1984 - Chương 08 - Phần 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bên trong cửa tiệm nhỏ bé thật ra chật ních đồ đạc, nhưng gần như không có gì mảy may đáng giá. Sàn nhà bị thu hẹp hẳn lại vì xung quanh tường được dựng vô số khung ảnh đầy bụi. Trong cửa kính có mấy mâm đựng đai ốc với đinh ốc, kéo cùn, dao nhíp mẻ lưỡi, đồng hồ xỉn không thể khoe nổi là chạy được, và nhiều đồ lặt vặt khác. Chỉ trên một cái bàn nhỏ tại góc tiệm, một đống hàng táp nham — hộp sơn mài đựng thuốc hít, ghim cài bằng mã não, vân vân — coi như có thể chứa được một món hàng đáng giá. Khi Winston lại gần bàn ấy, mắt anh bắt gặp một vật trơn tròn sáng dịu dưới ánh đèn, và anh cầm nó lên.

Đó là một khối thủy tinh nặng, một mặt cong, một mặt phẳng, na ná hình một bán cầu. Mầu cũng như chất thủy tinh gợi ý một sự dịu mềm đặc biệt như thể nước mưa. Ở giữa khối, được phóng đại bởi mặt cong, có một vật uốn lạ hồng làm liên tưởng đến một đóa hoa hồng hay hải quỳ.

"Cái này là gì vậy?", Winston mê mẩn hỏi.

"Đó là san hô." ông già nói. " Chắc nó từ Ấn Đại Dương tới. Xưa họ hay lồng nó vào thủy tinh. Nó được chế tạo không dưới một trăm năm nay. Cổ hơn nữa theo dáng tích của nó."

"Quả một vật đẹp." Winston nói.

"Quả một vật đẹp." ông già tấm tắc. "Nhưng ngày nay không còn mấy người nói vậy." Ông ta ho. "Này, nếu ông muốn mua nó, tôi lấy ông bốn đôn. Tôi còn nhớ có thời một vật như thế giá lên tới tám bảng, và tám bảng là — mà tôi không tính ra nổi, nhưng là nhiều tiền lắm. Ngày nay, đâu có ai để ý đến đồ cổ xác thực, dù là vài thức còn lại?"

Winston trả bốn đôn tức thì, và nhét vật thèm muốn vào túi. Điều lôi cuốn anh không mấy là nét đẹp mà là cái vẻ thuộc về một thế giới khác hẳn bây giờ của nó. Chất thủy tinh dịu như nước mưa không giống những thủy tinh mà anh đã từng thấy. Vật này có sức quyến rũ gấp bội vì sự vô ích hiển nhiên của nó, mặc dầu anh có thể đoán rằng có thời nó được dùng làm chặn giấy. Nó rất nặng trong túi anh nhưng cũng may nó không làm túi lồi lên nhiều: Đảng viên giữ một vật như vậy là một điều lạ lùng, nguy hiểm nữa. Bất cứ vật gì cũ, tức vật gì đẹp, đều luôn luôn có phần khả nghi. Ông già vui hẳn lên khi nhận được bốn đôn. Winston hiểu rằng nếu anh trả ba hay hai đôn, ông ta cũng chịu.

"Có một căn phòng trên gác đáng được ông xem." ông ta nói. "Không có nhiều đồ. Chỉ vài thứ thôi. Ta sẽ lấy đèn soi nếu lên gác."

Ông ta đốt một cây đèn khác, và khom lưng chậm chạp dẫn đường trên mấy bực thang dốc đứng hư mòn, rồi theo một hành lang hẹp tới một căn phòng không nhìn ra phố mà nhìn xuống một sân lát sỏi và một rừng ống khói. Winston nhận thấy bàn ghế được sắp đặt như thể căn phòng vẫn được dành cho người ở. Có một mảnh thảm trên sàn, một hai tấm tranh trên tường và một chiếc ghế bành thiếu chải chuốt sát lò sưởi. Một đồng hồ lồng kính kiểu xưa với mười hai đốt mặt kêu tích tắc trên bàn lò sưởi. Dưới cửa sổ, chiếm gần một phần tư căn phòng, là một cái giường lớn còn trải nệm.

"Chúng tôi từng sống trong căn phòng này cho tới khi nhà tôi mất." ông già ra chừng biện giải. "Tôi tính bán bàn ghế dần dần. Này đây một chiếc giường tuyệt hảo bằng gỗ gụ, hay ít nhất sẽ tuyệt nếu trừ được hết rệp. Nhưng dám nói ông thấy nó hơi cồng kềnh."

Ông ta giơ đèn lên cao để chiếu sáng toàn căn phòng, và dưới ánh đèn mập mờ ấm áp nơi này có vẻ mời mọc lạ. Winston thoáng nghĩ anh có thể dễ dàng thuê căn phòng này với vài đôn một tuần, nếu anh dám liều. Đó là một ý tưởng rồ dại không thể có được, phải bỏ ngay khi nghĩ tới; nhưng căn phòng đã gợi trong anh một thứ nhớ nhung, một loại ký ức xa xưa. Anh cảm như biết rõ cái thú ngồi tại một căn phòng như thế này, trong một chiếc ghế bành cạnh một lò sưởi rực lửa, chân gác trên tấm chắn lò, có siêu nước đặt trên bàn lò; hoàn toàn đơn độc, hoàn toàn an lành, không ai dòm ngó, không tiếng ai đeo đuổi, không tiếng động nào ngoài tiếng reo của siêu nước và tiếng tích tắc của đồng hồ.

"Không có máy truyền hình." anh không khỏi lẩm bẩm.

"Vâng." ông già nói, "tôi không bao giờ có một thức như vậy. Quá đắt. Và tôi coi như không bao giờ cần đến nó. Này, ở góc kia là một cái bàn gấp. Nhưng dĩ nhiên phải thay bản lề nếu muốn dùng cánh gập."

Tại góc khác có một giá sách nhỏ, và Winston đã tiến ngay về phía nó. Nó chỉ đựng sách nhảm nhí. Sự săn bắt và phá hủy sách đã được thi hành một cách cặn kẽ tại khu dân đen chẳng kém gì các khu khác. Vị tất kiếm nổi khắp Đại Dương một quyển sách in trước 1960. Ông già, tay vẫn cầm đèn, đứng trước một bức tranh có khung bằng gỗ trắc treo bên kia lò sưởi, đối diện với giường.

"Này, thảng hoặc ông lưu ý đến tranh xưa —." ông ta bắt đầu ý nhị nói.

Winston băng qua phòng để ngắm bức tranh. Đó là một bản khắc trên thép, hình dung một tòa nhà hình bầu dục có nhiều cửa sổ vuông góc và một cái tháp nhỏ trước mặt. Có một hàng rào chạy quanh tòa nhà và ở mãi sau có một vật tựa như một bức tượng.

"Khung bị đóng vào tường." ông già bảo, "nhưng dám nói tôi có thể tháo nó ra cho ông."

"Tôi biết tòa nhà này." sau cùng Winston nói. "Nay nó đã đổ nát. Nó ở giữa con phố ngoài Tòa Án."

"Phải. Ngoài Tòa Sảnh. Nó bị bỏ bom — xem nào, nhiều năm về trước. Có thời nó là nhà thờ, có tên là nhà thờ Thánh Clement Danes." Ông ta cười ra chiều xin thứ như thể ông ta cảm thấy mình khá lố lăng, và tiếp: "Cam với chanh, chuông Thánh Clement reo!"

"Cái gì vậy?" Winston hỏi.

"Ồ — "Cam với chanh, chuông Thánh Clement reo!" Đó là một bài ca chúng tôi hát khi còn nhỏ. Sau câu ấy là gì, tôi không nhớ, nhưng tôi biết nó kết cục bằng "Đây là một cây nến để đưa mày đi ngủ, đây là con dao phay để chặt cái đầu mày". Nó là một thứ bản nhảy. Trẻ con giương tay ra cho kẻ khác đi qua, và khi tới câu "Đây là con dao phay để chặt cái đầu mày." chúng hạ tay xuống và bắt giữ người ta lại. Bài toàn là tên nhà thờ. Tất cả các nhà thờ Luân Đôn được nhắc tới trong đó, những nhà thờ chính, dĩ nhiên."

Winston mơ hồ tự hỏi không biết nhà thờ này thuộc thế kỷ nào. Bao giờ cũng khó xác định được tuổi của một dinh thự tại Luân Đôn. Bất cứ tòa nhà nào to lớn oai vệ, nếu tương đối mới, cũng tất nhiên được coi là được xây sau Cách Mạng, trong khi những nhà quá rõ ràng xưa hơn được liệt vào một thời mờ ảo, gọi là thời Trung Cổ. Mấy thế kỷ tư bản được xem như không sản xuất được gì có giá trị. Không thể học được lịch sử qua kiến trúc cũng như qua sách. Tượng, văn khắc, bia kỷ niệm, tên phố — bất cứ gì có thể làm sáng tỏ quá khứ đều bị sửa đổi.

"Tôi không hề biết đó trước kia là một nhà thờ." anh nói.

"Còn nhiều nhà thờ như vậy tồn tại, thật thế." ông già nói, "mặc dầu những tòa nhà ấy được dùng vào việc khác. Này bài ca tiếp tục ra sao nhỉ? A! tôi nhớ ra rồi!

Cam với chanh, chuông Thánh Clement reo

Mày thiếu tao ba trinh, chuông Thánh Martin reo —

Đấy, tôi chỉ nhớ tới đó. Một trinh, ấy là một đồng tiền nhỏ, kiểu như một xu."

"Nhà thờ Thánh Martin ở đâu?" Winston hỏi.

"Nhà thờ Thánh Martin ư? Nó vẫn đứng vững. Nó ở trên Công Trường Chiến Thắng, dọc phòng triển lãm tranh. Một tòa nhà có một thứ cổng hình tam giác với một số cột đằng trước và một nhịp thang lớn."

Winston biết rõ nơi này. Đó là một viện bảo tàng dùng để triển lãm nhiều loại vật tuyên truyền — mẫu bom lửa và Pháo Đài Nổi thu nhỏ, cảnh nặn sáp minh họa sự dã man của quân địch, vân vân.

"Nhà ấy xưa thường được gọi là nhà thờ Thánh Martin Giữa Đồng." ông già bổ túc, "tuy tôi không nhớ có cánh đồng nào ở khu đó."

Winston không mua bức tranh. Nó là một vật sở hữu trái phép hơn khối chặn giấy, và không thể mang nó về nhà được trừ phi gỡ nó ra khỏi khung. Nhưng anh chần chừ thêm vài phút để nói chuyện với ông già được anh phát giác có tên không phải là Weeks — như ai cũng phỏng đoán theo chữ ghi trên bảng hiệu — mà là Charrington. Ông Charrington dường như là một người góa vợ, lên sáu mươi ba tuổi, và sống ở tiệm này đã được ba mươi năm. Suốt thời gian này ông ta tính sửa lại tên ghi trên cửa kính, nhưng chưa hề bắt tay thực hiện ý định đó. Trong lúc anh nói chuyện, bài ca nhớ nửa chừng lởn vởn trong đầu óc Winston. Cam với chanh, chuông Thánh Clement reo, mày thiếu tao ba trinh, chuông Thánh Martin reo! Rõ lạ, khi anh lẩm nhẩm hát bài ấy, anh có cảm tưởng thực sự nghe thấy tiếng chuông, tiếng các chuông của một thành phố Luân Đôn đã mất nhưng vẫn tồn tại đâu đó, bị ngụy trang và đi vào quên lãng. Từ gác chuông ma này đến gác chuông ma khác, anh tưởng như nghe chúng ngân hồi. Song le, trong chừng mực mà anh nhớ, trong đời anh, anh chưa bao giờ nghe thấy tiếng chuông nhà thờ kêu.

Anh cáo từ ông Charrington và xuống cầu thang một mình, cốt để ông già không trông thấy anh trinh sát phố trước khi bước ra khỏi cửa. Anh quyết định sẽ trở lại thăm tiệm đồ sau một quãng thời gian hợp lý — cho là một tháng. Có lẽ làm vậy không nguy hiểm hơn sự tránh né một buổi họp chiều tại Trung Tâm. Trên hết, hành động thật điên rồ là trở lại đây sau chuyến mua quyển nhật ký, trong khi không biết người chủ tiệm có đáng tin cậy không. Tuy nhiên —!

Phải, anh lại nghĩ, anh sẽ trở lại. Anh sẽ mua thêm nhiều món hàng đẹp bị rẻ rúng. Anh sẽ mua bản khắc nhà thờ Thánh Clement Danes, gỡ nó ra khỏi khung và mang giấu nó về nhà dưới nửa trên bộ áo liền quần của anh. Anh sẽ lôi kéo khỏi ký ức ông Charrington phần còn lại của bài thơ. Ngay cả cái dự kiến điên khùng tính thuê căn phòng trên gác cũng thoáng trở lại óc anh. Trong khoảng năm giây sự hứng khởi làm anh mất thận trọng và anh không liếc qua cửa sổ trước khi bước ra hè. Anh còn bắt đầu ngâm nga theo một điệu ứng tác:

Cam với chanh, chuông thánh Clement reo,

Mày thiếu tao ba trinh, chuông —

Bỗng dưng tim anh cứng thành đá và ruột anh nhão ra nước. Một bóng người mặc áo liền quần xanh đang xuôi vỉa hè, cách anh không dưới mười thước. Đó là cô gái thuộc Cục Truyện, cô gái tóc đen. Ánh sáng yếu ớt nhưng nhận ra cô ta không khó. Cô ta nhìn thẳng vào mặt anh rồi rảo bước nhanh như thể cô ta không trông thấy anh.

Trong vài giây Winston bị quá tê liệt không đụng đậy được. Rồi anh rẽ qua tay phải và nặng nề quay gót, nhất thời không để ý rằng mình đang đi nhầm đường. Dù sao chăng nữa, nghi vấn đã được giải quyết. Không còn ngờ gì nữa, cô gái theo dõi anh. Cô ta chắc theo anh tới đây, vì không thể tin được rằng do tình cờ cô ta và anh tản bộ cùng một buổi chiều trên cùng một ngõ hẻm tối tăm, cách xa mọi khu cư ngụ của Đảng viên. Đó là một sự trùng hợp quá lớn. Cô ta thực là một viên chức thuộc Cảnh Sát Tư Tưởng hay chỉ là một điệp viên tài tử bị lòng sốt sắng thúc đẩy, điều đó không quan trọng mấy. Biết cô ta giám sát anh là đủ rồi. Có thể cô ta nhìn thấy anh vào pớp cũng nên.

Tiến bước là cả một sự cố gắng. Mỗi lần bước, khối thủy tinh trong túi anh đập vào đùi anh khiến anh nửa muốn lôi nó ra và quẳng nó đi. Tệ nhất là chứng đau bụng. Trong độ hai phút anh có cảm giác mình sẽ chết nếu không sớm vào chuồng xí. Nhưng không có buồng vệ sinh công cộng tại một khu nhà như thế này. Rồi cơn quặn đau biến mất, chỉ để lại một nỗi đau ngầm.

Con phố anh đang theo là một ngõ cụt. Winston dừng chân, đứng yên vài giây, mơ hồ tự hỏi phải làm gì đây, rồi quay gót trở lại, bắt đầu giẫm lên bước cũ. Đương lúc quẹo, anh chợt nghĩ cô gái qua mặt anh có ba phút trước, nếu anh chạy anh có thể đuổi kịp cô ta. Anh có thể theo sau cô ta cho tới khi đến một chỗ vắng, rồi lấy một hòn đá đập vào sọ cô ta. Miếng thủy tinh trong túi anh đủ nặng để làm việc đó. Nhưng anh bỏ ý nghĩ ấy ngay vì anh không chịu nổi ứng lực thể xác dù trong tưởng tượng. Anh không chạy được, anh không đập được. Vả lại, cô ta trẻ và khỏe mạnh, thế nào cũng sẽ tự vệ. Anh cũng nghĩ tới sự chạy vội về Trung Tâm và ngồi đó cho tới giờ đóng cửa để thác tạo bằng cớ cho buổi chiều nay. Nhưng điều này anh cũng không làm nổi. Một sự mệt mỏi cực độ xâm nhập anh. Anh chỉ muốn chóng về nhà ngồi yên.

Đã quá hai mươi hai giờ khi anh trở về phòng anh. Thông thường phải tắt đèn vào lúc hai mươi ba giờ rưỡi. Anh vào bếp nốc gần cạn một chén đầy rượu gin Chiến Thắng. Rồi anh lại cái bàn trong hốc, ngồi xuống, và lôi quyển nhật ký ra khỏi ngăn kéo. Nhưng anh không mở nó ra ngay. Từ máy truyền hình một giọng nữ đanh đanh rống lên một bài ca yêu nước. Anh ngồi ngắm tấm bìa vân đá, cố gạt tiếng hát khỏi tâm thức anh nhưng vô hiệu quả.

Đêm đến, chúng mới đi bắt người, chuyên môn khi đêm đến. Điều hợp lý nhất là tự sát trước khi bị chúng tóm. Chắc chắn nhiều người làm vậy. Nhiều sự mất tích thực ra do tự vẫn. Nhưng phải can đảm tuyệt vọng lắm mới tự sát được trong một thế giới không thể kiếm ra súng hay thuốc độc có hiệu nghiệm mau lẹ. Anh khá lấy làm lạ khi nghĩ tới sự vô ích cho sinh vật của nỗi đau đớn và sợ hãi, tới sự lừa đảo của thể xác luôn luôn băng trơ đúng lúc cần phải đặc biệt cố gắng. Anh đã bịt miệng được cô gái tóc đen nếu anh hành động nhanh kịp: nhưng chính sự nguy cấp đã làm anh mất khả năng hành động. Anh ngạc nhiên nhận thấy rằng trong lúc khủng hoảng, con người không bao giờ chiến đấu với ngoại địch mà luôn luôn chống lại chính mình. Ngay bây giờ, tuy đã uống rượu gin, chứng đau bụng ngầm khiến anh không thể suy nghĩ liên tục được. Và, theo nhận xét của anh, đó là sự thể trong mọi trường hợp anh hùng hay bi thảm. Trên chiến trường, trong phòng tra tấn, trên một con tàu đang chìm, những lý do đấu tranh luôn luôn bị quên, vì thể xác phồng lên ngập vũ trụ, và ngay khi mình không bị tê liệt vì sợ hãi hay không gào thét vì đau đớn, đời sống là một cuộc tranh đấu từng giây từng phút chống sự đói lạnh thiếu ngủ, chống một dạ dày gay gắt hay một cái răng nhức nhối.

Anh mở nhật ký ra. Quan trọng là viết vào đó. Người đàn bà trên máy truyền hình đã bắt đầu ca một bản khác. Giọng chị ta tuồng như bám vào óc anh như những mảnh kính nhọn. Anh cố nghĩ tới O' Brien là người vì ai hay cho ai anh viết nhật ký, nhưng thay vào đó anh nghĩ đến những điều sẽ xảy ra cho anh nếu Cảnh Sát Tư Tưởng bắt anh đi. Nếu chúng giết anh ngay, không sao cả. Bị giết là điều anh chờ đợi. Nhưng trước khi chết (không ai nói về những chuyện này, nhưng ai cũng biết hết) có trò thú tội phải trải qua: sự bò lê trên sàn nhà gào hét xin tha, tiếng xương kêu răng rắc, hàm răng bị đập nát, và cụm tóc đẫm máu. Tại sao phải chịu đựng những cực hình đó khi kết cuộc bao giờ cũng như nhau? Tại sao không thể cắt khỏi cuộc đời vài ngày hay vài tuần? Chưa có ai thoát được sự giám sát và chưa có ai không chịu thú tội. Một khi phạm phải tội tư tưởng, một ngày nhất định nào đó chắc chắn bạn phải chết. Vậy vì sao cái sự rùng rợn không thay đổi được gì đó, vẫn nằm gọn trong tương lai?

Anh thành công hơn trước khi muốn gợi lại hình ảnh của O' Brien. "Chúng ta sẽ gặp nhau tại một nơi không có bóng tối", O' Brien đã nói thế với anh. Anh biết nghĩa câu ấy, hay cho là mình biết. Nơi không có bóng tối là cái tương lai tưởng tượng, không bao giờ thấy được, nhưng có thể tham gia một cách thần bí nhờ óc tiên đoán. Nhưng với giọng nói từ máy truyền hình lảm nhảm bên tai, anh không thể theo đuổi dòng tư tưởng của anh. Anh đút thuốc lá vào mồm. Nửa số thuốc rơi ngay xuống lưỡi anh, một thứ bụi đắng khó nhổ ra được. Gương mặt Bác phảng phất trong óc anh, đẩy lui hình ảnh của O' Brien. Như anh đã làm vài ngày trước, anh rút một xu ra khỏi túi và nhìn vào nó. Gương mặt nhìn lại anh, trì độn, bình thản, che chở: mà nụ cười được che đậy dưới cặp râu đen thuộc loại nào? Như một hồi chuông báo tử, mấy khẩu hiệu tái hiện trước mắt anh:

CHIẾN TRANH LÀ HÒA BÌNH

TỰ DO LÀ NÔ LỆ

DỐT NÁT LÀ SỨC MẠNH

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro