gọi là danh trà cho được? Đó chính là cái sai thứ ba vậy.

Tần Chính nghe Lưu Đan nói một hồi như nước chảy mây trôi, lý lẽ hùng hồn, sở học cao thâm thì ủ rũ không nói nên lời. Nhưng y bản tính kiêu ngạo, quyết không chịu đầu hàng như thế, liền hỏi tiếp:

- Lưu thúc thúc quả thật danh bất hư truyền. Nhưng lúc nãy thúc thúc có nói cái chén trà này cũng là bảo vật, vậy không có ích gì hay sao?

Lưu Đan cười lên ha hả rồi nói tiếp:

- Tiểu huynh đệ, cậu nhắc ta mới nhớ, cái chén này thực ra chính là điều sai thứ tư đó.

Kim Khổng Mậu nghe thế thì tái mặt. Nguyên lai thứ chén uống trà này trên thiên hạ chỉ có hai mươi tư cái, trong đó mười hai cái đã được cống vào triều cho đương kim hoàng thượng, số còn lại thì thất lạc trong nhân gian. Kim Khổng Mậu mất mấy chục năm mới sưu tầm được tám cái, ngày hôm nay mang ra tiếp khách quý cũng là có ý muốn phô trương thanh thế. Nay thấy Lưu Đan nói như vậy thì không khỏi tức giận, lão liền hỏi giọng bất bình:

- Lưu huynh đệ nói như vậy nghĩa là sao? Cái chén này tại sao là điều sai thứ tư?

Lưu Đan không trả lời ngay, y cầm cái chén lên, xoay xoay trong tay, đưa mắt ngắm nghía hồi lâu rồi mới nói:

- Đây là thứ chén trà xuất phát từ miền Hoa Nam, làm từ loại men cực phẩm có màu xanh nước biển, vốn được Trà Tiên Lục Hồng Tiệm (5) coi là đệ nhất dùng để uống trà. Nhưng tiếc thay thứ Trảm Mã Trà này là hồng trà, có màu hồng nhạt, lại đi với màu xanh biếc của cái chén thật chẳng khác gì lưới đánh cá lại đem trao cho thợ săn, bảo kiếm đem tặng kẻ làm ruộng, thật khiến ta tức cười đến chết mất.

Kim Khổng Mậu nghe đến thế thì thở dài một tiếng:

- Lưu học sĩ kiến văn quảng bác, hôm nay lão phu quả là được mở rộng tầm mắt.

oOo

Văn Xương thấy người sau rèm nổi giận thì hoảng hồn, gã vội lùi lại mấy bước, trán lấm tấm mồ hôi, gã lắp bắp:

- Đừng...đừng..kẻ quân tử động văn chứ không động võ.

Người kia hừ một tiếng:

- Hừ, ta chỉ là thân nữ lưu, vốn dĩ đã chẳng phải là quân tử gì rồi. Hôm nay ngươi mà không nói cho ra nhẽ thì đừng hòng rời khỏi đây.

Văn Xương xua xua tay:

- Tiền bối nói thế là nhầm rồi. Ai bảo nữ nhân không thể là quân tử? Ai bảo quân tử thì phải là nam nhi?

Người kia thấy Văn Xương nói thế thì lấy làm lạ, liền hỏi lại:

- Xưa nay ta chỉ nghe "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" (6), chưa từng nghe thấy ai nói phận nữ lưu cũng có thể là quân tử?

Văn Xương ngửa mặt lên trời cười ha hả:

- Vậy là tiền bối biết một mà không biết hai, người chỉ đọc đến Tứ Thư Ngũ Kinh mà chẳng hề biết rằng học thuyết của mấy vị tiền nhân đó đã có người phản bác từ lâu. Học trò đời thứ mười tám của Khổng Phu Tử là Xương Tử đã nói thế này: Tử viết, nhân chi sơ tính bản thiện, cái thiện đó chẳng khác gì búp non nơi ao sen miền Tây phương Cực lạc, nếu được nuôi dưỡng sẽ nở ra thành hoa tỏa hương thơm ngát cả chín tầng thiên giới. Năm đức Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín chính là năm cánh của bông sen đó vậy. Người trên thiên hạ vốn chẳng khác nhau, chỉ cần nuôi tâm dưỡng tính, nhất định là kẻ quân tử.

Người ngồi sau rèm nghe Văn Xương nói xong thì như chìm vào cơn suy ngẫm, miệng lẩm bẩm: "Ao sen miền cực lạc...chín tầng thiên giới.....thiên hạ chẳng khác nhau...". Đoạn lại cất tiếng hỏi:

- Xương Tử là ai, sao ta chưa từng nghe qua?

Văn Xương phẩy tay đáp:

- À, người đó tuy là học trò của Khổng Phu Tử nhưng cả đời chỉ ngao du bốn biển, không viết sách để lại cho hậu thế, tiền bối không biết là phải.

Nói xong thì khoái chí cười thầm. Vốn dĩ trên đời làm gì có người nào tên là Xương Tử, lại càng chẳng có mấy câu mà gã vừa nói ra. Gã thấy người kia thắc mắc chữ "quân tử" liền thuận miệng bịa ra chuyện đó, tên gã là Văn Xương nên lấy đại cái tên Xương Tử, còn cái thuyết kia là do gã đọc nhiều sách vở rồi chắp vá lý thuyết các nhà lại mà hoa ngôn xảo ngữ một phen. Thương thay cho Phật-Nho-Đạo ba nhà đều bị gã trộn lẫn vào với nhau cả.

Nữ nhân đằng sau bức rèm tuy bị gã làm cho rối trí nhưng vì những lời gã nói rốt cuộc cũng là tán dương nữ nhân chẳng hề thua kém nam nhân nên cảm thấy vui vui trong lòng. Người đó hừ một tiếng:

- Ngươi mồm mép cũng nhanh nhẹn lắm. Nhưng ngươi vẫn chưa nói được cho ta biết, tiếng đàn của ta dở ở chỗ nào?

Văn Xương mặt mày nhăn nhó:

- Không nói có được không? Tại hạ chỉ là kẻ hậu sinh mạt học, kiến thức chẳng được bao lăm. Cứ coi những lời vừa rồi của tại hạ như là đánh rắm đi.

Nữ nhân kia nổi giận, bàn tay tức thì cách không đánh ra một chưởng. Văn Xương chẳng hề biết võ nghệ thì làm sao tránh kịp, dính trọn một đòn vào má, hiện rõ hình năm ngón tay. Lại thấy người kia quát:

- Ngươi còn ăn nói thô lỗ như vậy một lần nữa thì đừng trách ta hạ thủ vô tình. Nói mau, tiếng đàn dở ở chỗ nào?

Văn Xương bị một chưởng vào mặt đau muốn thấu gan, gã xoa xoa tay lên mặt nhăn nhó:

- Nói thì nói, việc gì phải đánh mạnh thế.

Đoạn gã lẩm bẩm:

- Động một tí là đòi chém đòi giết, nữ nhân đâu như thế. Không hiểu hôm nay là ngày xui xẻo gì, lão tử bị liền ba kẻ tát vào mặt.

Người kia quát lớn:

- Ngươi lải nhải cái gì đó? Có nói mau lên không?

Văn Xương lắc đầu, đoạn khề khà ngồi xuống cái ghế để bên cạnh, lại thuận tay rót một chén trà, đưa lên mũi hít hà, thủy chung không nói nửa lời. Nữ nhân kia vẫn kiên nhẫn chờ gã nói, đợi một lúc thấy gã đã rót đến cốc trà thứ ba mà chưa nói tiếng nào, định vung tay cho gã một chưởng nữa thì bỗng thấy gã cất tiếng:

- Tiền bối, người tấu mấy bản nhạc đó, với kẻ bình thường thì quả là tuyệt phẩm thế gian, nhưng nếu gặp kẻ tinh thông âm luật, e rằng cũng chỉ ở mức tầm tầm bậc trung, bốn chữ "đăng phong tạo cực" còn lâu lắm mới đạt đến.

Đoạn uống một hơi hết chén trà rồi nói tiếp:

- Bản Dương Xuân Bạch Tuyết dùng tiếng đàn vẽ ra cảnh tuyết tan khi xuân đến, Nhưng tiếng đàn của tiền bối thừa thãi cái giá lạnh của mùa đông mà thiếu hẳn đi cái nồng ấm của mùa xuân, khi tại hạ nghe đàn thì không rét mà run, Bạch Tuyết thì nhiều mà Dương Xuân thì tìm mỏi mắt chẳng thấy. Vậy sao gọi là hay được? Qua bản Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ thì tàm tạm được nhưng sang đến bản Cao Sơn Lưu Thủy thì thực là quá tệ. Từ khi Tử Kỳ mất đi thì Bá Nha đập đàn nhất quyết không tấu nữa, thế mới biết cái tình bằng hữu của họ thâm sâu ở mức nào. Núi cao, sông sâu, đấy không phải là Bá Nha, Tử Kỳ thì còn là gì nữa? Núi và sông tuy xa mà gần, tuy hai mà một, lúc nào cũng tương thông với nhau. Nhưng tiền bối khi tấu khúc này, dây Vũ thì lên quá cao, dây Cung thì xuống quá thấp, núi cứ cao mãi lên, sông cứ sâu mãi xuống, tuyệt chẳng thấy có gì là tương thông cả.

Người kia nghe Văn Xương nói một thôi một hồi thì ngẩn người ra không nói được tiếng nào. Văn Xương rót tiếp cốc thứ tư rồi chép miệng:

- Ái chà, trà ngon, trà ngon. Trà Long Tỉnh ở Hàng Châu mà sao lại lạc đến tận nơi này. Tại hạ bàn đến khúc nào rồi nhỉ ? À, khúc Thập Diện Mai Phục thì cứ cho là được đi, nhưng qua đến U Lan khúc và Quảng Lăng Tán thì thật là khiến cho người ta cười đến sái quai hàm.

Cũng với hai khúc đàn này, lúc nãy khen không tiếc lời là gã, mà bây giờ chê bai tàn mạt cũng là gã. Người kia lạnh lùng hỏi:

- Tại sao mà cười ?

Văn Xương nói tiếp :

- U Lan khúc là của Khổng Phu Tử bất đắc chí với thời thế mà viết thành. Quảng Lăng Tán cũng do nỗi hận Nhiếp Chính ám sát Hàn Vương không được mà viết thành, hai nỗi hận đó tuy khác nhau mà lại giống nhau. Hai khúc này trầm hùng bi tráng, đều phải do trang nam tử ôm mộng lớn, đã trải qua phong sương một đời mới có thể diễn tấu được. Tiền bối suốt ngày chỉ ở trong cái thư phòng bé tẹo này, chăn ấm nệm êm chẳng hề biết đến nỗi khổ trên dương thế, thì làm sao mà diễn tấu cho được. Tuy nhiên, cái đó thì cũng vẫn chưa phải điều tệ hại nhất.

Người đằng sau bức rèm run run hỏi :

- Điều tệ hại nhất là gì? Ngươi nói mau.

Văn Xương lại hớp một miếng trà nữa, ung dung nói tiếp:

- Tiền bối là danh gia về đàn mà lại quên đi cái cơ bản nhất là bảy điều "không" khi chơi đàn. Không đàn ở đám tang, không đàn trong lúc lòng nhiễu loạn, không đàn trong lúc bận rộn, không đàn trong lúc thân thể ô uế, không đàn trong lúc y quan không tề chỉnh, không đàn trong lúc không đốt lò hương, không đàn nếu không gặp được tri âm.

Gã liếc một vòng quanh căn phòng rồi nói:

- Sáu cái điều "không" đầu tiên thì cũng tạm được đi. Nhưng tiền bối một thân một mình ở trong căn phòng này, cô độc lẻ loi, bằng hữu còn không có thì nói gì đến tri âm, rõ là đã phạm vào điều thứ bảy. Nếu có là Kê Khang sống lại cũng chẳng thể đàn cái gì ra hồn được.

oOo

Chú thích:

Đầu đề của chương này "Mỹ nhân như hoa cách vân đoan" là một câu trong bài Trường Tương Tư của Lý Bạch, nghĩa là: Mỹ nhân đẹp như hoa nhưng cách biệt bởi một bức màn mây.

(1) Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi: câu thơ trong bài Lương Châu Từ của Vương Hàn đời Đường. Rượu bồ đào chính là rượu vang nhập từ nước Bồ Đào Nha vào Trung Quốc, thời xưa thì nó vô cùng quý hiếm. Vì rượu này có màu đỏ nên khi uống với chén dạ quang (hay còn gọi là chén lưu ly) có khả năng phát sáng trong bóng tối thì màu sắc của rượu càng được tôn thêm, nhìn như đang uống máu.

Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ Ký, Tổ Thiên Thu khi tửu luận với Lệnh Hồ Xung cũng có nhắc đến chuyện này. Y nói: "Chén dạ quang là vật trân quí hiếm trên đời. Rượu bồ đào đã có mầu hồng mà bọn nam nhi chúng ta uống vào thì không đủ hào khí. Chén dạ quang phát ra ánh sáng mới là tuyệt diệu! Rượu bồ đào rót vào chén dạ quang lập tức mầu rượu đỏ như huyết." - Tiếu Ngạo Giang Hồ Ký - Hồi 84

(2) Trúc thư: Đời Tần trở về trước người ta viết sách chủ yếu trên thẻ làm bằng tre hoặc trúc, rất cồng kềnh và bất tiện. Đến khoảng năm 105, Sái Luân thuộc đời Hán Hòa Đế ở Trung Quốc mới sáng tạo ra những mẫu giấy đầu tiên.

(3)Trảm Mã Trà: Đây là loại trà hay được nhắc đến trong huyền thoại ở vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc. Theo truyền thuyết thì trà này có nguồn gốc từ thứ cỏ Phương Chi ở trên núi Vu Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Loại cỏ này chỉ mọc một năm một lần, và mỗi lần chỉ mọc đúng một tháng. Để làm ra trà thì người ta nuôi một con bạch mã và từ bé đã cho nó ăn lá trà thay cỏ. Đến tháng tám hàng năm dẫn con bạch mã lên núi cho nó ăn thứ cỏ Phương Chi đó, ngay khi nó ăn xong thì chém lìa đầu rồi mổ bụng lấy ra sấy khô để làm trà. Vì ngựa là loài nhai lại nên khi cỏ mới vào bụng thì vẫn còn giữ được vẻ tươi tốt.

(4) Sơn thượng quần tiên tư hạ thổ: một câu trong bài Tẩu bút tạ Mạnh gián nghị ký tân trà (Thư viết nhanh cảm tạ ngài quan gián họ Mạnh gửi trà mới), thường gọi là Trà Ca, của Lô Đồng. Ông là người tu đạo nên có pháp danh là Ngọc Xuyên Tử, cũng là người yêu thích và có kiến thức vô cùng uyên thâm về trà, được xưng tụng là Trà Thánh.

(5)Trà Tiên Lục Hồng Tiệm: Lục Hồng Tiệm tức Lục Vũ, sống dưới thời Đường Minh Hoàng, viết quyển Trà Kinh được xem như thánh thư về Trà. Lục Vũ viết cuốn Trà Kinh năm 780, sau khi đã đi khắp đại giang nam bắc để sưu tầm và tìm hiểu về Trà. Cuốn Trà Kinh có thể coi như Bách Khoa Toàn Thư về Trà đầu tiên của Trung Quốc, sách gồm 10 chương theo thứ tự là Nhất chi nguyên (nguồn gốc trà), Nhị chi cụ (công dụng của trà), Tam chi tạo (tiêu chuẩn của trà), Tứ chi khí (dụng cụ pha trà), Ngũ chi chủ (cách pha trà), Lục chi ẩm (cách uống trà - 9 thao tác hay còn gọi là Cửu đạo trà), Thất chi sử (giai thoại và lịch sử trà), Bát chi xuất (các vùng trồng trà), Cửu chi lược (giản lược một số thao tác chế biến trà), Thập chi đồ (tranh vẽ về trà).

(6) Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: tư tưởng Nho giáo, một người con trai thì đáng kể, mười người con gái thì coi như không là gì cả.

BÍCH HẢI THANH THIÊN - TIỀN TRUYỆN CHƯƠNG 4: MỸ NHÂN NHƯ HOA CÁCH VÂN ĐOAN(Phần 2) Tác giả: Nguyên Vân Nguyồn: http://blog.360.yahoo.com/blog-c8pjx...yA-?cq=1&p=111

Văn Xương nói xong thì uống một miếng trà rồi khề khà đặt xuống bàn, chép miệng mấy cái, nhìn thực có dáng của nhà phê bình âm luật. Trong lòng gã tiếc hùi hụi vì không có thêm chòm râu, nếu có thì hẳn so với mấy vị danh sư cũng không kém là mấy.

Nữ nhân đằng sau bức rèm sau khi nghe Văn Xương thao thao bất tuyệt một hồi thì giờ bỗng chìm vào im lặng, dường như đang suy ngẫm những lời gã nói. Văn Xương ngồi một lúc uống trà đến no cả bụng mà người kia vẫn thủy chung không nói gì. Gã cảm thấy hơi khó chịu, cứ ngọ nguậy trên ghế liên tục.

Chợt nghe một tiếng thở dài, rồi thấy nữ nhân kia cất tiếng:

- Ngươi nói đúng lắm, ta từ khi sinh ra đã kết bạn với cây đàn, quyển sách, lớn lên một chút thì ngày ngày luyện công, chưa từng biết đến thế gian ngoài kia như thế nào, lại càng chẳng biết gì là bằng hữu cả. Nói cho ta nghe đi, có phải thế giới ngoài kia tươi đẹp lắm không? Có phải con người ngoài kia thú vị lắm không?

Văn Xương nghe thế thì ngạc nhiên lắm. Gã lúc đầu nghe người này tấu đàn quá sức điêu luyện thì luôn nghĩ đó hẳn phải là một vị tiền bối ở tuổi trung niên, không lẽ ba bốn chục năm nay người này chưa từng bước chân ra khỏi căn phòng này. Nghĩ vậy, gã rụt rè hỏi:

- Tiền bối, không lý nào từ trước đến giờ người chưa từng giao tiếp với bên ngoài?

Người kia ngẫm nghĩ một lát rồi đáp:

- Ừm...ta sinh ra đã ở trong Tử Trường lâu này rồi. Người trong lâu thì ta đều biết, nhưng cũng chưa một lần được nhìn thấy khung cảnh bên ngoài bốn bức tường kia. À ta nhớ ra rồi, hồi ta tám tuổi có một lần được mẹ dẫn đi chơi thành Tô Châu, mua cho ta chong chóng gió và kẹo hồ lô đường phèn, thật là vui lắm. Người còn đưa ta lên vãn cảnh ở trên Hàn Sơn Tự nữa. Nhưng rồi sau đấy thì mẹ không bao giờ đưa ta ra ngoài nữa.

Văn Xương nghĩ thầm bà năm nay mấy chục tuổi đầu rồi còn đòi chong chóng gì nữa, nhưng gã vẫn tỏ vẻ quan tâm:

- Sao lại như thế?

Người kia đáp giọng buồn buồn:

- Ta cũng không biết nữa, cha và mẹ đều nói ngoài kia toàn người xấu, ta từ nhỏ sức khỏe đã không tốt nên song thân càng không muốn ta ra ngoài. Cha nói, phải chờ đến khi ta...

Đúng lúc đó thì nữ nhân kia dường như cảm thấy mình đã nói điều gì không nên, tức thì ngừng lại ngay. Văn Xương làm sao bỏ lỡ:

- Cha của tiền bối nói chờ đến khi nào cơ?

Người kia tức thì nghiêm giọng:

- Ngươi đừng tò mò vào chuyện của ta, ngươi biết càng ít thì càng có lợi cho ngươi thôi. Chuyện hôm nay ta với ngươi ngẫu nhiên gặp nhau, tuyệt đối không để cho người thứ ba biết. Nếu không nghe lời ta, e rằng mạng ngươi cũng khó giữ.

Văn Xương nhún vai, rụt cổ:

- Không nói thì không nói, việc gì mà nghiêm trọng thế.

Người kia vẫn không yên tâm:

- Không được, ngươi phải thề độc thì ta mới tin.

Văn Xương nhăn nhó: "Thề thì thề", ngẫm nghĩ một lúc rồi đưa ba ngón tay lên trời, vẻ mặt rất nghiêm túc:

- Ở trên có hoàng thiên chứng giám, Khúc Văn Xương tôi xin thề, chuyện ngày hôm nay, nếu để lộ ra ngoài nửa câu thì đọc thơ Trường Cát cũng chẳng thấy hay, xem chữ Hy Chi cũng chẳng thấy kỳ, nghe đàn Kê Khang cũng chẳng thấy cảm, ngắm tranh Lương Khải cũng chẳng thấy đẹp. (7)

Người kia thấy gã thề thốt không giống ai thì ngạc nhiên lắm, liền hỏi:

- Ngươi thề cái kiểu gì thế? Thề lại đi.

Văn Xương lắc đầu giải thích:

- Tiền bối, tại người không biết, tại hạ từ khi sinh ra đã coi cầm kỳ thi họa là mục đích lớn của đời mình . Tất cả những cái tại hạ nói đó cũng như là mạng sống của tại hạ vậy, không có chúng thì thật còn khổ hơn chết nữa. Thề như vậy là thật lòng thật tâm lắm rồi đó.

Người kia thấy gã mồm miệng liến thoắng thì biết có cãi với gã nữa cũng cãi không lại, giọng nói tỏ vẻ chịu thua:

- Thôi được, ngươi nói sao thì cứ như vậy đi.

Đoạn lại hỏi tiếp:

- Vậy ngươi nói cho ta biết đi? Có phải những kẻ ở bên ngoài kia toàn là người xấu không?

Văn Xương lắc đầu quầy quậy:

- Không phải, không phải đâu. Người trên thiên hạ phần lớn là tốt cả chứ.

Bỗng gã chợt nhớ ra là má mình vẫn còn ê ẩm vì bị mấy cái tát trong ngày hôm nay, bất giác đưa tay lên xoa xoa nói tiếp:

- À...ừ thì đương nhiên là cũng có những kẻ xấu, nhưng mà tại hạ nghĩ là số người tốt chắc chắn chiếm đa phần. Tại hạ từ nhỏ đến giờ gặp toàn người tốt thôi.

Người kia có vẻ rất hứng thú với câu chuyện của Văn Xương, liền hỏi tiếp:

- Vậy sao? Ừ, quả thật ta xem ngươi cũng không có vẻ gì là kẻ xấu cả.

Thấy gã đang phổng mũi ưỡn ngực liền nghiêm giọng nói tiếp:

- Nhưng ngươi là kẻ thần khẩu hại xác phàm. Nếu bỏ được cái tật ba hoa đi thì mới gọi là người tốt được.

Văn Xương nhún vai:

- Vậy thì khó lắm, tại hạ từ khi sinh ra đã mồm mép như vậy rồi, tiền bối có trách phạt cũng đành chịu thôi. Huống chi sống chết có số, cứ đến đâu hay đến đó đi.

Nữ nhân kia dường như vẫn chưa chán câu chuyện người tốt-kẻ xấu, liền hỏi tiếp:

- Vậy ngươi nói cho ta biết đi, ngươi biết được những người nào tốt?

Văn Xương thì đã lộ rõ vẻ ngán ngẩm, gã đáp bừa:

- Nhiều lắm. Hảo huynh đệ Phí Vân của tại hạ chắc chắn là người tốt, cha của tại hạ tuy tính tình gàn dở, lại cố chấp nhưng cũng là người rất tốt.

Đoạn ánh mắt lóe lên vẻ tinh quái, gã cười cười nói tiếp:

- Cả tiền bối nữa, tiền bối cũng là người tốt.

Người sau bức rèm thảng thốt kêu lên:

- Ta ư? Ngươi biết gì về ta mà nói vậy? Chẳng phải ta vừa đánh ngươi sao?

Văn Xương phẩy tay:

- Tại hạ quả thật đến dung nhan của tiền bối còn chưa biết, nhưng nghe tiếng đàn của tiền bối cũng đoán nhận được vài phần về con người của tiền bối rồi.

Người kia hỏi:

- Vậy ư? Ngươi đoán nhận được gì về ta?

Văn Xương nói:

- Trên thiên hạ này kẻ chơi đàn, yêu đàn thì nhiều lắm nhưng kẻ có thể tấu khúc Quảng Lăng tán đến mức năm dây như đang thổn thức, tiếng đàn cũng như tiếng khóc của Kê Khang thì chẳng có mấy đâu. Tuy tiếng đàn của tiền bối còn điều khiếm khuyết nhưng tấu đàn mà khiến cho tại hạ rơi lệ thì trên thiên hạ chỉ có hai người thôi, tiền bối đương nhiên là một trong hai người đó.

Nữ nhân nọ liền hỏi tiếp:

- Vậy người còn lại là ai?

Văn Xương trả lời giọng buồn buồn:

- Chính là người mẹ quá cố của tại hạ.

Rồi gã phẩy tay như để xua đi phút mềm lòng, đoạn lại cười lớn:

- Tiền bối, tuy chúng ta bèo nước gặp nhau, tại hạ đến tên tuổi hay dung nhan của tiền bối đều không biết nhưng qua câu đàn đã cảm thấy như quen thân từ lâu rồi vậy. Bạch Lạc Thiên bảo đồng thị thiên nhai luân lạc nhân, tương phùng hà tất tằng tương thức (8) phải chăng chính là ý này?

(Dịch nghĩa:

[Chúng ta] đều là kẻ luân lạc ở nơi chân trời, gặp gỡ nhau ở đây hà tất phải quen biết từ trước)

Nữ nhân sau bức rèm nghe thế thì lặng người đi, miệng cứ lẩm nhẩm mãi câu thơ gã vừa nói. Dường như từ khi sinh ra, chưa có kẻ nào nói với người đó nhiều điều lạ lùng bằng gã tiểu tử lạ mặt Khúc Văn Xương này.

oOo

Kim Khổng Mậu muốn tránh cho Tần Chính khỏi thấy hổ thẹn, liền cười lên ha hả, cố tình lờ đi câu chuyện về Trảm Mã trà ban nãy. Lão nói:

- Hôm nay gặp được quý vị anh hùng lão phu quả thực đã được mở rộng tầm mắt. Ta mấy chục năm nay bôn ba khắp đại giang nam bắc, đã cất công sưu tầm được một số món đồ thú vị, nhân dịp các vị đều ở đây, lão phu không biết xấu hổ có ý muốn mang ra cho các vị chê cười một phen.

Tần Chính tỏ ra vô cùng cao hứng, ôm quyền nói :

- Cháu đã từ lâu nghe nói Kim thúc thúc sở hữu toàn kỳ trân dị bảo trên thiên hạ, đến bảo khố của đương kim hoàng thượng cũng còn kém vài phần, nay được tận mục sở thị thì còn gì bằng.

Kim Khổng Mậu cười lớn mấy tiếng, đoạn quay sang quát : « Người đâu ! »

Một lát sau, ba gia nhân ăn mặc giống hệt nhau bê ba cái khay có trùm vải đỏ kín mít bước ra. Ba cái khay này dài ngắn to nhỏ khác nhau, thật khiến người ta tò mò.

Kim Khổng Mậu nhấp một ngụm trà rồi nói :

- Lão phu nghe nói Khúc huynh đệ đây sử dụng Cổ Dĩ Lôi Đình đao pháp đã đến mức lô hỏa thuần thanh, thu phát tùy ý. Lại có cây Ẩm Nguyệt đao sát khí chi vương, thực chẳng khác gì hổ mọc thêm cánh, đánh khắp thiên hạ không địch thủ. Chẳng hay Khúc huynh đệ có thể cho lão phu biết ngươi vì mối duyên kỳ ngộ nào mà có được cây bảo đao đó hay chăng ?

Khúc Thừa Dụ nói giọng lạnh như băng :

- Chút công phu nhỏ mọn của tại hạ thật chẳng đáng để cho Kim lâu chủ chê cười. Thanh Ẩm Nguyệt của tại hạ là do gia phụ vì có ơn với người ta nên được người đó đích thân rèn mà tặng lại, chỉ là thứ dao để mổ bò, có gì mà đáng gọi là bảo đao.

Kim Tĩnh Thư đứng bên cạnh nãy giờ, đột nhiên cất tiếng cười khúc khích:

- Khúc bá bá quả thật quá khiêm nhường. Trên thiên hạ thì kiếm được gọi là vua trong các loại binh khí, nhưng theo Tĩnh Thư đao mới là thứ bá đạo vô song, kiếm khó bì được. Trong Thông Thiên giám, mười bảy đường Truy Phong Kiếm của Tào Động chưởng môn phái Điểm Thương được xếp thứ mười bốn, thật chẳng thể xem thường, vậy mà khi nãy kiếm còn chưa kịp ra khỏi vỏ đã phải ôm hận mà về núi. Xem ra, ai mạnh ai yếu đã rõ cả rồi.

Khúc Thừa Dụ dường như không coi lời khen đó vào đâu, nét mặt vẫn vô cùng lạnh lẽo, y nói :

- Kim tiểu thư nói thế cũng không hẳn. Vũ khí trên thiên hạ cái nào cũng có sở trường sở đoản riêng, kiếm hay đao đều vậy cả. Nhưng chỉ vì người ta quá trọng cái đẹp đẽ, mỹ lệ của kiếm pháp mà quên đi mục đích chính, kết quả là sáng tạo ra mấy cái thứ kiếm pháp đàn bà, rặt một lũ nào là Uyên Ương kiếm pháp, Hồi Phong kiếm pháp, Thu Nhạn kiếm pháp. Tên thì hay lắm nhưng khi xuất ra sát khí chỉ được ba phần, chiêu thức nhìn thì diễm lệ kỳ ảo nhưng dùng để dọa trẻ con họa chăng còn hữu dụng. Bản thân ta dùng đao trước giờ chỉ có một mục đích duy nhất, đó là giết người.

Khi Khúc Thừa Dụ nói đến mấy câu cuối cùng thì sát khí từ người y hốt nhiên toát ra khiến mọi người thoạt rùng mình.

Kim Khổng Mậu vỗ tay :

- Nói đúng lắm, nói đúng lắm. Vũ khí dù có đẹp đẽ hay ho đến đâu cũng đều dùng để giết người cả. Vậy lão phu xin mời Khúc huynh đệ ngó thử vật này xem sao.

Nói đoạn liền đưa tay kéo tuột miếng vải đỏ trùm trên cái khay đầu tiên. Tức thì một hộp sắt màu đen lộ ra. Khúc Thừa Dụ quay sang nhìn Kim Khổng Mậu có ý hỏi, Kim Khổng Mậu gật đầu, đoạn lão đưa tay mở nắp hộp. Ngay tức thì một luồng khí nóng từ trong hộp tỏa ra khiến căn phòng đột nhiên như đang trong lò lửa, bọn người của Tử Trường lâu đứng chung quanh đều không luyện nội công, khi gặp luồng nhiệt khí này nhất thời mồ hôi chảy thành giọt.

Khúc Thừa Dụ hai mắt rực sáng, thò tay vào hộp lấy vật đó ra rồi đưa lên cao, mọi người nhìn lại thì ra là một thanh đao toàn thân đỏ rực, đang liên tục tỏa ra luồng nhiệt khí đến rợn người. Khúc Thừa Dụ và Phí Vân đều không kìm được mà thốt lên :

- Quả là bảo đao.

Kim Khổng Mậu vỗ vai Khúc Thừa Dụ mấy cái rồi nói :

- Lão phu biết cây Ẩm Nguyệt của Khúc huynh đệ là do kiếm sư đệ nhất thiên hạ Tư Mã Hành đích thân luyện thành. Nhưng chắc Khúc huynh đệ chưa biết, khi Tư Mã Hành rèn cây Ẩm Nguyệt đó vì sợ nó cô độc lẻ loi nên đã rèn thêm một cây đao nữa, chính là cây Thôn Nhật đao này đây. Cây Ẩm Nguyệt đao của Khúc huynh đệ chí âm chí hàn, còn cây Thôn Nhật đao (Nuốt chửng mặt trời) này chí dương chí nhiệt, thật là trời sinh một cặp vậy. Lão phu cũng vì có chút ơn nghĩa với Tư Mã Hành nên đã được lão tặng cho cây Thôn Nhật đao này.

Khúc Thừa Dụ ánh mắt lộ vẻ sững sờ :

- Thì ra lại có chuyện như thế. Chẳng trách đao chưa xuất ra mà nhiệt khí đã bức người đến vậy.

Kim Khổng Mậu cứ để mặc cho Khúc Thừa Dụ ngắm nghía cây đao quý, đoạn y quay sang Lưu Đan nói :

- Lưu huynh đệ, lão phu biết ngươi xưa nay độc lai độc vãng, lại hoàn toàn không dùng binh khí, thực không nghĩ ra có thứ đồ kỳ trân dị bảo gì có thể khiến ngươi hứng thú. May mắn sao, vào đợt Tết Đoan Ngọ năm ngoái, lão phu có dịp vào diện kiến Chu thế tử ở thành Nam Kinh. Ngài vốn là con trai của đương kim hoàng thượng Minh Thái Tông, khéo sao lại là người yêu thích võ nghệ. Bộ Thông Thiên giám của Kim tộc chúng ta vinh hạnh mà được Chu vương gia tán thưởng nên ngài đã tặng ta vật này để kỷ niệm. Lưu huynh đệ ngươi thử nhìn xem.

Nói xong lão liền đưa tay kéo khăn trùm của cái khay thứ hai xuống. Lần này thì khác hẳn lần trước, chỉ có một cái áo màu vàng nhạt được xếp ngay ngắn đặt trên khay, thoạt nhìn không có gì đặc biệt.

Lưu Đan tuy kiến văn quảng bác nhưng cũng chưa nghĩ ra cái áo này có gì mà trân quý đến vậy, y nhìn Kim Khổng Mậu có ý hỏi. Kim Khổng Mậu tức thì cười lên đắc ý:

- Ha ha, thật hiếm khi nào Lưu học sĩ lại bị làm khó như vậy, cái áo này quả thật có chút bản lãnh. Không dám giấu Lưu huynh đệ, cái áo này tên gọi là Kim Tằm Nhuyễn Giáp, được làm ra từ tơ của chín ngàn chín trăm chín mươi chín con kim tằm, tất cả đều được nuôi bằng thứ lá dâu thượng hạng và mỗi con thì chỉ chọn ra sợi tơ bền nhất. Mặc nó vào thì đao thương bất nhập, hàn nhiệt bất xâm, chất độc dù ghê gớm cỡ nào cũng không làm hại được.

Lưu Đan gật gù vẻ tán thưởng :

- Quả nhiên là bảo vật cổ kim.

Kim Khổng Mậu quay sang Tần Chính lúc này cũng đang nhìn ngắm hai bảo vật kia như mất hồn, lão nói :

- Tần Chính hiền điệt, thứ bảo vật tiếp theo này lão phu đã để dành đến cuối thì đương nhiên cũng là thứ phi thường nhất. Tần Chính hiền điệt và ba vị anh hùng xin đừng chê cười.

Nói đoạn lão kéo luôn tấm khăn trùm cuối cùng xuống để lộ ra một cái hộp bằng ngọc xanh biếc, kế đó hai tay rất thận trọng từ từ mở cái hộp đó ra, tức thì một tiếng nhạc bỗng vút lên nghe rất êm tai. Mọi người đều cùng nhìn vào thì ra trong hộp để một cây sáo. Điểm lạ là toàn thân cây sáo màu đen tuyền và trên thân có tám lỗ bấm, không giống cây sáo thường chỉ có sáu lỗ.

Tần Chính xuất thân danh môn, tinh thông cả cầm kỳ thi họa, vừa nhìn đã biết ngay đây là cây sáo quý. Y cầm cây sáo lên ngắm nghía liền nhất thời cảm thấy bàn tay lạnh buốt, một luồng hàn khí từ cây sáo kia tỏa ra chỉ chực xâm nhập vào nội thể, y vội đề khí hộ thân mới miễn cưỡng chống lại được luồng hàn khí đó.

Kim Khổng Mậu thấy nét mặt Tần Chính thoạt trắng thoạt đỏ thì hiểu ngay cơ sự, liền cười nói :

- Vật này có tên là Huyền Thiết Bát Quái Tiêu. Nó được làm ra từ bốn mươi tám thứ hợp kim quý nhất trên thiên hạ, người làm ra nó sau khi luyện trong vòng bốn mươi chín ngày, đến ngày cuối cùng thì đã dùng máu của chính mình làm vật liệu thứ bốn mươi chín. Cây sáo này có tám lỗ tượng trưng cho Bát Quái, lại có màu đen tuyền nên đặt tên là Huyền Thiết Bát Quái Tiêu.

Lão ngừng một lát rồi nói tiếp :

- Cây Huyền Thiết Bát Quái Tiêu này vì cách luyện ra nó bá đạo như vậy nên bản thân nó là thứ nửa tà nửa chính, nửa thần nửa ma, nửa nóng nửa lạnh, nửa âm nửa dương, biến ảo khó lường, lại có linh tính. Tần Chính hiền điệt khi cầm nó thì bị hàn khí tấn công, đó cũng là chuyện thường tình. Lão phu thì ngược lại, lần đầu tiên chạm vào nó liền thấy có luồng nhiệt khí xông thẳng vào nội thể, nếu không được cảnh báo từ trước e rằng giờ này không còn đứng nơi đây nữa.

Kim Khổng Mậu thấy cả mấy người đều lộ vẻ khâm phục thì đắc ý vô cùng, đoạn lão nói tiếp :

- Cây sáo này nếu chỉ có như vậy thì chưa đáng được gọi là hung khí của cổ kim vạn đại. Nó dựa trên sinh khắc biến hóa của Bát Quái mà làm ra vì thế nên âm thanh của nó có thể biến đổi càn khôn, uy lực không gì tả nổi. Thổi tiếng thứ nhất trời mây vần vũ, thổi tiếng thứ hai biển nổi ba đào, thổi tiếng thứ ba núi non rung chuyển, thổi tiếng thứ tư sấm rung chớp giật, thổi tiếng thứ năm cuồng phong bão táp, thổi tiếng thứ sáu lửa cháy ngút trời, thổi tiếng thứ bảy mặt đất đảo điên, thổi tiếng thứ tám sông nước mênh mông. (9)

Kim Khổng Mậu nhấp một ngụm trà, cười lên một tiếng khoan khoái rồi nói tiếp :

- Người ta nói bảo kiếm tặng anh hùng, mấy thứ đồ vật này hôm nay được gặp quý vị anh hùng đây cũng coi là có duyên vậy. Lão phu có nhã ý muốn tặng lại chúng cho ba vị, không biết ý các vị thế nào ?

Kim Khổng Mậu vừa cười vừa nói nhưng cả bốn người kia đều nghe như sét đánh bên tai. Không lý nào những thứ vũ khí tuyệt thế vô song này lại có thể cho đi dễ dàng như vậy sao ?

Hết chương 4 Chú thích:

(7) Theo thứ tự Văn Xương nói: Trường Cát tức Lý Hạ, thi nhân đời Đường, được mệnh danh là Thi Quỷ. Hy Chi tức Vương Hy Chi, danh gia thư pháp đời Đông Tấn, viết bức Lan Đình Thiếp được coi là đệ nhất trong các bức thư pháp trên thiên hạ. Kê Khang, nhạc sư đời Ngụy Tấn, huyền thoại với khúc Quảng Lăng Tán. Lương Khải, họa sĩ nổi tiếng đời Tống.

(8) Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân, tương phùng hà tất tằng tương thức: Hai câu trong bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị.

(9) Tám âm thanh của cây Huyền Thiết Bát Quái Tiêu này tượng trưng cho tính chất của tám quẻ đơn trong Hậu Thiên Bát Quái. Chi tiết theo thứ tự trong truyện như sau: tiếng thứ nhất: Càn (trời), tiếng thứ hai: Khảm (nước), tiếng thứ ba: Cấn (núi), tiếng thứ tư: Chấn (sấm sét), tiếng thứ năm: Tốn (gió), tiếng thứ sáu: Ly (lửa), tiếng thứ bảy: Khôn (đất), tiếng thứ tám: Đoài (sông,hồ). __________________BÍCH HẢI THANH THIÊN - TIỀN TRUYỆN

CHƯƠNG 5: HOA NGÔN XẢO NGỮ (Phần 1) Tác giả: Nguyên Vân Nguyồn: http://blog.360.yahoo.com/blog-c8pjx...yA-?cq=1&p=111

Văn Xương thấy nữ nhân kia chìm vào suy tư thì nghĩ thầm cũng đã đến lúc cáo lui được rồi, gã còn đang lo lắng chẳng may ông bố Khúc Thừa Dụ khi quay lại mà không thấy gã chắc chắn sẽ lại đập bàn đập ghế, rồi không biết sẽ còn dùng biện pháp nào trừng phạt nữa. Nhưng bỏ đi như vậy thì cũng hơi áy náy, nghĩ đoạn Văn Xương hít một hơi dài rồi ôm quyền hướng về phía bức rèm cúi đầu vái một cái, đoạn nói :

- Tiền bối, giờ cũng muộn rồi, tại hạ xin cáo từ tại đây.

Chờ một lúc không thấy động tĩnh gì, Văn Xương quay lưng chân dợm bước ra cửa. Chợt nghe thấy nữ nhân kia lên tiếng :

- Ngươi đi đấy ư ?

Văn Xương nghe giọng nói mang ý luyến tiếc thì động lòng quay đầu lại :

- Tiền bối, người hãy nghỉ ngơi đi. Cha tại hạ đang chờ ngoài kia, tại hạ phải đi thôi, khi nào có duyên thì sẽ gặp lại.

Người kia chợt thốt lên:

- Khi nào có duyên thì sẽ gặp lại ư ? Vậy biết khi nào có duyên đây ?

Văn Xương nghe câu hỏi đấy thì không biết trả lời ra làm sao, gã nghĩ thầm ta ở Liễu Châu, bà ở Tô Châu, cách xa vạn dặm thì gặp thế quái nào được, hơn nữa bà động một tí là đòi chém đòi giết ta nào có hứng thú gì. Nghĩ vậy gã gãi đầu rồi đáp bừa :

- Tại hạ và tiền bối biết nhau qua khúc Quảng Lăng Tán, vậy chắc khúc nhạc này chính là duyên của chúng ta đó. Khi nào tiền bối tấu được khúc Quảng Lăng Tán đến mức lô hỏa thuần thanh, đăng phong tạo cực, Kê Khang có sống lại cũng phải chịu thua, thì có lẽ chúng ta sẽ gặp lại nhau.

Lại thấy người kia hỏi tiếp :

- Nếu như có lúc như vậy thật, thì gặp nhau ở đâu ?

Văn Xương nghĩ thầm : »Có ở đâu thì ở chứ chắc chắn không phải là cái chốn đao gươm này rồi », nhưng đương nhiên là gã không nói ra. Văn Xương đọc nhiều sách vở, nghĩ đến Tô Châu thì bỗng sực nhớ ra bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc danh tiếng cổ kim, liền nói :

- Tiền bối sống ở đất Tô Châu, chắc hẳn biết Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự, dạ bán chung thanh đáo khách thuyền (1) , vậy cứ lấy tiết Trung Thu năm sau trên Hàn Sơn Tự, không gặp không về.

(Dịch nghĩa: Bên ngoài thành Cô Tô, nơi chùa Hàn Sơn, nửa đêm tiếng chuông chùa vang vọng đến thuyền của khách)

Người kia nói :

- Quân tử nhất ngôn !

Văn Xương gật đầu :

- Tứ mã nan truy !

Đoạn cúi chào một lần nữa rồi quay lưng đi ra cửa. Đúng lúc đó thì nghe tiếng người ở bên ngoài :

- Tiểu thư, đã đến giờ uống thuốc rồi. Xuân nhi vào được không ?

Vừa nghe thấy thế, nữ nhân sau bức rèm hốt hoảng nói :

- Văn Xương, ngươi mau trốn đi.

Văn Xương vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, gã nhíu mày thắc mắc :

- Vì sao lại phải trốn ? Tại hạ có làm điều gì sai đâu ?

Nữ nhân kia tỏ vẻ vô cùng khẩn trương :

- Đừng nói nhiều nữa, mau trốn đi. Nơi này là cấm địa của Tử Trường lâu.

Văn Xương nghe thế mới chợt nhớ ra lúc nãy mình đã phải thề độc là không được tiết lộ chuyện hôm nay với ai, chắc hẳn bên trong có nhiều điều uẩn khúc. Nghĩ vậy gã cũng khẩn trương hơn, mắt dáo dác ngó xung quanh, cả căn phòng này toàn treo cổ cầm, danh họa, thư pháp, rõ ràng không phải nơi để ẩn nấp, gã luống cuống hỏi :

- Trốn ở đâu bây giờ ?

Bên ngoài kia, tiếng của người a hoàn tự xưng là Xuân nhi vẫn ơi ới vọng vào :

- Tiểu thư, đến giờ uống thuốc rồi, Xuân nhi vào nhé ?

Bên trong này, Văn Xương đang chạy loanh quanh tìm chỗ nấp, người nữ nhân đằng sau bức rèm cũng vô cùng nôn nóng, chỉ hận không thể chạy ra được, liên tục chỉ thị :

- Trốn vào sau bức tứ bình đó ? Không được à ? Ngươi chui vào tủ đi ? Sao ? Cũng không được à ? Trời ơi...làm sao đây ?

A hoàn Xuân nhi dường như đã mất hết kiên nhẫn :

- Tiểu thư, tiểu thư có làm sao không ? Đại phu dặn là thuốc này mà không uống đúng giờ thì sẽ vô dụng đó !

Có vẻ như cô ta sợ người bên trong căn phòng kia xảy ra chuyện bất trắc, liền đánh liều lên tiếng :

- Tiểu thư, tiểu thư vẫn bình an chứ ? Trời ơi, tiểu thư có làm sao thì Xuân nhi chắc sẽ bị phanh thây ra mất. Xuân nhi vào nhé.

Nói đoạn, liền đẩy cửa xông thẳng vào.

Xuân nhi bước vào thấy mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn, lại thấy bóng dáng người kia thấp thoáng đằng sau bức rèm thì mới yên tâm phần nào, vội cúi người thi lễ :

- Tiểu thư thứ lỗi, Xuân nhi gọi mãi không thấy tiểu thư đáp lời nên sinh lòng lo lắng, đã tự tiện xông vào.

Nữ nhân kia trầm giọng đáp :

- Hôm nay ta cảm thấy không khỏe lắm, vừa rồi mới chợp mắt một lúc, ta không sao, em cứ yên tâm.

Xuân nhi đáp :

- Tiểu thư không khỏe chỗ nào ạ ? Có phải vẫn là căn bệnh đó không ? Để Xuân nhi gọi đại phu nhé ?

Nữ nhân kia trả lời :

- Ta không sao, chắc thời tiết chuyển sang mùa thu nên ta hơi khó ở một chút thôi.

Văn Xương lúc này đang nằm ép mình đằng sau người nữ nhân kia, nghe hai người đối thoại mà mồ hôi toát ra như tắm. Nguyên do lúc vừa rồi, khi gã loay hoay mãi không tìm được chỗ nấp, lại thấy a hoàn Xuân nhi sắp tung cửa vào đến nơi, nữ nhân đằng sau bức rèm liền quát một tiếng :

- Thôi, ngươi lại đây.

Tức thì Văn Xương thấy một dải lụa đỏ phóng vụt ra, quấn lấy quanh thân mình, chưa kịp định thần thì đã thấy người mình bị nhấc bổng lên rồi bay thằng vào bên trong bức rèm kia. Nói thì dài dòng nhưng mọi chuyện chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, Văn Xương chưa kịp hiểu chuyện gì thì đã thấy mình đang nằm mọp trên sàn đằng sau lưng người nữ nhân kia rồi. Gã nằm đó ngửi được một mùi hương hoa lan thoang thoảng tỏa ra khiến thần trí như bay bổng. Văn Xương bất giác hé mắt nhìn trộm thì chỉ thấy một tấm lưng vô cùng thon thả hiện ra trước mặt, mái tóc đen mượt mà thả xuống đến ngang thắt lưng, người này mặc một bộ áo lụa màu đỏ, trước mặt để một cây cổ cầm có lẽ là khi nãy vừa tấu, nhưng thủy chung gã vẫn không thể nào nhìn thấy mặt nữ nhân kỳ lạ kia.

Lúc này Văn Xương đang cố hết sức thu mình lại để a hoàn Xuân Nhi kia không nhìn thấy, trong bụng lầm rầm khấn tổ tiên mười tám đời nhà mình phù hộ cho ả Xuân nhi kia không nổi hứng mà tiến lại gần. Đoạn nghe thấy người nữ nhân kia nói :

- Xuân nhi, ta hơi mệt nên muốn đi nghỉ, em cứ để bát thuốc ở đó rồi ta sẽ uống sau.

A hoàn kia vẫn khăng khăng :

- Không được đâu tiểu thư, lão gia dặn phải chính mắt nhìn thấy tiểu thư uống hết bát thuốc rồi Xuân nhi mới được đi ra.

Nữ nhân kia cau mày :

- Hừ, bây giờ em không coi lời ta ra gì phải không ? Cả cha nữa, ta có còn là trẻ con nữa đâu.

Văn Xương từ lúc đầu chỉ giao tiếp với nữ nhân này qua bức rèm thì không nghe rõ giọng nói, lại cũng không để ý nên vẫn một tiếng tiền bối, hai tiếng tiền bối. Nay ở ngay bên cạnh thì nghe thấy tiếng người này nói vô cùng êm ái, so với Kim Tĩnh Thư thì tuy không thánh thót bằng nhưng lại có mỵ lực hơn hẳn. Lòng gã bắt đầu nảy sinh muôn vàn nghi ngờ.

A hoàn Xuân nhi thấy chủ nhân nổi giận thì luống cuống chân tay, rơm rớm nước mắt :

- Xuân nhi không dám, Xuân nhi không dám, tiểu thư đừng giận Xuân nhi.

Nữ nhân kia thấy ả đã biết sợ thì dịu giọng :

- Ta không giận đâu. Vậy em để bát thuốc xuống rồi lui ra đi, ta muốn nghỉ ngơi.

Xuân nhi líu ríu quẹt nước mắt, dạ một tiếng thật to rồi đặt bát thuốc còn bốc khói xuống, đoạn lui thẳng ra ngoài cửa.

Xuân nhi đi một lát rồi nhưng Văn Xương vẫn nằm bẹp đằng sau, gã từ bé chưa bao giờ tiếp xúc với nữ nhân, nay được kề cận người ngọc, lại có mùi hương quyến rũ thì tâm hồn đảo điên, mơ mơ màng màng. Chợt nghe thấy một tiếng quát :

- Ngươi còn chưa chịu đi ra ?

Văn Xương choàng tỉnh, lồm cồm bò dậy đi ra, vừa định quay lại nhìn thì nghe tiếng quát :

- Cấm không được quay đầu lại, nếu không đừng trách ta móc hai mắt ngươi ra.

Văn Xương trong bụng tiếc hùi hụi nhưng cũng không dám quay đầu lại, đoạn đi thẳng ra cửa. Đến gần cửa, vẫn nghe thấy tiếng người đó vọng theo :

- Ngươi nhớ lời thề của ngươi đó, nếu nói ra nửa lời đừng trách ta độc ác.

Văn Xương rủa thầm trong bụng mấy câu, vừa rồi thì quyến luyến đòi hẹn đòi gặp, giờ thì đòi chém đòi giết, tính nết con gái thật không biết đâu mà lường. Đoạn không thèm trả lời, đẩy cửa bước thẳng ra ngoài.

Văn Xương ra đến ngoài thì hít một hơi thật sâu, tinh thần khoan khoái, nghĩ thầm lão tử phải ở trong căn phòng quái quỷ đó cả canh giờ nên đầu óc cũng hồ đồ theo, đoạn rảo bước đi thằng theo lối cũ ra đại sảnh đường.

Vừa đi được ba bước chợt nghe tiếng hô :

- Thích khách, có thích khách ! Có kẻ đột nhập cấm địa !

Giọng nói vô cùng quen thuộc, Văn Xương tức thì mồ hôi toát ra như tắm.

oOo

Kim Khổng Mậu thấy mấy người kia lộ vẻ bán tin bán nghi thì mỉm cười :

- Các vị anh hùng, mấy món đồ này dù quý giá đến đâu cũng chỉ là vật vô tri vô giác, huống chi người trong Tử Trường lâu chẳng có ai luyện võ nghệ, để chúng ở đây cũng là uổng phí. Nay gặp được các vị, thôi thì để lão phu hoàn thành mối duyên, bảo kiếm tặng anh hùng là xong.

Kim Tĩnh Thư nghe thấy thế thì ôm cổ Kim Khổng Mậu, nói giọng nũng nịu :

- Cha thật là bất công, mọi người ai cũng đều có tặng phẩm cả, chỉ có Tĩnh Thư chẳng được gì hết !

Kim Khổng Mậu người lên ha hả, đoạn nói :

- Đứa tiểu quỷ nhà mi cái gì chẳng có, lại còn đòi gì nữa. Hay là ở đây có hai vị thanh niên tuấn tú, lại văn võ song toàn, thôi thì ta chọn một người, gả quách mi cho hắn, xem như quà tặng vậy nhé ?

Kim Tĩnh Thư nghe thấy thế thì đấm thùm thụp vào người lão, giọng nửa dận giỗi :

- Con không chịu đâu, cha thật là xấu, làm bẽ mặt con gái trước mặt mọi người.

Kim Khổng Mậu cứ ngửa mặt lên trời cười không ngớt, Phí Vân nghe mấy lời vừa rồi không hiểu sao mặt đỏ đến tận mang tai, lòng chợt dâng lên một niềm vui kỳ lạ. Tần Chính thì đứng phe phẩy quạt, miệng mỉm cười, ánh mắt lấp lánh.

Chợt nghe Lưu Đan cất tiếng :

- Kim lâu chủ, hảo ý của ngài Lưu mỗ xin tâm lãnh. Chỉ có điều, người ta có câu vô công bất thụ lộc, huống chi lại là những thứ đồ vô cùng quý giá như thế này, Lưu mỗ trước giờ chưa từng làm gì cho Tử Trường lâu, tuyệt đối không dám nhận.

Khúc Thừa Dụ cũng gật đầu, đoạn đặt cây Thôn Nhật đao vào trong hộp :

- Lưu Đan ngươi nói đúng lắm. Tấm thịnh tình của Kim lâu chủ, Khúc Thừa Dụ này xin ghi nhận nhưng ta trước giờ không quen thụ ơn người khác.

Kim Khổng Mậu thấy vậy, miệng vẫn không hề tắt nụ cười, lão nói :

- Hay cho câu vô công bất thụ lộc, chính là bản lĩnh của trang nam tử. Nhưng quý vị đừng hiểu lầm, mấy món đồ đó là tấm lòng của ta biệt nhãn liên tài, tuyệt đối không có ý gì cầu cạnh, mà ngược lại đó xem như là món quà ra mắt, mai sau này chúng ta có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu.

Lưu, Khúc hai người bất giác đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ thầm ta với ngươi cũng chỉ bèo nước gặp nhau, Lưu-Khúc-Kim ba nhà trước giờ không có thù nhưng cũng chẳng thân, cái gì mà có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu.

Kim Khổng Mậu rót một chén trà, đoạn đi về phía cửa sổ, phóng tầm mắt ra ngắm nhìn toàn cảnh Tử Trường lâu hùng vĩ ở bên dưới, lưng vẫn quay về phía mấy người kia, lão cất tiếng nói :

- Lão phu đã ở cái tuổi gần đất xa trời, cơ nghiệp này rồi cuối cùng cũng do Tĩnh Thư và đám người trẻ tuổi tiếp quản. Lão phu làm lâu chủ đã được ba mươi năm, luôn dốc lòng dốc sức gầy dựng Tử Trường lâu, chưa một ngày nào ngơi nghỉ, mai sau có gặp lại các vị tiền bối dưới suối vàng cũng không có gì phải hổ thẹn.

Lão nhấp một miếng trà, đoạn nói tiếp :

- Nhưng trong lòng lão phu vẫn canh cánh một nỗi niềm, tuy Lưu-Khúc-Tần-Kim bốn nhà chúng ta uy thế lớn mạnh, nhưng dõi mắt nhìn ra xa thì thấy giang hồ hiện nay vẫn chia năm xẻ bảy, các bang phái chỉ vì quyền lực mà đấu đá chém giết không ngừng, thật là đau lòng mà không làm gì được. Tụ lại thì mạnh, tản ra thì yếu, lão phu đã nhiều năm suy ngẫm chỉ mong tìm ra một con đường giúp cho võ lâm đồng đạo ban đêm có thể kê cao gối ngủ. Cuối cùng ta ngộ ra rằng để chấm dứt tình trạng này thì phải có một thế lực nào đó đứng ra chủ trì đại cục, ổn định lòng nhân.

Lưu Đan và Khúc Thừa Dụ không hẹn mà cùng đưa mắt nhìn nhau, gã Kim Khổng Mậu này tổn bao công sức mời mọc, bàn luận cả nửa buổi, cuối cùng thì cũng đến lúc hạ màn rồi. Lại nghe Tần Chính nói :

- Kim thúc thúc, ý thúc thúc có phải là muốn một ai đó như Thủy Hoàng Đế ngày xưa, gom thâu lục quốc ?

Kim Khổng Mậu quay người lại nhìn thẳng vào mấy người đứng đó, ánh mắt lấp lánh :

- Tần Chính hiền điệt quả là hiểu ý ta. Đúng vậy, nhớ năm xưa Tần, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, Tề thất quốc (2) phân tranh cả mấy trăm năm, thiên hạ đại loạn, khổ sở không sao mà kể hết được. Cuối cùng chỉ có Tần Doanh Chính hùng tài đại lược, lại vượt qua lời điều tiếng của những kẻ không hiểu thời cuộc, đứng lên thâu gom lục quốc, thống nhất Trung Nguyên. Thử hỏi hiện nay giang hồ nào có khác gì ? Những môn phái mang danh Thái Sơn Bắc Đẩu như Thiếu Lâm thì đã từ lâu chỉ đóng cửa tịnh tu, không màng thế sự. Võ Đang thì chuyên tâm dốc sức nghiên cứu Đạo giáo, quanh năm ẩn mình trên núi, chỉ còn tứ đại gia trang chúng ta là vẫn giữ được danh tiếng trên giang hồ, nếu như đến chúng ta cũng tự thủ bàng quan, thì hỏi giang hồ đồng đạo biết trông vào ai ?

Phí Vân bỗng lên tiếng :

- Kim lâu chủ, tại hạ vẫn chưa hiểu, các môn phái trên thiên hạ tuy có tranh chấp nhưng đó là việc nội bộ của họ. Các đại phái đều đã thành lập được cả mấy trăm năm nay, lịch sử thăng trầm lúc nào cũng có, e rằng nếu có ai đó can thiệp vào thì đó mới chính là đi ngược lại với ý muốn của họ.

Kim Khổng Mậu lắc đầu :

- Phí Vân hiền điệt nói sai rồi. Bản thân các môn phái đó đều bị cuốn vào vòng chém giết thì làm sao còn biết được đúng sai ? Cũng như người mãi đứng giữa dòng nước đục, sẽ chẳng thể biết được nước đục hay trong, nhưng kẻ đứng trên bờ ắt sẽ nhìn thấy. Nếu không có một ai đó hiệu lệnh thiên hạ, e rằng hậu quả khôn lường.

Lão dừng một lúc, đoạn lại nói tiếp

- Bốn nhà Lưu Khúc Tần Kim hiện nay đều được đồng đạo võ lâm kính trọng, chính là trời đã sắp đặt cho chúng ta phải gánh vác đại cuộc vậy. Nếu như chúng ta có thể bỏ qua chút tự kỷ cá nhân, châu về hợp phố, ấy chính là phúc của giới võ lâm Trung Nguyên đó.

Phí Vân nhíu mày :

- Ý của Kim lâu chủ là...

Kim Khổng Mậu tức thì mục quang ngời sáng, nói từng tiếng một :

- Chính là bốn đại gia chúng ta liên kết lại, trở thành một bang hội thống nhất. Từ giờ trên giang hồ sẽ không còn tứ đại gia trang nữa, mà chỉ còn nhất đại gia trang, thống lĩnh quần hùng mà thôi.

Tức thì nghe đến rắc một tiếng, chén trà trên tay Khúc Thừa Dụ đã bị y vì tức giận mà bóp đến vỡ tan, y mặt mày hầm hầm, quát lớn :

- Đúng là đánh rắm, cái gì mà bang hội thống nhất, nhất đại gia trang, toàn là rắm chó. Nói đi nói lại, cũng chỉ là muốn trở thành võ lâm minh chủ. Khúc Thừa Dụ ta là kẻ bất tài, Khúc gia trang cũng chẳng dám gọi là thế lực cái con mẹ gì, nhưng ta từ khi tiếp quản chưa bao giờ làm chuyện gì xấu hổ với liệt tổ liệt tông. Khúc gia trang là do các tiền nhân dòng họ Khúc đổ xương máu ra gầy dựng, ta hổ thẹn chưa thể phát dương quang đại nó thì thôi, sao lại hai tay dâng nó cho người ngoài được.

Kim Khổng Mậu thấy Khúc Thừa Dụ ăn nói bạt mạng, chẳng nể nang gì thì mặt biến sắc, tuy nhiên lão vẫn giữ được giọng nói hòa hoãn :

- Khúc huynh đệ hiểu nhầm rồi, lão phu nào dám bảo Khúc huynh đệ hai tay dâng cả Khúc gia trang lên. Ý của ta là hiện nay tứ đại gia trang người nào lo việc nấy nên sức mạnh bị chia cắt, nếu có thể hợp tung lại thành một trang viện duy nhất nằm dưới sự lãnh đạo của một người, thì lúc đó sẽ như hổ mọc thêm cánh, có việc gì mà không làm được. Nếu như việc này thành công, lão phu xin hai tay dâng lên ấn tín của Tử Trường lâu, mời Khúc huynh đệ đây lên làm thủ lĩnh, chủ trì đại cuộc, chấm dứt tình trạng quần long vô thủ.

Khúc Thừa Dụ lại càng tức giận, râu tóc dựng ngược cả lên :

- Càng nói càng thấy thối. Khúc Thừa Dụ ta cần quái gì cái chức thủ lĩnh rắm chó đó, nếu các người muốn hợp ngang hợp dọc cái gì thì mặc kệ, Khúc mỗ nhất định không nằm trong số đó. Khúc gia trang trước giờ tự lo được chuyện của nhà mình, không cần ai hiệu lệnh, cũng không cần can thiệp vào chuyện của bang phái nào cả.

Lưu Đan nãy giờ đứng trầm ngâm, bỗng chợt lên tiếng :

- Kim lâu chủ, hảo ý của ngài Lưu mỗ xin tâm lãnh. Chỉ có điều Lưu Đan ta trước giờ độc lai độc vãng, không quen chịu sự chỉ thị của người khác, cũng không có tham vọng với cái gì gọi là thống nhất thiên hạ đó. Lưu gia trang xin đứng ngoài cuộc vậy.

Kim Khổng Mậu hai mắt nheo tít lại :

- Hừ, Lưu huynh đệ và Khúc huynh đệ hai vị đều chỉ mong ngồi một chỗ hưởng thái bình, chẳng hề quan tâm đến sống chết của võ lâm đồng đạo, như vậy chẳng phải là vị kỷ lắm ư ?

Lưu Đan ngửa mặt lên trời cười ngất :

- Kim lâu chủ, ngài không phải là cá, sao biết cá không vui ?

Kim Khổng Mậu nét mặt tái xạm, công sức của lão bao nhiêu năm qua, chẳng nhẽ đổ sông đổ bể dễ dàng vậy sao, lão quay sang Tần Chính :

- Như vậy kế hoạch hợp tung đã có hai nhà phản đối, không biết ý của Tần gia thì thế nào ?

Tần Chính vô cùng bối rối, mấy ngày qua y ở Tử Trường lâu đã cùng với Kim Tĩnh Thư như hình với bóng, trong lòng vốn đã xem Kim Khổng Mậu như nhạc phụ tương lai của mình, làm mất lòng Kim Khổng Mậu rõ ràng là điều y không hề muốn. Tuy nhiên dù y là con trưởng của Tần Hạo thì những việc liên quan đến tồn vinh của Thính Vũ Lâu y chẳng thể tự quyết định được. Tần Chính ngập ngừng :

- Kim thúc thúc, tấm lòng của thúc thúc Tần Chính rất hiểu và cũng một lòng ủng hộ. Chỉ có điều, việc hệ trọng như vậy, cháu không thể tự quyết được. Mong Kim thúc thúc cho cháu một thời gian , sẽ về thỉnh ý của cha xem.

Kim Khổng Mậu hừ một tiếng :

- Tần Chính hiền điệt nói sai rồi. Ngươi là con trai trưởng của Tần lâu chủ, chỉ trong vài năm nữa thôi thì Thính Vũ lâu sẽ là do ngươi cai quản, nay trước một cơ hội để phát dương quang đại Thính Vũ lâu như vậy mà ngươi không thể tự quyết được, e rằng mai sau sẽ khó mà phục chúng.

Kim Tĩnh Thư cũng đến bên cạnh Tần Chính nở nụ cười mê hồn :

- Chính ca, đây chính là cơ hội tốt để hai nhà Tần-Kim chúng ta gia tăng thêm sức mạnh. Nếu Tử Trường lâu và Thính Vũ lâu hợp lại rồi, huynh và muội sẽ là người một nhà, chẳng phải là lưỡng toàn kỳ mỹ sao ?

Tần Chính nghe Kim Khổng Mậu tỏ ý trách mắng thì đã sớm toát mồ hôi đầm đìa, lại nghe câu nói "người một nhà" đầy ý tứ của Kim Tĩnh Thư hồn vía tức thì lên mây, y ôm quyền nói giọng quả quyết :

- Kim thúc thúc, Tĩnh Thư muội, nếu đã là như vậy, từ nay về sau Thính Vũ lâu và Tử Trường lâu sẽ như cây liền cành, phúc họa cùng hưởng. Tần Chính này còn sống ngày nào, sẽ dốc hết sức mình cho kế hoạch hợp tung của hai nhà Tần-Kim.

Kim Khổng Mậu cười lên ha hả :

- Tốt quá, tốt quá, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt. Tần Chính hiền điệt quả không hổ là người kế tục Thần Phiến Tần Hạo, đúng là rồng trong loài người.

Kim Tĩnh Thư mặt hoa ửng hồng, nụ cười chúm chím, đứng nép vào bên người cha tay vân vê tà áo, vẻ đẹp như thiên tiên đó khiến cho Tần Chính càng thêm mê mẩn tâm thần.

Phí Vân vốn chẳng quan tâm đến cái gì thống nhất giang hồ, thậm chí trong thâm tâm hắn còn có ý phản đối, nhưng thấy Tần Chính và Kim Tĩnh Thư đầu mày cuối mắt như sắp thành người một nhà đến nơi thì lồng ngực bất chợt đau nhói.

Khúc Thừa Dụ vẫn chưa nguôi giận, lại nhìn thấy Tần Chính vì nữ sắc mà cũng vào hùa một phe với Kim Khổng Mậu thì lại càng thêm chán ghét, quay người định bỏ đi chợt thấy một tên gia nhân của Tử Trường lâu hớt hải chạy vào rồi quỳ mọp xuống :

- Bẩm báo lâu chủ, có việc hệ trọng.

Kim Khổng Mậu ngày thường dạy thuộc hạ rất nghiêm, nay nhìn thấy thế thì cau mày lại :

- To gan, ngươi có biết ta đang tiếp khách quý hay không ? Sao dám tự ý vào đây ?

Người kia vẫn quỳ dưới đất :

- Thuộc hạ biết tội, nhưng việc này quá sức hệ trọng nên thuộc hạ không dám chậm trễ, chỉ e rằng hậu quả khó lường.

Kim Khổng Mậu phẩy tay :

- Rốt cuộc là có chuyện gì ? Cứ nói đi, ở đây toàn người nhà cả.

Người kia vẫn không dám ngẩng đầu lên, giọng nói run run :

- Bẩm báo lâu chủ, có kẻ lạ đột nhập vào cấm địa.

Kim Khổng Mậu hai mắt trợn tròn :

- Cái gì ?

oOo

Chú thích

(1) Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự, dạ bán chung thanh đáo khách thuyền : Hai câu thơ trong bài Phong Kiều Dạ Bạc nổi tiếng của Trương Kế đời Đường.

(2) Trong thời Chiến Quốc (tiếp sau thời Xuân Thu) kéo dài từ thế kỷ thứ 5 trước CN đến năm 221 trước CN, cả nước Trung Quốc bị phân chia ra thành rất nhiều nước chư hầu nhỏ, chiến tranh liên miên. Trong đó nổi lên 7 nước mạnh nhất được gọi là Chiến Quốc Thất Hùng là Tần, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy (3 nước này gọi chung là Tam Tấn) và Tề. Đến cuối thời Chiến Quốc, Tần trở thành nước mạnh nhất sau sự xuống dốc của Tề và Sở, sáu nước còn lại theo kế của Tô Tần đã theo phép "hợp tung" để chống Tần. Tuy nhiên sau đó thì bị Lý Tư và Trương Nghi của Tần kích động kế "liên hoành" chia rẽ lục quốc. Tần Doanh Chính lúc đó là vua của nước Tần đã dùng vũ lực thôn tính cả sáu nước kia, thống nhất Trung Quốc vào năm 221 trước CN.

BÍCH HẢI THANH THIÊN - TIỀN TRUYỆN

CHƯƠNG 5: HOA NGÔN XẢO NGỮ (Phần 2) Tác giả: Nguyên Vân Nguyồn: http://blog.360.yahoo.com/blog-c8pjx...yA-?cq=1&p=111

Văn Xương nghe tiếng tri hô, tức thì nhận ngay ra đó là a hoàn Xuân Nhi khi nãy vừa bê thuốc vào.

Nguyên do Xuân Nhi sau khi bị chủ nhân trách mắng thì lủi thủi đi ra ngoài, đi được một lúc thì bỗng sực nhớ ra có chuyện cần bẩm báo liền tức tốc quay lại, ai dè gặp một tên tiểu tử lạ hoắc đang lơ ngơ ngay cấm địa của Tử Trường lâu nên tức thì cất tiếng hô hoán ầm ỹ.

Văn Xương bị tiếng kêu làm cho luống cuống cả tay chân, gã rối rít thanh minh :

- Không phải, không phải, tỷ tỷ hiểu nhầm rồi, tôi không phải thích khách...

A hoàn tên Xuân Nhi nào để cho gã nói nhiều, miệng vẫn la inh ỏi :

- Bớ người ta có thích khách, có kẻ đột nhập !

Văn Xương còn chưa biết làm thế nào thì đã thấy hai gã cận vệ to như hộ pháp hùng hổ chạy từ ngoài vào. Hai tên này mặc quần áo khác hẳn bọn gia nhân trong Tử Trường lâu, có lẽ là thuộc một đội bảo vệ riêng cho khu vực này. Văn Xương thấy hai kẻ này cơ bắp nổi lên cuồn cuộn, mặt mày hung tợn, lưỡng quyền nhô cao thì đã thầm than khổ.

Hai kẻ kia nghe tiếng kêu la chạy đến thấy Xuân Nhi đang đứng đó mếu máo thì hỏi :

- Thích khách đâu ?

Xuân Nhi chỉ thẳng vào Văn Xương :

- Là hắn đó !

Hai người kia chẳng nói chẳng rằng, thân thủ nhanh như chim cắt, một người dùng hai cánh tay như gọng kìm xiết chặt Văn Xương lại, người kia đạp thẳng vào bắp chân của Văn Xương khiến gã khuỵu xuống. Gã đau quá buột miệng thóa mạ :

- Con bà nó !

Tên kia lại đạp vào chân còn lại khiến Văn Xương quỳ hẳn xuống, cơn đau dội lên tận óc, tưởng chừng không thở nổi.

Một tên cất tiếng hỏi :

- Nói mau, ai sai khiến ngươi vào đây hành thích ?

Văn Xương dở khóc dở cười, gã nửa chiêu không biết thì hành thích ai, cố nhịn đau trả lời :

- Ta...ta đâu phải thích khách, làm gì có ai sai khiến...

Tên kia hỏi :

- Hừ, lại còn chối nữa, nếu không phải thích khách thì ngươi vào đây làm gì ?

Văn Xương nghiến răng :

- Ta đến tham dự Võ Học Thông Biện hội, không phải thích khách.

Tên kia quát :

- Nói láo, nếu là tham dự Võ Học Thông Biện hội thì tại sao ngươi không ở ngoài đại sảnh ? Nói mau, ngươi xâm nhập vào cấm địa này làm gì ?

Văn Xương ngơ ngác :

- Cấm địa cái gì ? Ta đâu có biết nơi này là cấm địa ?

Xuân Nhi cất giọng the thé :

- Nói láo, nói láo. Ta thấy ngươi bộ dạng lấm lét, nhìn trước ngó sau, rõ ràng là cố tình xâm nhập, lại còn chối nữa.

Ả vừa nói xong thì tên đang khống chế Văn Xương thúc vào sau lưng gã một cái khiến cho gã đau đến nổ đom đóm mắt. Một tên lại hỏi tiếp:

- Hừ, nếu ngươi không biết nơi này là cấm địa thì tại sao lại mò đến tận đây? Hơn nữa, đường đi từ đây đến đại sảnh vô cùng phức tạp, ngươi chỉ là khách của Tử Trường lâu thì làm sao tự tìm đường đến được?

Văn Xương ôm nỗi khổ không nói ra được. Gã vốn hâm mộ tiếng đàn nên cứ lần theo đó mà đến đây, chẳng hề để ý đường đi như thế nào, giả sử bảo gã bây giờ tự tìm đường về chỗ cũ cũng chưa chắc đã làm được. Nhưng gã đã có lời thề với nữ nhân trong căn phòng kia, tuyệt đối không được tiết lộ chuyện hôm nay ra ngoài, kết quả là gã ú ớ không biết phải giải thích ra làm sao.

Tên kia lại thúc vào lưng gã một cái nữa, đoạn quát lớn:

- Nói mau, ngươi xâm nhập cấm địa có âm mưu gì?

Văn Xương đau quá, luống cuống đáp:

- Là ta vì mải ngắm cảnh nên lạc đến đây.

Vừa nói ra thì đã biết câu trả lời như thế đến người ngu cũng chẳng thể tin được. Hai kẻ kia thấy Văn Xương vòng vo nhất quyết không chịu nói thì nổi giận, một người xiết chặt gọng kìm, một người đấm thẳng một quyền vào bụng gã. Văn Xương đau quá suýt nữa thì ngất đi.

Một tên rút trong người ra một thanh trủy thủ, nhìn ánh dao xanh biếc đến rợn người. Đoạn y dí mũi dao vào cổ Văn Xương, mặt đầy sát khí.

- Lâu chủ đã có lệnh, kẻ nào xâm nhập cấm địa giết chết không tha, nay ngươi cứng đầu nhất quyết không chịu nói thì e có sống cũng vô ích mà thôi. Ta một dao này tiễn ngươi về Tây Thiên.

Nói đoạn tay vung cao lưỡi trủy thủ, chuẩn bị đâm thẳng vào người gã. Văn Xương thấy lưỡi dao sắp cắm thẳng vào yết hầu mình thì nhắm mắt lại, trong đầu chửi thầm lão tử quả là xui tận mạng, một thân tài nghệ lại chết tức tưởi như thế này.

Đúng lúc đó thì có tiếng quát:

- Dừng tay!

Tên kia vội thu tay lại. Văn Xương tưởng chết đến nơi lại thấy con đường sống thì cảm giác như được tái sinh, mắt he hé mở ra xem ai là ân nhân cứu mạng. Chỉ thấy một người uy nghiêm bệ vệ đứng đó, chỉ nhìn y phục cũng đủ biết đó là kẻ có thân phận rất cao.

Hai tên kia cùng Xuân Nhi vội quỳ mọp xuống:

- Lâu chủ vạn phúc.

Văn Xương lúc bấy giờ mới biết kẻ vừa cứu y chính là đỉnh đỉnh đại danh lâu chủ Tử Trường lâu Kim Khổng Mậu.

oOo

Kim Khổng Mậu cau mày, giọng nói đầy uy lực:

- Có chuyện gì?

Xuân Nhi quỳ mọp người, giọng run run:

- Bẩm lâu chủ, tiểu tỳ có nhiệm vụ đưa thuốc đến cấm địa, vừa làm xong nhiệm vụ thì thấy có kẻ đang xâm nhập, ý đồ bất minh. Tiểu tỳ vội hô hoán lên, hai vị đại ca Tiểu Ngưu và Tiểu Mã nghe tiếng thì chạy đến đã bắt gọn được thích khách. Tiểu tỳ đáng chết đã làm kinh động đến lâu chủ.

Tiểu Ngưu và Tiểu Mã chính là hai kẻ đang khống chế Văn Xương. Kim Khổng Mậu liếc nhìn thấy kẻ xâm nhập đang bị trói nghiến lại thì tỏ vẻ hài lòng, tuy nhiên giọng y vẫn rất nghiêm khắc:

- Hừ, nô tỳ to gan. Ngươi không chỉ kinh động đến lão phu mà còn kinh động đến tất cả khách quý của Tử Trường lâu nữa. Tiểu Kê thấy ngươi la lối ầm ỹ nên đã chạy đến tận Thông Thiên các để bẩm báo. Nhưng lão phu niệm tình ngươi vì sự an toàn của Tử Trường lâu nên mới làm vậy, xét ra công có thể thay tội.

Xuân Nhi càng mọp người xuống, giọng nói đã lạc hẳn đi vì run sợ:

- Tiểu tỳ biết tội, tiểu tỳ biết tội, đa tạ lâu chủ đã lưu tình.

Kim Khổng Mậu quay sang nhìn Văn Xương, thấy gã đầu đang cúi gằm, toàn thân tơi tả thì bất giác cau mày, lão hỏi:

- Ngươi là ai? Tại sao dám cả gan xâm nhập cấm địa?

Văn Xương lắc đầu không nói không rằng, gã đã chán ngán chẳng thèm giải thích, bởi biết nói gì thì đám người kia cũng không tin mình. Kim Khổng Mậu quát:

- Tiểu tặc to gan, dám không trả lời lão phu ư? Có tin ta giam ngươi vào địa lao dùng cực hình tra khảo không?

Văn Xương vẫn cúi gằm mặt không nói gì nhưng đầu gã thì đang tính toán liên hồi xem lão lâu chủ này sẽ xử lý mình như thế nào.

Kim Khổng Mậu chợt nhớ ra điều gì đó, lão thoạt nhìn về phía căn phòng đang đóng cửa im ỉm kia, rồi lại nhìn Văn Xương, giọng nói run run:

- Nói mau, ngươi đã xâm nhập vào Thúy Trúc hiên chưa?

Nghe thế, Văn Xương bất giác liếc mắt nhìn lên thì ra căn phòng mình vừa vào tên là Thúy Trúc hiên, quả là tên cũng như người, thanh cao u nhã. Gã lắc đầu:

- Ta chưa vào.

Kim Khổng Mậu bấy giờ mới yên tâm phần nào, lão quát lớn:

- Ngẩng đầu lên, để lão phu xem ngươi là kẻ như thế nào mà dám xâm nhập cấm địa của Tử Trường lâu?

Văn Xương đầu vẫn cúi gằm, không nói gì cả. Gã Tiểu Ngưu đứng bên cạnh tức thì bóp lấy cằm gã đau điếng, đoạn nâng khuôn mặt của gã lên. Đúng lúc đấy thì nghe tiếng kêu đầy ngạc nhiên:

- Văn Xương, thằng tiểu tử thối, mày làm gì ở đây?

Văn Xương nghe tiếng người đó mười phần thân thuộc thì cũng ngạc nhiên mở choàng mắt ra. Hóa ra Khúc Thừa Dụ đang đứng đó từ lúc nào, hai mắt đang trợn tròn nhìn gã. Lại có cả Phí Vân, Lưu Đan, Kim Tĩnh Thư mấy người đều đang đứng xung quanh. Phí Vân thấy gã thì mừng rỡ:

- Văn Xương, em đến đây từ lúc nào thế?

Văn Xương như chết đuối vớ được cọc, quên cả đau, toét miệng cười:

- Cha, Vân huynh, sao mọi người cũng ở đây?

Kim Khổng Mậu thấy sự tình biến đổi ra đến mức này thì hai hàng lông mày nhăn tít lại, lão quay về phía Khúc Thừa Dụ hỏi giọng đầy nghi hoặc:

- Khúc huynh đệ, vậy vị công tử này là...

Khúc Thừa Dụ tức giận đến mặt mũi đỏ ửng, giọng trả lời đầy hổ thẹn:

- Kim lâu chủ thứ lỗi, là ta dạy con không nghiêm, thằng tiểu tử kia tên là Khúc Văn Xương, chính là con trai ta.

Nguyên lai Kim Khổng Mậu nghe tên Tiểu Kê vào bẩm báo có kẻ xâm nhập cấm địa thì tức tốc chạy đến ngay. Bọn mấy người Lưu Đan, Khúc Thừa Dụ, Kim Tĩnh Thư, Tần Chính thấy sự tình khẩn cấp cũng liền đi theo, trong đầu bán tin bán nghi không hiểu kẻ nào ba đầu sáu tay lại dám xâm nhập cấm địa Tử Trường lâu, đến nơi ai dè chính là gã Văn Xương trói gà không chặt thì đều cảm thấy tức cười.

Phí Vân thấy Văn Xương thân hình tiều tụy thì cảm thấy xót xa, liền chạy lại đỡ em dậy. Hai gã Tiểu Ngưu, Tiểu Mã đợi Phí Vân đến gần, cùng vận kình vào cánh tay, đoạn cố tình huých vào người Phí Vân, định bụng sẽ xô ngã hắn để làm nhục mặt Khúc gia. Chẳng ngờ Phí Vân tu luyện nội công tâm pháp của Khúc gia từ nhỏ, hai gã cận vệ này sao có thể là đối thủ. Hai gã Tiểu Ngưu, Tiểu Mã vừa húc vào người hắn thì cảm giác như xô vào một bức tường bằng sắt, lại bị kình lực từ trong người Phí Vân dội ngược lại, tức thì hai tay cảm thấy như tê dại, đau đến mặt mày nhăn nhó.

Phí Vân tâm địa hiền lương, tuy thấy hai kẻ kia cố tình ra tay trước nhưng hắn không hề tính toán, chỉ ân cần đỡ Văn Xương dậy, đoạn phủi bụi trên quần áo đứa em trai rồi dìu gã thất thểu đi về phía Khúc Thừa Dụ.

Khúc Thừa Dụ vốn đã định trách phạt Văn Xương, nhưng thấy gã quần áo tơi tả, mặt mũi bầm tím thì lửa giận tắt ngấm, cánh tay giơ lên cao định đánh lại bỏ xuống, y chán nản lắc đầu:

- Thằng tiểu tử Văn Xương nhà mi nửa chiêu không biết, lại xâm nhập vào cấm địa nhà người ta, bị ăn đòn cũng là đáng lắm.

Văn Xương không biết nói gì, chỉ cúi đầu chịu nghe mắng. Kim Khổng Mậu mắt nhìn đăm đăm về phía Thúy Trúc hiên, lòng bán tín bán nghi, đoạn quay sang Khúc Thừa Dụ nói:

- Khúc huynh đệ, chuyện hôm nay có lẽ là hiểu lầm, thứ lỗi cho thuộc hạ của lão phu vì chút khẩn trương nên đã mạo phạm đến lệnh công tử đây. Tuy nhiên, từ trước đến giờ, tự ý xâm nhập vào cấm địa của Tử Trường lâu vốn là tội không thể dung thứ, việc hôm nay...ái chà...thật là khó nghĩ quá...

Khúc Thừa Dụ quắc mắt, giọng nói lạnh lùng:

- Vậy ý của Kim lâu chủ đây thì việc hôm nay phải giải quyết thế nào?

Kim Khổng Mậu lắc đầu:

- Lão phu tuyệt đối không dám có ý làm khó mấy người, chỉ cần lệnh công tử thật lòng trả lời lão phu tại sao lại xâm nhập cấm địa, và đã làm những gì ở nơi đây thì lão phu xin cam đoan không động đến một sợi lông chân của lệnh công tử.

Văn Xương thầm than khổ, bảo gã bịa chuyện thì được chứ bảo gã thật lòng trả lời thì gã làm thế nào được. Chưa kịp nói gì thì đã nghe tiếng Khúc Thừa Dụ sang sảng bên tai:

- Văn Xương, mày nghe rõ chưa, phải thành thật mà nói.

Bản thân Khúc Thừa Dụ cũng rất thắc mắc thằng con trời đánh của mình đang làm gì ở chỗ này. Văn Xương thì nhăn nhó, gãi đầu gãi tai, đầu óc xoay chuyển liên tục nhằm nghĩ ra kế thoát thân. Gã liếc mắt nhìn quanh, chợt thấy Kim Tĩnh Thư đang đứng nhìn mình chăm chú thì trong lòng bất giác rung động, đoạn đằng hắng mấy tiếng rồi nói:

- Thực ra chuyện là thế này. Sau khi Tĩnh Thư tỷ tỷ dẫn cha tôi và mấy người đi gặp lâu chủ, tôi ngồi trong đại sảnh một lúc, chân tay buồn chán liền rảo bước ra khu vườn phía sau đại sảnh đường để dạo chơi. Đang đi đi lại lại thì bỗng thấy một đôi bướm đang đậu trên mấy khóm hoa lan ngoài đó. Nếu chỉ là mấy con bướm bình thường thì tôi đâu có để ý làm gì, nhưng đôi bướm này thì lại vô cùng đặc biệt.

Mọi người tức thì bị câu chuyện bịa đặt của y làm tò mò, đều chăm chú lắng nghe. Thấy gã cứ nói vài câu lại liếc về phía Kim Tĩnh Thư một lần thì càng cảm thấy kỳ lạ. Kim Tĩnh Thư cũng nhận ra điều đó, nàng chột dạ hỏi:

- Văn Xương công tử, điểm đặc biệt đó là gì thế? Có gì liên quan đến Tĩnh Thư à?

Văn Xương mỉm cười, đoạn lại nói tiếp:

- Thực ra nói có cũng đúng mà nói không thì cũng chẳng sai. Nguyên do đôi bướm này khác hẳn bình thường. Những loài bướm khác trên cánh đều chỉ có một màu, nhưng đôi bướm này mỗi con trên cánh lại có đủ bảy màu, hơn thế nữa lại phát sáng được, thật là vô cùng phi thường. Tôi nhìn thấy đôi bướm đặc biệt như vậy liền nghĩ rằng, nhất định phải bắt chúng cho bằng được để tặng cho Kim Tĩnh Thư tiểu thư đây. Hằng đêm tiểu thư thả chúng bay trong phòng thì không khác gì hái được hai ngôi sao trên trời xuống vậy.

Nói đến đây gã cao hứng, liền cất tiếng ngâm hai câu thơ của Lý Thanh Liên:

- Bát nguyệt hồ điệp lai, song phi tây viên thảo (3)

(Dịch nghĩa: Tháng tám có đôi bướm vàng bay đến, sóng đôi cùng bay nơi vườn hoa phía Tây)

Mấy người kia nghe gã ba hoa bốc phét đến đây thì đều thở ra một tiếng, thì ra lại là một kẻ si tình. Kim Tĩnh Thư thì mặt đỏ bừng, vừa xấu hổ vừa có đôi phần thích thú, đoạn lại hỏi:

- Rồi sao nữa?

Văn Xương biết mọi người đã tin vào câu chuyện của gã thì liền múa lưỡi bịa tiếp:

- Thế rồi tôi rón rén tiến đến định bắt chúng, chẳng ngờ đôi bướm này như có linh tính, mấy lần tôi chắc mẩm là sắp thành công thì chúng lại bay đi mất. Cứ thế, tôi cứ rình, chúng cứ chạy, hết từ khóm hoa này sang khóm hoa khác, hết bụi này sang bụi khác, loanh quanh một hồi đã mất cả canh giờ. Tôi vì mải mê bám theo đôi bướm nên không hề để ý gì đến xung quanh, lạc đến nơi này lúc nào không hay. Đến khí đôi bướm có vẻ mệt mỏi, không thể bay tiếp được nữa, tôi rón rén tiến lại gần, chỉ với tay ra bắt được thì vị tỷ tỷ đây cất tiếng hô hoán khiến chúng bay mất rồi. Ôi đáng tiếc, thật là đáng tiếc.

Kim Khổng Mậu vẫn còn chưa yên tâm, lão hỏi lại:

- Vậy cậu đuổi theo đôi bướm đó có vào trong Thúy Trúc hiên kia không?

Văn Xương lắc đầu:

- Không, bướm bay ngoài trời chứ bay vào trong phòng làm gì. Tôi chẳng hề biết căn phòng đó gọi là Thúy Trúc hiên, cũng không có việc gì để vào trong đó cả.

Kim Khổng Mậu là người mưu kế thâm trầm, đời nào lão tin câu chuyện đuổi bướm nhảm nhí mà Văn Xương bịa ra. Tuy nhiên, có mặt Khúc Thừa Dụ và Lưu Đan ở đó, lão không tiện tra hỏi thêm, cũng không muốn bị mang tiếng chèn ép kẻ hậu bối. Nghĩ vậy, Kim Khổng Mậu mỉm cười:

- Vậy đều là hiểu nhầm cả, lão phu thay mặt Tiểu Ngưu và Tiểu Mã, xin lỗi cậu vậy.

Văn Xương ôm quyền thi lễ:

- Không dám không dám, là tôi có lỗi trước.

oOo

Đêm đó, cả Phí Vân và Văn Xương đều không tài nào ngủ được, hai người nằm vắt tay lên trán, theo đuổi những suy nghĩ riêng.

Phí Vân nhắm mắt hồi tưởng lại mỹ nhân mà mình vừa gặp hôm nay, từ ánh mắt, nụ cười, làn da, đến tiếng nói ngọt ngào thánh thót, tất cả đều như in sâu vào tâm khảm hắn. Lại nhớ đến lúc bình phẩm bức thư pháp trước cửa Thông Thiên các, đúng là đã to gan múa búa trước cửa Lỗ Ban, chẳng ngờ lại làm người đẹp vui thích, Phí Vân nghĩ đến đấy thì bất giác mỉm cười sung sướng.

Hắn nghĩ một hồi lại nhớ đến Tần Chính, người đó quả là một mỹ nam tử, văn võ song toàn, kiến văn quảng bác, so với mình thì vượt xa đến một vạn tám ngàn dặm, y với Kim Tĩnh Thư đúng là trời sinh một cặp. Nghĩ đến đó, hắn thở dài một tiếng ngán ngẩm.

Phí Vân chợt nhớ đến lời của Khúc Thừa Dụ nói hôm nay lúc rời Tử Trường lâu về quán trọ. Lúc đó trên đường về, Khúc Thừa Dụ thấy hắn trầm ngâm không nói thì quay sang hỏi có chuyện gì, Phí Vân nét mặt đăm chiêu, trả lời:

- Nghĩa phụ, con thấy có rất nhiều điểm lạ. Nghĩa phụ có để ý hai gã Tiểu Ngưu, Tiểu Mã bảo vệ khu cấm địa không? Hai kẻ này thừa lúc con đi tới đỡ Văn Xương thì đã ngầm vận lực muốn xô ngã con. Tuy con chống cự lại được nhưng quả thật nội lực của hai gã này không thể nào xem thường. Hơn nữa, nhìn hai kẻ này thì đến người mù cũng nhận thấy là công phu của chúng đã thuộc dạng cao thủ. Tử Trường lâu trước giờ chỉ dùng văn, không dùng võ, nhưng nay thấy hai tên cận vệ tầm thường mà võ công đã luyện đến mức như vậy, quả thật là có nhiều điểm khó hiểu.

Khúc Thừa Dụ thấy đứa con nuôi của mình tuy bề ngoài chất phác, bộc trực nhưng tâm tư linh mẫn, suy nghĩ chu đáo thì hài lòng lắm. Y hừ một tiếng:

- Ta biết chứ. Nhìn hai tên đó là đã biết thân thủ của chúng không tầm thường. Gã Kim Khổng Mậu này lắm mưu nhiều kế, tham vọng không thể nào mà lường trước được. Giang hồ sớm muộn gì cũng xảy ra một trận sóng gió. Với bản lãnh của ngươi hiện nay thì ta phần nào yên tâm, chỉ là cái tên tiểu tử Văn Xương kia, một chiêu nửa thức không biết, lại bị mang tiếng là con trai của Lôi Đình đao Khúc Thừa Dụ. Chỉ sợ rồi nó sẽ mang họa vào thân.

Mọi chuyện cứ dồn dập xảy ra trong vòng một ngày, Phí Vân tuổi còn thiếu niên chưa lịch duyệt giang hồ nên bị chúng làm cho rối tung cả đầu óc, nằm nghĩ ngợi mãi vẫn chưa ngủ được.

Văn Xương thì khác, gã vừa về đến quán trọ thì đã đặt lưng xuống giường nằm rên rỉ. Mười mấy năm nay, gã chưa hôm nào bị ăn đòn nhiều như lần này, đúng là họa vô đơn chí, Văn Xương toàn thân như mất hết cảm giác. Gã liếc nhìn sang ông anh Phí Vân nằm bên cạnh, thấy mặt hắn thoạt đăm chiêu thoạt mỉm cười, rồi lại than ngắn thở dài thì tâm sự của ông anh có mười phần đã đoán được tám phần. Gã đập vào Phí Vân mấy cái đoạn hạ giọng:

- Vân huynh, vẫn nghĩ đến người con gái đó hả?

Phí Vân giật mình quay sang, mặt đỏ dừ:

- Nói bậy, ta đâu có nghĩ đến ai.

Văn Xương vẫn cười tinh quái, đoạn cất giọng ngâm:

- Tương kiến thời nan, biệt diệc nan (4)

Phí Vân nhìn vẻ nghi ngờ:

- Vậy là ý gì?

Văn Xương cười cười:

- Là ý gặp nhau đã khó, khi chia tay còn khó hơn nhiều.

Phí Vân nạt:

- Ngươi chỉ giỏi nói bậy.

Văn Xương cười lên khoái trá:

- Vân huynh, anh em ta cả chục năm nay đã cùng ngủ cùng chơi, tâm sự của anh thì Văn Xương này còn lạ gì. Em nói thật, vị Kim Tĩnh Thư đó quả là đẹp như thiên tiên, lại xưng danh Tài Nữ, người nào nhìn thấy cũng điên đảo tâm hồn mà thôi.

Phí Vân quay sang:

- Nói vậy là cả ngươi cũng thích nàng à?

Văn Xương lắc đầu:

- Không, em ghét nhất trên đời là võ công, cô ta đẹp thì đẹp thật nhưng mở mồm ra là Thông Thiên giám cái rắm gì đấy, nghe mà phát ớn. Lúc vừa rồi là em bịa ra chuyện mấy con bướm thôi, ai hơi đâu đi đuổi bướm mà tặng cho cô ta.

Phí Vân cười lên ha hả:

- Ta vốn đã đoán được là ngươi bịa ra chuyện, ngươi tuy thích ba cái thứ văn chương đó nhưng bảo con người như ngươi đi rình mò một đôi bướm thì có đánh chết ta cũng không tin được. Nhớ lại hôm nay cả đám người đó tròn mắt dỏng tai lên lắng nghe câu chuyện nhảm nhí của ngươi, thật là tức cười đến chết mất. Vậy thực ra tại sao ngươi lại chui vào tận cấm địa của người ta vậy?

Văn Xương áy náy lắc đầu:

- Vân huynh, thực ra em rất muốn nói cho anh biết, nhưng chỉ vì đã có lời hứa chuyện này sẽ không thể để lộ ra ngoài...

Hai người thân thiết như anh em ruột nên Phí Vân rất hiểu tính gã, thấy gã nói vậy thì phẩy tay:

- Ta hiểu, đã hứa với người ta thì phải giữ lời, chuyện hôm nay coi như không nhắc đến nữa.

Văn Xương cảm động lắm, gật gật đầu.

Hai người đang trò chuyện vui vẻ chợt nghe có tiếng lạch cạch ở cửa sổ. Lúc đầu không để ý nhưng càng lúc càng rõ hơn, hình như có kẻ nào đang cố tình gây tiếng động. Phí Vân tức thì đẩy Văn Xương vào một góc, lấy thân mình che chắn cho em rồi đề khí hộ thân, tai dỏng lên nghe ngóng. Được một lát vẫn nghe thấy tiếng động ở cửa sổ, càng lúc càng mau hơn. Phí Vân phi người xuống đất, nhè nhẹ đẩy cánh cửa ra. Vừa mở ra thì ngạc nhiên cực độ, thốt lên:

- Là ngươi à?

Hết chương 5

Chú thích:

(3) Bát nguyệt hồ điệp lai, song phi tây viên thảo: Hai câu thơ trong bài Trường Can Hành của Lý Bạch.

(4) Tương kiến thời nan, biệt diệc nan: Câu thơ trong bài Vô đề kỳ IV thuộc Vô đề Lục thủ của Lý Thương Ẩn. __________________

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro